Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (275.08 KB, 7 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<i>Email: </i>
Trường Đại học Sao Đỏ
Ngày nhận bài: 29/12/2019
Ngày nhận bài sửa sau phản biện: 24/6/2020
Ngày chấp nhận đăng: 30/6/2020
<b>Tóm tắt</b>
Thế kỷ XVIII là một giai đoạn lịch sử có nhiều biến động trong tiến trình phát triển của dân tộc. Chế độ
phong kiến Việt Nam bước vào giai đoạn khủng hoảng nghiêm trọng. Cùng với việc đất nước bị phân chia
làm hai, Đàng Trong và Đàng Ngoài thì đời sống của nhân dân cũng gặp mn vàn khó khăn, dưới các
chính sách thuế khóa, lao dịch của nhà nước. Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đó, mặc dù xuất thân
từ một gia đình quan lại phong kiến, nhưng ở Lê Quý Đôn đã hình thành lên những tư tưởng chính trị hết
sức sâu sắc, đặc biệt là tư tưởng về dân, nó khơng chỉ có ý nghĩa bởi tính vượt trước đối với lịch sử tư
tưởng Việt Nam thời đại ông mà nó cịn có ý nghĩa vượt thời gian đến ngày nay. Lê Q Đơn đã có những
nhìn nhận và đánh giá đúng về vai trò của dân trong đời sống xã hội, từ đó ơng đã đưa ra những yêu cầu
đối với giai cấp cầm quyền là phải có những chính sách “chăm dân”, “dưỡng dân” để xây dựng đất nước
phát triển, xã hội thái bình, thịnh trị. Công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh
đạo hiện nay cũng đang từng bước hướng tới đời sống ấm no, phồn vinh của nhân dân và xây dựng một
đội ngũ “cơng bộc” hết lịng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Tư tưởng của Lê Quý Đôn về dân
và xây dựng đội ngũ quan lại cần được tiếp tục nghiên cứu, phát triển và vận dụng vào xã hội ngày nay.
<i><b>Từ khóa: Lê Q Đơn; trọng dân; dưỡng dân; dân là gốc của nước. </b></i>
<b>Abstract</b>
The eighteenth century was a history period with many changes in the development process of the nation.
Vietnam's feudal regime has entered a period of serious crisis. With the country divided into two, inside
and Outside area, the people's lives also met many difficulties, under tax policies, labor of state. Born
and raised in that situation, although came from a feudal mandarin family, but with Le Quy Don formed a
profound political thought. But in Le Quy Don were formed very deep political ideas especially the thought
of the people, it was not only meaningful by the transcendence of the history of Vietnamese thought of
his time but it also has the meaning of timeless to this day. Le Quy Don has views and assessment of the
role of people in social life. Since then, he made requests to the ruling class to have policies "take care
of the people", "nurs of the people" to build a developing country, peaceful and prosperous society. The
country building and renovation work initiated and led by the Vietnamese Communist Party has been
gradually moving towards a warm life, prosperity of the people and building a team of "public servants"
wholeheartedly serving the country, serving the people, Le Quy Don's thoughts on the people and building
mandarins need to be further studied, develop and apply to today's society.
<i><b>Keywords: Le Quy Don; important people; nursing people; people are the root of the country.</b></i>
<b>1. </b> <b>ĐẶT VẤN ĐỀ</b>
Lê Quý Đôn sinh ra và lớn lên vào thời Lê trung
hưng, là nhà chính trị, nhà khoa học, nhà văn hóa
lỗi lạc của dân tộc. Tư tưởng về dân của ông bắt
nguồn và chịu ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo
cũng như văn hóa, tư tưởng truyền thống của dân
tộc. Tư tưởng trọng dân của Lê Quý Đơn khơng
chỉ có ý nghĩa đối với thời đại ơng mà nó cịn nhiều
giá trị đối với hiện nay. Trong nội dung bài viết này
tác giả tập trung đi sâu phân tích nguồn gốc hình
thành tư tưởng về dân, nội dung cơ bản tư tưởng
về dân của Lê Quý Đôn và chỉ ra những giá trị của
phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân trong giai
đoạn hiện nay.
<b>2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG VỀ DÂN </b>
<b>CỦA LÊ Q ĐƠN</b>
<b>2.1. Hồn cảnh xuất thân</b>
Lê Q Đơn sinh năm 1726, thuở cịn nhỏ có tên
là Lê Danh Phương, tự là Dỗn Hậu, hiệu là Quế
Đường, quê tại làng Diên Hà, trấn Sơn Nam nay
là thôn Đồng Phú thuộc xã Độc Lập, huyện Hưng
Hà, tỉnh Thái Bình. Lê Quý Đơn sinh ra trong một
gia đình q tộc, nổi tiếng về khoa bảng và văn
chương. Thân phụ là Lê Trọng Thứ đậu tiến sĩ
(1724) làm quan đến Thượng thư Bộ hình và được
phong tước hầu, thân mẫu là Trương Thị Ích, ơng
ngoại là Trương Minh Lượng đỗ tiến sĩ (1700) và
được phong tước hầu.
Những nhân tố về gia đình, phẩm chất cá nhân
có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và phát
triển tư tưởng của Lê Quý Đôn, thể hiện ở những
khía cạnh sau. Thứ nhất, Lê Q Đơn là người có
tư chất thơng minh, tư duy sáng tạo, ham học, ham
hiểu biết, sự mẫn cảm đối với thời thế. Thứ hai, Lê
Q Đơn là người có ý chí và hồi bão lớn, có tinh
Theo sử sách ghi lại, Lê Quý Đôn nổi tiếng là người
có tư chất thơng minh từ khi cịn nhỏ, học rộng,
tài cao, thông kinh, bác sử “Hai tuổi đã biết đọc
chữ “hữu”, chữ “vô”. Năm tuổi thuộc lòng nhiều bài
Kinh thi. Mười một tuổi mỗi ngày học được hàng
trăm trang sử. Mười bốn tuổi học hết Ngũ Kinh,
một ngày làm mười bài phú khơng cần viết nháp”
<i>[9]. Trong cơng trình nghiên cứu Trí thức Việt Nam </i>
<i>xưa và nay, tác giả Văn Tân đã nhận định: "Lê Quý </i>
Đôn là nhà bác học lớn nhất của nước Việt Nam
thời phong kiến. Suốt đời ông tỏ ra là một người
đọc sách không biết mệt mỏi và viết sách không
mệt mỏi"[11].
Xuất thân trong gia đình dịng dõi quan lại và những
tố chất cá nhân mang tính thiên bẩm đã có sự ảnh
hưởng rất lớn đến tư tưởng Lê Q Đơn nói chung
và tư tưởng về dân của ơng nói riêng.
<b>2.2. Điều kiện kinh tế - xã hội</b>
Lê Quý Đôn sinh ra và lớn lên trong một giai đoạn
lịch sử có rất nhiều biến động. Từ nửa cuối thế kỷ
XVII kinh tế - xã hội nước ta bước vào giai đoạn
khủng hoảng trầm trọng. Để phục vụ cho chiến
tranh và ăn chơi xa xỉ của giới quý tộc. Triều đình
bị bần cùng hóa trên quy mơ lớn. “Dưới gánh nặng
của thuế khóa lao dịch và các vụ chiếm đoạt đất
đai, người nông nghèo phải chạy trốn khỏi làng
mạc để rồi lang thang từ trấn này sang trấn khác
hay tới xin tá túc trong các trang trại của các ông
lớn. Sự xiêu tán này lại đẩy nhanh diễn tiến tập
trung hóa đất đai… dẫn đến một loạt các cuộc nổi
<i>dậy của nông dân” [8].</i>
Cũng như nông nghiệp, thủ cơng nghiệp vào thời
kì này có nhiều thay đổi quan trọng, nghề cũ phát
triển, nghề mới phát triển, gắn với nhu cầu ngày
càng nhiều của tầng lớp quý tộc. Thương nghiệp
phát triển mạnh với sự thông thương hàng hóa với
tàu bn của các nước châu Âu.
Trong giai đoạn thế kỷ XVII - XVIII bộ máy chính
quyền phong kiến từ trung ương đến địa phương
đều thối nát và đứng trước bờ vực của sự tan rã.
Vua Lê bù nhìn, chúa Trịnh ăn chơi sa đọa, quần
thần lộng quyền ra sức vơ vét bóc lột nhân dân.
Bấy giờ đã dẫn kiêu binh nổi loạn, một biến cố
chưa từng có trong lịch sử chế độ phong kiến Việt
Nam từ trước đến nay. Chính điều này đã phản ánh
hiện thực chế độ phong kiến mục nát, loạn lạc cuối
thể kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII.
cổ người dân, trong khi làng xã để mặc cho các
hương chức thao túng” [8].
Đến giữa thế kỷ XVIII triều đình phong kiến Đàng
Trong cũng giống như Đàng Ngoài đã rơi vào giai
đoạn khủng hoảng trầm trọng. Chúa Nguyễn và
bọn quan lại quý tộc đã lao vào cuộc sống xa xỉ và
bạo tàn. Theo Lê Q Đơn miêu tả thì thành Phú
Xuân đầy rẫy cung điện nguy nga “Đài cao rực rỡ,
mà giải võ, tường bao quanh, cửa bốn bề, chạm
khắc vẽ vời, khéo đẹp cùng cực. Các nhà đều lát
nền bằng đá, trên lát ván kiền kiện... vườn sau
thì núi giả đá q, ao vng hồ quanh, cầu vịng
thủy tạ, tường trong tường ngồi đều xây dầy mấy
thước, lấy vôi và mảnh sứ đắp thành hình rồng,
phượng, lân, hổ, cỏ hoa... còn nhà vườn của các
cơng hầu quyền q thì chia bày ở hai bờ thượng
lưu sông Phú Xuân, cùng hai bờ sông con bên hữu
phủ Cam” [6].
Họ Trịnh ở Đàng Ngồi, họ Nguyễn Đàng Trong,
đều dựa vào tấm bình phong là vua Lê để che đậy
mưu đồ riêng của mình. Nhân danh vua Lê hai bên
giao tranh với nhau trong suốt 50 năm, họ Nguyễn
cho rằng tiến hành chiến tranh tiêu diệt họ Trịnh
là để trả lại vua Lê thực quyền đã bị họ Trịnh tiếm
đoạt, còn họ Trịnh cho rằng tiến quân trinh phạt là
để bắt họ Nguyễn phục tùng vua Lê. “Từ năm 1627
đến 1672 đã có không dưới bảy cuộc giao tranh
Sự suy đồi của chế độ phong kiến Việt Nam lúc bấy
giờ đã dẫn tới hàng loạt các cuộc nổi dậy của nông
dân như: Cuộc nổi dạy của người Nùng ở Tuyên
Quang (1686), cuộc nổi dạy của người Thái ở Lai
Châu (1721), nhà sư Nguyễn Dương Hùng nổi dạy
ở Tam Đảo (1737), nổi dạy của Nguyễn Hữu Cầu,
Nguyễn Danh Phương, Lê Duy Mật, đặc biệt là
khởi nghĩa Tây Sơn của Nguyễn Huệ… Chính từ
nguồn gốc gia đình và thực tiễn điều kiện kinh tế -
xã hội lúc bấy giờ đã quy định nội dung tư tưởng về
dân của Lê Quý Đôn.
<b>3. NỘI DUNG TƯ TƯỞNG CỦA LÊ QUÝ ĐƠN </b>
<b>VỀ DÂN</b>
<b>3.1. Vai trị của dân trong đời sống xã hội </b>
Lịch sử nhân loại và tiến trình lịch sử Việt Nam đã
chứng minh, nhân dân là lực lượng chính sản xuất
ra của cải vật chất trong xã hội. Những thành quả,
những giá trị vật chất và tinh thần mà xã hội có được
đều có mồ hơi, máu thịt của nhân dân mà thành.
Lê Q Đơn là nhà chính trị, nhà khoa học, nhà văn
hóa nổi tiếng trong lịch sử dân tộc Việt Nam nói
<i>khảo biện, tư tưởng lấy dân làm gốc được ông chỉ </i>
rõ: “Gốc của nước là dân, mệnh của vua cũng là
dân. Bọn cường thần gây loạn bên trong, nước thù
địch quấy rối bên ngồi, điều đó chưa đáng lo lắm.
Chỉ khi lòng dân dao động mới là điều rất đáng sợ”
[5]. Chúng ta thấy, Lê Quý Đôn đánh giá rất đúng
bản chất và đề cao vai trị sức mạnh của dân. Theo
ơng, dân là cội nguồn, gốc rễ của đất nước và cũng
chính dân đảm bảo cho uy quyền, địa vị của Vua.
Nắm bắt được quy luật phát triển của lịch sử và
từ thực tiễn lịch sử của thời đại, Lê Q Đơn đã
đánh giá rất đúng vai trị của dân. Theo ông, dân
không chỉ là những người làm ra của cải vật chất
để ni sống chính mình mà cịn ni sống bộ máy
cai trị và tồn xã hội. Những thành quả, những giá
trị vật chất và tinh thần ở mỗi giai đoạn mà xã hội
có được, chủ yếu là từ mồ hơi, máu thịt của nhân
<i>dân mà thành “Dân là gốc của nước. Gốc có vững </i>
thì nước mới n… Vua lãnh đạo dân, bảo gì dân
cũng làm theo, dân cống hiến cho vua hưởng thụ.
Nếu không để ý tới dân, chỉ thả mình theo ý riêng
Như vậy, chúng ta thấy Lê Q Đơn đã nhận thức
và chỉ rõ vai trị, vị trí của dân trong sự nghiệp bảo
vệ Tổ quốc, xây dựng đất nước, đối với sự ổn định
và phát triển của xã hội.
<b>3.2. Những yêu cầu đối với giai cấp thống trị </b>
<b>trong việc trị nước, an dân theo quan điểm của </b>
<b>Lê Quý Đôn</b>
cải, vì đó là mồ hơi xương máu của dân, phải biết
chăm dân, dưỡng dân… “lúc dân đang bị hạn lụt
tang hoang sao lại bắt dân đi xây thành đắp lũy” [4].
Đối với Lê Quý Đôn, vua, quan, công hầu, khanh
tướng hàng ngày ăn uống, tiêu dùng là đều từ sức
dân mà ra, nếu người cầm quyền không hiểu sự vất
vả, cơ cực của dân thì sinh ra sao nhãng, phóng
dật, đã sao nhãng khơng chun tâm vào cơng việc
thì sẽ khơng biết quý trọng của cải của dân dẫn đến
tiêu dùng xa xỉ, tiêu dùng xa xỉ thì hại của, hại của thì
nhất định hại dân. Do đó, bậc thánh đế, minh vương
phải khoan thứ, giản dị, hiếu sinh khơng thích giết
người, tránh hình phạt hà khắc là đức nhân từ của
người làm vua, người cai trị đất nước, khuyến khích
nhân dân lao động sản xuất nông nghiệp, bảo vệ tài
nguyên lâm sản và thủy sản, có được như vậy thì
nhân dân no ấm, đất nước yên vui thái bình thịnh
Từ việc kính dân, trọng dân, Lê Quý Đôn cho rằng,
muốn cho dân không oán thù, nguyền rủa giai cấp
thống trị (vua, quan) thì phải làm thế nào? Duy
có giảm hình phạt, đánh nhẹ tơ thuế mà thơi, mọi
chính sách của nhà nước phải làm cho dân no đủ,
khuyến khích nhân dân lao động sản xuất, làm lịch
để dân biết thời vụ canh tác, có chính sách bảo
vệ tài nguyên, coi trọng kỹ thuật sản xuất, trị thủy
theo đúng quy luật của thủy văn. Về tài chính, nhà
nước định chính sách thuế khóa phải cơng bằng,
chi dùng nên tiết kiệm, nhẹ bớt đóng góp của dân,
nâng cao đời sống vật chất cho dân. Khi xây dựng
các chính sách lớn, triều đình nên bàn với dân và
theo ý dân “Những việc làm quan trọng (như dời
đơ) thì phải hỏi ý dân, cơng khai bàn bạc với dân
thường” [4]. Điểm đặc sắc nổi bật trong tư tưởng
của Lê Quý Đôn về dân, ông đã nhấn mạnh đến nội
hàm vấn đề, đó là cần phải biết vận dụng khoa học
để phục vụ đời sống nhân dân. Tư tưởng này của
ông khơng chỉ có ý nghĩa đối với thời đại ơng (thế
kỷ XVIII) mà nó cịn ngun giá trị đối với xã hội
ngày nay khi Việt Nam đang đẩy mạnh xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong thời đại mà cuộc Cách mạng
công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ.
Theo Lê Quý Đôn, người làm vua phải thông minh,
sáng suốt, trong sạch, giản dị, lành mạnh, tận tụy
thức tổ chức bộ máy chính quyền và những tiêu
chuẩn của đội ngũ quan lại, mối quan hệ gắn kết
giữa vua và đội ngũ quan lại. Coi đội ngũ quan lại
giúp việc trong bộ máy triều đình là nhân tố quyết
định thành bại của việc thi hành đường lối trị nước
của vua, Lê Quý Đôn cho rằng, nguyên nhân nước
yếu là do dùng người tầm thường thay chỗ người
hiền tài. Ông cảnh báo việc người làm vua chỉ thích
dùng người giống mình, dùng kẻ hương nguyện,
khơng thích người tân tiến sẽ khiến người tài bị
hao mịn tráng chí, ngun khí của quốc gia bị hao
tổn, dẫn tới sự suy yếu của thế nước. “Trong nước
bình yên hay loạn lạc là do ở các quan tài giỏi hay
ươn hèn. Được người tài giỏi gánh vác thì nước
bình yên, thịnh trị, bị kẻ thân cận có đức xấu, tranh
quyền cướp chức thì nước loạn” [4]. Đề cao việc
trọng dụng người tài trong đạo làm vua, Lê Quý
Đôn quan niệm bậc minh quân phải tùy tài mà trao
chức. Ông phân biệt ra ba loại người tài để tuỳ theo
mỗi loại mà dùng cho đúng mục đích, sở trường
của họ: Hạng tài năng, độ lượng siêu việt xuất
chúng; hạng bình thường, khơng có lỗi và hạng
<b>4. Ý NGHĨA TƯ TƯỞNG THÂN DÂN CỦA LÊ </b>
<b>QUÝ ĐÔN TRONG VIỆC XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ </b>
<b>CÁN BỘ GIAI ĐOẠN HIỆN NAY</b>
Thế kỷ XVIII, Lê Quý Đơn đã có tư tưởng hết sức
đúng đắn, tiến bộ về vai trị, vị trí của dân trong đời
sống xã hội. Từ đó ơng đã có một u cầu hết sức
căn bản đối với giai cấp thống trị đó là phải biết
khoan thư sức dân, lấy dân làm gốc, phải thi hành
<i>chính sách “nhân chính” thì mới có thể xây dựng </i>
một đất nước thái bình, thịnh trị. Chỉ có điều, trong
tư tưởng nhân văn này việc kính dân, trọng dân,
dân là gốc của nước cuối cùng đi đến mục đích vì
sự thịnh trị của vương triều, của hoàng tộc để bảo
vệ quyền lợi giai cấp thống trị.
Thế kỷ XX, Chủ tịch Hồ Chí Minh - anh hùng giải
phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, người
sáng lập và lãnh đạo Đảng ta giành những thắng
lợi to lớn trong cơng cuộc đấu tranh giải phóng đất
nước, hơn ai hết Bác Hồ hiểu được vị trí, vai trò và
sức mạnh to lớn của nhân dân. Theo Bác, quần
chúng nhân dân là những con người làm nên lịch
sử, vì vậy phải tin vào dân, gần gũi nhân dân và
phải biết dựa vào dân, tất cả do dân, vì dân, đặt lợi
ích nhân dân lên trên hết. Đây là nguyên tắc đầu
tiên và quan trọng nhất bởi nước ta đã là nước dân
chủ thì: “Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu
quyền hạn đều của dân” [10]. Như Bác Hồ đã nói,
Đảng ta là tổ chức cao nhất của giai cấp công nhân
để phục vụ nhân dân, phục vụ giai cấp, phục vụ
cách mạng, chứ Đảng không phải: “Là một tổ chức
để làm quan phát tài”[10]. Mỗi cán bộ, đảng viên
Đảng và Nhà nước ta hiện nay đang đẩy mạnh
việc thực hiện Nghị quyết TW6 khóa XII của Đảng
về việc tinh giảm biên chế, sắp xếp lại một số cơ
quan Đảng và Nhà nước tại các địa phương nhằm
tăng hiệu quả phục vụ của bộ máy công quyền đối
với nhân dân và xây dựng một bộ máy cơng quyền
trong sạch do dân và vì dân, thực hiện xóa đói giảm
nghèo bền vững, xây dựng một xã hội nhân văn,
phát triển.
Kế thừa tư tưởng truyền thống của dân tộc, xuất
phát từ việc đúc kết những giá trị tư tưởng dân là
gốc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hiện nay, dưới sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nước ta
đang đẩy mạnh sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế một
<i>cách sâu rộng để đạt được mục tiêu: “dân giàu, </i>
<i>nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, Đảng </i>
ta tiếp tục khẳng định lấy dân làm gốc là bài học
kinh nghiệm hàng đầu, là cơ sở cho việc hoạch định
đường lối phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng -
Thực tiễn công tác lãnh đạo, chỉ đạo ở nước ta
hiện nay cho thấy, nơi nào cán bộ, đảng viên làm
tốt công tác dân vận, nghe dân nói, để dân bàn,
dân giám sát, dân kiểm tra và dân được thụ hưởng
từ chính sách của Nhà nước thì nơi đó dân u
cán bộ, dân tin vào Đảng. Nơi nào cán bộ xa dân,
tham ơ, nhũng nhiễu, cán bộ yếu kém, có nhiều tiêu
cực thì ở đó dân khơng tin cán bộ, có khiếu kiện,
mất trật tự an ninh xã hội. Cán bộ, đảng viên phải
nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình, dám
chịu trách nhiệm, khi có có khuyết điểm thì thật thà
tự phê bình trước nhân dân và hoan nghênh nhân
dân phê bình mình. Việc quần chúng phê bình cán
bộ đảng viên là hồn tồn có lợi và tích cực (nếu
dân tộc như Bác Hồ nói “Dễ trăm lần khơng dân
cũng chịu; Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Muốn
để dân phục thì người cán bộ đảng viên phải thực
hành cần - kiệm - liêm - chính - chí - cơng - vô - tư.
Phải xung phong làm đầu tàu gương mẫu để nhân
dân theo. Phải có tinh thần chống quan liêu - tham
nhũng - lãng phí triệt để cho Nhà nước trong sạch,
vững mạnh thì mọi lợi ích của nhân dân mới được
đảm bảo, quyền dân chủ mới có hiệu lực. Để hiện
thực hóa những nội dung đó, ngày 07/6/2012, Ban
Chấp hành Trung ương đã ban hành Quy định số
101-QĐ/TW về trách nhiệm nêu gương của cán,
bộ đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các
cấp, ngày 04/8/2017, Ban Chấp hành Trung ương
ban hành Quy định 89-QĐ/TW quy định khung
tiêu chuẩn chức danh, định hướng khung tiêu chí
đánh giá cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, ngày
của người dân và doanh nghiệp khi giải quyết cơng
việc tại các cơ quan hành chính nhà nước, nhất là
giảm chi phí, giảm thời gian giải quyết các công việc
của cá nhân, tổ chức tại cơ quan hành chính nhà
nước và bảo đảm sự hài lòng của cá nhân, tổ chức,
doanh nghiệp đối với sự phục vụ của cơ quan hành
chính nhà nước. Những kết quả đạt được đã được
người dân ghi nhận và quốc tế đánh giá cao.
Trong suốt quá trình 90 năm tổ chức và lãnh đạo
cách mạng, Đảng ta đã đúc kết nhiều bài học to lớn
về thành cơng của cách mạng Việt Nam. Trong đó,
bài học “dân làm gốc” là một trong những bài học
quan trọng hàng đầu, hết sức sâu sắc và thấm thía.
Đảng ta đã ln khẳng định sức mạnh của Đảng
là sức mạnh của quần chúng nhân dân, sức mạnh
của quần chúng nhân dân làm nên mọi thắng lợi
của cách mạng Việt Nam.
<b>5. KẾT LUẬN</b>
Xuất thân từ tầng lớp quan lại, chịu ảnh hưởng sâu
sắc của ý thức hệ phong kiến, từ quan điểm của
Tư tưởng về dân và những yêu cầu, trách nhiệm
của bộ máy cầm quyền trong việc chăm lo cho đời
sống nhân dân trên tinh thần Khoan - Giản - An
- Lạc vẫn còn giá trị đối với nước ta ngày nay và
được Đảng, Nhà nước ta vận dụng sáng tạo trong
việc xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và bộ máy
Nhà nước của dân, do dân và vì nhân dân, hướng
tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh.
<b>TÀI LIỆU THAM KHẢO</b>
[1]. <i>Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại </i>
<i>hội đại biểu Toàn quốc lần thứ VI, NXB Chính </i>
[2]. <i>Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại </i>
<i>hội đại biểu Toàn quốc lần thứ IX, NXB Chính </i>
trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[3]. <i>Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại </i>
<i>hội đại biểu Toàn quốc lần thứ XII, NXB Chính </i>
trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[4]. <i>Lê Quý Đôn (1993), Kinh thư diễn nghĩa, NXB </i>
TP. Hồ Chí Minh.
[5]. <i>Lê Q Đơn (1995), Quần thư khảo biện, NXB </i>
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
[6]. <i>Lê Quý Đôn (2007), Phủ biên tạp lục, NXB Văn </i>
hóa - Thơng tin, Hà Nội.
[7]. <i>GS. Đỗ Huy (2004), Lê Quý Đôn và các tư </i>
<i>tưởng đạo đức của ơng, Tạp chí Triết học, số </i>
6 (157), tr 16-22.
[8]. <i>Lê Thành Khôi (2014) Lịch sử Việt Nam từ </i>
<i>nguồn gốc đến giữa thế kỷ XX, NXB Thế giới.</i>
[9]. <i>Tạ Ngọc Liễn (1998), Chân dung văn hóa Việt </i>
<i>Nam, N</i>XB Thanh niên, Hà Nội.
[10]. <i>Hồ Chí Minh (2000), Hồ Chí Minh tồn tập, Tập </i>
5, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội.
[11]. Trung tâm Unesco phổ biến kiến thức văn hóa,
giáo dục cộng đồng, Hội khoa học lịch sử Việt
<i>Nam (2006),Trí thức Việt Nam xưa và nay, </i>
NXB Văn hóa - Thơng tin, Hà Nội.
<b> Phạm Văn Dự</b>
<i>- Tóm tắt quá trình đào tạo, nghiên cứu (thời điểm tốt nghiệp và chương trình đào tạo, </i>
nghiên cứu):
+ Năm 2008: Tốt nghiệp chuyên ngành Lịch sử triết học, Trường Đại học Khoa học xã hội và
Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
+ Năm 2013: Tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Triết học tại Trung Tâm đào tạo, bồi dưỡng
+ Năm 2018: Nhận bằng Tiến sĩ chuyên ngành Triết học tại Học viện Khoa học xã hội, Viện
Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam.
<i>-Tóm tắt cơng việc hiện tại: Trưởng Phịng Cơng tác sinh viên, giảng viên, khoa Giáo dục </i>
chính trị và thể chất, Trường Đại học Sao Đỏ.
<i>- Lĩnh vực quan tâm: Lịch sử tư tưởng Việt Nam.</i>
<i>- Email: </i>