Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Đa dạng sinh học cá và đề xuất các giải pháp khai thác sử dụng hợp lý nguồn lợi cá ở vùng cửa hội nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.3 MB, 75 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
--------------------------

LÊ THỊ NHƢ PHƢƠNG

ĐA DẠNG SINH HỌC CÁ VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP
KHAI THÁC, SỬ DỤNG HỢP LÝ NGUỒN LỢI CÁ
Ở VÙNG CỬA HỘI, NGHỆ AN

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
--------------------------

LÊ THỊ NHƢ PHƢƠNG

ĐA DẠNG SINH HỌC CÁ VÀ ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP
KHAI THÁC, SỬ DỤNG HỢP LÝ NGUỒN LỢI CÁ
Ở VÙNG CỬA HỘI, NGHỆ AN

Chuyên ngành: Động vật học
Mã số: 60420103

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. Nguyễn Xuân Huấn



Hà Nội - 2014


MỤC LỤC
NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT........................................................................................ iii
DANH MỤC CÁC BẢNG........................................................................................ iv
DANH MỤC CÁC HÌNH ...........................................................................................v
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU ....................................................................... 3
1.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG CỬA SÔNG ................................................................ 3
1.1.1. Các khái niệm về cửa sông .........................................................................3
1.1.2. Hệ thống cửa sông – ven biển Việt Nam....................................................4
1.1.3. Đa dạng sinh học và nguồn lợi sinh vật vùng cửa sông – ven biển Việt
Nam ......................................................................................................................5
1.1.4. Lịch sử nghiên cứu hệ sinh thái cửa sông – ven biển Việt Nam ................6
1.2. KHÁI QT CHUNG VỀ THÀNH PHẦN LỒI CÁ CỬA SƠNG – VEN
BIỂN VIỆT NAM.......................................................................................................... 10
1.3. THỰC TRẠNG KHAI THÁC, VÀ NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI
NGUỒN LỢI CÁ VÙNG CỬA SÔNG – VEN BIỂN VIỆT NAM ....................... 15
1.3.1. Thực trạng khai thác .................................................................................15
1.3.2. Khó khăn và thách thức ............................................................................17
1.4. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CÁ Ở VÙNG CỬA HỘI, NGHỆ AN ................... 18
CHƢƠNG 2. ĐỊA ĐIỂM, THỜI GIAN, TÀI LIỆU .................................................18
VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ......................................................................19
2.1. ĐỊA ĐIỂM VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU.................................................. 19
2.1.1. Địa điểm nghiên cứu ................................................................................19
2.1.2. Đối tƣợng nghiên cứu ...............................................................................19
2.2. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU ................................................................................ 19
2.3. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU........................................................................ 20

2.3.1. Phƣơng pháp kế thừa, tổng hợp................................................................20

i


2.3.2. Phƣơng pháp thu mẫu thực địa .................................................................20
2.3.3. Phƣơng pháp định loại trong phịng thí nghiệm .......................................21
CHƢƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN ..................................27
3.1. NHỮNG NÉT KHÁI QUÁT CHUNG VỀ KHU VỰC NGHIÊN CỨU ....... 27
3.1.1. Điều kiện tự nhiên ....................................................................................27
3.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội .........................................................................31
3.2. ĐA DẠNG THÀNH PHẦN LOÀI CÁ TẠI VÙNG CỬA HỘI, NGHỆ AN.......... 33

3.2.1. Tính đa dạng của khu hệ cá qua các bậc phân loại ..................................33
3.2.2. Dạng sống và các nhóm sinh thái .............................................................44
3.2.3. Các lồi cá q hiếm tại khu vực nghiên cứu ..........................................45
3.2.4. Cá kinh tế..................................................................................................45
3.3. THỰC TRẠNG NGHỀ CÁ VÀ NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI
NGUỒN LỢI CÁ Ở VÙNG CỬA HỘI, NGHỆ AN ................................................ 46
3.3.1. Khai thác thủy sản ....................................................................................46
3.3.2. Nuôi trồng thủy sản ..................................................................................51
3.3.3. Cơ sở dịch vụ và chế biến thủy sản ..........................................................52
3.3.4. Thách thức đối với nguồn lợi cá vùng cửa Hội, Nghệ An .......................53
3.4. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP SỬ DỤNG HỢP LÝ VÀ CÁC BIỆN PHÁP
BẢO VỆ NGUỒN LỢI CÁ VÙNG CỬA HỘI, NGHỆ AN ................................... 55
3.4.1. Sử dụng hợp lý nguồn lợi cá ....................................................................55
3.4.2. Các biện pháp bảo vệ và phát triển nguồn lợi cá......................................56
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ...................................................................................58
KẾT LUẬN .................................................................................................................... 58
KIẾN NGHỊ ................................................................................................................... 59

TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................60
PHỤ LỤC 1. MỘT SỐ HÌNH ẢNH THỰC ĐỊA .................................................. - 1 PHỤ LỤC 2. HÌNH ẢNH CÁC LỒI CÁ NẰM TRONG SÁCH ĐỎ 2007 ....... - 2 PHỤ LỤC 3. HÌNH ẢNH MỘT SỐ LOÀI CÁ Ở VÙNG CỬA HỘI................... - 3 -

ii


NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT
ĐDSH

Đa dạng sinh học

FAO

Food and Agriculture Organization of the United Nations
(Tổ chức Nông lƣơng Liên hợp quốc)

HST

Hệ sinh thái

NTTS

Nuôi trồng thủy sản

UBND

Ủy ban nhân dân

KHKT


Khoa học kĩ thuật

KHCN

Khoa học công nghệ

TX

Thị xã

iii


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1. Trữ lƣợng và khả năng khai thác hải sản ở vùng biển Nghệ An .................31
Bảng 2. Danh sách các loài cá phân bố tại khu vực cửa Hội ....................................33
Bảng 3. Tính đa dạng về bậc họ, loài của 9 bộ cá ở khu vực cửa Hội, Nghệ An .....40
Bảng 4. Tỷ lệ các loài trong các họ cá tại khu vực nghiên cứu ................................41
Bảng 5. Danh sách các loài cá tại khu vực nghiên cứu ghi trong Sách Đỏ Việt Nam
2007 cần đƣợc bảo vệ ................................................................................................45
Bảng 6. Số lƣợng và công suất tàu thuyền qua một số năm của TX Cửa Lò ...........46
Bảng 7. Cơ cấu của các tàu cá của TX Cửa Lị tính tới tháng 12/2012 ....................49
Bảng 8. Sản lƣợng và năng suất đánh bắt hải sản của TX Cửa Lò giai đoạn 2010 –
2013 ...........................................................................................................................50
Bảng 9. Diện tích, sản lƣợng NTTS của TX Cửa Lò ................................................52

iv


DANH MỤC CÁC HÌNH

Hình 1. Ảnh vệ tinh vùng cửa Hội, Nghệ An............................................................19
Hình 2. Các thuật ngữ chun mơn và chỉ tiêu hình thái chính dùng trong định loại
cá Vây tia (cá Xƣơng) ...............................................................................................24
Hình 3. Các loại vẩy và cách tính vẩy, các kiểu miệng, vị trí các xƣơng hàm và các
kiểu răng dùng trong định loại cá Vây tia (cá Xƣơng) .............................................25
Hình 4. Các đặc điểm cấu tạo, hình dạng của mang, bóng bơi, tia vây, đi và vây
đi dùng trong định loại cá Vây tia (cá Xƣơng) .....................................................26
Hình 5. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ % số họ trong 9 bộ cá tại cửa Hội..............................43
Hình 6. Biểu đồ thể hiện tỉ lệ % số loài trong 9 bộ cá tại cửa Hội............................43
Hình 7. Biểu đồ thống kê cơng suất tàu thuyền, sản lƣợng và năng suất đánh bắt của
TX Cửa Lò giai đoạn 2010 – 2013............................................................................50

v


MỞ ĐẦU
Việt Nam có bờ biển dài 3260 km với hơn 100 cửa sông lớn nhỏ đổ ra biển
đã tạo nên vùng nƣớc cửa sông rộng lớn, xuất hiện nhiều hệ sinh thái và sinh cảnh
đặc trƣng. Chính điều đó đã tạo nên ĐDSH cao cho vùng cửa sông – ven biển và
sự phong phú về thành phần loài, mở ra tiềm năng khai thác to lớn. Một trong
những nguồn lợi chiếm tỉ trọng lớn của vùng là sự đa dạng các loài cá. Tuy nhiên,
hiện nay việc khai thác các dạng tài nguyên vùng cửa sông ngày càng đẩy mạnh
nhƣng không đƣợc đặt trong một quy hoạch tổng thể, dẫn tới những hậu quả sinh
thái nghiêm trọng nhƣ hủy hoại nơi sống đặc trƣng của nhiều loài, gây sự suy
giảm tính ĐDSH, giảm sút nguồn lợi của các đối tƣợng khai thác có giá trị trong
vùng cửa sơng, đặc biệt là nguồn lợi cá. Tình hình đó đặt ra cho ngành thủy sản
nhiều thách thức để vừa có thể khai thác hợp lý, đồng thời phát triển bền vững
nguồn lợi thủy sản.
Sông Lam (sông Cả) là con sông lớn nhất khu vực miền Trung chảy qua
Nghệ An, Hà Tĩnh với chiều dài là 361 km, có diện tích lƣu vực là 17.730 km2. Cửa

Hội là cửa sơng chính của sông Lam đổ ra Biển Đông, tại ranh giới tự nhiên của 2
tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Địa danh cửa Hội là tên gọi chung của các phƣờng Nghi
Hải, Nghi Hòa và xã Nghi Xuân - nằm ở cực Nam của thị xã Cửa Lị. Do là cửa
sơng lớn của tỉnh Nghệ An, nên vùng biển khu vực cửa Hội đƣợc đánh giá cao về
nguồn lợi thủy sản cũng nhƣ điều kiện để phát triển nghề cá. Nguồn lợi thủy, hải
sản đã và đem lại những lợi ích to lớn phục vụ trực tiếp cho cuộc sống và phát triển
kinh tế trong vùng. Trƣớc đây sản lƣợng khai thác thủy, hải sản tại khu vực cửa Hội
khá cao, nhiều lồi có giá trị kinh tế. Trong những năm gần đây, do nhu cầu thực
phẩm từ sức ép dân số, nhu cầu phát triển nhằm thỏa mãn tiêu dùng dẫn tới việc
khai khác quá mức nguồn lợi sinh vật vùng cửa sông ngày càng gia tăng, chƣa dựa
trên cơ sở khoa học, không theo quy hoạch lâu dài, cùng với ô nhiễm môi trƣờng đã
làm suy giảm nguồn tài nguyên sinh vật, phá hoại mơi trƣờng sống của nhiều lồi
thủy sinh vật, trong đó có cá. Vấn đề này đặt ra thách thức đối với ngành thủy sản

1


tỉnh Nghệ An, cần có những biện pháp để khai thác hợp lý nguồn thủy sản nói
chung và cá nói riêng ở vùng cửa Hội. Chính vì vậy, chúng tơi tiến hành thực hiện
đề tài: “Đa dạng sinh học cá và đề xuất các giải pháp khai thác, sử dụng hợp lý
nguồn lợi cá ở vùng cửa Hội, Nghệ An”, nhằm mục đích:
1. Xác định đƣợc thành phần các lồi cá ở khu vực nghiên cứu.
2. Bƣớc đầu tìm hiểu về thực trạng nghề cá trong vùng.
3. Đề xuất các giải pháp nhằm khai thác và sử dụng bền vững nguồn lợi cá ở
vùng cửa Hội, Nghệ An.

2


CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1. KHÁI QUÁT VỀ VÙNG CỬA SƠNG
1.1.1. Các khái niệm về cửa sơng
Từ cửa sơng (estuary) theo nghĩa La tinh, bao hàm từ aestus là thủy triều,
còn estuary là từ chỉ một dạng của lục địa, trong đó thủy triều đóng vai trị quan
trọng trong đời sống và sự phát triển tiến hóa của vùng. Bởi vậy, trong các từ điển
ngƣời ta giải thích “cửa sơng là cửa các con sơng lớn có thủy triều” (từ điển Oxford)
hoặc “một vùng gần bờ đƣợc khống chế bởi nƣớc biển khi triều cao, một vùng biển
đƣợc tạo thành bởi cửa một con sông” (Larouse) [24].
Theo quan điểm của các nhà địa mạo thì cửa sơng là cửa của con sơng mà ở
đó đang có q trình sụt lún kiến tạo không đƣợc đền bù hoặc là một thung lũng
sơng bị chìm ngập do mực nƣớc biển dâng lên, thƣờng có dạng hình phễu. Những
định nghĩa dựa trên các quan điểm riêng về địa mạo, địa chất, khí hậu… thƣờng loại
bỏ nhiều nguyên tắc và các khuynh hƣớng thực dụng trong nghiên cứu khoa học ở
các nƣớc và các khu vực khác nhau trên thế giới [24].
Theo quan điểm động lực, D.W. Pritchard (1967) cho rằng “Cửa sông là một
thủy vực ven bờ nửa khép kín, liên hệ trực tiếp với biển và ở trong đó, nƣớc biển
hịa trộn có mức độ với nƣớc ngọt đổ ra từ các dòng lục địa”. Tuy nhiên, theo định
nghĩa này, các hệ cửa sông mù (blind estuary) và các cửa sông quá mặn
(hyperhaline) bị loại trừ. Do đó, J.H. Day (1981) đã bổ sung và đề xuất một định
nghĩa có nội dung rộng hơn: “Cửa sông là thủy vực ven bờ nửa khép kín về mặt
khơng gian, liên hệ trực tiếp với biển một cách thƣờng xuyên hay theo chu kỳ, trong
đó độ muối biển đổi do sự hịa trộn có mức độ của nƣớc biển với nƣớc ngọt đổ ra từ
các dịng lục địa” [22, 24].
Nhƣ vậy, vùng cửa sơng là nơi tranh chấp mãnh liệt giữa đất liền và biển, ở
đó ln xảy ra hai q trình trái ngƣợc nhau là bồi tụ và bào mịn. Hai q trình này
xảy ra phụ thuộc vào các yếu tố động lực của dịng sơng và dịng biển (sóng, thủy
triều, hải lƣu) và các quá trình địa chất.

3



Vùng cửa sông không chỉ là nơi nƣớc ngọt và nƣớc mặn pha trộn với nhau
đơn thuần mà tại đây có sự chuyển đổi tính chất của nƣớc, từ ngọt sang mặn. Chính
vì vậy vùng cửa sơng là vùng chuyển tiếp từ chế độ thủy văn sông sang chế độ thủy
văn biển.
1.1.2. Hệ thống cửa sông – ven biển Việt Nam
Vùng cửa sông Việt Nam trải ra dọc bờ biển từ 8030’ đến 21030’ vĩ độ Bắc
và quanh các đảo, tạo nên vùng nƣớc lợ rộng lớn với hàng loạt các hệ thống sông
lớn nhỏ. Hai hệ thống sông lớn nhất nƣớc ta là hệ thống sông Hồng – Thái Bình và
Cửu Long – Đồng Nai. Các hệ thống sơng của nƣớc ta phần lớn đổ ra biển Đông
theo hƣớng Tây Bắc, Đông Nam với mật độ khoảng 15 – 20km/cửa sông, trừ một số
sông ở vùng Đông Bắc nhƣ Bằng Giang – Kỳ Cùng, là phụ lƣu của sông Tây Giang
(Trung Quốc) và các sơng ở phía Tây Trƣờng Sơn đổ vào sông Mê Kông. Trong
mạng lƣới này, 90% là sơng nhỏ, chỉ có 9 hệ thống sơng lớn với diện tích lƣu vực
trên 10.000km2 nhƣ hệ thống sơng Bằng Giang – Kỳ Cùng, sơng Hồng, sơng Thái
Bình, sơng Mã, sông Cả, sông Thu Bồn, sông Ba, sông Đồng Nai, sơng Cửu Long.
76% diện tích lãnh thổ nƣớc ta thuộc các hệ thống sông này [24].
Các hệ thống sông miền Bắc hoạt động theo mùa, liên quan với chế độ mƣa
của tồn lƣu vực. Mùa mƣa của các sơng ở Bắc Bộ kéo dài từ tháng 6 – 10, muộn
hơn đối với các sơng ở phía Nam. Ở thời kỳ này, lƣợng dòng chảy chiếm 75 – 90%
tổng lƣợng nƣớc và 90% tổng lƣợng bùn cát cả năm, làm cho vùng cửa sơng bị ngọt
hóa và mở rộng ra biển hàng chục cây số. Ngƣợc lại, vào mùa kiệt trong những
tháng còn lại, lƣợng dòng chảy thấp, vùng cửa sơng bị thu hẹp. Thủy triều cịn đƣa
nƣớc biển xâm nhập sâu vào lục địa theo các triền sông.
Các hệ thống sơng miền Trung đều ngắn và dốc ở phía thƣợng lƣu, còn ở hạ
lƣu chảy trên dải đồng bằng hẹp, khá bằng phẳng. Mùa lũ của các sông thƣờng kéo
dài từ tháng 9 đến tháng 12 với lƣợng dòng chảy tập trung trong 3 tháng chiếm 50 –
70% tổng lƣợng nƣớc cả năm. Mùa kiệt bắt đầu mỗi nơi một khác: từ Hà Tĩnh đến
bắc Thừa Thiên - Huế là các tháng 2, 3, 4 và 7, 8; còn từ nam Thừa Thiên – Huế
đến Bình Định vào tháng 6, 7. Lƣợng dòng chảy lúc này chỉ chiếm 1 – 2% lƣợng


4


dòng chảy năm. Bởi vậy, vào mùa kiệt, ở vùng cửa sông và hạ lƣu sông thuộc
duyên hải miền Trung, nƣớc thƣờng bị mặn hóa. Nhiều đoạn thấp của hạ lƣu các
sơng ít nƣớc, các thung lũng sơng khơ cạn, trên nhiều đoạn nƣớc chỉ tồn tại ở các
dòng chảy gốc [24].
Ở Nam Bộ, động lực chính để tạo nên vùng nƣớc lợ và mở rộng châu thổ ra
biển là hệ thống sông Cửu Long. Vào lãnh thổ nƣớc ta, sơng chảy theo hai nhánh
chính là sơng Tiền và sơng Hậu rồi dồn nƣớc ra biển đông qua 9 cửa. Sơng có lƣợng
dịng chảy lớn, 550.109 m3 nƣớc và từ 75 đến 100 triệu tấn bùn cát mỗi năm. Mùa lũ
bắt đầu từ tháng 7 và kéo dài đến tháng 11. Đỉnh lũ xuất hiện vào tháng 9 hoặc
tháng 10 với lƣợng dòng chảy chiếm 25 – 27% tổng lƣợng nƣớc cả năm. Ba tháng
có dịng chảy lớn nhất (60 – 65% tổng lƣợng nƣớc) làm cho toàn vùng biển ven bờ
bị ngọt hóa. Trong các tháng kiệt, lƣu lƣợng sông rất thấp, khoảng 1700m3/s đã thu
hẹp vùng cửa sông vào sát bờ, nƣớc mặn theo thủy triều tràn vào các cửa sông rộng,
xâm nhập rất sâu vào đất liền, nhất là nửa cuối tháng 3 đến trung tuần tháng 4.
Tháng chịu ảnh hƣởng mặn ít nhất là tháng 10. Do đó, trong mùa khơ, xấp xỉ 1,7
đến 2 triệu ha – chiếm 50% diện tích đất đai châu thổ sơng Cửu Long bị mặn hóa do
sự xâm nhập mặn từ nhẹ tới nặng [24].
1.1.3. Đa dạng sinh học và nguồn lợi sinh vật vùng cửa sông – ven biển Việt
Nam
Vùng cửa sông – ven biển là hệ sinh thái độc đáo và phức tạp nhƣng giàu có
về tài nguyên thiên nhiên, là bãi đẻ của nhiều loài động vật, là nơi ở vào giai đoạn
sớm của nhiều giáp xác và cá biển. Ở vùng ven biển đã xác định đƣợc khoảng 94
loài thực vật ngập mặn, 346 loài san hơ, 794 lồi cá biển, 639 lồi rong và cỏ biển,
4971 lồi động vật đáy… [22, 24]
Vùng cửa sơng – ven biển là nơi có điều kiện sống đặc trƣng tạo nên nhiều
đặc sản nhƣ tơm, cua, sị, rong câu… Nhiều lồi là mặt hàng có giá trị kinh tế, làm

thực phẩm, làm cảnh… đƣợc tiêu thụ trong nƣớc và xuất khẩu ra nƣớc ngồi. Trong
số đó cá, giáp xác, thân mềm và rong biển là những đối tƣợng có sản lƣợng lớn và
đang đƣợc khai thác. Cá ở vùng biển nông chiếm tới 80 – 90% tổng sản lƣợng cá

5


khai thác đƣợc. Riêng tôm, năm 1995 sản lƣợng là 19.000 – 24.000 tấn, cua ghẹ
chiếm trên 3% tổng sản lƣợng hải sản khai thác [24].
1.1.4. Lịch sử nghiên cứu hệ sinh thái cửa sông – ven biển Việt Nam
 Giai đoạn trước Cách mạng tháng Tám
Những nghiên cứu trong giai đoạn này đều do các tác giả nƣớc ngoài, đƣợc
tiến hành trong phạm vi rộng trên thềm lục địa Biển Đông và các biển kế cận về các
lĩnh vực khoa học cơ bản nhƣ địa chất, hải dƣơng, khí tƣợng – thủy văn, các quá
trình động lực biển, nhất là sự trao đổi nƣớc giữa biển Đông với Thái Bình Dƣơng.
Các nghiên cứu về thủy sinh vật và nghề cá cũng đƣợc coi trọng nhằm tạo cơ sở cho
việc đánh giá tài nguyên, phục vụ cho công cuộc khai thác thuộc địa [11].
 Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám đến nay
Sau Cách mạng tháng Tám, đặc biệt là sau khi miền Bắc đƣợc giải phóng,
các hoạt động nghiên cứu khoa học đƣợc chuyển dần sang các nhà khoa học trong
nƣớc. Nhiều cơng trình nghiên cứu lớn đƣợc ra đời nhƣ: chƣơng trình Thuận HảiMinh Hải, các đề tài thuộc chƣơng trình 52.02, các chƣơng trình Biển và các
chƣơng trình nghiên cứu Khoa học cơ bản qua các giai đoạn nhƣ 48.06, 48B, KT03, KHCN-06,…
Viện Nghiên cứu biển Hải Phòng vào những năm chiến tranh chống Mỹ
(1972) đã tiến hành điều tra thành phần các loài thực vật nổi và động vật nổi ở vùng
của sông thuộc hệ thống sông Hồng: cửa Ba Lạt, cửa Ninh Cơ và cửa Đáy (Trƣng
Ngọc An và Hàn Ngọc Lƣơng, 1980, Nguyễn Văn Khôi và Dƣơng Thị Thơm, 1980,
Nguyễn Văn Chung và nnk., 1973), nghiên cứu về thành phần các loài cá ở ven
biển Quảng Ninh (Nguyễn Nhật Thi,1971), cá ở biển Nam Hà (Hồ Sỹ Bình, 1974).
Sau năm 1975, các đề tài nghiên cứu độc lập hay đề tài thuộc các chƣơng trình
nghiên cứu cấp nhà nƣớc khác do Phân viện Viện Hải dƣơng Hải Phịng hay Viện

Tài ngun và Mơi trƣờng biển hiện nay chủ trì cũng đƣợc tiến hành trên các
địa bàn khác nhƣ đầm Cái Tráp (Trƣơng Ngọc An và nnk., 1984), đầm phá Thừa
Thiên - Huế (Chƣơng trình KT-03) [11, 15].

6


Các nghiên cứu của Viện Tài nguyên và Môi trƣờng Hải Phòng, Viện
Hải dƣơng học Nha Trang và các cơ sở khoa học khác trong nƣớc về đa dạng sinh
học và các lĩnh vực liên quan đến các quá trình tƣơng tác sông - biển nhƣ đặc
điểm địa mạo trầm tích (Nguyễn Đức Cự, 1985), hình thái phân bố trầm tích và
đặc điểm bồi tụ bãi bồi ven biển huyện Kim Sơn (Trần Đình Lân và ct, 1991),
đặc điểm cơ bản của các bồn tích tụ hiện đại tiêu biểu ở dải ven bờ tây vịnh Bắc
bộ (Trần Đức Thạnh, 1991), hiện trạng và nguyên nhân bồi xói dải ven bờ Việt
Nam (Nguyễn Thanh Ngà - Chƣơng trình KT-03) nghiên cứu quy luật và dự đốn
xu thế bồi tụ-xói lở vùng ven biển và cửa sông Việt Nam (Lê Phƣớc Trình Chƣơng trình KHCN-06), các quá trình động lực cửa sông, bờ biển và hệ đầm
phá (Nguyễn Văn Điệp, 1986-1990), địa mạo bờ biển Việt Nam (Lê Xuân Hồng
&Lê Thị Kim Thoa, 2007) [11].
Những vấn đề liên quan đến hoạt động của con ngƣời nhƣ khai thác các dạng
tài nguyên (quai đê lấn biển, khai thác và nuôi trồng thủy sản, nạo vét luồng lạch
phát triển giao thông, du lịch sinh thái biển), nhất là gây ô nhiễm môi trƣờng vùng
cửa sông ven biển đƣợc nhiều nhà khoa học quan tâm nhƣ hoạt động của đề tài
thuộc các chƣơng trình Thuận Hải-Minh Hải, KT-03, KHCN-07, 48-6: Ơ nhiễm
mơi trƣờng do sơng thải ra (Phạm Văn Ninh, 1991-1995-Chƣơng trình KT-03),
Dynamics of the landscape and pollution of environment of coastal wetland of Hai
Phong-Quang Ninh caused by human activities (Vu Trung Tang, 2000) thuộc
chƣơng trình KHCN-06 do Đặng Trung Thuân chủ trì (1997-1998); khảo sát và
đánh giá các dạng tài nguyên sinh học nhằm tạo cơ sở khoa học phụ vụ cho khai
thác, duy trì và phát triển tài nguyên (Huỳnh Quang Năng, Vũ Tự Lập & Vũ Trung
Tạng - Chƣơng trình Thuận Hải-Minh Hải); Huỳnh Quang Năng, Nguyễn Tác An,

Đặng Ngọc Thanh, Nguyễn Đức Cự - Chƣơng trình 48-06; Nguyễn Văn Điệp Chƣơng trình 48B; Đặng Ngọc Thanh, Nguyễn Hữu Phụng, Nguyễn Chu Hồi;
Nguyễn Tác An - Chƣơng trình KHCN-06; Nguyễn Văn Tiến, 1999, 2002; Hồ
Ngọc Đại, 1998, 1999)… [11]

7


Sau khi chuyển vào Nha Trang Viện Nghiên cứu biển nay là Viện
Hải dƣơng học, ngoài việc tham gia vào các chƣơng trình Nhà nƣớc, cịn tiến hành
nhiều đề tài độc lập khác, tập trung chính vào các thủy vực ven bờ nhƣ đầm Ô
Loan (Bùi Văn Dƣơng, Nguyễn Hữu Sửu, 1981; Nguyễn Văn Chung và Huỳnh
Quang Năng, 1980); đầm Nha Phu Khánh Hịa (Nguyễn Ngọc Lâm và nnk.,2006);
vịnh Bình Cang-Nha Trang (Nguyễn Văn Chung và nnk,1978); Văn Phong và Cam
Ranh Khánh Hòa (Thái Ngọc Chiến và nnk.,2006), các rạn san hô ven bờ Nam
Việt Nam (Võ Sỹ Tuấn và nnk., 1996)…
Trạm cá biển Hải Phòng hay Viện Nghiên cứu Hải sản hiện nay, ngoài sự
tham gia vào các chƣơng trình khảo sát lớn cấp nhà nƣớc, trong những năm sau này
cịn tiến hành nhiều đề tài cấp Bộ có liên quan chặt chẽ với việc đánh giá nguồn lợi
thủy sản vùng ven bờ nhằm tạo cơ sở cho các quy hoạch khai thác, bảo tồn nguồn
lợi và bảo vệ môi trƣờng cũng nhƣ cho việc thiết lập các khu bảo tồn biển nhƣ
nghiên cứu về động vật thân mềm (Nguyễn Quang Hùng, 2005), cá rạn san
hô biển Cát Bà-Hải Phòng (Lại Duy Phƣơng, 2005), hiện trạng hệ sinh thái san hô
và tiềm năng bảo tồn biển quần đảo Cô Tô, Quảng Ninh (Đỗ Văn Khƣơng và nnk.,
2005), rong biển thuộc vùng biển Cát Bà-Cô Tô (Đỗ Văn Khƣơng và nnk., 2005);
điều kiện môi trƣờng và nguồn lợi hải sản vùng biển ven bờ tỉnh Thanh Hóa (Chu
Tiến Vĩnh và nnk, 2001). Nguyên nhân gây tử vong cao cho trứng cá cá con ở một
số vùng ven biển Việt Nam (Nguyễn Khắc Bát, 2006), trứng cá cá con, tôm con ở
vùng nƣớc ven bờ đông và tây bán đảo Cà Mau (Nguyễn Quang Huy, 2004-2006),
đánh gía nguồn lợi và sự phát triển của nghề cá nổi ven biển miền Trung và Nam bộ
(Nguyễn Long và nnk., 2005) [11].

Các trƣờng Đại học là những đơn vị rất tích cực triển khai nhiều đề tài
nghiên cứu về khu hệ động vật, thực vật (thực vật nổi, thực vật đáy, động vật
nổi, động vật đáy, cá và các nhóm động vật có xƣơng sống khác...), về nguồn lợi
thủy sản cũng nhƣ các điều kiện môi trƣờng cửa sông, đầm phá thuộc dải ven biển
từ bắc đến nam nhằm đề xuất cơ sở khoa học cho việc sử dụng tổng hợp tài nguyên
cho phát triển bền vững. Nghiên cứu đầu tiên về các loài cá nƣớc lợ cửa sông (sông

8


Ninh Cơ, Nam Định) có thể tìm thấy trong cơng trình của Đào Văn Tiến và Mai
Đình Yên (1960), cá sơng Bạch Đằng (Mai Đình n và Trần Định, 1969). Từ đầu
những năm 1972, các đề tài khảo sát nghiên cứu về các loài cá cũng nhƣ thủy sinh
vật và nguồn lợi hải sản cửa sông ven biển đƣợc triển khai bởi nhiều tác giả, song
tập trung chủ yếu vào các cán bộ khoa học trƣờng Đại học Tổng hơp Hà Nội (Vũ
Trung Tạng, 1974-1976, 1977-1980, 1980-1985, 1996-2000, 2006-2008, cùng
các công bố vào các năm 1977, 1999a, 1999b, 2005; Vũ Trung Tạng và nnk., 1978,
1981, 1988, 2007, 2008, 2008, 2009; Nguyễn Xuân Huấn, 1998-1999, 20042005, 2006-2008, 1998-1999) [11, 15].
Nghiên cứu về thảm thực vật ngập mặn và các nhóm động vật sống trong
rừng hoặc các bãi triều lân cận có thể tìm thấy trong cơng trình của các cán bộ khoa
học Đại học Sƣ phạm Hà Nội, trƣớc hết là Trung tâm Nghiên cứu Hệ sinh thái
Rừng ngập mặn nhƣ Phan Nguyên Hồng (1984), Phan Nguyên Hồng và Hoàng Thị
Sản, (1993), Phan Ngun Hồng và nnk (1999)., Nguyễn Hồng Trí (1988, 2004),
Ngô Văn Nhƣợng và Nguyễn Ngọc Khắc...(2004), Ngo Van Nhuong and Kejti
Wada. (2004)... [11]
Đối với khu vực cửa sông ven biển miền Trung có thể gặp các cơng trình của
Đại học Tổng hợp Huế trƣớc đây hay Đại học Huế hiện nay (Hoàng Đức Đạt và Võ
Văn Phú, 1977; Phạm văn Miên và Nguyễn Mộng, 1982; Nguyễn Thị Phƣơng
Liên và nnk., 1981; Tôn Thất Pháp, 1993; Võ Văn Phú, 1995, 2001, 2004, 2003
[11, 15].

Trƣờng Đại học Thủy sản Nha Trang hay Đại học Nha Trang hiện nay
thƣờng triển khai các nghiên cứu của mình trong các đầm phá Nam Trung Bộ nhƣ
đầm Thị Nại (Nguyễn Chính, Ngơ Anh Tuấn, 1982; Nguyễn Trọng Nho và nnk.,
1982), đầm Nha Phu, Phú Khánh (Nguyễn Trọng Nho và nnk., 1982)…[11]
Nghiên cứu về đa dạng sinh học và nguồn lợi thủy sản vùng cửa sơng ven
biển và đồng bằng Nam bộ có thể tìm thấy trong các cơng trình của Viện Ni trồng
Thủy sản II cũng nhƣ các trƣờng Đại học TP Hồ Chí Minh, Đại học Nơng Lâm TP
Hồ Chí minh, đại học Cần Thơ, trong đó có các nghiên cứu về “Nguồn lợi động

9


vật Hai vỏ (Bivalvia) ở vùng ven biển thị xã Bạc Liêu” (Dƣơng Trí Dũng và
Nguyễn Văn Thƣờng, 2001), “Thực vật nổi (Phytoplankton) hạ lƣu sông Cửu Long
năm 1976-1979” (Trần Trƣờng Lƣu, 1979), về thủy sinh vùng cửa sông ven biển
Tây thuộc bán đảo Cà Mau phục vụ yêu cầu phát triển thủy sản (Lƣơng Văn Thanh
và Nguyễn Văn Khôi, 2002), “Điều tra nghiên cứu sử dụng hợp lí hệ sinh thái vùng
cửa sông ven biển thuộc hệ thống sông Cửu Long để bảo vệ nguồn lợi và phát triển
nuôi trồng thủy sản” (Trần Thanh Xuân và nnk.,1998) [11].
Các nghiên cứu về địa chất địa mạo thuộc các cửa sông và dải bờ biển Việt
Nam đƣợc nhiều tác giả quan tâm, có thể gặp trong ấn phẩm của Lê Xuân Hồng &
Lê Thị Kim Thoa, 2007.
1.2. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ THÀNH PHẦN LỒI CÁ CỬA SƠNG – VEN
BIỂN VIỆT NAM
Theo Vũ Trung Tạng (2009), khu hệ cá của các cửa sông riêng biệt không đa
dạng so với những vùng biển kế cận của chúng, dao động từ 70 đến 230 lồi. Khu hệ
cá tồn cửa sơng dọc bờ biển nƣớc ta là 615 loài, 120 họ, thuộc 29 bộ. Trong đó có 5
bộ cá sụn (Chondrichthyes) với 11 họ và 26 lồi, cịn lại là đại diện của các nhóm cá
xƣơng, trong đó có trên 50 lồi chƣa xác định đƣợc tên khoa học, còn để ở dạng sp.
Bộ cá lớn nhất trong khu vực là cá Vƣợc (Perciformes), gồm 53 họ và 339 loài chiếm

44,17% số lƣợng họ và 55,12% số lƣợng loài. Theo số lƣợng họ, bộ đứng sau đó lần
lƣợt là Anguilliformes, Scorpaeniformes, Pleuronectiformes, nhƣng giàu lồi nhất sau
bộ cá Vƣợc là Clupeiformes, Pleuronectiformes, Anguilliformes, Tetraodontiformes,
Cypriniformes, Siluriformes, Scorpaeniformes. Các bộ chỉ có 1 họ và 1 lồi không
nhiều, gồm bộ Lamniformes, Albuliformes, Gonorhynchiformes, Osteoglossiformes,
Cyprinodontiformes, Beryciformes, Lophiformes, Zeiformes và Gasterosteiformes.
Những họ giàu loài nhất, từ 47 đến 19 loài theo thứ tự từ cao tới thấp nhƣ sau:
Gobiidae (47 loài), Carangidae, Sciaenidae, Serranidae, Cyprinidae, Tetraodontidae,
Cynoglossidae, Clupeidae và Engraulidae (19 lồi). Những họ có 10 lồi trở lên đóng
góp 326 loài, chiếm gần 52% tổng số loài. Trong thành phần khu hệ cá có khoảng 42
họ chỉ có 1 loài, chiếm 35% tổng số họ và 6,8% tổng số loài [24].

10


Trong thành phần các lồi cá dù có mặt một số đại diện cá nƣớc ngọt hoặc
biển ấm ôn đới, song khu hệ cá cửa sông nƣớc ta vẫn là khu hệ cá biển nhiệt đới,
bao gồm những loài thuộc biển kế cận, chịu đƣợc sự biến đổi nhanh chóng của độ
muối ở những mức độ khác nhau và nằm trong thành phần các loài động vật thuộc
tổng vùng nhiệt đới Ấn Độ - Tây Thái Bình Dƣơng. Những lồi cá sống và xâm
nhập vào vùng cửa sông đã trải qua q trình thích nghi tiến hóa trong điều kiện
mơi trƣờng rất biến động theo không gian và thời gian, nhất là sự biến đổi nhanh
của độ muối [1, 24].
Dựa trên mối quan hệ với độ muối, khu hệ cá cửa sơng có thể đƣợc chia
thành bốn nhóm sinh thái chính sau đây [2,24]:
- Nhóm cá nƣớc ngọt: gồm những lồi có thể chịu đƣợc độ muối trên dƣới 10 ‰.
Những đại diện của nhóm này là một số lồi thuộc họ Bagridae, Siluridae,
Clariidae, Belontiidae, Adrianichthidae, Aplocheilidae… Chúng thƣờng đông đúc
vào thời kỳ mùa lũ hoặc khi nƣớc ròng tại phần đầu vủa vùng cửa sơng.
- Nhóm cá biển: khá đa dạng, gồm cả những loài rộng muối và hẹp muối, trong

chúng một số loài gặp ở độ muối 5‰ , cịn một số đơng lồi ở độ muối 18 - 25‰.
Khơng ít lồi cá khơi điển hình thuộc các họ Carcharhinidae, Pristidae, Dasyatidae,
Scombridae, Soleidae, Bothidae, Cynoglossidae… theo thủy triêu xâm nhập sâu vào
các thủy vực nƣớc ngọt để kiếm ăn. Nhìn chung, nhóm này đa dạng về số lƣợng lồi
và đơng về cá thể, thƣờng gặp ở cuối các cửa sơng, nơi nƣớc có độ muối cao và ổn
định, đặc biệt vào thời kỳ mùa khô, khi lƣợng nƣớc sông giảm. Thực tế, từ vùng
chuyển tiếp này ra khối nƣớc ven bờ là nơi giàu có thức ăn, trở thành bãi kiếm mồi
và sinh sản của nhiều đàn động vật biển, trong đó kể cả cá.
- Nhóm cá cửa sơng chính thức: gồm những lồi nƣớc lợ ven biển thích ứng với
nhịp điệu biến đổi nhanh của độ muối vùng cửa sơng. Cá cửa sơng thuộc nhiều
nhóm phân loại khác nhau, từ những đại diện của họ cá tiến hóa thấp nhƣ Albulidae,
tới những họ cá bậc cao nhƣ Gobiidae, Bothidae, Cynoglossidae, Soleidae… Đại bộ
phận các loài này là cá cỡ nhỏ, sống đáy. Nhiều loài sống ổn định trong vùng, nhiều
lồi tiến hành di cƣ biển – sơng, hoặc di cƣ sơng – biển; một số lồi coi vùng cửa

11


sông là nơi sống bắt buộc trong những giai đoạn nhất định của đời sống, còn khi
sinh sản lại rời khỏi cửa sông ra biển (Mugil, Chanos) hay vào nƣớc ngọt nhƣ cá
Mòi cờ (Clupanodon thrissa), cá Cháy (Tenualosa reevesii). Phần lớn các lồi cá
biển cũng nhƣ các nhóm động vật không xƣơng sống khác sử dụng vùng cửa sông
làm bãi đẻ và nuôi dƣỡng con non; khi lớn lên chúng rời khỏi vùng cửa sông về nơi
cƣ trú thƣờng xuyên của dạng trƣởng thành.
- Nhóm cá di cƣ có chu kỳ năm: gồm các loài cá nƣớc ngọt nhƣ cá Chình (Anguilla
japonica, A. marmorata, A. malagumora, A. bicolor bicolor) sống ở sơng suối miền
Trung, đến kỳ sinh sản có tập tính di cƣ sơng – biển để đẻ trứng ở vùng nƣớc xa bờ.
Một số lồi cá cửa sơng nhƣ cá Mòi cờ, cá Cháy di cƣ ngƣợc dòng vào vùng trung
hạ lƣu hệ thống sông Hồng để sinh sản.
Nếu xét sự phân bố theo chiều thẳng đứng, ta có thể chia cá ra làm hai nhóm

chính là cá nổi và cá đáy.
Cá nổi là nhóm bao gồm các loài cá sống ở tầng mặt và tầng giữa với các đại
diện thuộc các họ Carcharhinidae, Sphyraenidae, Clupeidae, Engraulidae,
Chirocentridae, Atherinidae, Stromateidae, Carangidae…
Đặc điểm phân bố của nhóm cá này ở biển Việt Nam đƣợc khái quát nhƣ sau:
- Trong vịnh Bắc Bộ, cá nổi phân bố quanh năm. Vào tháng 3 hàng năm các cá thể
trƣởng thành thƣờng vào gần bờ để đẻ, trƣớc tiên là ở vùng phía Nam vịnh, đến
tháng 5 – 6 là ở khắp vịnh.
- Vùng biển miền Trung do thềm lục địa hẹp, đƣờng cùng độ sâu 100m đi sát bờ
nên các đàn cá nổi thƣờng tập trung rất gần bờ, trong các vịnh nhỏ nhƣ Quy Nhơn,
Nha Trang, Phan Rang, Phan Thiết. Hơn nữa, vùng ngoài khơi ở Nam Trung Bộ
xuất hiện hiện tƣợng nƣớc trồi trong thời kỳ gió mùa Tây Nam hoạt động tạo nên sự
phát triển mạnh của sinh vật nổi, lôi kéo các đàn cá, làm tăng sản lƣợng đánh bắt.
- Vùng biển Đơng Nam Bộ hình thành các khu vực tập trung cá ổn định trong các
thời kỳ khác nhau của năm, nhất là ở vùng gần bờ từ Phan Thiết đến Vũng Tàu,
vùng cửa sông Cửu Long, vùng biển gần Côn Đảo và vùng biển Cù Lao Thu.

12


Cá đáy gồm các loài cá sống ở tầng đáy hoặc tầng gần đáy. Ở Việt Nam cá
đáy rất đa dạng và phong phú về lồi, có giá trị kinh tế cao. Các lồi đánh bắt đƣợc
chủ yếu có chiều dài khoảng 100 - 200mm, là đối tƣợng khai thác chủ yếu của nghề
lƣới kéo đáy nhƣ các họ cá Hồng (Lutjanidae), Phèn (Mullidae), Lƣợng
(Nemipteridae), Sạo (Haemulidae), Mối (Synodontidae),… [2,14]
Các bãi cá đáy đƣợc khai thác chủ yếu ở vùng biển Việt Nam gồm: bãi cá Bạch
Long Vĩ, bãi cá giữa vịnh Bắc Bộ, bãi cá Hòn Mê – Hòn Mát, bãi cá Hịn Gió –
Thuận An, bãi cá phía Đông Bắc Đà Nẵng, bãi cá Nam Cù Lao Thu, bãi cá Côn
Sơn, bãi cá ven bờ Tây Nam Bộ và bãi cá Tây Nam Phú Quốc [13].
Cá ở vùng thềm lục địa nƣớc ta có những đặc điểm di cƣ và phân bố rất đặc

trƣng: hiện tƣợng di cƣ thẳng đứng theo chu kỳ ngày đêm ảnh hƣởng đến thời điểm
và năng suất đánh bắt, theo đó, cá ở tầng đáy phân bố tập trung vào lúc bình minh
và ban ngày, giảm xuống vào lúc hồng hơn và thấp nhất vào ban đêm. Cá nổi lại
tập trung và cho sản lƣợng khai thác cao vào ban đêm, đặc biệt là những đêm không
trăng và vào thời kỳ nƣớc kém. Những lồi có hiện tƣợng di cƣ ngày đêm là cá Nục,
Trích, Chỉ vàng, Tráo, Bạc má, Mối, Liệt, Mú xám… Trong mối quan hệ với tuần
trăng, cá tầng đáy cho sản lƣợng cao vào thời kỳ có trăng, nhất là những ngày trƣớc
khi trăng trịn. Ngồi ra, các mối quan hệ của cá với nhiệt độ nƣớc, dòng chảy, …
cũng ảnh hƣởng tới sự di cƣ của cá từ bờ ra xa và ngƣợc lại [2, 14].
Cá cửa sông không thật đa dạng, song sự phát triển nghề cá dựa vào 2 nhóm
chủ yếu là cá cửa sơng chính thức và cá biển xâm nhập. Cá cửa sơng chính thức
phần lớn có kích thƣớc nhỏ đến trung bình, chỉ có giá trị kinh tế địa phƣơng nhƣng
ổn định, tạo ra sản lƣợng thƣờng xuyên cho khai thác. Cá biển xâm nhập thƣờng
xuất hiện trong những điều kiện xác định của vùng cửa sông để kiếm ăn hay sinh
sản, gồm những lồi có giá trị kinh tế cao cho nghề cá. Những họ có nhiều lồi đóng
vai trị quan trọng trong nghề cá cửa sông là Megalopidae, Clupeidae, Engraulidae,
Synodontidae, Ariidae, Mugilidae, Polynemidae, Hemirhamphidae, Centropomidae,
Serranidae, Teraponidae, Apogonidae, Carangidae, Leiognathidae, Nemipteridae,
Lutjanidae, Gerridae, Drepanidae, Haemulidae, Sciaenidae, Signanidae, Gobiidae,

13


Paralichthyidae, Bothidae, Cynoglossidae,… Phần lớn các loài cá thuộc những họ
trên là những lồi thƣờng xun có mặt trong vùng, một số ít xuất hiện có chu kỳ
khi chúng xâm nhập vào vùng cửa sông để kiếm ăn hoặc để sinh sản. Chúng có thể
thuộc những lồi cá biển khơi, cá rạn san hô hoặc ở đáy sâu xâm nhập vào để dinh
dƣỡng, đẻ trứng, tức là sử dụng vùng cửa sông cho một giai đoạn nhất định trong
chu kỳ sống của mình vào những thời gian xác định nhƣ các đại diện thuộc
Sphyraenidae,


Choetodontidae,

Pomacentridae,

Labridae,

Stromatoidae,

Echeneidae, Scombridae, Meniddae, Monodactylidae, Ephippidae…Những đại diện
của cá nƣớc ngọt thích nghi với độ muối thấp chỉ sử dụng phần đầu của vùng cửa
sông nhƣ một nơi kiếm ăn [24].
Nhiều lồi cá cửa sơng có giá trị kinh tế cao nhƣ cá Song vây cao
(Epinephelus

maculatus),

Song

gió

(Epinephelus

awoara),

Chim

bạc

(Monodactylus argenteus), Chim gai (Psenopsis anomala). Một số lồi cá có liên

quan tới rừng ngập mặn – “cá rừng ngập mặn” nhƣ một số đại diện của họ cá Đối
(Mugilidae), họ cá Bống đen (Eleotridae), cá Chẽm (Lates calcarifer),

Ngát

(Plotosus anguillaris); một số khác có đời sống gắn liền với thảm cỏ biển - “cá
thảm cỏ biển” - nhƣ cá Đục bạc (Sillago

sihama),

filamentosus), Bƣớm cờ hai vạch (Heniochus

Móm gai dài

acuminatus),

các

(Gerres

lồi cá Đìa

(Siganus),...[14]
Nhìn chung, một trong những tính chất của khu hệ cá Việt Nam là đa số các
lồi cá sống phân tán, ít kết đàn và nếu có sự kết đàn thì đàn cá cũng không lớn, độ
tập trung không cao tại một ngƣ trƣờng hẹp và cũng kém ổn định, dẫn đến các đàn
cá có kích thƣớc nhỏ (khoảng 100 m2) chiếm khoảng 80%, các đàn cỡ vừa (1000
m2) chiếm 15%, còn các đàn cá lớn (10.000 m2) và rất lớn (trên 10.000 m2) chỉ
chiếm khoảng 1% . Do vậy, trong thành phần khai thác, các lồi cá có tầm quan
trọng kinh tế cũng chiếm tỷ lệ không cao, khoảng 10 - 20% [24].

Có thể khái quát những đặc điểm quan trọng của các lồi hải sản nói chung
và cá nói riêng ở vùng biển Việt Nam nhƣ sau [2, 24]:

14


- Số loài nhiều, số lƣợng cá thể cùng loài ít. Do đó, nếu tập trung khai thác với
cƣờng độ cao trong một thời gian sẽ làm năng suất đánh bắt giảm sút đáng kể.
- Gồm nhiều nhóm cá sinh thái: cá vùng khơi, cá thềm lục địa, cá cửa sơng, cá nổi,
cá đáy, cá RSH...
- Trừ các lồi cá nổi đại dƣơng nhƣ cá Thu, Ngừ, Chuồn,... di cƣ xa, hầu hết các lồi
có giá trị kinh tế đều là những đàn cá địa phƣơng, ít di cƣ, chủ yếu tập trung sống ở
các vùng nƣớc có độ sâu dƣới 200 m, nhất là các khu vực chịu ảnh hƣởng của các
con sông lớn, các vụng, vịnh ven biển. Sự phân bố của các đàn cá có sự biến động
theo mùa khí hậu: mùa đơng có xu thế ra xa bờ và phân bố với mật độ dày ở vùng vĩ
độ thấp; mùa hè di chuyển vào gần bờ.
- Nhiều lồi cá nói chung hay cá kinh tế nói riêng có mùa đẻ nhiều đợt, kéo dài. Bãi
đẻ chủ yếu ở các vùng nƣớc nông ven bờ...
Với những đặc điểm trên thì việc phục hồi đàn sẽ nhanh nhƣng hiện tại các
hoạt động khai thác và các hoạt động kinh tế khác đã và đang làm suy giảm nguồn
lợi, ảnh hƣởng tới mơi trƣờng sinh sống của các lồi cá, kéo theo việc giảm năng
suất và sản lƣợng đánh bắt.
1.3. THỰC TRẠNG KHAI THÁC, VÀ NHỮNG THÁCH THỨC ĐỐI VỚI
NGUỒN LỢI CÁ VÙNG CỬA SÔNG – VEN BIỂN VIỆT NAM
1.3.1. Thực trạng khai thác
Nghề khai thác ở nƣớc ta rất đa dạng phong phú với quy mô cũng nhƣ tên
gọi. Hiện tại, cả nƣớc có trên 40 nghề khai thác thủy sản tập trung tại 5 nhóm nghề
chính (lƣới kéo, lƣới rê, lƣới vây, câu và lồng bẫy cố định). Tính đến hết năm 2007,
cả nƣớc có 95.609 tàu hoạt động nghề cá, trong đó tàu khai thác hải sản là 83.250
chiếc, tàu làm công tác dịch vụ hậu cần nghề cá và kiểm ngƣ là 2.199 chiếc, với

tổng công suất máy đạt trên 5,4 triệu CV. Mặc dù phát triển nhanh chóng nhƣng
nghề khai thác hải sản nƣớc ta vẫn cịn mang nặng tính chất của nghề cá quy mô
nhỏ. Các tàu công suất máy nhỏ hơn 90 CV chiếm tới 84% tổng số tàu, 88% tổng số
lao động hoạt động chủ yếu ở ven bờ. Hầu hết các tàu đánh cá đều đƣợc đóng bằng

15


gỗ, các máy tàu đƣợc sử dụng phần lớn là máy cũ hoặc dùng các máy ôtô vận tải
hạng nặng đã cũ để lắp đặt. Kết quả điều tra các tàu khai thác hải sản xa bờ cho
thấy, số tàu lắp máy cũ chiếm tới 88,58% tổng số tàu khai thác xa bờ, trang thiết bị
khai thác chƣa đầy đủ nên khai thác kém hiệu quả. Mặc dù nƣớc ta có tới 700 cơ sở
đóng tàu có khả năng đóng mới 4.000 chiếc/năm và sửa chữa 8.000 chiếc/năm
nhƣng lại rất thiếu những nhà máy đóng tàu hiện đại để đóng tàu cá bằng vật liệu
kim loại hoặc các loại vật liệu mới. Chƣa kể, hầu hết các ngƣ cụ vẫn đang phải nhập
khẩu do các cơ sở sản xuất trong nƣớc không đáp ứng đƣợc về số lƣợng cũng nhƣ
chất lƣợng [2, 13].
Cũng theo kết quả các chuyến điều tra từ năm 2000 đến 2005, tổng trữ lƣợng
hải sản Việt Nam ƣớc tính khoảng 4 triệu tấn, trong đó trữ lƣợng cá nổi khoảng 2,8
tấn, chiếm khoảng 70% tổng trữ lƣợng; trữ lƣợng cá đáy khoảng 1,2 triệu tấn, chiếm
khoảng 30% tổng trữ lƣợng; khả năng khai thác hải sản ở biển Việt Nam khoảng 1,8
- 2,2 triệu tấn, trong đó khoảng 1,7 triệu tấn ở ngồi khơi [13].
Theo thống kê của Bộ Thuỷ sản (nay là Bộ nông nghiệp và Phát triển nơng
thơn) thì lƣợng hải sản đánh bắt đã tăng lên rất nhiều lần nhƣng hiệu suất đánh bắt
lại giảm rõ rệt. Đây chính là yếu tố cho thấy nguồn hải sản trong vùng đặc quyền
kinh tế của nƣớc ta đang bị suy giảm. Nguyên nhân chủ yếu gây nên tình trạng này
là do quá trình đánh bắt gần bờ và kỹ thuật đánh bắt mang tính huỷ diệt cao vì sử
dụng thuốc nổ hoặc các loại lƣới đánh bắt có cỡ mắt nhỏ. Kinh tế phát triển sẽ thúc
đẩy các hoạt động khai thác tài nguyên biển và đới bờ, tăng sức ép lên nguồn tài
nguyên và mơi trƣờng biển, từ đó phát sinh mâu thuẫn giữa khai thác tài nguyên

biển và đới bờ với bảo vệ môi trƣờng. Theo đánh giá của các chuyên gia môi trƣờng
thì ngun nhân quan trọng nhất chính là sự hiểu biết về bản chất tự nhiên cũng nhƣ
những giá trị tài nguyên của con ngƣời còn hạn chế [2].
Nhƣ vậy, từ tỷ lệ cá khai thác của các vùng nƣớc, từ cơ cấu ngƣ cụ và tàu
thuyền, có thể nhận thấy, nghề cá nƣớc ta là nghề cá nhỏ, nghề cá nhân dân; phƣơng
tiện khai thác cịn mang tính truyền thống, rất lạc hậu. Do đó khai thác tập trung chủ
yếu ở vùng cửa sông, ven biển, chƣa vƣơn tới đƣợc các vùng nƣớc sâu, xa bờ.

16


1.3.2. Khó khăn và thách thức
Một khó khăn là hạn chế về trình độ nhân lực làm cản trở cho quá trình
chuyển đổi của ngành thuỷ sản. Với trình độ học vấn thấp, ngƣ dân gặp khó khăn
trong việc tiếp thu kỹ thuật mới, nhất là kỹ thuật khai thác xa bờ. Hệ quả tất yếu là
dù sản lƣợng khai thác hải sản liên tục tăng nhƣng chất lƣợng sản phẩm khai thác
đƣợc thƣờng có kích thƣớc nhỏ, có chất lƣợng thấp, tỷ lệ cá tạp cao. Trong khi đó,
hệ thống cơ sở hạ tầng phục vụ nghề cá vừa nhỏ bé, vừa manh mún khi cả nƣớc chỉ
có 75 cảng cá, bến cá, chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu phục vụ ngành khai thác. Mạng
lƣới chợ cá còn ở trạng thái đang phát triển, chƣa có hình tức bán đấu giá tại chợ.
Việc mua bán, tiêu thụ cá ở các chợ cá phần lớn do các tƣ thƣơng đảm nhiệm, nên
hiện tƣợng “Trúng mùa rớt giá vẫn còn xảy ra’’ [13].
Sự mất cân đối giữa năng lực khai thác và khả năng hiện có của nguồn lợi
vùng ven bờ ngày càng tăng, dẫn đến nguồn lợi ven bờ bị giảm dần, hiệu quả kinh
tế của hoạt động khai thác vùng biển ven bờ ngày càng thấp. Trong khi đó, giá
nhiên liệu và những chi phí đầu vào cho khai thác tăng khơng ngừng, đang gây ra
những khó khăn lớn cho ngành khai thác hải sản. Hiệu quả kinh tế của các hoạt
động khai thác đang giảm dần nên các tàu cá buộc phải tận thu sản phẩm, từ đó dẫn
đến giảm sút nguồn lợi thuỷ sản nghiêm trọng hơn. Trong khi chúng ta chƣa mở
rộng đƣợc ngƣ trƣờng xa bờ và cơng nghệ đánh bắt cịn lạc hậu, thì đội tàu có cơng

suất nhỏ lại phát triển nhiều, dẫn đến ngƣ trƣờng ven bờ ngày càng bị thu hẹp. Cả
nƣớc hiện có khoảng 95.609 chiếc tàu thuyền khai thác hải sản, nhƣng lƣợng tàu có
cơng suất lớn hơn 90 CV chỉ có khoảng 15 nghìn chiếc. Số cịn lại là tàu nhỏ tập
trung vào khai thác bằng lƣới rê, câu, mành, vây, chụp... quanh quẩn ở ven bờ [13].
Tàu thuyền đóng mới tăng nhanh, nhƣng chủ yếu là tàu nhỏ, không thể đánh
bắt xa bờ và dài ngày trên biển nên ngƣ dân tập trung khai thác ven bờ. Điều này
dẫn đến cạn kiệt nguồn hải sản ven bờ. Mặt khác, do cạn kiệt nguồn lợi thủy sản
nên xuất hiện ngày càng nhiều hình thức đánh bắt hủy diệt nguồn lợi nhƣ xung điện,
đánh mìn, giã cào [24].

17


1.4. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU CÁ Ở VÙNG CỬA HỘI, NGHỆ AN
Cho tới nay có rất ít cơng trình nghiên cứu tách riêng cho thành phần loài cá
vùng cửa Hội, chỉ mới có cơng trình của Nguyễn Thái Tự (1983) nghiên cứu khu hệ
cá lƣu vực sơng Lam. Cơng trình đã xác định đƣợc 157 loài thuộc 52 họ và nằm
trong 17 bộ (theo hệ thống phân loại của Lindberg) [29]. Tuy nhiên, nghiên cứu của
tác giả chủ yếu tập trung thành phần loài cá nƣớc ngọt. Do vậy, để có số liệu về
thành phần lồi cá làm cơ sở khoa học cho việc đề xuất các giải pháp bảo vệ, phục
hồi số lƣợng của các loài và khai thác hợp lý nguồn lợi cá, cần có sự điều tra, đánh
giá sự đa dạng của khu hệ cá ở vùng cửa sông này.

18


×