Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.53 MB, 18 trang )

Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
MỤC LỤC

A. MỞ ĐẦU Trang 2
I.ĐẶT VẤN ĐỀ Trang 2
1. Thực trạng Trang 2
2. Ý nghĩa và tác dụng Trang 2
3. Phạm vi nghiên cứu Trang 3
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH Trang 3
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn Trang 3
2. Các biện pháp tiến hành, thời gian tạo ra giải pháp Trang 3,4
B. NỘI DUNG Trang 5
I. MỤC TIÊU Trang 5
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI Trang 5
1. Tính mới của đề tài Trang 5,6
2. Khả năng áp dụng Trang 7
3. Lợi ích kinh tế xã hội Trang 12
C. KẾT LUẬN Trang 16
* Tài liệu tham khảo Trang 17
* Nhận xét, đánh giá của HĐ nhà trường Trang 18


Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
1
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
A. MỞ ĐẦU
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Thực trạng .
Thực tế hiện nay việc học Ngữ văn chưa được các em xem trọng .Các em chỉ
quan tâm học Ngoại ngữ, Tin học và các môn khoa học tự nhiên. Thế kỉ XXI đã và sẽ
chứng kiến tốc độ phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ. Do đó, không quá


khó hiểu khi giới trẻ hiện nay có xu hướng tìm đến Ngoại ngữ, Tin học và các môn
khoa học tự nhiên như là một sự bảo đảm cho tương lai. Nhưng thật sai lầm khi học
sinh loại bỏ môn Văn ra khỏi hành trang tri thức khi bước vào đời. Một bộ phận không
nhỏ học sinh không thích học Ngữ văn và yếu kém về năng lực cảm thụ văn chương
không chỉ gây bi quan đối với dư luận xã hội mà còn tác động tiêu cực đến người dạy.
Nhiều thầy cô giáo dạy văn đã xuất hiện tâm lí chán nản, buông xuôi, không có động
lực để trau dồi chuyên môn, tạo sức ỳ lớn trong tư duy đổi mới, cải tiến phương pháp
giảng dạy. Thực tế cho thấy một thời gian dài vừa qua, hầu hết các trường đều áp dụng
phương pháp dạy học truyền thống thụ động, một chiều, vừa quá tải về kiến thức, vừa
gây nhàm chán cho HS . Môn Ngữ văn cũng không phải là ngoại lệ. Chất lượng cũng
đang ngày càng đi xuống. Số lượng học sinh chọn học các môn xã hội, trong đó có
môn văn có chiều hướng giảm; nhiều người học theo kiểu đối phó, thuộc vẹt, học tủ sự
hứng khởi và đam mê của học sinh với môn văn có biểu hiện mất dần. Nguyên nhân
của tình trạng trên một phần do phương pháp dạy học thụ động, lạc hậu khiến học sinh
không cảm thấy hứng thú với việc học văn. Nếu để tình trạng này kéo dài sẽ rất nguy
hiểm bởi thế hệ tương lai của đất nước sẽ không phát triển toàn diện, thiếu hẳn đi phần
nhân văn rất quan trọng - vốn là giá trị nền tảng của xã hội.
Chính vì những thực trạng trên mà đòi hỏi các giáo việc giảng dạy môn Ngữ
văn cần phải tạo cho các em hứng thú trong học tập bằng cách thay đổi phương pháp ,
áp dụng công nghệ thông tin vào bài giảng và việc đưa sơ đồ tư duy vào bài học cũng
không ngoại lệ. Có như thế thì các em mới thấy bài giảng sinh động , hấp dẫn phát huy
được tính sáng tạo của HS . Việc cho các em thực hiện sơ đồ tư duy sau mỗi bài học
có tác dụng giúp các em vận dụng cả những môn học khác như môn Mỹ thuật vào sản
phẩm của mình. Điều đó làm cho các em vừa hiểu bài lại vừa yêu thích sản phẩm của
mình.
Chính vì vậy mà tôi mạnh dạn đưa ra ý tưởng của mình về việc sử dụng phương
pháp “ Bản đồ tư duy” trong môn Ngữ văn để cho đồng nghiệp cùng góp ý và xây
dựng cách dạy cho hiệu quả.
2. Ý nghĩa và tác dụng của giải pháp mới
Thực hiện chủ trương đổi mới phương pháp dạy học, thời gian qua nhiều

trường THCS đã áp dụng phần mềm IMindMap (còn gọi với các tên thông dụng là
“Bản đồ tư duy”) trong việc dạy học các môn văn hóa, trong đó có môn Ngữ văn.
Bước đầu phương pháp mới đã phát huy hiệu quả tích cực giúp giáo viên có nhiều ý
tưởng sáng tạo trong việc thiết kế bài giảng, giúp học sinh dễ hiểu, dễ nhớ và cảm thấy
hứng thú hơn trong quá trình học tập môn Văn.
Năm học 2011 - 2012 là năm học Bộ giáo dục và đào tạo tiếp tục đổi mới
phương pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy và học Ngữ Văn trong trường phổ
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
2
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
thông .
Qua việc tìm hiểu và vận dụng tôi nhận thấy phương pháp dạy học này rất có hiệu
quả trong công tác dạy và học. Bước đầu đã giảm bớt được tâm lý ngại học văn, khơi
dậy trong học sinh tình yêu, cái nhìn và tư duy mới về môn học.
3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
- Từ khi sơ đồ tư duy được triển khai trong trường học tôi đã áp dụng nó đối với 3
phân môn : Văn – Tiếng Việt và Tập làm văn trong suốt quá trình giảng dạy từ năm
2011 đến nay đối với những khối lớp được phân công : khối 7 , khối 8 và khối 9 ở
Trường THCS Nhơn Hải – TP Quy Nhơn – Bình Định.
- Thời gian nghiên cứu : năm học 2011- 2012 ; 2012 – 2013
II. PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
1. Cơ sở lí luận và thực tiễn
Nghị quyết Trung ương 2, khóa VIII khẳng định “Phải đổi mới phương pháp
giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn luyện thành nếp tư duy sáng
tạo của người học. Từng bước áp dụng các phương tiện tiên tiến và phương tiện hiện
đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tự nghiên cứu cho
học sinh ”. Đáp ứng yêu cầu này, từ năm học 2010 – 2011, nhiều trường THCS đã áp
dụng thí điểm phần mềm chuyên dụng iMindMap kết hợp với phần mềm Power Point
trong việc dạy học môn ngữ văn mà nhiều người vẫn quen gọi là bản đồ tư duy
(BĐTD).

Sơ đồ tư duy giúp học sinh tận dụng các chức năng của não trái lẫn não phải
khi học. Đây chính là công cụ học tập vận dụng được sức mạnh của cả bộ não. Sơ đồ
tư duy còn giúp học sinh học tập một cách tích cực hơn, HS chủ động chiếm lĩnh tri
thức mà trong quá trình này, GV giữ vai trò chủ đạo. Đây thực sự là phương pháp lấy
người học làm trung tâm Nhiều kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ
hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn
ngữ của mình. Vì vậy dưới sự chỉ đạo của Ban giám hiệu nhà trường, Năm học 2011 –
2012 tôi đã mạnh dạn sử dụng sơ đồ tư duy vào dạy môn Ngữ văn và thấy hiệu quả
hơn hẳn so với khi chưa sử dụng.
2. Các biện pháp tiến hành , thời gian tạo ra giải pháp
Tôi thực hiện sáng kiến này thông qua việc giảng dạy trên lớp cũng như qua sự
góp ý của đồng nghiệp trong việc thao giảng dự giờ về ứng dụng công nghệ thông tin
trong trường học.
Việc áp dụng bản đồ tư duy trong một học được tiến hành thường xuyên đối với tất
cả các học sinh trong lớp dưới các hình thức như cá nhân tự vẽ , thảo luận theo tổ ,
nhóm, hoặc giao bài tập về nhà.
Để thực hiện tốt đưa bản đồ tư duy vào bài giảng cần phải chuẩn bị những yêu câu
sau :
+ Đối với giáo viên : Nắm kĩ lô gích của bài giảng để dễ hệ thống bằng sơ đồ
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
3
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
+ Đối với HS : Cần nắm kĩ bài giảng, để hệ thống hóa kiến thức theo sự hiểu bài
của các em .
- Việc dạy học bằng sơ đồ tư duy được tôi ứng dụng bắt đầu từ năm học 2011 –
2012 cho đến nay.

Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
4
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013

B .NỘI DUNG
I/ MỤC TIÊU :
Bản đồ tư duy là hình thức ghi chép bằng sơ đồ sử dụng hình ảnh, màu sắc để
hệ thống các mối liên hệ của kiến thức đã học hoặc định hướng cho những nội dung
kiến thức mới. Có sơ đồ tư duy người nói có thể dễ dàng trình bày nội dung sự việc
một cách lô gíc có hệ thống. Đồng thời sơ đồ tư duy còn khơi gợi cho HS trí tưởng
tưởng, sáng tạo phong phú về hình thức trình bày .
Mục tiêu của việc sử dụng bản đồ tư duy trong môn học là góp phần làm cho HS
mau hiểu bài và hứng thú hơn trong việc học môn Ngữ văn , giúp HS chủ động lĩnh
hội kiến thức thông qua việc tự hệ thống lại bài bằng phương pháp sơ đồ.
Với điều kiện hiện tại, các giáo viên có thể dễ dàng sử dụng máy vi tính để thiết
kế BĐTD thông qua phần mềm iMindMap 5, Power point. Sau khi thiết kế xong,
BĐTD có thể hiện thị nhờ phần mềm Power Point để các nhánh xuất hiện theo thứ tự
mà người thiết kế định sẵn. Nội dung chính của bài học được thể hiện bằng BĐTD,
thiết kế qua phần mềm iMindMap và phần mềm trình diễn Power Point có tác dụng
tạo sự hấp dẫn và lôi cuốn cao độ đối với người học. BĐTD sử dụng đồng thời hình
ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết với sự tư duy tích cực. Đặc biệt đây là một sơ đồ
mở, không yêu cầu tỷ lệ, chi tiết khắt khe và định khuôn sẵn như các loại bản đồ thông
dụng khác (ví như bản đồ địa lý). Như vậy cùng một chủ đề, bài học nhưng mỗi người
có thể vẽ theo một cách khác nhau và hoàn toàn có thể thêm hoặc bớt các nhánh dễ
dàng. Nếu muốn ghi chép bằng BĐTD cũng có nhiều ưu điểm hơn như: Lôgíc, mạch
lạc; trực quan, sinh động, dễ nhìn, dễ hiểu; vừa nhìn được tổng thể, vừa biết được chi
tiết; giúp hệ thống hóa kiến thức dễ dàng; và giúp việc ôn tập khoa học, nhớ kiến thức
lâu hơn
Ngoài tự học trên lớp, BĐTD rất phù hợp với việc học nhóm của học sinh vì nó
giúp các em phát huy tốt hơn khả năng sáng tạo và khả năng hợp tác trong quá trình
tiếp thu kiến thức trên giảng đường. Có thể vận dụng BĐTD vào việc hỗ trợ dạy học
kiến thức mới, củng cố kiến thức cũ, ôn tập hệ thống hóa kiến thức, phát triển một ý
tưởng
II. MÔ TẢ GIẢI PHÁP CỦA ĐỀ TÀI

1. Thuyết minh tính mới
Sơ đồ tư duy còn gọi là bản đồ tư duy hay lược đồ tư duy … là hình thức ghi chép
nhằm tìm tòi đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của một nội dung,
hệ thống hoá một chủ đề … bằng cách kết hợp sử dụng hình ảnh, đường nét, màu sắc,
chữ viết. Đây là một phương tiện ghi chép đầy sáng tạo và rất hiệu quả.
Sơ đồ tư duy đóng vai trò là công cụ đồ hoạ trực quan nối các từ khoá và
hình ảnh liên quan với nhau, sơ đồ tư duy sẽ hỗ trợ tích cực nhất cho GV và HS khi
dạy – học các bài nghiên cứu kiến thức mới, bài ôn tập, tổng kết, hoặc củng cố, hệ
thống hoá kiến thức sau mỗi bài, mỗi phần. Sơ đồ tư duy giống như một bức tranh
lớn đầy hình ảnh màu sắc phong phú hơn là một bài học khô khan, nhàm
chán. Sơ đồ tư duy hiển thị sự liên kết giữa các ý tưởng một cách rõ ràng. Thay cho
những từ ngữ tẻ nhạt đơn điệu, sơ đồ tư duy cho phép giáo viên và học sinh làm nổi
bật các ý tưởng trọng tâm bằng việc sử dụng những màu sắc, kích cỡ, hình ảnh đa
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
5
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
dạng.
VD : Khi dạy bài ” Thành ngữ” ở lớp 7
* Cách dùng lời và dạy thường: Sau khi phân tích ví dụ - GV yêu cầu HS chốt
lại các ý quan trong về khái niệm, nghĩa của thành ngữ và cách sử dụng thành ngữ -
HS dựa vào phần ghi nhớ để ghi bài một cách thụ động.
* Khi dạy bằng bản đồ tư duy : GV sử dụng phần mềm Imimmap trình chiếu
trên Powerpoint để phác hoạ trên màn hình :
Mức độ cụ thể (phức tạp) hay sơ lược (đơn giản) trong nội dung của sơ đồ tùy
thuộc vào dụng ý của người tạo lập. Chẳng hạn, với sơ đồ trên, ta cũng có thể cụ thể
hoá bằng việc cung cấp một cách chi tiết hơn, đầy đủ hơn nội dung cho mỗi nhánh của
sơ đồ.
* So sánh hai cách thể hiện nội dung bài học: “Thành ngữ ” như trên, dùng lời và
dùng bản đồ tư duy, chúng ta thấy rõ là cách dùng lời chủ yếu mới tập trung cung cấp
cho học sinh những khái niệm khoa học, còn mối quan hệ giữa các khái niệm trong

ngôn ngữ như đã bị nhoà đi. Nhưng dùng sơ đồ chúng ta có lợi thế hơn: một mặt, vừa
cung cấp khái niệm cho học sinh, mặt khác lại vừa có điều kiện làm nổi bật được mối
quan hệ tầng bậc, đa chiều trong ngôn ngữ, giúp các em quan sát nội dung bài học
được dễ dàng hơn. Đây cũng là một trong những cơ sở giúp các em nhớ lâu, đúng bản
chất hơn những hiện tượng ngôn ngữ được tìm hiểu. Mặt khác, việc dùng sơ đồ trong
các tiết dạy còn tạo không khí học tập sôi nổi nhờ khám phá của học sinh. Các em
hứng thú hơn so với những tiết học dùng lời mà không dùng sơ đồ như đã nêu ở phần
so sánh trên.
Sơ đồ tư duy là sơ đồ mở, nên mỗi người có thể vẽ, chỉnh sửa theo cách riêng
của mình sao cho vừa truyền tải được nội dung kiến thức vừa giúp HS ghi chép
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
6
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
được ý chính và hình dung rõ vấn đề giáo viên trình bày.
Đối với HS trung bình tập cho HS có thói quen tự ghi chép hay tổng kết một vấn
đề, một chủ đề đã học theo cách hiểu của các em dưới dạng sơ đồ tư duy. Cho các em
tập “đọc hiểu” và tự vẽ sơ đồ tư duy sau từng bài học. Ban đầu GV cho HS làm quen
với một số sơ đồ tư duy có sẵn, sau đó cho các em thực hiện vẽ trong vở sau mỗi bài
học hoặc vẽ vào giấy. Đối với những học sinh có máy vi tính ở nhà các em có thể
thực hiện trên máy với phần mềm Iminmap ở trên.
2. Khả năng áp dụng :
Việc sử dụng phương pháp dạy học SĐTD được áp dụng rộng rãi trong mọi
nội dung bài học như :
- Hướng dẫn học sinh lập kế hoạch học tập.
- Dạy bài mới.
- Củng cố kiến thức sau mỗi phần học, tiết học.
- Luyện tập củng cố.
- Để dạy các bài ôn tập hoặc tổng kết.
* Khả năng áp dụng ở trường THCS
a) Sử dụng sơ đồ tư duy để hướng dẫn học sinh lập kế hoạch học tập bài cũ và bài

mới
GV tiến hành khi hướng dẫn học sinh tự học ở nhà, chuẩn bị bài mới nhằm rèn
luyện tính tự giác, chuyên cần và chủ động trong học tập giúp tăng tính hiệu quả, sau
khi kết thúc một bài học trên lớp. GV chiếu màn hình bài tập về nhà, định
hướng cho học sinh phác thảo đề cương của bài “ sẽ học” bằng SĐTD về những nội
dung liên quan như : khái niệm, các loại …
Ví dụ: Sau khi dạy bài « Nghị luận trong văn bản tự sự » - Tiết 49 – Ngữ văn
9 ( tập 1), tiết tiếp theo là bài “ Đoàn thuyền đánh cá”. GV có thể hướng cho học
sinh phác thảo đề cương của bài “ sẽ học” bằng sơ đồ tư duy nội dung như sau:
Sơ đồ tư duy hướng dẫn học sinh lập kế hoạch học tập ở nhà - Ngữ văn 9
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
7
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
b. Sử dụng sơ đồ tư duy để dạy bài mới
Giáo viên đưa ra một từ khoá để nêu kiến thức của bài mới rồi yêu cầu học
sinh vẽ SĐTD bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các từ liên
quan đến từ khoá đó và hoàn thiện sơ đồ tư duy. Qua sơ đồ tư duy đó học sinh sẽ nắm
được kiến thức bài học một cách dễ dàng.
Ví dụ: Khi học bài “ So sánh” ( Môn Ngữ văn lớp 6), đầu giờ giáo viên cho từ
khoá “ So sánh” rồi yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy bằng cách đặt câu hỏi gợi ý cho
các em để các em có thể vẽ tiếp các nhánh con và bổ sung dần các ý nhỏ ( nhánh
con cấp 2, cấp 3…), sau khi các nhóm HS vẽ xong, cho một số em lên trình bày trước
lớp để các học sinh khác bổ sung ý. Giáo viên kết luận qua đó giúp các em tự chiếm
lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích
hứng thú học tập của học sinh.
Minh hoạ sơ đồ tư duy bài “So sánh” (Ngữ Văn 6 - tập 2)
c) Sử dụng sơ đồ tư duy để củng cố kiến thức sau mỗi phần học, tiết học.
Sau mỗi phần, mỗi bài học, giáo viên hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống
kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học bằng cách vẽ sơ đồ tư duy. Mỗi
phần học, bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rời rồi kẹp lại thành tập.

Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh
chóng, dễ dàng.
Ví dụ 1 : Khi dạy bài « Chiếc lược ngà » của nhà văn Nguyễn Quang Sáng – Ngữ
văn 9 tập 1
GV dạy xong cho HS vẽ lại những nội dung trọng tâm của từng phần vào vở của
mình
Sơ đồ tư duy minh họa cho củng cố nội dung từng phần
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
8
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
Ví dụ 2 : Khi dạy bài « Ôn tập tiếng việt » - Tiết 123 – Ngữ văn 7 / tập 2
GV có thể ôn tập phần « Các kiểu câu đơn » bằng sơ đồ sau
Khi dạy tiết 121 – Ngữ văn 7 : Ôn tập văn học
GV cho HS thực hiện phần « Gía trị nội dung trong thơ trữ tình » bằng việc cho HS
thảo luận nhóm và trình bày bằng sơ đồ tư duy :
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
9
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
d) Sử dụng SĐTD để luyện tập củng cố
Ví dụ: Củng cố bài « Liệt kê » - NV 7- Tiết 114


Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
10
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
e) Sử dụng sơ đồ tư duy để dạy bài ôn tập, tổng kết Tiếng Việt
VD : Khi dạy bài : Tổng kết về từ vựng - Tiết 48 – NV9/ Tập 1
GV có thể dạy bằng hệ thống sơ đồ như sau
Hoặc đối với tiết 73 : Ôn tập phần tiếng Việt – NV9/tập 1
Việc củng cố nội dung ôn tập bằng sơ đồ cũng rất hiệu quả

Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
11
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
3. Lợi ích kinh tế - xã hội
a. Đối với HS .
Học sinh tự có thể sử dụng sơ đồ tư duy để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu
trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ sơ đồ tư duy trên giấy, bìa…
hoặc để tư duy một vấn đề mới. qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc
sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép.
Việc học sinh tự vẽ sơ đồ tư duy có ưu điểm là phát huy tối đa tính sáng tạo của học
sinh, phát triển năng khiếu hội họa, sở thích của học sinh, các em tự do chọn màu
sắc (xanh, đỏ, vàng, tím,…), đường nét (đậm, nhạt, thẳng, cong…), các em tự “sáng
tác” nên trên mỗi sơ đồ tư duy thể hiện rõ cách hiểu, cách trình bày kiến thức của
từng học sinh và sơ đồ tư duy do các em tự thiết kế nên các em yêu quí, trân trọng
“tác phẩm” của mình.
Vd : Một số sơ đồ tư duy của HS
Sơ đồ về các loại dấu câu : Tiết 123 – Ngữ văn 7 / tập 2

Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
12
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
Sơ đồ củng cố nội dung văn bản « Chị em Thúy Kiều » - Ngữ văn 9 / Tập 1
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
13
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
Sơ đồ tư duy văn bản « Sống chết mặc bay »- Phạm Duy Tốn – NV7/ Tập 2
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
14
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
b. Đối với GV :

Phương pháp mới này giúp giáo viên đổi mới phương pháp giảng dạy, có nhiều ý
tưởng sáng tạo hơn trong việc thiết kế bài giảng, đồng thời giúp học sinh dễ hiểu, dễ
nhớ và phát huy tối đa khả năng sáng tạo trong quá trình học. BĐTD là công cụ hữu
ích trong giảng dạy và học tập ở các trường THCS và bậc học cao hơn vì chúng giúp
giáo viên và học sinh trình bày các ý tưởng, tóm tắt, hệ thống hóa kiến thức của một
bài học, một chủ đề, một chương hay một cuốn sách một cách rõ ràng, mạch lạc, lôgíc
và đặc biệt là dễ dàng phát triển thêm các ý tưởng mới vào bài giảng cũng như bài học.
Sau một thời gian ứng dụng sơ đồ tư duy trong đổi mới phương pháp dạy học
Ngữ Văn tôi thấy bước đầu có những kết quả khả quan. Tôi đã nhận thức được vai trò
tích cực của ứng dụng sơ đồ tư duy trong hỗ trợ đổi mới phương pháp dạy học. Biết sử
dụng sơ đồ tư duy để dạy bài mới, củng cố kiến thức bài học, tổng hợp kiến thức
chương, phần. Học sinh hiểu bài nhanh hơn, hiệu quả hơn. Đa số các em học sinh khá,
giỏi đã biết sử dụng sơ đồ tư duy để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số
học sinh trung bình đã biết dùng sơ đồ tư duy để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn
giản. Đối với môn Tiếng Việt học sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng sơ đồ tư duy
để ghi chép bài nhanh, hiệu quả.
c) Cải thiện được môi trường dạy học:
Việc ứng dụng sơ đồ tư duy trong môn học đã góp phần nâng cao chất lượng giảng
dạy, nâng cao được trình độ chuyên môn của GV trong việc áp dụng công nghệ thông
tin trong trường học. Đồng thời nó còn tiết kiệm được thời gian hơn so với việc dạy
học bình thường, Học sinh sẽ học được phương pháp học tập, tăng tính chủ động, sáng
tạo và phát triển tư duy . Sử dụng bản đồ tư duy trong môn Ngữ văn nói riêng và
trong các môn học khác nói chung là góp phần thực hiện tốt mục tiêu “ Đối mới
phương pháp giảng dạy” và “Áp dụng công nghệ thông tin trong trường học” do ngành
Giáo dục đề ra

Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
15
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
C. KẾT LUẬN

1. Những điều kiện, kinh nghiệm áp dụng, sử dụng giải pháp.
Để áp dụng được việc đưa sơ đồ tư duy vào bài giảng người GV cần phải có
những điều kiện cần thiết cho việc dạy học của mình như phải có một trình độ về vi
tính về công nghệ thông tin nhất định , biết sử dụng phần mềm Imin map, Powerpoint.
Việc này đòi hỏi người GV phải luôn luôn tìm tòi, học hỏi , sáng tạo nhằm nâng cao
năng lực chuyên môn của mình thì mới đáp ứng được.
Việc sử dụng sơ đồ tư duy giúp giáo viên đổi mới phương pháp dạy học, giúp
học sinh học tập tích cực đó chính là một trong những cách làm thiết thực triển khai
nội dung dạy học có hiệu quả - nội dung quan trọng nhất trong năm nội dung của
phong trào thi đua “Xây dựng Trường học thân thiện, học sinh tích cực” mà Bộ
Giáo dục và Đào tạo phát động.
2. Những triển vọng trong việc vận dụng và phát triển giải pháp
Việc vận dụng phương pháp bản đồ tư duy trong dạy học Bản đồ tư duy (BĐTD) là
một công cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony Buzan (Anh) nghiên cứu kỹ lưỡng và
phổ biến rộng khắp thế giới. Nhiều nước trên thế giới đã ứng dụng BĐTD trong giảng
dạy, học tập, làm việc, kinh doanh từ 15 - 20 năm nay. Ở nước ta, BĐTD mới chỉ
được biết đến trong vài năm trở lại đây, đặc biệt khi ngành giáo dục làm quen với
BĐTD qua triển khai áp dụng linh hoạt cùng với các phương pháp dạy học tích cực
khác trên diện rộng của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong năm học 2011 – 2012.
Năm 2011, ứng dụng BĐTD trong dạy và học đã được triển khai ở tất cả các
trường THCS của Phòng GD – ĐT Thành phố Quy Nhơn .Kết quả ghi nhận ban đầu
cho thấy: Việc vận dụng BĐTD trong dạy học sẽ dần hình thành cho HS tư duy mạch
lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, “định vị trong đầu” được các kiến thức, sự kiện
cơ bản, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học, học tốt không chỉ kiến thức
trong sách vở mà còn cả từ thực tiễn cuộc sống.
3. Đề xuất , kiến nghị
Sơ đồ tư duy chỉ là một phương tiện dạy học bên cạnh nhiều phương tiện khác.
Chúng ta chỉ khai thác những khả năng các công cụ khác thể hiện chưa tốt, hay
không thể hiện được, chứ không nên lạm dụng nó.
Với kiến thức kinh nghiệm ít ỏi này, bản thân tôi cũng mạnh dạn trình bày những

gì mà tôi đã làm và thấy hiệu quả trong thời gian qua nên cũng rất mong sự nhận xét
chân tình, sự đóng góp ý kiến của các GV có tâm huyết với nghề để tôi có nhiều cơ hội
học hỏi nhiều hơn.
Người viết
Đinh Thị Kim Nguyên
Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
16
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuyên đề về sử dụng sơ đồ tư duy trong trường THCS năm 2011 của Phòng
GDĐT TP Quy Nhơn
2. Dạy tốt học tốt các môn học bằng bản đồ tư duy của Trần Đình Châu, Đặng Thị
Thu Thủy – Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam
3. Sách giáo viên, sách giáo khoa Ngữ văn 7, 9.
4. Tài liệu hướng dẫn sử dụng phần mềm Iminmap5 – Bùi Quốc Anh( Chuyên viên
phòng GD – ĐT TP Quy Nhơn)
5. Một số tài liệu khác trên mạng Internet.


Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
17
Trường THCS Nhơn Hải Năm học 2012- 2013
NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG CHUYÊN MÔN
TRƯỜNG THCS NHƠN HẢI



































Sử dụng sơ đồ tư duy trong giảng dạy môn Ngữ văn
18

×