Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa giáo dục đối với các cơ sở đào tạo ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.23 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>ĐẨY NHANH Q TRÌNH QUỐC TẾ HĨA GIÁO DỤC </b>


<b>ĐỐI VỚI CÁC CƠ SỞ ĐÀO TẠO Ở VIỆT NAM </b>



<b>BÙI THANH THỦY</b>
<b>Tóm tắt</b>


<i>Tồn cầu hố, hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu đang diễn ra nhanh, mạnh trong thời đại ngày </i>
<i>nay. Trước bối cảnh đó, quốc tế hố giáo dục là một xu thế mới trong chính sách phát triển giáo dục ở </i>
<i>các nước nhằm góp phần định hướng tiến trình hội nhập/tồn cầu hố. Quốc tế hóa giáo dục chính là </i>
<i>quá trình hội nhập quốc tế về giáo dục đào tạo, trong đó các yếu tố quốc tế và liên văn hố được tích </i>
<i>hợp vào chức năng, nhiệm vụ, cách cung ứng và tiến trình tổ chức thực hiện giáo dục, đào tạo. Vấn đề </i>
<i>này đang diễn ra mạnh mẽ trong hoạt động đào tạo nguồn nhân lực của hầu hết các ngành nghề tại </i>
<i>các cơ sở đào tạo ở Việt Nam, đòi hỏi các cơ sở đào tạo phải nhanh chóng, để chủ động tham gia vào </i>
<i>quá trình hội nhập trong bối cảnh hiện nay.</i>


<b>Từ khóa: Chủ động hội nhập, quốc tế hóa giáo dục, cơ sở đào tạo</b>
<b>Abstract</b>


<i>Globalization, international integration is an indispensable trend that is happening quickly and </i>
<i>strongly in this age. In this context, internationalization of education is a new trend in educational </i>
<i>development policies in many countries to contribute to the orientation of the integration / globalization </i>
<i>process. Internationalization of education is the process of international integration in education and </i>
<i>training, in which international and intercultural elements are integrated into the functions, tasks, </i>
<i>ways of delivery and the process of educational implementation. This issue is happening strongly in </i>
<i>human resource training activities of almost industries at training institutions in Vietnam, requiring </i>
<i>training institutions to be quick to participate into integration process in the current context.</i>


<i><b>Keywords: Integration actively, internationalization of education, training institutions</b></i>


<b>1. Vấn đề quốc tế hóa giáo dục đối với các </b>
<b>cơ sở đào tạo</b>



T

ồn cầu hóa và hội nhập quốc tế
đang là xu thế khách quan tác động
đến mọi phương diện đời sống kinh
tế - xã hội của tất cả các nước, trong đó có Việt
Nam. Quá trình này buộc các quốc gia vừa hợp
tác, vừa phải cạnh tranh, vừa phải tận dụng
cơ hội lại vừa phải khắc phục thách thức, vừa
phải tạo tính riêng, lại vừa phụ thuộc lẫn nhau.
Trong bối cảnh đó, hội nhập quốc tế về giáo
dục đào tạo hay q trình quốc tế hóa giáo
dục của các cơ sở đào tạo ở Việt Nam là một
yêu cầu hết sức cấp thiết và rất quan trọng,
<i>đặc biệt là khi Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau </i>


<i>về nghề (MRA-TP) chính thức có hiệu lực trong </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>V</b>

<b>A</b>



mang bản chất chủ động, quá trình hội nhập
quốc tế càng sâu sắc và tồn diện càng thúc
đẩy tính chủ động của các đơn vị đào tạo. Hội
nhập chủ động góp phần thực hiện tốt mục
tiêu đổi mới giáo dục của quốc gia, nâng cao vị
thế cạnh tranh và tạo dựng thương hiệu trong
nước và quốc tế cho các cơ sở đào tạo. Có thể
thấy rõ những lợi ích/tác động tích cực của hội
nhập trong giáo dục, đào tạo: Các cơ sở đào tạo
nhanh chóng, kịp thời tiếp cận các nguồn lực
tiên tiến về công nghệ trong giáo dục đào tạo


của các nước phát triển trên thế giới, nguồn
nhân lực, nguồn vốn để mở rộng quy mô,
nâng cao chất lượng đào tạo, đổi mới sự vận
hành trong quản lý, cải thiện năng lực cạnh
tranh quốc gia, hướng tới cạnh tranh quốc
tế,… tạo ra những lợi thế so sánh về chương
trình, nội dung, giáo trình, tư liệu, thơng tin,
dữ liệu, phương pháp giảng dạy, giảng viên, cơ
sở vật chất giữa các cơ sở đào tạo trong nước
với các cơ sở đào tạo của các quốc gia có nền
giáo dục phát triển cao. Đồng thời sự biểu hiện
hội nhập/quốc tế hóa giáo dục cịn thể hiện ở
việc các cơ sở đào tạo biết tận dụng tối đa mọi
nguồn lực, dồn hết tâm trí đạt mục tiêu đặt ra
với những ràng buộc chặt chẽ về mặt pháp lý
mang tính quốc tế. Mặt khác, thể hiện ở mức
độ thường xuyên và liên tục, không gián đoạn
hoặc chần chừ, do dự của các cơ sở đào tạo
trong khai thác các nguồn lực, lợi thế, lợi ích,
để phục vụ mục tiêu đặt ra, đặc biệt là sự nắm
bắt nhanh nhạy các cơ hội xuất hiện (4). Biết
đưa ra những dự báo, phương án nhằm đầu
tư cho tương lai, tạo động lực thúc đẩy đơn vị
luôn luôn năng động, sáng tạo, nhạy bén và
kịp thời trong suy nghĩ, hành động. Biểu hiện
của sự chủ động còn được phản ánh qua việc
chịu trách nhiệm và mức độ tồn diện của
các cơ sở trong q trình hội nhập; mức độ
sẵn sàng chấp nhận mạo hiểm của các quyết
định được đưa ra trong trường hợp mơi trường

trong nước và quốc tế vận động khó lường.
Động lực thúc đẩy sự gia tăng tính chủ động
trong hội nhập là những khoản lợi ích to lớn,
thậm chí vơ tận do hội nhập mang lại và khả
năng giảm thiểu sự tụt hậu để tạo bước phát
triển đột phá.


nhập quốc tế/quốc tế hóa giáo dục của các
cơ sở đào tạo sẽ định vị giá trị của các cơ sở
đó trong hệ thống giá trị của hội nhập, đảm
bảo định hình nhanh chóng và đúng mục tiêu
cần đạt được trong sự ràng buộc của vị thế và
quan hệ, cũng như đảm bảo đạt được mục
tiêu đề ra. Đồng thời cũng phản ánh năng lực
hành động của các cơ sở đào tạo để triệt để
khai thác các khoản lợi ích, các cơ hội, tự tin
đón nhận những thách thức và để sự chủ động
được hiện thực hóa.


<b>2. Thực tế địi hỏi của thị trường lao động </b>
<b>hiện nay đối với việc đẩy nhanh sự chủ động </b>
<b>quốc tế hóa giáo dục của các cơ sở đào tạo </b>
<b>ở Việt Nam</b>


Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế
giới có thể sẽ chứng kiến sự gia tăng mạnh
mẽ của thị trường việc làm và tăng trưởng
trong những năm sắp tới. Riêng đối với cộng
đồng các quốc gia ASEAN mà Việt Nam tham
gia, theo Báo cáo chung giữa ILO/ADB với tiêu


<i>đề “Cộng đồng ASEAN 2015: Quản lý hội nhập </i>


<i>hướng tới việc làm tốt hơn và sự thịnh vượng </i>
<i>chung” được cơng bố vào tháng 5/2014 thì hội </i>


nhập kinh tế sẽ giúp tạo thêm 14 triệu việc làm
ở khu vực ASEAN và cải thiện đời sống của 600
triệu người dân hiện sinh sống trong khối. Nhu
cầu việc làm cần tay nghề trung bình nói chung
sẽ tăng mức nhanh nhất, ở mức 28% (3). Đặc
biệt khi cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC) hình
thành sẽ tác động trực tiếp đến thị trường lao
động của từng quốc gia nói riêng và của khu
vực nói chung. Theo đó, vấn đề di chuyển lao
động trong khu vực là một nhu cầu tất yếu để
tạo điều kiện thúc đẩy quá trình hợp tác và lưu
thơng thương mại giữa các nước. Dịng chảy
của lao động tự do có tay nghề sẽ ngày càng
gia tăng.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Việt Nam có cơ hội tìm kiếm việc làm tại các thị
trường phát triển như Singapo, Thái Lan, Nhật
Bản, Hàn Quốc,… nhưng đồng thời, Việt Nam
cũng sẽ tiếp nhận nhiều lao động chất lượng
cao từ các nước trên thế giới, trong khu vực
đến làm việc. Thực tế này có thể sẽ dẫn đến
nhiều nguy cơ tiềm ẩn. Thứ nhất, lao động Việt
Nam phải cạnh tranh với lao động các nước
ngay trên sân nhà. Thứ hai, thị trường mở cửa,
với điều kiện làm việc và mức lương cao ở các


nước phát triển hơn sẽ thu hút lực lượng lao
động có kỹ năng, tay nghề cao từ Việt Nam và
nhiều lao động Việt Nam mong muốn được
sang nước ngoài làm việc. Người lao động Việt
Nam phải cạnh tranh với chính lao động trong
nước, sinh viên phải cạnh tranh với chính sinh
viên. Ai thiếu kinh nghiệm, thiếu kỹ năng,
thiếu trình độ tay nghề tất yếu bị đào thải và
đặc biệt việc nhập khẩu lao động chất lượng
cao tất yếu sẽ xảy ra. Hơn nữa với sự phát triển
mạnh của nền công nghiệp 4.0 đang diễn ra sẽ
tạo những thay đổi lớn về cung - cầu lao động.
Thị trường lao động sẽ bị ảnh hưởng nghiêm
trọng giữa cung và cầu lao động cũng như cơ
cấu lao động. Trong một số lĩnh vực, số lượng
nhân viên cần thiết sẽ chỉ còn 1/10 so với
hiện nay. Như vậy, số nhân lực dôi dư sẽ phải
chuyển nghề hoặc thất nghiệp.


Quá trình hợp tác lao động, sự thiếu thốn
về nhân công ở các nước phát triển, sự thay
thế nhân công trong sản xuất, kinh doanh do
áp dụng công nghệ tiến tiến hiện nay sẽ mang
đến nhiều cơ hội và thách thức đối với tiến
trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam và
sự thay đổi thị trường lao động. Tiến tới q
trình hội nhập/hợp tác đó, có thể nhìn nhận sự
đòi hỏi về nguồn lao động trong bối cảnh thực
tại qua các yếu tố: 1/Kiến thức, kỹ năng nghề
nghiệp; 2/Năng lực nghề nghiệp; 3/Tình cảm,


đạo đức, thái độ, hành vi; 4/Đặc điểm ý chí.


<i>Thứ nhất, về kiến thức, kỹ năng nghề nghiệp: </i>


Người lao động Việt Nam phải có kiến thức
nghề nghiệp, trình độ ngoại ngữ cao đáp ứng
được thị trường lao động quốc tế. Phải triển
khai tốt kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng truyền
thơng, kỹ năng sống, cũng như các kỹ năng
mềm khác cần thiết cho lao động của mỗi cá


đa văn hóa, kỹ năng giao tiếp tích cực, kỹ năng
lãnh đạo, quản lý, kỹ năng quản lý thời gian,
thư giãn (vượt qua khủng khoảng, áp lực). Phải
có tư duy sáng tạo và đổi mới. Người lao động
khơng có các kỹ năng này sẽ ảnh hưởng trực
tiếp tới khả năng thích nghi với thực tế và chất
lượng công việc, không đáp ứng khi gia nhập
môi trường làm việc quốc tế.


<i>Thứ hai, về năng lực nghề nghiệp: So với </i>


nhiều nước trong khu vực và trên thế giới,
người lao động Việt Nam nhìn chung có các
phẩm chất vượt trội như: thơng minh, cần cù,
chịu khó, khả năng nắm bắt các kỹ năng lao
động, đặc biệt là kỹ năng sử dụng các kỹ thuật
công nghệ hiện đại tương đối nhanh. Đây là lợi
thế cạnh tranh quan trọng của người lao động
Việt Nam trong quá trình hội nhập và tham gia


thị trường lao động quốc tế. Tuy nhiên, mức
độ tham gia sân chơi khu vực và thế giới của
người lao động Việt Nam còn rất hạn chế.


Trong nền kinh tế hiện đại, tổ chức lao
động có nhiều thay đổi như quan hệ giữa chủ
lao động và người lao động, nên người lao
động ngày càng phải được chun mơn hóa;
kiến thức, kỹ năng sử dụng công nghệ ngày
một cao; phải có thái độ nghiêm túc, tính kỷ
luật tốt. Người lao động không được phép thụ
động và chờ đợi, phải dám nghĩ dám làm, dám
đảm nhận trách nhiệm về mình. Đồng thời với
quá trình phân cơng lao động hiện nay, người
lao động địi hỏi phải có chun mơn, kỹ năng
kiến thức giỏi, ứng với chuyên ngành chuyên
sâu nào đó phù hợp với quy mơ tổ chức, quy
trình riêng biệt của từng ngành. Chịu được
áp lực lao động cao trong điều kiện làm việc
quốc tế bởi trong môi trường làm việc hiện đại
người lao động phải giao tiếp với nhiều người,
làm cùng một lúc nhiều việc, nhiều loại yêu
cầu, thông tin phải tiếp nhận xử lý trong thời
gian ngắn với hiệu quả chất lượng tốt nhất. Vì
vậy, người lao động cần có sức khỏe tốt, độ tập
trung cao, chuyên môn giỏi, biết khai thác thế
mạnh và sử dụng thành thạo các công cụ hỗ
trợ cho cơng việc.


<i>Thứ ba, về tình cảm, thái độ và hành vi: Thái </i>



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>V</b>

<b>A</b>



thể hiện ở chỗ người lao động phải nhận thức
về nghĩa vụ lao động và trách nhiệm đối với
cơng việc được giao. Cũng như tình cảm, thái
độ là yếu tố hàng đầu quyết định sự thành
công của người lao động với công việc. Thái
độ làm chủ là cái thiếu nhất đối với người lao
động Việt Nam.


<i>Thứ tư, về đặc điểm ý chí: Ý chí là nhân tố </i>


quan trọng tạo nên bản lĩnh con người bởi nó
chứa đựng các phẩm chất như tính mục đích,
độc lập, sự quyết đốn, sự kiên trì, dũng cảm,
tính tự chủ, kiềm chế hay chịu đựng. Những
phẩm chất này rất cần thiết trong môi trường
cạnh tranh quốc tế hiện nay.


Trên cơ sở yêu cầu đối với nguồn nhân lực/
lao động trong bối cảnh hiện nay, soi vào thực
tế, nhiều nhà nghiên cứu đánh giá tình trạng
khá phổ biến của người lao động Việt Nam
là cịn rất nhiều hạn chế, có khoảng cách lớn
so với các quốc gia trong khu vực, đặc biệt là
chưa có tính chun nghề, ngoại ngữ kém và
thiếu tác phong công nghiệp.


Tỷ lệ lao động hiện đang tham gia vào thị


trường lao động còn thấp, đạt khoảng 30%.
Chất lượng lao động còn nhiều bất cập so với
yêu cầu phát triển và hội nhập. Chỉ có 18,38%
lao động nơng nghiệp có bằng cấp, chứng chỉ
qua đào tạo. Nhóm lao động phổ thơng trình
độ tay nghề hạn chế. Gần 80% số người lao
động từ 15 tuổi trở lên chưa được đào tạo nghề


(1). Tỷ lệ lực lượng lao
động có trình độ đại học
trở lên chủ yếu tập trung
tại 3 thành phố lớn: Hà
Nội, Đà Nẵng và Thành
phố Hồ Chí Minh. Đặc
biệt, trình độ ngoại ngữ,
kỹ năng làm việc của lao
động trình độ đại học
và lao động nghề ở Việt
Nam còn hạn chế. Các
kỹ năng cần thiết như
quản lý và lãnh đạo, kỹ
năng chuyên môn, tay
nghề và dịch vụ khách
hàng còn yếu. Qua khảo
sát, 50% chủ lao động
cho biết người lao động tốt nghiệp phổ thơng
khơng có kỹ năng mà người sử dụng lao động
cần và cũng chỉ có gần 50% chủ lao động
nói rằng cử nhân tốt nghiệp đại học có được
những kỹ năng cần. Theo đánh giá của Ngân


hàng Thế giới, chất lượng nguồn nhân lực của
Việt Nam hiện nay chỉ đạt 3,39/10 điểm trong
khi một số nước trong khu vực như Malaysia
là 5,59/10, Thái Lan là 4,94/10 (1)… Nguồn
nhân lực Việt Nam phân bố khơng hợp lý, có
nhiều bất cập về chất lượng đào tạo, nhiều lao
động không đáp ứng được yêu cầu của nhà
tuyển dụng… Tính đến q I/2017, số người
thất nghiệp có trình độ đại học trở lên là 138,8
nghìn người, chiếm tỷ lệ 2,79%; có trình độ cao
đẳng là 104,2 nghìn người, chiếm tỷ lệ 6%; có
trình độ trung cấp là 83,2 nghìn người, chiếm
tỷ lệ 3,08% (2). Như vậy, nguồn nhân lực Việt
Nam nói chung chưa thực sự đảm bảo được
những điều kiện để sẵn sàng tham gia vào thị
trường lao động nước ngoài. Đây là hạn chế
lớn của lực lượng lao động Việt Nam trước bối
cảnh hội nhập khu vực và quốc tế.


<b>3. Phương thức gia tăng sự chủ động quốc </b>
<b>tế hóa giáo dục đối với các cơ sở đào tạo ở </b>
<b>Việt Nam</b>


<i><b>3.1. Từ góc độ quốc gia</b></i>


- Nhà nước cần coi cơng tác đào tạo nói
chung và đào tạo các ngành được lựa chọn
tham gia ký kết vào thỏa thuận thừa nhận lao


<i>giai đoạn cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa (5) </i>



<b>STT</b> <b>Đặc điểm của người lao động</b>


1 Sức khỏe hạn chế, nhất là độ bền dẻo dai thấp, chưa quen trải
qua cường độ, áp lực cao, cấp tập (thấp bé, nhẹ cân).


2 Nhu cầu sống và phát triển của nhiều người còn đơn giản, thấp,
dẫn tới động cơ hoạt động không đủ mạnh.


3 Hay tiếc tiền, khơng quen, ít dám mạo hiểm, nấn ná, lừng
khừng, khơng chịu cạnh tranh hoặc bỏ học phí cho việc lớn.
4 Hiểu biết chưa đủ sâu, rộng; trình độ chun mơn nghiệp vụ


cịn thiếu cơ bản và hạn chế.


5 Làm việc còn thiếu nghiêm túc, thiếu suy nghĩ.


6 Tác phong cơng nghiệp cịn ít và chưa được định hình bền chặt.
7 Thói quen xấu cịn nhiều như: hay nhịm ngó, ghen tỵ, đố kỵ,


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

động nói riêng là vấn đề then chốt và phải
được thực hiện một cách nghiêm túc, căn cơ
hơn bằng những chính sách ưu tiên phát triển.
Việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao phải trở thành một chiến lược quan trọng
trong quá trình phát triển của đất nước. Coi
đây là khâu đột phá trong quá trình hội nhập
và phát triển.


- Thúc đẩy hội nhập giáo dục Việt Nam với


hệ thống giáo dục đào tạo khu vực và thế giới:
Tích cực trong giao lưu giáo dục (trao đổi giáo
viên, học sinh/sinh viên, giáo trình, tài liệu, sử
dụng đội ngũ chuyên gia quốc tế, đưa sinh viên
sang thực tập tại các nước trong khu vực…),
đàm phán xây dựng tiêu chuẩn giáo dục trong
khu vực ASEAN, làm cơ sở cho việc áp dụng ở
các quốc gia trong khu vực. Những lao động
được đào tạo trong hệ thống giáo dục đào tạo
chung của khu vực sẽ đáp ứng được các yêu
cầu của thị trường lao động tại các quốc gia.


- Có chính sách và giải pháp để các cơ sở
đào tạo tiến tới tham gia thương mại dịch vụ
giáo dục trong chiến lược hội nhập. Chuyển từ
viện trợ sang thương mại bởi nguồn lực trong
hợp tác quốc tế dần sẽ giảm đi nhường chỗ
cho nguồn lực trong thương mại dịch vụ giáo
dục. Vì vậy, cần có chính sách thu hút và sử
dụng có hiệu quả nguồn đầu tư nước ngoài để
phát triển mạnh mẽ giáo dục trên các lĩnh vực
đã mở cửa; đó cũng chính là các lĩnh vực có
nhu cầu lớn về nguồn nhân lực trình độ cao
trước yêu cầu hội nhập và phát triển. Các mục
tiêu ưu tiên cần đạt được là phát triển du học
tại chỗ, hiện đại hố giáo dục, góp phần xây
dựng mơ hình giáo dục mở. Về lâu dài có thể
tính đến việc xuất khẩu và chuyển sang mơ
hình cung ứng chuẩn thị truờng.



- Cần nhanh chóng hồn tất việc triển khai
khung trình độ quốc gia hướng tới chuẩn quốc
tế để giúp các cơ sở đào tạo đào tạo theo đúng
chương trình chuẩn thống nhất và phù hợp
với trình độ chung trong khu vực, cơng nhận
lẫn nhau về trình độ và kỹ năng giữa các nước.


- Bộ Giáo dục và Đào tạo, chính quyền các
địa phương cần thực hiện thường xuyên việc


cầu lao động, các chuẩn ngành, nghề đến các
cơ sở đào tạo.


- Xây dựng quy định, cơ chế liên kết quốc tế
trong đào tạo phát triển nhân lực ngành; liên
kết giữa các cơ quan quản lý với các cơ sở đào
tạo, cơ sở sử dụng nhân lực; liên kết giữa các
cơ sở trong mạng lưới đào tạo; tạo hành lang
pháp lý thuận lợi để thu hút các nhà đầu tư,
các doanh nghiệp nước ngoài phát triển cơ sở
đào tạo nghề chất lượng cao, hợp tác đào tạo
tại Việt Nam.


- Thiết lập Hiệp hội mạng lưới các cơ sở đào
tạo trong cả nước, mạng hỗ trợ thư viện và tư
liệu du lịch, mạng cung cấp và trao đổi thông
tin giữa các cơ sở đào tạo.


- Hoàn thiện và triển khai đồng bộ tiêu chí
kiểm định chất lượng đào tạo nghề và đánh


giá cấp chứng chỉ kỹ năng nghề quốc gia. Thực
hiện kiểm định cơ sở đào tạo nghề và kiểm
định chương trình; phát triển các trung tâm
đánh giá kỹ năng nghề cho người lao động
gắn với đầu tư xây dựng ở các cơ sở đào tạo
nghề ở một số doanh nghiệp và một số cơ sở
khác.


- Xây dựng và ban hành tiêu chuẩn cơ sở
vật chất, danh mục thiết bị đào tạo nghề cho
từng loại nghề theo tiêu chuẩn cơ sở vật chất,
danh mục thiết bị đào tạo nghề của các nước
tiên tiến trong khu vực và quốc tế. Bộ Giáo dục
và Đào tạo phối hợp với các bộ, ngành đưa vào
tiêu chí cấp phép mở trường, đánh giá chất
lượng và xếp hạng cơ sở đào tạo.


<i><b>3.2. Từ phía các cơ sở đào tạo </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>V</b>

<b>A</b>



<i>tổng thể của tổ chức, phương pháp tổ chức hệ </i>
<i>thống giáo dục</i>


Các cơ sở đào tạo cần nâng cao năng lực
của tổ chức bằng việc thành lập Hội đồng
trường để thực hiện tự chủ và đổi mới quản
trị cơ sở. Khi cơ chế quản trị ở các trường chưa
đổi mới thì khó có thể triển khai mạnh mẽ tự
chủ để cạnh tranh lành mạnh nâng cao chất


lượng, đủ điều kiện và tự tin tham gia vào quá
trình hội nhập. Bởi quyền tự chủ một mặt đảm
bảo cho các cơ sở đào tạo được tự quyết định
các vấn đề của mình, nhưng mặt khác lại đề
cao trách nhiệm của cơ sở trước xã hội - từ
những đối tượng liên quan trực tiếp như Nhà
nước, nhà đầu tư, người học và gia đình họ đến
những người đóng thuế để cung cấp ngân
sách hoặc để kiến tạo môi trường hoạt động
cho đơn vị. Trách nhiệm này thường được gọi
là trách nhiệm giải trình, bao gồm các nghĩa vụ
cung cấp thông tin, lý giải và chịu trách nhiệm
về mọi hoạt động triển khai, như minh bạch
hóa các thơng tin về tài chính, đào tạo và việc
làm; đồng thời phải chịu trách nhiệm về điều
kiện đào tạo kém, chất lượng đào tạo yếu, khả
năng tìm việc làm và hịa nhập thị trường lao
động thấp của sinh viên trường mình. Mặt
khác, nâng cao năng lực quản lý, áp dụng
công nghệ quản trị nhân sự hiện đại, thực hiện
quy trình quản lý đơn vị, hoạt động đào tạo
theo mô hình quốc tế, mở rộng và tăng cường
các hoạt động từ giảng dạy đến nghiên cứu,
với phương châm “nhiều hơn và tốt hơn”. Đẩy
nhanh quá trình áp dụng và vận hành thành
thục công nghệ thông tin, công nghệ số vào
nội dung đào tạo và quản lý q trình đào tạo.
<i>+ Cần có kế hoạch xây dựng đội ngũ và bồi </i>


<i>dưỡng nâng cao chất lượng giảng dạy đối với </i>


<i>giảng viên. Quy hoạch, lựa chọn, đào tạo giảng </i>


viên giỏi về lý thuyết, kỹ năng thực hành và
phương pháp giảng dạy. Giảng viên/người
dạy là người quyết định chất lượng đào tạo, vì
vậy cần phải tập trung nỗ lực vào việc đào tạo,
đào tạo lại và bồi dưỡng để chuẩn hóa đội ngũ
giảng viên. Người giảng viên phải có năng lực
về kiến thức chuyên môn, kỹ năng sư phạm,
kỹ năng nghề, kỹ năng quản lý, kỹ năng giao


để tiếp cận với thơng tin mới nhất có liên quan
đến quá trình dạy học, phương pháp giảng
dạy mới, có khả năng tự nghiên cứu để phát
triển năng lực.


<i>+ Từng bước tăng cường cơ sở vật chất đào </i>


<i>tạo. Đầu tư tốt cơ sở vật chất để nâng cao đào </i>


tạo. Tăng đầu tư nguồn ngân sách cho việc
nâng cấp và mở rộng cơ sở đào tạo, đặc biệt là
phát triển các cơ sở thực hành đạt chuẩn khu
vực cho các trường đại học, cao đẳng, trung
học, nghề. Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất
và kỹ thuật phục vụ thực hành cho sinh viên;
bổ sung, thay đổi kịp thời để đáp ứng với sự
hội nhập, phát triển. Tăng cường kinh phí cho
chương trình mục tiêu để phục vụ việc đổi mới
trang thiết bị, đổi mới phương pháp giảng dạy


và xây dựng chương trình, giáo trình, đào tạo
lại đội ngũ giảng viên.


Các cơ sở đào tạo cần tạo lợi thế bằng việc
thực hiện đầu tư cơ sở vật chất theo hướng tiêu
chuẩn hóa và hiện đại hóa các điều kiện dạy và
học, do vậy cần ưu tiên các trang thiết bị phục
vụ giảng dạy học tập, quan tâm xây dựng các
phịng học đạt trình độ hiện đại phục vụ đào
tạo và có đủ cơ sở thực hành đáp ứng nhu cầu
đào tạo. Đầu tư thỏa đáng cho biên soạn giáo
trình, tài liệu học tập, đảm bảo tất cả các mơn
học đủ sách/giáo trình, tài liệu cho sinh viên
học tập. Xây dựng một môi trường xanh, đầy
tính văn hóa trong các cơ sở đào tạo. Đảm bảo
phòng đọc thư viện đạt chuẩn với các phương
pháp tiếp cận hiện đại và có đủ đầu sách phục
vụ, bổ sung thường xuyên sách và tạp chí
chun ngành để có điều kiện tiếp cận, cập
nhật với thông tin mới diễn ra trong đời sống
xã hội. Mặt khác, xây dựng các trung tâm dịch
vụ trong nhà trường vừa để phục vụ đào tạo,
vừa làm kinh tế cho đơn vị. Tăng cường cơ sở
vật chất và thiết bị đào tạo nghề.


<i>+ Thực hiện xã hội hóa để tăng cường trách </i>


<i>nhiệm và nguồn lực. Huy động các nguồn lực </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

động vốn, trang thiết bị, đội ngũ giáo viên có


kinh nghiệm thực tiễn tham gia quá trình đào
tạo…); tận dụng nguồn lực của cơ sở đào tạo,
nguồn lực của các tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước, nguồn vốn nước ngoài (nguồn
vốn ODA, FDI và các dự án hợp tác quốc tế
khác)…


<i>+ Chủ động thực hiện đăng ký kiểm định </i>


<i>chất lượng, đánh giá ngoài tiến tới phân tầng </i>


xếp hạng các cơ sở đào tạo ở từng bậc học là
bước căn bản để đưa hệ thống các cơ sở đào
tạo nước ta vào nề nếp và hội nhập khu vực,
thế giới.


<i>2. Thành phần thứ hai: Phát triển các lĩnh vực </i>
<i>giảng dạy then chốt, các lĩnh vực mang tính liên </i>
<i>thông quốc tế </i>


Thành phần thứ hai là hoạt động trọng yếu
nhất của các cơ sở đào tạo, đó là phát triển các
lĩnh vực giảng dạy liên thông quốc tế, thông
qua đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp
giảng dạy, nâng cao chất lượng và hiệu quả
đào tạo. Đào tạo nghiệp vụ, ngoại ngữ và tin
học phải gắn với thực hành. Hình thành mối
liên kết giữa các cấp giáo dục phổ thông, cao
đẳng và đại học. Hình thức giáo dục này nhằm
đào tạo nhân tài có kỹ năng chun mơn cao


và kỹ năng quản lý cần thiết cho các ngành.
Bên cạnh đó, cần xác định các lĩnh vực giảng
dạy nào mang lại giá trị cao nhất cho xã hội, có
tính quốc tế và trình độ năng lực giải quyết vấn
đề cao nhất. Thành phần này được thể hiện:


<i>+ Đa dạng hoá và đổi mới, mở mới các </i>


<i>chương trình đào tạo để theo kịp sự phát </i>


triển, đáp ứng tiêu chuẩn chung của các nước
trong khu vực và trên thế giới. Đào tạo theo
hướng “đào tạo chuyên gia” bằng việc phân
các chuyên ngành sâu giúp người học lựa
chọn đúng theo sở thích, khả năng, đam mê
và đảm bảo yếu tố thích ứng với mơi trường
và cơng việc sau khi ra trường, tạo nguồn
nhân lực có chun mơn cao, giỏi tay nghề;
giúp nhà tuyển dụng dễ dàng thu nhận, phát
huy tốt thế mạnh của nguồn nhân lực, giảm
sự chồng chéo trong công tác chuyên môn;
cạnh tranh được với nguồn nhân lực của các
quốc gia phát triển. Một chương trình đào


giữa nhà trường và doanh nghiệp, cũng như
đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng lao
động một cách kịp thời. Những thông tin từ
thị trường lao động là quan trọng nhất đối với
việc xây dựng chương trình đào tạo, nhất là ở
bậc đào tạo nghề. Trong đó, dữ liệu đáng tin


cậy là thông qua việc trao đổi trực tiếp với lãnh
đạo doanh nghiệp để đánh giá độ tương thích
chương trình đào tạo với nhu cầu thực tiễn và
khả năng đáp ứng của người học.


Để đạt được những tiêu chuẩn đó, các cơ
sở đào tạo phải điều chỉnh chương trình đào
tạo, dựa vào khung chương trình quốc gia,
chương trình của ngành, tham khảo chương
trình giảng dạy của các nước phát triển trong
khu vực và trên thế giới để cập nhật, đổi mới
chương trình đào tạo; thiết kế chương trình cơ
đọng, logic, tăng cường kiến thức thực tiễn;
nâng cao năng lực ngoại ngữ.


Nội dung, chương trình đào tạo phải gắn
với yêu cầu hoạt động của loại nghề nghiệp,
phải cung cấp cho người học kiến thức chuyên
môn, kỹ năng hành nghề và ý thức trách
nhiệm cơng dân đối với gia đình, cộng đồng
và xã hội. Nội dung, chương trình đào tạo cần
theo định hướng của thị trường, mềm dẻo,
nâng cao kỹ năng thực hành, năng lực tự tạo
việc làm, năng lực thích ứng với những biến
đổi của thực tế ngành nghề, phản ánh phương
châm gắn đào tạo với yêu cầu xã hội, tạo thuận
lợi cho người học. Xây dựng các chương trình
bồi dưỡng, chương trình ngắn hạn cấp độ cao
để nâng cao trình độ. Nội dung, chương trình
phải được xây dựng theo hướng tiếp cận với


trình độ tiên tiến trong khu vực và trên thế
giới. Huy động các chuyên gia làm việc tại các
cơ sở giáo dục, đào tạo và các cơ sở nghiên cứu
khoa học tham gia xây dựng nội dung chương
trình và đánh giá kết quả đào tạo.


</div>

<!--links-->

×