Tải bản đầy đủ (.pdf) (2 trang)

Chính sách bảo vệ, phát triển rừng gắn với giảm nghèo: thêm động lực để quản lý bảo vệ rừng hiệu quả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (294.9 KB, 2 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

1


<i>Số 5114 cuối tuần, 17/01/2016 </i>
<b>CHÍNH SÁCH BẢO VỆ, PHÁT TRIỂN RỪNG GẮN VỚI GIẢM </b>
<b>NGHÈO: THÊM ĐỘNG LỰC ĐỂ QUẢN LÝ BẢO VỆ RỪNG HIỆU QUẢ </b>


Nghị định số 75/2015/NĐ-CP về cơ chế, chính sách bảo vệ và phát triển rừng,
gắn với chính sách giảm nghèo nhanh, bền vững và hỗ trợ đồng bào dân tộc
thiểu số giai đoạn 2015 – 2020 chính thức có hiệu lực từ ngày 2-11-2015, được
kỳ vọng là một trong những chính sách mang lại nhiều thay đổi, giúp người dân,
nhất là hộ nghèo có điều kiện cải thiện sinh kế để quản lý, bảo vệ và gắn bó
thực sự với rừng.


<b>Nâng mức hỗ trợ khoán quản lý bảo vệ rừng</b>


Theo Nghị định, đối tượng được hỗ trợ gồm: hộ nghèo đang sinh sống ổn định
tại các xã có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn (khu vực II và III) thuộc vùng
dân tộc và miền núi đã và đang bảo vệ và phát triển rừng; cộng đồng dân cư
thôn được giao rừng theo quy định tại Điều 29 Luật Bảo vệ và Phát triển rừng và
Điều 54 Luật Đất đai. Theo đó, mức hỗ trợ đối với cơng tác giao khốn quản lý
bảo vệ rừng được nâng lên 400.000 đồng/ha/năm với hạn mức diện tích rừng
nhận khốn được hỗ trợ tối đa là 30 ha/hộ.


Như vậy tăng 200.000 đồng/ha so với mức chi trả hiện nay. Bên cạnh đó, nếu
người dân trồng rừng bổ sung, mức hỗ trợ theo thiết kế - dự toán tối đa không
quá 1,6 triệu đồng/ha/năm trong 3 năm đầu và 600 nghìn đồng/ha/năm cho 3
năm tiếp theo. Mặt khác, đối với diện tích đất lâm nghiệp được quy hoạch phát
triển rừng sản xuất đã giao ổn định, lâu dài cho hộ gia đình được hỗ trợ một lần
cho chu kỳ đầu tiên để trồng rừng sản xuất bằng loài cây lấy gỗ, cây lâm sản
ngoài gỗ. Mức hỗ trợ này từ 5 triệu – 10 triệu đồng/ha để mua giống, phân bón
và chi phí một phần nhân cơng, tùy theo chu kỳ kinh doanh của loài cây trồng


theo thiết kế - dự tốn. Ngồi ra, hộ gia đình nghèo tham gia trồng rừng sản xuất
và phát triển lâm sản ngoài gỗ, trồng rừng phịng hộ thì được trợ cấp 15 kg
gạo/khẩu/tháng hoặc bằng tiền tương ứng với giá trị 15 kg gạo/khẩu/tháng tại
thời điểm trợ cấp trong thời gian chưa tự túc được lương thực. Chủ tịch Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh quyết định mức và thời gian trợ cấp, nhưng tối đa không quá 7
năm.


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

2


544,9 ha. Căn cứ trên cơ sở đó Chi cục Kiểm lâm tỉnh cũng đã lập dự tốn tổng
hợp diện tích hiện trạng rừng các xã khu vực II, III; diện tích khốn quản lý bảo
vệ; diện tích rừng khoanh ni tái sinh được giao có trồng bổ sung năm 2016;
tổng nhu cầu trợ cấp gạo cho các hộ nghèo tham gia trồng rừng và phát triển lâm
sản ngoài gỗ báo cáo Tổng cục Lâm nghiệp, trên cơ sở đó báo cáo bộ ngành
chức năng ghi vốn cho địa phương triển khai trong giai đoạn 2016-2020.


<b>Hỗ trợ người dân về cơ chế tín dụng</b>


Hiện nay hầu hết hộ gia đình và cộng đồng đồng bào dân tộc thiểu số đang sinh
sống ở vùng dân tộc ở tỉnh ta nói riêng và các tỉnh miền núi nói chung gặp rất
nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo cịn cao và vẫn sống dựa vào rừng. Chính vì vậy,
một số nơi rừng vẫn tiếp tục bị tàn phá để lấy đất sản xuất nơng nghiệp. Cơ chế,
chính sách hỗ trợ bảo vệ và phát triển rừng và xóa đói, giảm nghèo đối với đồng
bào dân tộc thiểu số dù được Đảng và Nhà nước quan tâm nhưng nguồn lực
phân tán và chưa đủ mạnh để tạo nguồn thu nhập ổn định giúp người dân yên
tâm bảo vệ và phát triển rừng và sống được bằng nghề rừng.


Hơn nữa, việc vay vốn từ các ngân hàng thương mại thường có lãi suất cao,
điều kiện vay, thủ tục vay hết sức khó khăn (phải có tài sản thế chấp), thời gian
cho vay ngắn, nên các doanh nghiệp và hộ gia đình khó tiếp cận được nguồn


vốn. Trồng rừng có chu kỳ kinh doanh dài và rủi ro cao nên các ngân hàng
thường không muốn cho vay trồng rừng; các hộ gia đình, cá nhân càng khó có
cơ hội tiếp cận nguồn vốn tín dụng để trồng rừng. Nếu được vay vốn, ngân hàng
cũng chỉ cho vay tối đa khoảng 50% giá trị đầu tư, với lãi suất thương mại cao
nên sau khi trừ chi phí, giá trị thu được thường rất thấp. Đối với hộ nghèo thì
việc tiếp cận với nguồn vốn này càng khó khăn hơn. Theo Nghị định 75, căn cứ
vào thiết kế - dự tốn trồng rừng, ngồi số tiền để trồng rừng sản xuất, phát triển
lâm sản ngoài gỗ như quy định, hộ gia đình cịn được Ngân hàng Chính sách xã
hội hoặc Ngân hàng Nơng nghiệp và Phát triển nông thôn cho vay trồng rừng
với hạn mức 15 triệu đồng/ha. Thời hạn vay từ khi trồng đến khi khai thác theo
chu kỳ kinh doanh của từng loại cây trồng nhưng không quá 20 năm. Bên cạnh
đó, các hộ gia đình cịn có thể vay đến 50 triệu đồng mà không cần tài sản bảo
đảm để chăn nuôi gia súc với thời hạn vay tối đa 10 năm. Mức lãi suất áp dụng
chung là 1,2%/năm. Có thể thấy, trong điều kiện cơng tác giao khốn quản lý
bảo vệ rừng gặp nhiều khó khăn, chưa mang lại hiệu quả thiết thực, đời sống của
người dân vẫn chưa thực sự được hưởng lợi từ rừng dẫn đến rừng vẫn tiếp tục bị
tàn phá, chuyển đổi sang canh tác nông nghiệp, Nghị định 75 với những cơ chế
hỗ trợ mới sẽ góp phần khuyến khích hộ gia đình nghèo tham gia nhận giao
rừng, khoán bảo vệ và phát triển rừng, đồng thời cải thiện sinh kế giảm áp lực
lên rừng.


</div>

<!--links-->

×