Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Giáo dục đạo đức nghề nghiệp và phòng chống bạo lực trẻ em cho sinh viên chuyên ngành Giáo dục mầm non tại trường Đại học Thủ đô Hà Nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (430.06 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

70

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI


<b>GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP & </b>


<b>PHÒNG CHỐNG BẠO LỰC TRẺ EM CHO SINH VIÊN </b>



<b>CHUYÊN NGÀNH GIÁO DỤC MẦM NON TẠI </b>


<b>TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI </b>



<b>Đặng Lan Phương, Ngô Thị Ánh </b>
<i>Trường đại học Thủ đơ Hà Nội </i>


<i><b>Tóm tắt: Đối với các trường sư phạm, giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một nhiệm vụ </b></i>
<i>đặc biệt quan trọng nhằm hình thành và phát triển các phẩm chất và năng lực cần thiết </i>
<i>của người giáo viên tương lai. Với sinh viên ngành Giáo dục mầm non, giáo dục đạo đức </i>
<i>nghề nghiệp càng có ý nghĩa quan trọng, bởi vì đối tượng chăm sóc, giáo dục của họ là </i>
<i>trẻ em dưới 6 tuổi, độ tuổi non nớt nhất của cuộc đời, các em rất cần sự chăm sóc, u </i>
<i>thương của cơ giáo. Vì vậy, việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp và phòng tránh bạo lực </i>
<i>trẻ em cần được chú trọng ngay từ khâu đào tạo giáo viên mầm non tại hệ thống các </i>
<i>trường sư phạm. Bài báo là kết quả nghiên cứu thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp </i>
<i>và phòng chống bạo lực trẻ em cho sinh viên chuyên ngành giáo dục mầm non và đề xuất </i>
<i>một số biện pháp nâng cao hiệu quả nội dung giáo dục này tại trường Đại học Thủ đơ </i>
<i>Hà Nội. </i>


<i><b>Từ khóa: đạo đức nghề nghiệp, mầm non, bạo lực trẻ em. </b></i>


Nhận bài ngày: 20.4.2020; gửi phản biện, chỉnh sửa, duyệt đăng ngày: 15.5.2020
Liên hệ tác giả: Đặng Lan Phương; Email:


<b>1. ĐẶT VẤN ĐỀ </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 40/2020 71



dục của họ là trẻ em dưới 6 tuổi, độ tuổi non nớt nhất của cuộc đời, các em rất cần sự chăm
sóc, yêu thương của cơ giáo. Chính vì vậy, đổi mới và nâng cao chất lượng đào tạo đội ngũ
giáo viên mầm non, trong đó có giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một trong những nhiệm
vụ hàng đầu của các trường cao đẳng và đại học để thực hiện thành công đổi mới giáo dục.
<b>2. NỘI DUNG </b>


Đạo đức nghề nghiệp của GVMN luôn là vấn đề nhận được sự quan tâm đặc biệt của
xã hội. Nhà giáo dục Nga K.D.Usinxki đã khẳng định, việc giáo dục trẻ em, tất cả phải dựa
vào nhân cách của nhà giáo dục. Bởi vậy, để làm tốt được sứ mệnh cao cả của mình người
GVMN phải có chun mơn vững vàng, lối sống trong sáng, nhân cách tốt đẹp, trên hết là
tấm lòng bao dung, nhân ái của người mẹ, tận tâm chăm sóc, ni dạy trẻ mầm non, trong
đó đạo đức là phẩm chất quan trọng nhất. Điều này có nghĩa là đạo đức nghề nghiệp của
người giáo viên có vai trị là mục tiêu, động lực giúp cho họ hoàn thành nhiệm vụ giáo dục
vẻ vang của mình, là “người mẹ hiền thứ hai” trong chăm sóc và giáo dục trẻ mầm non.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả Nguyễn Thị Thủy đã đưa ra khái niệm “Đạo đức nghề
nghiệp của giáo viên mầm non là hệ thống các nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực đạo đức mà
giáo viên mầm non cần có khi hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và chăm sóc trẻ mầm non,
quy định điều chỉnh nhận thức, hành vi ứng xử thái độ của giáo viên mầm non nhằm hình
thành nhân cách cách tốt đẹp cho trẻ mầm non”. Cốt lõi trong đạo đức nghề nghiệp của
giáo viên mầm non là quan hệ giữa giáo viên mầm non với trẻ mầm non. Giáo viên mầm
non phải quý trẻ, yêu nghề, đây là tố chất cơ bản nhất trong đạo đức nghề nghiệp của người
GVMN. Chính cơ giáo mầm non là những người thầy đầu tiên dẫn dắt học trò của mình trở
thành con người có đạo đức cao đẹp, có trí tuệ sâu rộng. Dấu ấn nhân cách của trẻ mầm
non được in đậm từ dấu ấn nhân cách của giáo viên mầm non. Để chăm sóc và giáo dục trẻ
em mầm non phát triển tốt về thể chất, tinh thần thì mỗi người giáo viên mầm non phải
dành trọn công sức và tâm huyết của mình để trao lại cho học trị thứ tài sản vơ giá, đó là
“đạo làm người”, hết lịng u thương học sinh. Chính tình u thương trẻ vơ bờ bến là
động lực thúc đẩy mỗi người GVMN ln gắn bó, thiết tha với học sinh của mình.



</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

72

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI


trạng bạo hành trẻ ở một số cơ sở giáo dục mầm non. Trên các phương tiện thông tin đại
chúng trong thời gian qua đã đăng tải nhiều vụ việc GVMN bạo hành đối với trẻ nhỏ diễn
ra ở nhiều địa phương trên cả nước với mức độ ngày càng nghiêm trọng khiến dư luận và
cộng đồng xã hội vô cùng bức xúc. Điều đó đã gióng lên hồi chng cảnh báo về sự xuống
cấp của đạo đức, trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp của giáo viên mầm non. Việc trẻ
bị bạo hành không chỉ làm ảnh hưởng đến sự phát triển thế chất và trí tuệ của trẻ mà còn
ảnh hưởng sâu sắc đến tinh thần trẻ sau này, nguy hiểm hơn là ảnh hưởng đến tính mạng
của trẻ. Chính vì vậy, việc giáo dục tình yêu thương trẻ, ý thức trách nhiệm, đạo đức nghề
nghiệp cho và phòng tránh bạo lực trẻ em cần được chú trọng ngay từ khâu đào tạo giáo
viên mầm non tại hệ thống các trường sư phạm.


Trường Đại học Thủ đô Hà Nội với hơn 60 năm xây dựng và phát triển đã đào tạo
nguồn giáo viên chất lượng cao cho Thủ đô Hà Nội và cả nước, trong đó có
GVMN. Trong cơng tác đào tạo, nhà trường luôn coi trọng công tác giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho những giáo viên tương lai, coi đây là một phần thiết yếu tạo nên chất lượng
giáo dục của nhà trường. Để tìm hiểu thực trạng giáo dục đạo đức nghề nghiệp và phòng
chống bạo lực trẻ em cho sinh viên (SV) chuyên ngành GDMN chúng tôi đã tiến hành
nghiên cứu, tìm hiểu chương trình đào tạo GVMN của trường Đại học Thủ đô Hà Nội và
tiến hành khảo sát bằng Phiếu trưng cầu ý kiến với 20 giảng viên dạy chuyên ngành
GDMN, 355 sinh viên hệ cao đẳng và đại học chính quy, 47 cán bộ quản lý và giáo viên tại
một số trường mầm non của Hà Nội. Qua kết quả nghiên cứu thực trạng chúng tôi nhận
thấy: gần 60% sinh viên tham gia khảo sát lựa chọn nghề giáo viên mầm non vì yêu nghề
và yêu trẻ nhỏ, có đến 71,3% sinh viên đánh giá nghề GVMN là rất cao quý, cho thấy đa số
các em đã nhận thức được vai trị của nghề GV nói chung và GVMN nói riêng đúng như cố
<i>Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng khẳng định: “Nghề dạy học là nghề cao quý nhất </i>


<i>trong những nghề cao quý, nghề sáng tạo nhất trong những nghề sáng tạo vì nó đã sáng </i>
<i>tạo ra những con người sáng tạo”. Chính việc nhận thức được tầm quan trọng của nghề, có </i>



ý thức trách nhiệm với cơng việc mà mình đã lựa chọn cùng với lòng yêu nghề, yêu trẻ,
khát khao được cống hiến với nghề ngay từ khi là sinh viên sư phạm sẽ là động lực để
những GVMN tương lai vượt qua mọi khó khăn và gắn bó với nghề.


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 40/2020 73


SV học tại các trường sư phạm.


Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy: với 9 phẩm chất cần có của người GVMN, có đến
73,5% số SV được khảo sát cho rằng “Yêu quý trẻ em” là phẩm chất cần thiết, quan trọng
nhất của người GVMN, tương tự như vậy 64,7% sinh viên lựa chọn “Có tình thương với
trẻ nhỏ” ở mức độ cần thiết nhất. Điều đó cho thấy các em đã nhận thức được rằng, đối với
người GVMN tình yêu thương đối với trẻ là tình cảm thiêng liêng, không chỉ dừng lại ở
nhận thức mà phải được hiện thực hóa bằng hành động, cử chỉ dành cho trẻ. Khi yêu trẻ
như chính đứa con của mình GVMN sẽ tận tâm chăm sóc, giáo dục trẻ một cách vô điều
kiện, sẵn sàng đem hết khả năng kiến thức chuyên môn cùng với các kĩ năng sư phạm để
chăm lo cho trẻ từ bữa ăn, giấc ngủ đến hoạt động học tập, vui chơi. Ngoài ra, 68,7% sinh
viên lựa chọn phẩm chất “Tôn trọng trẻ em” là quan trọng nhất, 60,8% chọn “Kiên trì và
nhẫn nại”, 54,9% chọn “Yêu nghề và gắn bó với nghề” cho thấy các em đã xác định đúng
những phẩm chất quan trọng, không thể thiếu trong nhân cách của người GVMN, đây là
những phẩm chất nền tảng, có vai trị quan trọng tạo nên sự thành công trong nghề nghiệp
của mỗi GVMN. Khi được hỏi về suy nghĩ của SV đối với nạn bạo hành trẻ em diễn ra tại
các cơ sở GDMN, phần lớn SV đều tỏ thái độ “rất bức xúc” (chiếm 82,8%) hoặc “bức xúc”
trước hiện tượng trẻ bị bạo hành ngay tại nơi mà đáng lẽ trẻ cần được chăm sóc, ni
dưỡng và giáo dục với tình u thương của các cơ giáo. Tuy nhiên, có một số SV (chiếm tỉ
lệ 1,1%) tỏ thái độ “bình thường” hoặc “không quan tâm” trước thông tin trẻ bị bạo hành,
mặc dù đây là một tỉ lệ không nhiều nhưng cho thấy một số ít sinh viên vẫn bàng quan với
những hiện tượng vốn gây nhiều bức xúc cho mỗi người trong xã hội. Đây là những SV mà
lý do chọn nghề các em không xuất phát từ tình yêu với trẻ nhỏ mà chỉ vì “học ngành sư


phạm mầm non dễ hơn các ngành khác”.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

74

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI


với nghề GVMN.


Với mục tiêu tìm hiểu thực trạng về nội dung và các hình thức giáo dục đạo đức nghề
nghiệp cho SV chuyên ngành GDMN, trường Đại học Thủ đô Hà Nội, chúng tôi đã khảo
sát thực tế Chương trình đào tạo GVMN tại khoa Sư phạm, trường Đại học Thủ đô Hà Nội
cho thấy nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho SV đã được lồng ghép vào một số
học phần như: Tâm lý trẻ em lứa tuổi mầm non; Nghề GVMN; Quản lý trong GDMN; Kỹ
năng giao tiếp của GVMN…và được thực hiện phối hợp các hình thức như học lý thuyết
trên lớp, qua hoạt động thực hành, thông qua rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên
và qua thực tập sư phạm. Phân tích Phiếu khảo sát chúng tôi đã nhận được kết quả đánh giá
của SV như sau: có 49% sinh viên đánh giá nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp và
phòng tránh bạo lực trẻ em cho SV chuyên ngành MN được thực hiện “rất hiệu quả”;
48,7% số sinh viên được hỏi đánh giá ở mức “hiệu quả”; 2,3% SV đánh giá nội dung này
được thực hiện ít hiệu quả và khơng có SV nào đánh giá ở mức “không hiệu quả”. Theo ý
kiến của SV các hình thức được đánh giá ở mức độ “rất phù hợp” để giáo dục đạo đức
nghề nghiệp và phòng chống bạo lực trẻ em là: thơng qua thực hành xử lý các tình huống
sư phạm trong chăm sóc, giáo dục trẻ MN” (chiếm 71,2%), Qua hoạt động thực hành, thực
tập sư phạm” (69,8%) và Hoạt động thăm quan, trải nghiệm thực tế tại trường MN” (chiếm
66,4%). Bên cạnh đó, hình thức “Học lý thuyết trên lớp” được 71,5% SV lựa chọn ở mức
độ “phù hợp”. Tương tự, có 59,7% SV được hỏi cho rằng hình thức “Nghe báo cáo chuyên
đề về đạo đức nghề nghiệp của người GVMN” cũng phù hợp để thực hiện nội dung GD
đạo đức nghề nghiệp và phòng chống bạo lực trẻ em. Còn theo đánh giá của các giảng viên
giảng dạy chuyên ngành GDMN các hình thức giáo dục nêu trên, ở các mức độ khác nhau
đều phù hợp để thực hiện nội dung GD đạo đức nghề nghiệp và phòng chống bạo lực trẻ
em. Mỗi hình thức đều có ưu thế riêng, tuy nhiên cần kết hợp linh hoạt các hình thức đó để
hỗ trợ và nâng cao hiệu quả giáo dục nội dung này cho SV chuyên ngành GDMN.



Từ kết quả khảo sát cho thấy có 49% sinh viên đánh giá nội dung giáo dục đạo đức
nghề nghiệp và phòng chống bạo lực trẻ em đối với SV chuyên ngành MN tại trường đại
<i>học Thủ đô Hà Nội được thực hiện “rất hiệu quả”; 48,7% số sinh viên được hỏi đánh giá ở </i>
mức “hiệu quả”; 2,3% SV đánh giá nội dung này được thực hiện “ít hiệu quả” và khơng có
SV nào đánh giá ở mức “không hiệu quả”. Như vậy, có thể thấy đa số sinh viên đánh giá
cao tính hiệu quả của các hoạt động giáo dục đạo đức nghề nghiệp và phòng chống bạo lực
trẻ em đã được thực hiện tại trường ĐH Thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, ý kiến của các giảng
viên dạy chuyên ngành GDMN lại cho rằng trong thời gian tới cần chú trọng hơn nữa đến
giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên chuyên ngành MN thông qua các nội dung và
hình thức GD khác nhau, giúp SV nhận thức đúng cũng như rèn luyện các phẩm chất và
năng lực cần có của người GVMN tương lai.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 40/2020 75


kiềm chế và kiểm soát hành vi, cảm xúc của bản thân (chiếm 80% ý kiến); Tăng cường các
nội dung về giáo dục lòng yêu nghề, yêu trẻ, về đạo đức nhà giáo vào chương trình đào tạo
GVMN (70%) ; Tăng cường cho sinh viên xuống thực hành, thực tập, thâm nhập thực tế
môi trường làm việc ở trường mầm non nhiều hơn (70% ý kiến). Ngoài ra, các biện pháp
như “cho sinh viên tìm hiểu các văn bản quy phạm pháp luật về Điều lệ trường MN, Chuẩn
nghề nghiệp GVMN, về Đạo đức nhà giáo, Luật trẻ em, Quyền trẻ em” và “Tổ chức những
buổi nói chuyện chuyên đề và chia sẻ về đạo đức nghề nghiệp của người GVMN” cũng
nhận được ý kiến đánh giá cao của các thầy cô. Từ kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn
giáo dục đạo đức nghề nghiệp và phòng chống bạo lực trẻ em cho sinh viên chuyên ngành
GDMN, chúng tôi đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả nội dung giáo dục
này cho sinh viên, cụ thể như sau:


<i><b>Biện pháp 1: Tăng cường nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp và phòng chống </b></i>
<i><b>bạo lực trẻ em vào chương trình đào tạo chuyên ngành mầm non. Cần tăng cường các </b></i>



nội dung về giáo dục đạo đức nhà giáo vào các học phần phù hợp trong chương trình đào
tạo GVMN như: Tâm lý trẻ em lứa tuổi mầm non; Giáo dục học mầm non; Nghề giáo viên
mầm non; Quản lý trong giáo dục mầm non; Giáo dục kỹ năng sống; Giáo dục giới tính;
Tổ chức hoạt động vui chơi, Giáo dục hòa nhập, Kỹ năng giao tiếp của GVMN...giúp sinh
viên có được những kiến thức cơ bản về đạo đức nghề nghiệp của người GVMN cũng như
các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và rèn luyện đạo đức nghề nghiệp của người
GVMN tương lai. Có thể đưa vào mục tiêu của học phần nội dung giáo dục đạo đức nghề
nghiệp, xem đây như là một tiêu chí đánh giá năng lực cần hình thành ở sinh viên khi kết
thúc môn học. Khi xây dựng chuẩn đầu ra của ngành học cần chú trọng đến việc hình thành
các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của người giáo viên mầm non, coi đây là một trong
những tiêu chí nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên mầm non có đầy đủ cả đức và tài.


<i><b>Biện pháp 2: Nâng cao nhận thức cho sinh viên chuyên ngành mầm non về đạo đức </b></i>
<i><b>nghề nghiệp của người giáo viên mầm non và vấn đề phòng chống bạo lực đối với trẻ </b></i>
<i><b>mầm non. Tăng cường nhận thức cho sinh viên về đạo đức nghề nghiệp của người GVMN </b></i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

76

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ HÀ NỘI


giáo dục cho sinh viên lịng u nghề, tận tụy, gắn bó với nghề, yêu thương trẻ, biết kiềm
chế và điểu khiển hành vi cảm xúc của bản thân trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ. Kết
hợp nâng cao nhận thức và tổ chức hoạt động thực hành nghề, tạo cơ hội cho sinh viên đi
kiến tập, thực hành sư phạm, thâm nhập thực tế môi trường làm việc của mình trong tương
lai, có cơ hội tìm hiểu những khía cạnh đa dạng của nghề thông qua quan sát và chia sẻ
<i><b>trực tiếp với các giáo viên mầm non, từ hiểu nghề, sinh viên mới có lịng u nghề thực sự. </b></i>


<i><b>Biện pháp 3: Đa dạng hóa và đổi mới các hình thức giáo dục đạo đức nghề nghiệp </b></i>
<i><b>và phòng chống bạo lực trẻ em cho sinh viên chuyên ngành giáo dục mầm non. Bên </b></i>


cạnh việc tích hợp, lồng ghép nội dung giáo dục đạo đức nghề nghiệp và phòng chống bạo
lực trẻ em cho SV chuyên ngành mầm non vào các học phần trong Chương trình đào tạo


thì cần đa dạng hóa và đổi mới cách thực hiện nội dung này bằng các hình thức sau đây: Tổ
chức các buổi nói chuyện chuyên đề, tọa đàm, trao đổi với các chuyên gia giáo dục về chủ
đề “Nghề giáo viên mầm non và đạo đức người giáo viên mầm non”, vấn đề bạo lực trẻ
mầm non và cách phòng tránh nhằm giúp sinh viên có thêm hiểu biết về nghề và chuẩn bị
tốt về tâm lý, biết kiểm soát cảm xúc và hành vi của mình trước những tình huống có thể
xảy ra trong q trình chăm sóc, giáo dục trẻ ở trường mầm non, tránh tình trạng bạo lực
đối với trẻ. Nhà trường sư phạm cần thường xuyên giáo dục, nhắc nhở SV về tầm quan
trọng của việc giáo dục đạo đức nghề nghiệp và phòng tránh bạo lực cho trẻ và xem đây là
một nội dung quan trọng trong cơng tác chăm sóc, giáo dục trẻ; Tổ chức cho sinh viên thực
hành thơng qua các tình huống sư phạm trong q trình chăm sóc, giáo dục trẻ nhằm rèn
luyện kỹ năng kiểm soát cảm xúc của bản thân, biết kiềm chế các xúc cảm tiêu cực để
tránh dẫn đến các hành vi bạo lực đối với trẻ. Thực hiện nội dung giáo dục đạo đức nghề
nghiệp và phòng chống bạo lực trẻ em thông qua hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm
thường xuyên và hội thi nghiệp vụ sư phạm hàng năm dưới hình thức thi hùng biện hoặc
đóng tiểu phẩm; Tăng cường hoạt động thực hành, thực tập sư phạm giúp sinh viên thực
hành nghề nghiệp ngay trong quá trình học. Để thực hành nghiệp vụ sư phạm, sinh viên
phải vận dụng những kiến thức, kỹ năng của các môn học vào thực tiễn nghề nghiệp của
mình, rèn luyện kỹ năng sư phạm, kỹ năng giao tiếp, ứng xử với trẻ mầm non, với cha mẹ
trẻ và những người xung quanh; Tổ chức các chuyên đề bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho
sinh viên về năng lực nhận biết, kiểm soát hành vi, đặc biệt là kiềm chế các cảm xúc tiêu
cực, nhằm giúp SV có những hiểu biết cơ bản về khái niệm cảm xúc, các yếu tố ảnh hưởng
đến cảm xúc của GVMN trong hoạt động chăm sóc, giáo dục trẻ MN. Từ đó, SV có thể
vận dụng vào trong cuộc sống và hoạt động nghề nghiệp, có ý thức rèn luyện sức khỏe và
tâm lý/ sức khỏe tinh thần của cá nhân trong hoạt động nghề nghiệp GDMN. Đồng thời,
biện pháp này giúp SV hiểu được cảm xúc của mình và của người khác, biết chia sẻ, đồng
cảm, thấu hiểu và quản lý, điều chỉnh cảm xúc của mình và người khác phù hợp nhằm tạo
bầu khơng khí vui vẻ, giải tỏa cảm xúc tiêu cực trong q trình chăm sóc, giáo dục trẻ.


</div>

<!--links-->

×