Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (766.8 KB, 23 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
---
Nguyễn Thị Minh Huyền- C01103
STRESS, TRẦM CẢM, LO ÂU VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIÊN
CÁC KHOA LÂM SÀNG, BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG NĂM 2019
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THĂNG LONG
---
Nguyễn Thị Minh Huyền
STRESS, TRẦM CẢM, LO ÂU VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN CỦA ĐIỀU DƯỠNG VIÊN
CÁC KHOA LÂM SÀNG, BỆNH VIỆN NHI TRUNG ƯƠNG NĂM 2019
LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: Y TẾ CÔNG CỘNG
Mã số: 8.72.07.01
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. Nguyễn Bạch Ngọc
ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện nhất về thể chất, tinh thần và xã hội và không phải chỉ
Ngày nay, trong các mối quan tâm đến sức khỏe thìtình trạng stress do nghề nghiệp đang là một vấn
đề được quan tâm toàn cầu, và là mối đe dọa nguy hiểm nhất của thế kỷ XXI. Trong khi tại các quốc gia
đang phát triển (trong đó có Việt Nam) các bệnh có nền tảng tâm lý đang có xu hướng phát triển nhanh
chóng Đến năm 2030 – theo đánh giá của WHO – trầm cảm có thể trở thành vấn đề sức khỏe lớn nhất,
vượt qua cả các bệnh hệ tim-mạch và AIDS.
Trong các đối tượng lao động hiện nay, nhân viên y tế, đặc biệt là các nhân viên ở các khoa lâm
sàng, tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân làm việc trong mơi trường có nguy cơ stress rất cao với nhiều lý do
như: làm việc quá tải, yếu tố an ninh trong bệnh viện, ý thức của người khám bệnh...Tác giả Demiral và
đồng nghiệp năm 2000 đã nghiên cứu trên 300 bác sĩ ở các chuyên khoa khác nhau và tìm thấy tỷ lệ chung
về trầm cảm và lo âu là 18,9 % và 27,4% ở các bác sĩ[24].
Nghiên cứu của tác giả Lương Quốc Hùng tại bệnh viện E năm 2018 cho biết tỷ lệ bị stress của
nhân viên điều dưỡng khối lâm sàng bệnh viện E năm 2018 là 24,3%. Mức độ stress của nhân viên điều
dưỡng khối lâm sàng bệnh viện E năm 2018 lần lượt là 12,3% mức độ nhẹ, 6,5% mức độ vừa, 4,5% mức
độ nặng và 1% mức độ rất nặng [4].
Nghiên cứu stress của nhân viên y tế, đặc biệt đó là điều dưỡng đang trực tiếp làm việc tại bệnh
viện Nhi, nơi mà môi trường làm việc luôn căng thẳng, đi kèm nhiều những rủi ro từ đặc thùcông việc
đang được quan tâm rất lớn. Bệnh viện Nhi trung ương là một bệnh viện đặc thù và là 1 trong 3 bệnh viện
hàng đầu khu vực trong lĩnh vực nhi khoa nhưng còn rất ít nghiên cứu đánh giá tình trạng stress của điều
1. Mô tả thực trạng stress, trầm cảm và lo âucủa điều dưỡng viên của các khoa lâm sàng tại Bệnh
viện Nhi trung ương năm 2019.
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm rối loạn căng thẳng (stress)
Theo tâm lý học giải thích thì đây là một cảm giác căng thẳng và dồn ép. Áp lực với cường độ thấp có
thể là một điều tốt và thậm chí có lợi ích trong cơng việc và sức khỏe. Stress tích cực giúp tăng hiệu suất vận
động thể thao. Nó cũng có vai trị trong động lực, thích nghi và phản ứng với môi trường xung quanh [18].
Tuy nhiên với một lượng áp lực quá nhiều có thể dẫn đến nhiều vấn đề đối với cơ thể và điều đó có thể cực
kì có hại.
Stress - một thuật ngữ phổ biến nhưng cũng thường xuyên bị hiểu nhầm nhất. Người ta thường nghĩ
rằng có những tình huống mà bản chất của nó đã khó tránh khỏi căng thẳng do sự cạnh tranh cao đòi hỏi khả
năng xử lý tốt.
1.1.2. Áp lực thể chất và tâm lý
Áp lực là thuật ngữ được sử dụng trong vật lý học để chỉ lực ép trên bề mặt của một vật và vuông
góc với bề mặt đó. Sau được sử dụng rộng rãi ra với nghĩa áp lực là sự bắt ép bằng sức mạnh, sức ép [6].
Theo Từ điển Tâm lý học (2000), Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, Viện Tâm lý học do Vũ Dũng
chủ biên, Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa, áp lực là lực khác với nhu cầu về hướng tác động. Nếu nhu
cầu là lực xuất phát từ bên trong cơ thể thì áp lực là lực tác động từ phía mơi trường lên cơ thể [2].
Như vậy, “Áp lực thể chất và tâm lý”là những nhân tố tạo sức ép cho con người trong quá trình
sống, tác động lên cơ thể, làm cho con người có những căng thẳng về mặt tâm lý, gây cản trở hoạt động,
ảnh hưởng đến sức khỏe của con người. Có thể hiểu khái quát áp lực thể chất và tâm lý như là những nhân
tố gây sức ép cho cá nhân, tạo ra những thay đổi trên thực thể và căng thẳng về mặt tâm lý.
1.2. Những hậu quả của stress
Nhiều tài liệu nghiên cứu đã chỉ ra stress ảnh hưởng đến cơ thể theo cả hai hướng tích cực và tiêu
cực tùy theo từng đối tượng, tính chất, mức độ khác nhau.
Tích cực: Ở giai đoạn đầu, stress có lợi cho hệ miễn dịch, giúp con người thích nghi với những thay đổi
của môi trường, tăng sự sáng tạo, tăng khả năng cảnh giác, tạo sự hưng phấn,tạo sự tập trung và tăng động
lực làm việc, từ đó tăng năng lực phán đốn, ý chí và tính chiến đấu của con người [23].
Tiêu cực: Theo đích tác động thì stress ảnh hưởng tiêu cực đến con người về cả hai mặt là thực thể
(sinh lý) và tâm thần (tâm lý) [1].
Rối loạn thể chất: Bệnh tim mạch, huyết áp,đường tiêu hóa, bệnh cơ xương khớp, vv…
1.3. Những nguyên nhân gây stress và những yếu tố liên quan
1.3.1. Nguyên nhân khách quan
Stress do môi trường sinh thái [1]:
Do rối loạn chu kỳ thời gian sinh học.
Do suy giảm khả năng thích ứng với mơi trường.
Do những tác nhân vật lý như tiếng ồn, hóa chất, sự đơng đúc, khơng gian chật chội, ơ nhiễm, nóng
bức, thay đổi nơi cư trú.
Stress do môi trường xã hội [1]: Mối quan hệ xã hội ít ổn định, nghèo khổ, quyền hạn thấp kém; những
vấn đề của tồn cầu hóa, q tải dân số, gia tăng tội phạm, suy thoái kinh tế, thất nghiệp, sự phân phối các
dịch vụ xã hội, sự phát triển vượt bậc của khoa học công nghệ, sự quá tải thông tin, những biến động xã
hội, vv…
Stress do những mối quan hệ giữa các cá nhân [1]: Bạn bè, đồng nghiệp, gia đình, tình yêu, vợ chồng,
con cái, vv…
Stress do nghề nghiệp [1]: Những thay đổi, biến động trong cuộc sống; nhiều vai trị, trách nhiệm; điều
kiện, mơi trường, thời gian lao động; tính chất, u cầu của cơng việc; vấn đề thu nhập; quan hệ trong lao
động, công việc; sự phát triển nghề nghiệp; chế độ chính sách, cơ cấu tổ chức quản lý không phù hợp.
1.3.2. Nguyên nhân chủ quan
Một số nghiên cứu đã nhìn nhận căng thẳng là hậu quả do ảnh hưởng của những thay đổi hoặc
những sự kiện quan trọng trong cuộc sống[3] [8].
Những điều phiền tối, tích lũy những ấm ức kéo dài, hụt hẫng thường dẫn đến tình trạng căng thẳng
hơn những sự kiện gây chống váng mạnh.
Tình trạng bệnh lý thực thể từ trước hoặc mới phát sinh gây tác động đến tâm lý [1].
Sự thiếu ý thức về khả năng kiểm sốt bản thân.
Khơng chắc chắn về tương lai hay những sự kiện không thể dự đoán..
Những nhân viên y tế chưa sẵn sàng đối mặt với việc lãnh đạo quản lý có thể cắt giảm công việc và
ranh giới nghề hiện có [34].
Ít có quyền quyết định những việc của bản thân.
Cảm giác hẫng hụt khi bị cản trở các nhu cầu.
1.4. Giới thiệu về công cụ đo lường stress,trầm cảm, lo âu trong nghiên cứu
1.4.1. Thang điểm đánh giá Trầm cảm - Lo âu - Căng thẳng (DASS 21)
thẳng, tức giận. Điểm cho mỗi tiểu mục là từ 0 đến 3 điểm, tùy mức độ và thời gian xuất hiện triệu chứng.
Sau khi cộng tổng điểm của từng nhóm 7 tiểu mục, kết quả thu được nhân với 2 rồi đối chiếu với bảng, sẽ
biết tình trạng stress, lo âu, trầm cảm ở mức độ bình thường, nhẹ, vừa, nặng, rất nặng. Điểm số tổng từ
0-14 điểm cho thấy đối tượng không có tình trạng căng thẳng; từ 15-18 điểm cho thấy đối tượng có căng
thẳng nhẹ; từ 19-25 điểm là căng thẳng mức độ vừa; 26-33 điểm là căng thẳng mức độ nặng và từ 34 điểm
trở lên là căng thẳng ở mức độ rất nặng.
Cách tính điểm của thang đo DASS 21
Mức độ Trầm cảm Lo âu Stress
Bình thường 0 - 9 0 - 7 0 - 14
Nhẹ 10 - 13 8 - 9 15 - 18
Vừa 14 - 20 10 - 14 19 - 25
Nặng 21 - 27 15 - 19 26 - 33
Rất nặng ≥28 ≥20 ≥34
Lovibond S.H & Lovibond P.F (1995) Manual for the Depression Anxiety & Stress Scales”,
Psychology Foundation, Sydney[33]
Thang đo DASS 21 đã được Viện sức khỏe tâm thần quốc gia biên dịch, Bộ Y tế ban hành kèm theo
Quyết định số 331/QĐ-BYT ngày 02/01/2016 của Bộ Y tế, đã được áp dụng trong nhiều nghiên cứu về
sức khỏe tâm thần và thử nghiệm trên một số đối tượng khác nhau. Thang đo DASS 21 đã được nhiều
1.4.2. Thang đo Brief Job Stress Questionnaire - BJSQ
Bộ câu hỏi đánh giá stress công việc của Akiomi Inoue, Norito Kawwakami và cs. (2014). Bảng hỏi có
tổng số 57 câu hỏi, chia làm 3 phần. Phần thứ nhất gồm các câu hỏi liên quan đến các yếu tố stress liên
quan đến công việc. Phần thứ 2 là các câu hỏi liên quan đáp ững của cơ thể trước các stress công việc.
Phần thứ 3 là hỗ trợ xã hội từ cấp trên, đồng nghiệp và gia đình. Thang điểm đánh giá được tính từ thấp
nhất (0 điểm) đến cao nhất (4 điểm). Stress càng cao có điểm càng cao. Bộ công cụ đã được sử dung trong
đánh giá stress công việc ở Nhật Bản và nhiều nước khác. Bộ công cụ đã được dịch ra tiếng Việt và chuẩn
hoá ở Viêt Nam [20].
1.5. Những cơng trình nghiên cứu về stress, trầm cảm, lo âuvà các yếu tố liên quan
1.5.1. Trên thế giới
lượng chăm sóc sức khoẻ cho bệnh nhân, nghiện rượu, số ngày nghỉ ốm cao, về hưu sớm, và mắc một số
bệnh liên quan đến stress như loét dạ dày, nhồi máu cơ tim, cao huyết áp... vv.[32].
Demiral et al. (2000) đã nghiên cứu trên 300 bác sĩ ở các chuyên khoa khác nhau và tìm thấy tỷ lệ
chung về trầm cảm và lo âu là 18,9 % và 27,4% ở các bác sĩ. Một số lượng lớn các nghiên cứu đã chỉ ra
25-30% nhân viên y tế bị kiệt sức là hậu quả các công việc của họ trong ngành y tế (Grassi & Magnani,
2000) [24][27].
Nghiên cứu của Shams và El-Masry (2013), tỉ lệ căng thẳng nghề nghiệp trên đối tượng nhân viên y
tế thuộc chuyên ngành gây mê hồi sức là 69,4%. Các yếu tố gánh nặng công việc, tổ chức lao động không
tốt, mâu thuẫn nhóm và phải chăm sóc các bệnh nhân nặng, tiếp xúc hàng ngày với người chết và các vấn
đề liên quan đến bệnh nhân tử vong, phản ứng thái quá từ gia đình bệnh nhân là những nguyên nhân gây
stress [38].
1.5.2. Tại Việt Nam
Nghiên cứu của Lê Thành Tài (2008) cho thấy nhân viên điều dưỡng bị stress nghề nghiệp tại
bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ, bệnh viện đa khoa thành phố Cần Thơ và bệnh viện đa khoa Châu
Thành - Hậu Giang : 45,2% bị stress ở mức cao, 42,8% ở mức trung bình [14]. Tại bệnh viện đa khoa
trung ương Cần Thơ, tỉ lệ stress cao nhất với 53,1%.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Tuyên (2015) về điều dưỡng viên lâm sàng bệnh viện đa khoa tỉnh
Bình Định năm 2015 đã chỉ ra rằng các nhóm yếu tố liên quan đến nghề nghiệp gây ra căng thẳng cho
nhân viên y tế bao gồm: Điều kiện lao động, vai trị lao động, mơi trường lao động và các yếu tố liên quan
giữa cá nhân với nhau. Căng thẳng liên quan đến sự quá tải trong lao động, làm việc ca kíp, sự hứng thú
trong cơng việc, các mức độ động viên khuyến khích. Làm việc ca kíp cùng với áp lực về thời gian chính
là nguyên nhân dẫn đến tình trạng căng thẳng,thườnggây mệt mỏi và buồn ngủ cho nhân viên y tế. Do quá
mệt mỏi nên họ không tập trung, dễ mắc lỗi và hay xảy ra tai nạn. Sự căng thẳng của lao động ca kíp cịn
có thể làm trầm trọng thêm tình trạng sức khỏe, dễ mắc các bệnh như bệnh tim mạch hoặc rối loạn tiêu
hóa[19].
Nghiên cứu của tác giả Vũ Bá Quỳnh về Thực trạng sức khoẻ tâm thần của điều dưỡng viên khối
Ngoại, Bệnh viện Trung ương quân đội 108 năm 2018. Cho thấy tỷ lệ trầm cảm ở các đối tượng này là
29,3%, lo âu là 43% và stress là 33,7%. Tỷ lệ trầm cảm, lo âu và stress mức nặng và rất nặng tương ứng là
3,3%, 11,4% và 7,3% [13].
1.6. Giới thiệu về cơ sởnghiên cứu
Bệnh viện Nhi Trung ương lúc đầu có tên gọi là Viện bảo vệ sức khỏe trẻ em được thành lập
ngày14/07/1969 tại bệnh viện Bạch Mai. Với sự hỗ trợ quý báu về vật chất và nhân lực của chính phủ và
nhân dân Thụy Điển, ngày 16/03/1981, tồn thể cán bộ cơng nhân viên của Viện bảo vệ sức khỏe trẻ em
phấn khởi đón nhận một bệnh viện mới với cơ sở vật chất khang trang gồm 1 khu hành chính, 19 khoa lâm
sàng, 7 khoa cận lâm sàng và 4 khu hậu cần.
Khung lý thuyết
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu
Điều dưỡng viên đang làm việc tại các Khoa lâm sàng Bệnh viện Nhi trung ương năm 2019.
Tiêu chuẩn lựa chọn
Điều dưỡng viênthuộc biên chế bệnh viện, đang làm việc tại các khoa lâm sàng,có 1 năm cơng tác
trở lên và đồng ý tham gia nghiên cứu
Tiêu chuẩn loại trừ
Điều dưỡng viên có thời gian cơng tác dưới 1 năm, chưa thuộc biên chế và khơng có mặt tại thời
điểm nghiên cứu, không hợp tác hoặc đã đồng ý tham gia trong nghiên cứu nhưng bỏ cuộc.
Điều dưỡng thuộc các phịng hành chính, cận lâm sàng.
2.1.2. Địa điểm nghiên cứu và thời gian nghiên cứu
Địa điểm: 31 khoa lâm sàng bệnh viện Nhi trung ương
Thời gian: 04/2019-10/2019
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Thiết kế nghiên cứu
Áp dụng phương pháp nghiên cứu mơ tả cắt ngang có phân tích.
Cỡ mẫu
Toàn bộ điều dưỡng tại các khoa lâm sàng (415 người)
Cách chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện trên toàn bộ điều dưỡng đáp ứng được tiêu chuẩn lựa chọn tại các khoa lâm
sàng bệnh viện Nhi trung ương năm 2019.
2.3. Phương pháp thu thập số liệu
2.3.1. Bộ công cụ
Bộ câu hỏi về nhân khẩu học (phụ lục 1)
Sử dụng Thang điểm đánh giá Trầm cảm -Lo âu -Stress(DASS 21) (Phụ lục 2) [33]
Bộ câu hỏi đánh giá stress nghề nghiệp (Brief Job Stress Questionnaire của Akiomi Inoue, Norito
Kawwakami và cs. (2014) (phụ lục 3) [20]
2.3.2. Cơ sở xây dựng bộ công cụ
2.3.3. Quy trình nghiên cứu
Bước 1: Tìm đọc tài liệu và các thông tin liên quan đến vấn đề nghiên cứu
Bước 2: Viết và hoàn thiện đề cương luận văn, thông qua giáo viên hướng dẫn
Bước 3: Bảo vệ đề cương luận văn
Bước 4: Xây dựng, thí điểm và hồn thiện bộ cơng cụ nghiên cứu, in phiếu điều tra
Bước 5: Tiến hành thu thập số liệu từ các nguồn thơng tin sẵn có
Bước 6: Làm sạch số liệu, nhập số liệu, phân tích số liệu và viết luận văn
2.4. Các biến số, chỉ số nghiên cứu
Biến số thực trạng stress của điều dưỡng
Biến số thực trạng stress công việc
Biến số về các yếu tố liên quan đến stress
2.5. Xử lý và phân tích số liệu
Số liệu thu thập được làm sạch, nhập vào máy tính bằng phần mềm Epidata 3.1.
Sử dụngphần mềm thống kê SPSS 16.0 để xử lý số liệu thu thập được qua phiếu khảo sát cũng như
trong việc kiểm tra xác định độ tin cậy. Tính tần số, tỷ lệ phần trăm,điểm trung bình, tỷ suất chênh
OR(CI95%), trị số p với mức ý nghĩa α = 0,05. Sử dụng Chi-Square Test (Kiểm định Chi bình phương)
đểđánh giá sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa một sốyếu tố liên quan với vấn đề stress của đối tượng
nghiên cứu. Các bảng và đồ thị phù hợp được sử dụng để minh họa, trình bày kết quả sau phân tích.
2.6. Sai số và biện pháp khắc phục sai số
2.6.1. Sai số có thể mắc phải
Phiếu thu thập thiếu thông tin do qn điền, khơng muốn trả lời hoặc khơng chính xác
Sai số tự điền do lỗi cách hiểu vấn đề của đối tượng nghiên cứu
2.6.2. Biện pháp khắc phục sai số:
Giải thích rõ mục đích nghiên cứu với các đối tượng nghiên cứu để họ an tâm và trả lời khách quan
nhất.
Lựa chọn đối tượng khảo sát phù hợp với tiêu chuẩn.
Kiểm tra lại số phiếu thiếu thu về, bổ sung thông tin nếu thiếu
2.7. Đạo đức trong nghiên cứu
Đảm bảo sự tham gia của các đối tượng là tự nguyện, những thơng tin do điều dưỡng cung cấp hồn tồn
được giữ kín, bảo mật và chỉ phục vụ cho nghiên cứu, ngồi ra khơng có mục đích nào khác.
Được sự cho phép triển khai từ lãnh đạo bệnh viện
2.8. Hạn chế của nghiên cứu
Do nghiên cứu cắt ngang nên chỉ mô tảcơ bản về stress, lo âu, trầm cảm, đặc điểm công việc của ĐIỀU
DƯỠNG tại thời điểm nghiên cứu; chưa phân tích được mối quan hệ nhân - quả.
Khơng có khả năng nghiên cứu sâu về tất cả các yếu tố liên quan đến stress mà chỉ có thể đưa ra một số
yếu tố liên quan đến stress của đối tượng nghiên cứu.
Chỉ nghiên cứu về stress, trầm cảm, lo âu của điều dưỡng trong phạm vi Bệnh viện Nhi trung ươngnên
kết quả nghiên cứu chỉ phản ánh được thực trạng cùng một số yếu tố liên quan đến stress của điều dưỡng
tại đơn vị chứ chưa thể đại diện cho vấn đề vềstress của điều dưỡng các đơn vị khác hay của cả Ngành y
tế.
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Thông tin chung về đối tượng nghiên cứu
3.1.1. Đặc điểm nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu.
Bảng 3.1. Phân loại ĐTNC theo nhóm tuổi, giới tính, thu nhập(n =365)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)
Nhóm tuổi
≤ 30 tuổi
31 - 40
Trên 40 tuổi
128 35,1
214 58,6
23 6,3
Giới tính
Nam
Nữ
83 22,7
282 77,3
Thu nhập/tháng
≤ 10 triệu
Trên 10 triệu
151 41,4
214 58,6
Kết quả bảng 3.1 cho thấy, đối tượng trong độ tuổi từ 31 – 40 chiếm tỷ lệ 58,6%, tiếp sau là đối
tượng 20-30 tuổi chiếm tỷ lệ 35,1%. Giới tính nữ chiếm tỷ lệ 77,3%, nam là 22,7%. Các đối tượng có
người thu nhập trên 10 triệu chiếm 58,6% và dưới 10 triệu là 41,4%
Bảng 3.2. Phân loại ĐTNC theo chức danh, trình độ, thâm niên, buổi trực (n =365)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)
Chức vụ
Lãnh đạo
Nhân viên
29 7,9
336 92,1
Trình độ chuyên môn
Trung cấp, cao đẳng
Đại học
Sau đại học
198 54,2
97 26,6
70 19,2
Thâm niên công tác
1-5 năm
Trên 5 năm
106 29,0
Số buổi trực/tuần
1 buổi
>1 buổi
91 24,9
274 75,1
Kết quả bảng 3.2 cho thấy, đối tượng nghiên cứu chủ yếu là nhân viên (92,1%). Trình độ học vấn
của các đối tượng chiếm tỷ lệ cao nhất là Trung cấp, cao đẳng (54,2%), tiếp sau Đại học (26,6%). Đối
tượng có thâm niên cơng tác trên 5 năm chiếm 71,0%; có 75,1% đối tượng trực trên 1 buổi/tuần.
3.1.2. Hành vi và lối sống của điều dưỡng viên
Bảng 3.3. Môt số hành vi và lối sống của đối tượng nghiên cứu(n=365)
Nội dung Số lượng Tỷ lệ (%)
Hút thuốc lá
Có
Khơng
19 5,2
346 94,8
Uống rượu, bia
Khơng uống
Có uống
127 34,8
238 65,2
Tập thể dục thể thao
Không
Thỉnh thoảng
Thường xuyên
82 22,5
200 54,8
83 22,7
Giải tỏa căng thẳng
Thể dục, thể thao
Nghe nhạc, xem phim
Đi du lịch, picnic
Chơi game
Khác
112 30,7
134 36,7
83 22,7
16 4,4
20 5,5
3.2. Thực trạng stress, trầm cảm, lo âucủa điều dưỡng bệnh việnNhi trung ương
Bảng 3.4. Thực trạng stress, trầm cảm, lo âu của đối tượng nghiên cứu (n =365)
Mức độ Stress Trầm cảm Lo âu
Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%) Số lượng Tỷ lệ (%)
Bình thường 279 76,4 265 72,6 213 58,4
Có rối loạn 86 23,6 100 27,4 152 41,6
Tổng 365 100,0 365 100,0 365 100,0
Kết quả bảng 3.4 cho thấy có 86 đối tượng rơi vào tình trạng stress chiếm 23,6% , số đối tượng
trầm cảm là 100 trường hợp, chiếm 27,4% và 152 trường hợp lo âu chiếm 41,6%.
Bảng 3.5. Mức độ stress, trầm cảm, lo âu của đối tượng nghiên cứu
Mức độ Stress
(n=86)
Trầm cảm
Lo âu
(n=152)
Nhẹ SL (%) 37 (43,0) 14 (14,0) 52 (34,2)
Vừa SL (%) 40 (46,5) 72 (72,0) 14 (9,2)
Nặng SL (%) 8 (9,3) 8 (8,0) 66 (43,4)
Rất nặng SL (%) 1 (1,2) 6 (6,0) 20 (13,2)
Trong số đối tượng bị stress, tình trạng chủ yếu là nhẹ và vừa có tỷ lệ lần lượt là 43,0% và 46,5%
Trong số đối tượng bị trầm cảm, tình trạng chủ yếu là vừa có tỷ lệ là 72%.
Trong số đối tượng bị lo âu, tình trạng chủ yếu là nhẹ và nặng có tỷ lệ lần lượt là 34,2% và 43,4%.
Bảng 3.6. Thực trạng stress theo nhân khẩu học của đối tượng nghiên cứu (n=365)
Nội dung Có stress Không stress Tổng
SL (%) SL (%) SL (%)
Giới tính
Nam
Nữ
17 (20,5) 66 (79,5) 83 (100)
69 (24,5) 213 (75,5) 282 (100)
Trình độ chun mơn
Trung cấp, cao đẳng
Đại học
Sau đại học
25 (25,8) 72 (74,2) 198 (100)
56 (28,3) 142 (71,7) 97 (100)
5 (7,1) 65 (92,9) 70 (100)
Thâm niên công tác
1-5 năm
Trên 5 năm
30 (28,3) 76 (71,7) 106 (100)
Nhóm tuổi
≤ 30 tuổi
31 - 40
Trên 40 tuổi
28 (21,9) 100 (78,1) 128 (100)
52 (24,3) 162 (75,7) 214 (100)
6 (26,1) 17 (73,9) 23 (100)
Kết quả bảng 3.6 cho thấy nữ giới (24,5%) bị stress cao hơn nam giới (20,5%). Trình độ sau đại học
có tỷ lệ mắc stress ít nhất (7,1%). Nhóm tuổi có tỷ lệ mắc stress là như nhau.
Bảng 3.7. Thực trạng stress theo hành vi và lối sống của đối tượng nghiên cứu (n=365)
Nội dung Có stress Khơng stress Tổng
SL (%) SL (%) SL (%)
Hút thuốc lá
Có
Khơng
7 (36,8) 12 (63,2) 19 (100)
79 (19,8) 267 (80,2) 333 (100)
Uống rượu bia
Khơng uống
Có uống
56 (23,5) 182 (76,5) 238 (100)
30 (26,6) 97 (73,4) 127 (100)
Tập thể dục thể thao
Không
Thỉnh thoảng
Thường xuyên
31 (37,8) 51 (62,2) 82 (100)
48 (24,0) 152 (76,0) 200 (100)
7 (8,4) 76 (91,6) 83 (100)
Giải tỏa căng thẳng
Thể dục, thể thao
Nghe nhạc, xem phim
Khác
26 (23,2) 66 (76,8) 112 (100)
30 (22,4) 104 (77,6) 134 (100)
30 (26,5) 89 (73,5) 113 (100)
Trong bảng trên có thể thấy tỷ lệ người hút thuốc lá bị stress (36,8%) cao hơn người không hút
thuốc lá (19,8%). nNgười có uống rượu bia (26,6%) có tỷ lệ bị stress cao hơn người không uống rượu bia
(23,5%). Người khơng tập thể dục (37,8%)có tỷ lệ bị stress cao hơn người thỉnh thoảng tập thể dục. Và
người thường xuyên tập thể dục có tỷ lệ bị stress thấp nhất (8,4%. Những người giải tỏa căng thằng bằng
các hình thức giải trí có tỷ lệ khơng bị stress khá cao (thể dục thể thao: 76,8%; Nghe nhạc xem phim:
77,6%; Khác: 73,5%).
3.2.1. Thực trạng stress do nghề nghiệp của đối tượng nghiên cứu(BJSQ)
Bảng 3.8. Thực trạng stress công việc của đối tượng nghiên cứu (n=365)
Nhóm yếu tố Số lượng Tỷ lệ %
Stress cơng việc
Có 102 27,9
Mức độ phản ứng với stress
Nhiều 282 77,3
Ít 83 22,7
Kết quả cho thấy số đối tượng bị stress công việc chiếm 27,9%. Mức độ phản ứng với stress có
77,3% đối tượng phản ứng nhiều với stress.
Bảng 3.9. Mức độ hỗ trợ xã hội của đối tượng nghiên cứu (n=365)
Mức độ hỗ trợ xã hội Số lượng Tỷ lệ %
Gia đình, bạn bè
Có 289 79,2
Không 76 20,8
Đồng nghiệp
Nhiều 246 67,4
Ít 119 32,6
Bảng 3.9 cho thấy có 79,2% đối tượng được được gia đình và bạn bè hỗ trợ, giúp đỡ. Và 67,4% đối
tượng được đồng nghiệp hỗ trợ giúp đỡ nhiều.
Bảng 3.10. Mức độ hài lòng của đối tượng nghiên cứu(n=365)
Mức độ hài lòng Số lượng Tỷ lệ %
Cuộc sống gia đình
Có hài lịng 357 97,8
Chưa hài lịng 8 3,2
Cơng việc
Có hài lịng 335 91,8
Chưa hài lịng 30 8,2
Ở bảng 3.10 có 97,8% đối tượng nghiên cứu hài lòng với cuộc sống gia đình và có 91,8% đối tượng
hài lịng với cơng việc hiện tại.
3.3. Một số yếu tố liên quan đến stress của đối tượng nghiên cứu
3.3.1. Mối liên quan giữa nhân khẩu học với stress của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.11. Mối liên quan giữa trình độ với stress của ĐTNC
Trình độ Stress Không stress OR
(CI95%) p
TC/CĐ 56
(28,3)
142
(71,7) - -
Đại học 25
(25,8)
72
(74,2)
1,1
(0,65 – 1,97) 0,6
(7,1) (92,9) (1,96 – 13,4)
Kết quả cho thấycó mối liên quan giữa trình độ học vấn và tình trạng stress của đối tượng nghiên
cứu. Những người có trình độ trung cấp/cao đẳng có nguy cơ bị stress cao gấp 1,1 lần người có trình độ
đại học (p>0,05) và 5,1 lần những người có trình độ sau đại học(p <0,01) (Bảng 3.14).
Bảng 3.12. Mối liên quan giữa thói quen tập thể dục với stress của ĐTNC
Tập thể dục Stress Không stress OR
(CI95%) p
Không 31
(37,8)
51
(62,2) - -
Thỉnh thoảng 48
(24,0)
152
(76,0)
1,92
(1,1 – 3,3) 0,02
Thường xuyên 7
(8,4)
76
(91,6)
6,6
(2,7 – 16,1) <0,01
Theo bảng trên ta thấy có mối liên quan giữa thói quen tập thể dục với tình trạng stress của đối
tượng nghiên cứu. Những người khơng thể dục có nguy cơ bị stress cao gấp gần 2 lần những người thỉnh
thoảng tập thể dục (OR=1,92) và những người không tập thể dục có nguy cơ bị stress cao gấp gần 7 lần so
với những người thường xuyên tập thể dục. Mối liên quan có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Bảng 3.13. Mối liên quan giữa hài lòng với stress của ĐTNC
Mức độ hài lòng Stress Không stress OR
(CI95%) p
Cuộc sống gia đình
Khơng hài lịng 2
(33,3)
6
(66,7) 1,08
(0,11-6,20) 0,9
Hài lòng 84
(23,5)
273
(76,5)
Cơng việc
Khơng hài lịng 13
(43,3)
17
(56,7) 2,7
(1,16-6,29) 0,007
Hài lòng 73
(21,8)
262
(78,2)
Bảng 3.22 cho thấy có mối liên quan giữa sự hài lòng trong công việc với stress của đối tượng
nghiên cứu. Những người không hài lịng với cơng việc có nguy cơ mắc stress cao gấp 2,7 lần người hài
lịng với cơng việc (OR=2,7) Mối liên quan có ý nghĩa thống kê với p=0,07<0,05.
Mức độ hỗ trợ Stress Khơng stress OR
(CI95%) p
Gia đình, bạn bè
Không 10
(13,1)
66
(86,9) 0,4
(0,18-0,88) 0,01
Có 76
(26,3)
213
(73,7)
Đồng nghiệp
Không 30
(25,2)
89
(74,8) 1,2
(0,66-1,95) 0,06
Có 56
(22,8)
190
(77,2)
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
4.1. Thực trạng stress, trầm cảm, lo âucủa điều dưỡng viên tại Bệnh viện Nhi trung ương năm
2019
4.1.1. Thực trạng stress, trầm cảm, lo âu của điều dưỡng viên (DASS21)
Kết quả từ cơng cụ Dass21 cho thấy có 86 đối tượng rơi vào tình trạng stress chiếm 23,6%, Nghiên
cứu của chúng tơi có tỷ lệ điều dưỡng bị stress tương đương với tỷ lệ mắc stress của tác giả Lương Quốc
Hùng nghiên cứu tại bệnh viện E Hà nội năm 2018 (tỷ lệ stress 24,3%) [4]. Tuy nhiên trong nghiên cứu
của tác giả Vũ Bá Quỳnh tại bệnh viện trung ương quân đội 108, tỷ lệ stress lại cao hơn (33,7%) [13].
Nghiên cứu của tác giả Ngô Thị Kiều My năm 2014 tại bệnh viện Phụ sản Nhi Đà Nẵng (tỷ lệ stress là
18,1%) thấp hơn nghiên cứu của chúng tơi, có thể do vị trí bệnh viện nằm tại Đà Nẵng, số lượng người
bệnh khám chữa bệnh hằng ngày thấp hơn các bệnh viện tại Hà Nội, kèm theo đó là khối lượng công việc,
cũng như lối sống của người dân Đà Nẵng không như người dân sống tại Hà nội, với nhiều thành phần
phức tạp, gây những áp lực khác nhau lên nhân viên y tế nên tỷ lệ mắc stress có sự khác biệt [9].
Trong nghiên cứu của chúng tôi số điều dưỡng trầm cảm là 100 trường hợp, chiếm 27,4% và 152
trường hợp lo âu chiếm 41,6%. Tỷ lệ này tương đương với nghiên cứu của tác giả Vũ Bá Quỳnh với tỷ lệ
trầm cảm ở các đối tượng này là 29,3%, lo âu là 43%. Nghiên cứu của Demiral et al. (2000) đã nghiên cứu
trên 300 bác sĩ ở các chuyên khoa khác nhau và tìm thấy tỷ lệ chung về trầm cảm và lo âu là 18,9 % và
27,4% [24][27]. Tỷ lệ nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên cứu của chúng tơi, có thể tuy đều là nhân
viên y tế nhưng đối tượng lại là bác sĩ nên có sự khác biệt.
Trong số điều dưỡng bị stress, mức độ chủ yếu là nhẹ và vừa có tỷ lệ lần lượt là 43,0% và 46,5%,
mức độ nặng là 9,3%. Nghiên cứu của chúng tôi khác với nghiên cứu của tác giả Lê Thành Tài năm 2008,
điều dưỡng bị stress nghề nghiệp tại bệnh viện đa khoa trung ương Cần Thơ, bệnh viện đa khoa thành phố
Cần Thơ và bệnh viện đa khoa Châu Thành - Hậu Giang : 45,2% bị stress ở mức cao, 42,8% ở mức trung
bình [14]. Nghiên cứu của tác giả Lương Quốc Hùng năm 2018 cho ra kết quả mức độ stress thấp với
12,3% mức độ nhẹ, 6,5% mức độ vừa, 4,5% mức độ nặng [4]. Tuy nhiên nghiên cứu của chúng tơi có kết
quả thấp hơn ghiên cứu của Nguyễn Thu Hà năm 2006 trên 811 nhân viên y tế, có 10,7% nhân viên y tế
có điểm stress ở mức cao; 37,9% nhân viên y tế có điểm stress ở mức trung bình và 51,4% nhân viên y tế
có điểm stress ở mức thấp. Sự khác biệt này có thể do đối tượng của tác giả Nguyễn Thu Hà khảo sát trên
toàn bộ nhân viên y tế, bao gồm cả điều dưỡng, bác sĩ, hộ sinh nên khác nhau [3]. Trong khi nghiên cứu
của Trần Thị Thu Thủy tại bệnh viện hữu nghị Việt Đức năm 2015 lại cho kết quả tỷ lệ căng thẳng ở mức
độ nhẹ là 9%, mức vừa là 7% và rất nặng là 2,5% trong tổng số các điều dưỡng nói chung.
Trong số đối tượng có trầm cảm, tình trạng chủ yếu là trầm cảm vừa, có tỷ lệ là 72%.Trong số đối
tượng bị lo âu, tình trạng chủ yếu là nhẹ và nặng có tỷ lệ lần lượt là 34,2% và 43,4%.Stress có thể được
giải quyết khi giải quyết được vấn đề, nhưng trầm cảm thì có thể kéo dài nhiều năm. Vì vậy đây là vấn đề
cần thực sự quan tâm của cả các lãnh đạo bệnh viện và gia đình nhân viên y tế.
khơng hút thuốc lá (19,8%). Người có uống rượu bia (26,6%) có tỷ lệ bị stress cao hơn người không uống
rượu bia (23,5%). Người không tập thể dục (37,8%)có tỷ lệ bị stress cao hơn người thỉnh thoảng tập thể
dục. Và người thường xuyên tập thể dục có tỷ lệ bị stress thấp nhất (8,4%.) Những người giải tỏa căng
thằng bằng các hình thức giải trí có tỷ lệ khơng bị stress khá cao (thể dục thể thao: 76,8%; Nghe nhạc xem
phim: 77,6%; Khác: 73,5%). Có thể thấy, lối sống của đối tượng ảnh hưởng khá lớn đến tình trạng stress.
Thói quen sử dụng rượu bia thuốc lá tác động nhiều đến tình trạng stress của đối tượng nghiên cứu, việc
tập thể dục thể thao cùng với các hoạt động giải trí bên ngoài giúp giải tỏa stress rất tốt.
4.1.2. Thực trạng stress nghề nghiệp của điều dưỡng viên
Kết quả cho thấy số điều dưỡng bị stress công việc chiếm 27,9% nhưng có tới 77,3% đối tượng
Có 79,2% đối tượng được được gia đình và bạn bè hỗ trợ, giúp đỡ. Và 67,4% đối tượng được đồng
nghiệp hỗ trợ giúp đỡ nhiều. Vẫn cịn 20,8% đối tượng khơng được gia đình hỗ trợ và 32,6% đối tượng
khơng được đồng nghiệp giúp đỡ, có thể đây là một phần vì lý do đối tượng nghiên cứu bị stress nghề
nghiệp. hiều kết quả nghiên cứu cho thấy rằng loại cơng việc căng thẳng nhất là địi hỏi q mức và áp lực
không phù hợp với kiến thức và khả năng của người lao động, nơi có ít cơ hội lựa chọn hoặc quyền lực và
sự hỗ trợ từ người khác. Càng có nhiều nhu cầu và áp lực công việc phù hợp với kiến thức và khả năng
của người lao động thì càng ít có khả năng họ gặp phải căng thẳng trong công việc. Người lao động được
hỗ trợ nhiều hơn từ những người khác tại nơi làm việc, hoặc liên quan đến công việc họ càng ít có khả
năng bị stress cơng việc.
4.2. Một số yếu tố liên quan đến stress củađối tượng nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy có mối liên quan giữa trình độ học vấn và tình trạng stress của đối
tượng nghiên cứu. Cụ thể những người có trình độ trung cấp/cao đẳng có nguy cơ bị stress cao gấp 5 lần
những người có trình độ sau đại học (OR=5,1). Mối liên quan có ý nghĩa thống kê với p <0,05. Nguyên
nhân có lẽ do các đối tượng có bằng trung cấp/cao đẳng chủ yếu làm trực tiếp với bệnh nhân, công việc
nhiều hơn, áp lực hơn về mặt số lượng nên có nguy cơ stress cao hơn.
Nghiên cứu của chúng tơi cũng tìm ra mối liên quan giữa thói quen tập thể dục với tình trạng stress
của đối tượng nghiên cứu. Những người khơng thể dục có nguy cơ bị stress cao gấp gần 2 lần những
người thỉnh thoảng tập thể dục (OR=1,92) và những người không tập thể dục có nguy cơ bị stress cao gấp
gần 7 lần so với những người thường xuyên tập thể dục. Mối liên quan có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Tập luyện thể dục thể thao giúp cơ thể được thả lỏng, việc tập thể dục đều đặn làm tăng lưu thông máu,
tiết ra các chất bã, độc trong cơ thể, đồng thời làm giảm căng thẳng rất tốt.
KẾT LUẬN
1. Thực trạng stress của điều dưỡng viênlàm việc tại các khoa lâm sàng, Bệnh viện Nhi trung
ương năm 2019
Tỷ lệ điều dưỡng bị stress, trầm cảm, lo âu lần lượt là: 23,6%; 27,4%; 41,6%.
Mức độ stress chủ yếu là mức độ nhẹ (43%), vừa (46,5%). Mức độ trầm cảm nhiều nhất là mức độ
vừa (72%). Ở tình trạng lo âu, mức độ nặng (43,4%) và nhẹ (34,2%) chiếm nhiều nhất.
Tỷ lệ stress nghề nghiệp của điều dưỡng tại bệnh viện nhi trung ương là 27,9%. Với mức độ hài
lịng với cơng việc là 91,7%.
2. Một số yếu tố liên quan đến stress của đối tượng nghiên cứu
Những yếu tố: trình độ học vấn, thói quen tập thể dục, thể thao có mối liên quan đến stress của điều
dưỡng. Cụ thể là những điều dưỡng có trình độ học vấn trung cấp/cao đẳng có nguy cơ bị stress cao gấp 5
lần so với những điều dưỡng có trình độ sau đại học (OR=5,1; p<0,05). Những điều dưỡng khơng có thói
quen tập thể dục có nguy cơ bị stress cao gấp gần 2 lần so với những điều dưỡng thỉnh thoảng tập thể dục
(OR=1,92;p<0,05) và gấp gần 7 lần so với những điều dưỡng thường xuyên tập thể dục (OR=6,6; p<0,05).
Những người có được hỗ trợ từ gia đình, bạn bè có nguy cơ mắc stress chỉ bằng 0,4 lần những
người không được hỗ trợ từ gia đình, bạn bè (OR=0,4;p<0,05).
Những người khơng hài lịng với cơng việc có nguy cơ mắc stress cao gấp 2,7 lần người hài lịng
với cơng việc (OR=2,7;p<0,05).
KHUYẾN NGHỊ
Phân bổ công việc cho điều dưỡng hợp lý, quan tâm đến khối lượng công việc hiện tại mà điều
dưỡng viên đang phụ trách, từ đó phân bổ thời gian hồn thành cơng việc mới, nhằm tránh tình trạng q
tải cơng việc, tạo tâm lý thoải mái, nhẹ nhàng, giảm bớt áp lực cơng việc.
Có chế độ khen thưởng cho đối tượng điều dưỡng viên khi hoàn thành được khối lượng công việc
lớn, tổ chức đi du lịch, nghỉ ngơi cho nhân viên theo định kỳ.
Tạo môi trường để điều dưỡng viên có thể tập thể dục thể thao, tổ chức các hội thi thể dục thể thao
cho tồn thể nhân viên y tế, khuyến khích tham gia và trao phần thưởng.