Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và ý nghĩa của tư tưởng đó đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (288.11 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẢNG </b>


<b>VỚI NHÂN DÂN VÀ Ý NGHĨA CỦA TƯ TƯỞNG ĐĨ ĐỐI VỚI </b>



<b>CƠNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY</b>



<i><b>Vũ Thị Thu Huyền</b></i>*
<b>TÓM TẮT</b>


<i>Là người sáng lập và rèn luyện Đảng ta, Hồ Chí Minh luôn luôn quan tâm đến vấn đề xây </i>
<i>dựng mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Người đã chỉ rõ: Khơng có quần chúng thì </i>
<i>khơng có lực lượng. Khơng có Đảng thì khơng có người lãnh đạo, hướng dẫn, chỉ đường. Vì vậy, </i>
<i>phải củng cố mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân. Trong công cuộc đổi mới đất nước </i>
<i>với thuận lợi và khó khăn đang đặt ra hiện nay thì việc phát huy mối quan hệ giữa Đảng với quần </i>
<i>chúng nhân dân trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh càng có ý nghĩa lớn lao.</i>


<i><b>Từ khóa: Mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân</b></i>


<b>HO CHI MINH’S IDEOLOGY ON THE COMMUNIST PARTY AND THE </b>
<b>MASSES’ RELATIONSHIP AND ITS SIGNIFICANCE TO THE COUNTRY </b>


<b>INNOVATION TASK IN VIETNAM NOWADAYS</b>
<b>ABSTRACT</b>


<i>Being the founder and the trainer of the Communist Party, Ho Chi Minh was always </i>
<i>interested in constructing the relationship between the Party and the masses. He pointed out: without </i>
<i>the masses, the force would not exist. Without the Communist Party, there would be no leader, no </i>
<i>guide. Therefore, it is a must to consolidate the relationship between the Party and the masses. In </i>
<i>the country innovation task with the favorable and difficulties, promoting the Party and the masses’ </i>
<i>relationship, which is based on Ho Chi Minh’s ideology, becomes more and more significant.</i>


<i><b>Keywords: The communist party and the masses’ relationship</b></i>



<i> GV. Trường Cao đẳng Công nghệ Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh</i>
<b>1. Đặt vấn đề</b>


Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
khẳng định việc liên hệ, gắn bó mật thiết giữa
Đảng với quần chúng nhân dân là nguồn gốc
chủ yếu để tạo nên sức mạnh, là một trong
những nguyên nhân giữ vững vai trò lãnh
đạo của Đảng và làm nên những thắng lợi
của cách mạng Việt Nam. Người đã từng dạy
rằng: “Dân chúng đồng lịng, việc gì cũng làm


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

mạng Tháng 8/1945 thành công, đại thắng
Mùa xuân 1975 và ngày hôm nay chúng ta
vững vàng trên con đường xây dựng CNXH.


Ngày nay trong công cuộc đổi mới, mối
quan hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng
nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng
vẫn được Đảng và nhân dân ta tiếp tục củng cố
và phát huy trên hành trình hướng tới tương
lai. Gần 30 năm đổi mới, dưới ánh sáng của
tư tưởng Hồ Chí Minh, của Đảng, nhân dân
ta đã làm nên một đất nước Việt Nam ngày
càng có vị thế trên trường quốc tế. Tuy nhiên,
tác động của nền kinh tế thị trường cùng với
những diễn biến khó lường, phức tạp trên thế
giới, sự chống phá quyết liệt của các thế lực
thù địch bên ngoài đối với cách mạng nước


ta và đặc biệt là tình trạng suy thoái đạo đức,
quan liêu mệnh lệnh, xa rời quần chúng…
của bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên đã
khiến họ trượt dài trên con đường xa rời quần
chúng, phản bội lại lợi ích của dân, của Đảng.
Tất cả điều đó là nguyên nhân làm giảm sự
gắn bó của nhân dân đối với Đảng và Nhà
nước, tạo điều kiện thuận lợi cho chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch thực hiện “diễn
biến hịa bình” chống phá cách mạng nước ta.
Trong điều kiện ấy, trở lại với tư tưởng
Hồ Chí Minh, nghiên cứu để hiểu biết, nắm
vững và vận dụng đúng đắn tư tưởng của
Người về mối quan hệ giữa Đảng với quần
chúng nhân dân là điều hết sức cần thiết, vừa
nhằm phát huy hơn nữa sức mạnh của Đảng
với nhân dân, vừa góp phần làm tránh được
những nguy cơ trong Đảng.


<b>2. Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về </b>
<b>mối quan hệ giữa Đảng và quần chúng </b>
<b>nhân dân</b>


Với tính cách là một hình thái ý thức xã
hội, sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về
mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân


dân không phải là hiện tượng ngẫu nhiên mà
là sự phản ánh nhu cầu của cách mạng Việt
Nam. Những biến động của thế giới và xã hội


Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX
cùng với việc kế thừa, phát triển những giá trị
truyền thống dân tộc, sự dung hợp những tinh
hoa văn hóa nhân loại, kết hợp nhuần nhuyễn,
sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác –
Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, cá
nhân trong lịch sử, về mối quan hệ giữa Đảng
với nhân dân lao động trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa chính là điều kiện lịch sử xã hội và
tiền đề lý luận quan trọng cho sự hình thành
tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa
Đảng với quần chúng nhân dân.


Chính những giá trị tư tưởng được chắt
lọc, đã là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới nhận
thức và hành động của Hồ Chí Minh nói
chung và cách nhìn nhận của Người về quần
chúng nhân dân, về Đảng và mối quan hệ giữa
Đảng với quần chúng nhân dân nói riêng.


Với Hồ Chí Minh, nhân dân là gốc của
nước, là cội nguồn của cách mạng; cách mạng
là sự nghiệp của nhân dân; dân là chủ, mọi
quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Nhờ
đó, nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh giữ
một vai trị to lớn trong mọi công cuộc cách
mạng Việt Nam.


Xuất phát từ nhân dân, vì nhân dân, Hồ
Chí Minh đã đến với cách mạng Tháng Mười


Nga, đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Người
đã vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo quan
điểm về Đảng của học thuyết mác – xít để dẫn
đến sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Và, từ đó hình thành mối quan hệ máu thịt
giữa Đảng với quần chúng nhân dân như một
điều tất yếu.


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

hai thực thể Đảng và quần chúng nhân dân.
Trong mối quan hệ này thì Đảng là một thực
thể chính trị, quần chúng nhân dân là một thực
thể xã hội, không đồng nhất. Giữa hai thực thể
đó vừa có sự thống nhất, vừa có sự tác động
qua lại lẫn nhau.


<i><b> 2.1. Sự thống nhất của mối quan hệ </b></i>
<i><b>giữa Đảng với quần chúng nhân dân được </b></i>
<i><b>thể hiện:</b></i>


<i>Thứ nhất, mục tiêu của Đảng và của dân </i>


tộc, của nhân dân ta là thống nhất. Sự gắn bó
giữa Đảng với quần chúng nhân dân có cơ sở
sâu xa ở sự thống nhất về mục tiêu. Đó là độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.


Khát khao ngàn đời của dân tộc ta là độc
lập dân tộc và chỉ thực hiện được độc lập dân
tộc thì mới có điều kiện để thực hiện ấm no,
hạnh phúc và công bằng. Trải qua hàng ngàn


năm bị xâm lược, đô hộ, thống trị của bọn
phong kiến, đế quốc ngoại bang, khát vọng
của dân tộc ta là độc lập, là thoát khỏi cảnh
nơ lệ của kẻ thù ngồi nước. Nhưng, chỉ đến
khi có Đảng Cộng sản lãnh đạo thì khát vọng
độc lập của dân tộc mới thực hiện được. Với
sự dẫn đường và tiên phong của Đảng, nhiệm
vụ giải phóng dân tộc do nhân dân tiến hành
đã hoàn toàn thắng lợi. Trên con đường đi đó,
lý tưởng về một đất nước hồ bình, độc lập, tự
do, hạnh phúc, dân chủ, công bằng, văn minh
đã trở thành mục tiêu chung mà Đảng và nhân
dân cùng phấn đấu thực hiện.


Nhận thức được sức mạnh to lớn và vai
trò của nhân dân, ngay từ khi mới ra đời,
Đảng đã không ngừng đấu tranh cho nền độc
lập, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Toàn bộ
nghị lực của Đảng, toàn bộ sự phấn đấu, hy
sinh của các thế hệ đảng viên đều hướng vào
mục tiêu giải phóng dân tộc, giải phóng nhân
dân, giành độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân
dân. Trong những khúc quanh co của lịch sử,


Đảng ta ln thể hiện bản lĩnh chính trị vững
vàng, trách nhiệm to lớn đối với nhân dân, đối
với vận mệnh của dân tộc. Trong công cuộc
xây dựng đất nước, Đảng không ngừng chăm
lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân,
phát huy vai trò làm chủ của nhân dân trong


khối đại đồn kết dân tộc. Đảng ln ý thức
rằng, chăm lo nhu cầu, lợi ích của nhân dân
nhất là nhân dân lao động, là mục tiêu, động
lực to lớn của cách mạng nước ta.


Đảng thực hiên mục tiêu lý tưởng của mình
cũng chính là thực hiện mục tiêu lý tưởng của
nhân dân, của dân tộc, của Tổ quốc nên nó có
cơ sở khách quan bền vững. Vì thế mà nhân
dân gắn bó với Đảng, cùng với Đảng, thừa
nhận sự lãnh đạo của Đảng làm cách mạng


<i>Thứ hai, lợi ích của Đảng, của quần chúng </i>


nhân dân và của cả dân tộc là một, là thống nhất.
Không chỉ thống nhất về mục tiêu, mà
Đảng với quần chúng nhân dân cịn có sự
thống nhất về lợi ích. Đảng ta là người đại
diện trung thành cho lợi ích của giai cấp công
nhân, của nhân dân lao động và của cả dân
<i>tộc Việt Nam. Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm </i>


<i>việc, Hồ Chí Minh đã thể hiện rõ tư tưởng của </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

Khi tiếng súng kẻ thù phương Tây xâm
lược nước ta, nhân dân ta lâm vào cảnh nước
mất, nhà tan. Thì khi ấy “độc lập cho dân tộc,
ruộng đất cho dân cày” là khẩu hiệu tranh đấu
của Đảng trong chặng đường đầu của cách
mạng, đã hàm chứa mục đích sống còn và


tiên quyết của Đảng là vì dân tộc và nhân dân.
Trên quan điểm giai cấp công nhân, ngồi
mục đích vì dân tộc, vì nhân dân, vì dân giàu,
nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh, Đảng khơng có mục đích tự thân. Đấu
tranh vì lợi ích của giai cấp cơng nhân và của
nhân dân lao động là mục đích hoạt động, là
lý do để tồn tại và là lẽ sống của Đảng.


<i>Thứ ba, Đảng với quần chúng nhân dân </i>


cùng chung một cội nguồn


Quan hệ giữa Đảng với quần chúng nhân
dân là mối quan hệ hai chiều trong một chỉnh
thể thống nhất. Ở đó, Đảng với quần chúng
nhân dân cùng chung một cội nguồn. Theo
Hồ Chí Minh, Đảng không phải từ trên trời
sa xuống mà từ quần chúng nhân dân mà ra.
Đảng cũng ở trong xã hội. Người nói: “Đồn
thể từ trung ương tới xã đều do dân tổ chức
nên” [3, tr. 299]. “Đoàn thể mình mạnh hay
yếu là ở dân”. Sở dĩ có Đảng anh hùng vì có
nhân dân anh hùng.


Đảng từ quần chúng nhân dân mà ra, nhờ
có quần chúng nhân dân mà có Đảng, Đảng
phải dựa vào quần chúng nhân dân để thực
hiện vai trò lãnh đạo của mình; quần chúng
nhân dân nhờ có sự dẫn dắt của Đảng, nhờ có


Đảng lãnh đạo thì mới có hướng đi đúng đắn
và cách mạng mới giành được thắng lợi.


Đảng với quần chúng nhân dân là hai thành
tố cơ bản gắn bó hữu cơ, là điều kiện cần và
đủ cho một cuộc cách mạng. Giữa Đảng với
quần chúng nhân dân phải có sự nương tựa
vào nhau. Lịch sử đã chứng minh chỉ có quần
chúng nhân dân mới là lực lượng trực tiếp làm


cách mạng và chỉ có Đảng Cộng sản lãnh đạo
thì quần chúng nhân dân mới tiến hành cách
mạng thành cơng. Hồ Chí Minh đã ví, Đảng
với quần chúng nhân dân như “người chèo” và
“người lái” trên con thuyền cách mạng. Nếu
chỉ có người chèo khơng có người lái cũng
khơng được. Cho nên người chèo và người
lái phải đoàn kết với nhau. Người chèo ở đây
là lực lượng, sức mạnh của quần chúng nhân
dân. Người cầm lái là Đảng, là Chính phủ, là
Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng.


<i><b> 2.2. Sự tác động qua lại giữa Đảng và </b></i>
<i><b>quần chúng nhân dân</b></i>


Bên cạnh sự thống nhất, hai thực thể Đảng
và quần chúng nhân dân cịn có những khác
biệt. Hai chủ thể này có sự tác động qua lại
nhau. Điều đó được thể hiện rõ ở vai trị của
Đảng đối với quần chúng nhân dân và vai trò


của quần chúng nhân dân đối với Đảng.


Trước hết, chúng ta xem xét vai trò của
Đảng đối với quần chúng nhân dân:


Trong mối quan hệ với quần chúng nhân
dân, Đảng là chủ thể lãnh đạo, còn quần chúng
nhân dân là đối tượng lãnh đạo. Đảng có vai
trò lãnh đạo quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã
hội, làm cho dân giàu nước mạnh.


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

hợp quần chúng nhân dân đơng đảo, biến hệ
tư tưởng khoa học đó thành hiện thực. Hồ Chí
Minh coi “cơng nơng là gốc của cách mạng”,
song cơng nơng và dân chúng nói chung phải
giác ngộ, và muốn được giác ngộ, đi từ tự
phát đến tự giác, thì phải được trang bị bởi
hệ tư tưởng của giai cấp vô sản. Do đó, phải
có Đảng cách mạng - Đảng Cộng sản.


Khi Đảng Cộng sản lãnh đạo quần chúng
nhân dân tiến hành cách mạng vơ sản, cách
mạng giải phóng dân tộc thành cơng, giành
được chính quyền, thì khơng thể dừng lại ở
đó. Mà, Đảng phải tiếp tục lãnh đạo nhân dân
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, vai
trị và trách nhiệm lãnh đạo khơng thuộc về ai
khác ngoài Đảng Cộng sản.



Đảng lãnh đạo quần chúng nhân dân ta
tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm
xây dựng thành công chế độ xã hội chủ nghĩa
ở nước ta. Chủ nghĩa xã hội là con đường đi
lên, là mục tiêu phấn đấu mà Đảng và nhân
dân ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã dứt
khoát lựa chọn.


Như vậy, cả trong sự nghiệp cách mạng
giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ
nghĩa đều thể hiện rất rõ vai trò lãnh đạo của
Đảng đối với quần chúng nhân dân. Ở đó,
Đảng là nhân tố thúc đẩy, phát huy, và nhân
lên sức mạnh của quần chúng, làm tăng hiệu
quả hoạt động của quần chúng, còn bản thân
sự nghiệp hoạt động cách mạng là của quần
chúng và do quần chúng quyết định.


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan
hệ giữa Đảng với quần chúng nhân dân, sự
tác động qua lại không chỉ là: Đảng lãnh đạo
quần chúng nhân dân thực hiện cách mạng giải
phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa,
mà còn là Đảng dựa vào dân, gắn với dân thì
mới có sức mạnh, mới làm nên thắng lợi trong


cách mạng. Điều này, nói lên vai trị to lớn của
quần chúng nhân dân đối với Đảng, vai trị đó
được thể hiện ở những luận điểm sau:



<i> Thứ nhất, quần chúng nhân dân là cội </i>
nguồn và sức mạnh của Đảng.


Trong điều kiện đặc thù của nước ta, Đảng
Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp chủ
nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân
và phong trào yêu nước. Giai cấp công nhân
Việt Nam, dân tộc Việt Nam và nhân dân Việt
Nam đã sinh ra Đảng Cộng sản Việt Nam. Do
đó, có thể nói mối quan hệ máu thịt giữa Dân
với Đảng là một trong những nhân tố cơ bản
dẫn đến sự ra đời của Đảng.


Hơn nữa, Đảng tồn tại và phát triển được
là nhờ dựa vào dân, lực lượng của Đảng có lớn
mạnh được hay khơng là do dân. Nhân dân
là người xây dựng đồng thời là người bảo vệ
Đảng, bảo vệ cán bộ của Đảng, Dân như nước
cán bộ như cá. Cá không thể sinh tồn và phát
triển được nếu như khơng có nước. Nhân dân
là người che chở, đùm bọc cho Đảng trước
mọi đàn áp, khủng bố của quân thù, trước mọi
tấn công của chủ nghĩa đế quốc.


Nhờ dựa vào quần chúng nhân dân, phát
huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân
dân, sức mạnh của Đảng ta đã trở thành vô
địch. Đảng đã tổ chức và lãnh đạo cách mạng
nước ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách,


nguy hiểm, giành nhiều thắng lợi vẻ vang
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân,
trong kháng chiến bảo vệ Tổ quốc và thành
tựu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới. Đúng
như Người đã nói: “dân chúng biết giải quyết
nhiều vấn đề một cách đơn giản, mau chóng,
đầy đủ mà những người tài giỏi, những đồn
thể to lớn nghĩ mãi khơng ra”. [3, tr.295]


<i>Thứ hai, quần chúng nhân dân là lực </i>


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

Đảng; những sáng kiến, nguyện vọng của
quần chúng nhân dân là cơ sở, là nguồn gốc,
là những gợi ý để Đảng xây dựng, hoàn thiện
và điều chỉnh đường lối chính sách.


Chúng ta biết rằng, tư tưởng tự bản thân
nó khơng làm biến đổi được thực tiễn xã hội.
Tư tưởng chỉ có giá trị khi nó dẫn đến hành
động làm biến đổi lịch sử, mà điều đó chỉ
có thể xảy ra khi nhân dân đồng lịng, nhiệt
tình và quyết tâm hành động. Điều đó cũng
có nghĩa là mọi chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng ta chỉ có ý nghĩa khi nó đi vào
cuộc sống của nhân dân, được chủ thể quần
chúng nhân dân thực hiện.


Tuy nhiên, Đảng muốn đề ra được những
chủ trương, chính sách đúng đắn thì phải bắt
nguồn từ lợi ích của quần chúng nhân dân,


cán bộ đảng viên có hịa mình trong quần
chúng, lắng nghe ý kiến của quần chúng, tìm
hiểu những tâm tư nguyện vọng của quần
chúng và quần chúng có tin yêu Đảng, đóng
góp xây dựng Đảng thì mới giúp cho Đảng
định ra những chủ trương, chính sách, đường
lối hợp với thực tế và yêu cầu nguyện vọng
của nhân dân.


Khi những sáng kiến, nguyện vọng chính
đáng của quần chúng nhân dân nâng lên thành
đường lối, chính sách thì chính nhân dân lại
là lực lượng thực hiện để chuyển những ý
tưởng đó vào đời sống thực tiễn, tìm những
phương pháp, biện pháp để thực hiện có hiệu
quả cao nhất. Nhân dân sẽ tham gia trong vai
trò là chủ thể trực tiếp của các quá trình hoạt
<i>động thực tiễn, sẽ là người phản biện các chủ </i>


<i>trương chính sách của Đảng, phát hiện, kiểm </i>


tra tính đúng đắn và sự phù hợp đối với đường
lối của Đảng. Và, thông qua việc thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng, nhân dân lại
có điều kiện cung cấp những tư tưởng, những
dữ kiện mới nảy sinh từ thực tiễn để Đảng


hồn thiện đường lối, chính sách.


Nhân dân còn là người giám sát việc thực


hiện chủ trương, đường lối của Đảng. Bằng sự
phản ánh của mình, nhân dân thực hiện chức
năng phê bình đối với Đảng, trên cơ sở đó
Đảng “dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa
chữa cán bộ và tổ chức”. [3, tr.297]. Chính
vì vậy, Hồ Chí Minh thường xun nhắc nhở
Đảng ta cần phải biết lắng nghe ý kiến của
nhân dân, phải bàn bạc, thảo luận với nhân
dân những vấn đề “quốc kế dân sinh”. Người
cho rằng: “Việc gì cũng phải hỏi ý kiến dân
chúng, cùng dân chúng bàn bạc và giải thích
cho dân chúng”. [3, tr. 294-295]


<i> Thứ ba, quần chúng nhân dân cùng Đảng </i>


tham gia chống tệ nạn tham ơ, lãng phí, quan
liêu và các tệ nạn khác trong bộ máy của Đảng
và Nhà nước.


Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng
đã thành công, Đảng ta đương nhiên trở
thành Đảng cầm quyền vì Đảng đã lãnh đạo
cách mạng trong điều kiện có chính quyền và
lãnh đạo chính quyền nhân dân một cách trực
tiếp, toàn diện. Tuy nhiên, trong điều kiện
của một Đảng cầm quyền, Hồ Chí Minh đã
cảnh báo những căn bệnh dễ phát sinh trong
Đảng. Và, thực tế đã có rất nhiều thói hư, tật
xấu nảy sinh trong Đảng, làm tha hóa Đảng.
Người chỉ ra hàng loạt những lỗi lầm nghiêm


trọng trong hàng ngũ cán bộ đảng viên, đó là
tệ tham ơ, lãng phí, quan liêu... Theo Người,
đó chính là thứ “giặc nội xâm” vì nó phá hoại
ta từ bên trong.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

vì vậy, để phịng trừ, đấu tranh với tệ tham ơ,
lãng phí, quan liêu, phương thuốc hữu hiệu
nhất là phải phát huy dân chủ, tôn trọng quyền
làm chủ của nhân dân, vận động mọi tầng lớp
nhân dân tham gia vào cuộc đấu tranh chống
tham ơ, lãng phí, quan liêu.


Người coi việc quần chúng nhân dân tham
gia vào cuộc đấu tranh chống tham ơ, lãng
phí, quan liêu là chìa khóa đi đến thắng lợi,
bởi trong cuộc đấu tranh chống những kẻ cơ
hội chủ nghĩa, những kẻ luôn luôn giấu mặt,
tinh vi và có nhiều thủ đoạn, tất yếu phải nhờ
vào tai, mắt, trí tuệ của quần chúng nhân dân.
Cho nên, vấn đề có tính chất quyết định đến
thành công hay thất bại của mặt trận chống
tham ơ, lãng phí, quan liêu là phải động viên,
tập hợp mọi lực lượng, mọi tầng lớp xã hội
tham gia vào trận tuyến vơ hình nhưng đầy
khó khăn và quyết liệt này.


<b>3. Ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh </b>
<b>về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân đối </b>
<b>với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay.</b>



Cần khẳng định rằng, củng cố và tăng
cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa
Đảng với nhân dân là một vấn đề có ý nghĩa
thiết thực, cấp bách, lại vừa có ý nghĩa chiến
lược lâu dài, là điều kiện cơ bản đảm bảo
thắng lợi của sự nghiệp cách mạng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng.


Công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam
đang ở thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước, diễn ra trong điều kiện
có nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết về
Đảng, về dân, về mối quan hệ giữa Đảng với
dân trên cơ sở tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là
sự tác động của nền kinh tế thị trường, sự
ảnh hưởng xấu từ cuộc đấu tranh dân tộc và
đấu tranh giai cấp trên thế giới, đặc biệt là sự
chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch
bên ngoài bằng các thủ đoạn diễn biến hịa


bình hết sức tinh vi, phức tạp, và đặc biệt quan
trọng hơn nữa là vấn đề suy thoái đạo đức, lối
sống của một bộ phận khơng nhỏ cán bộ đảng
viên... Tất cả điều đó ảnh hưởng nghiêm trọng
đến mối quan hệ gắn bó, mật thiết giữa Đảng
với nhân dân ở Việt Nam hiện nay.


Trong điều kiện ấy, tư tưởng Hồ Chí Minh
về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Bản thân tư tưởng


của Người đã cung cấp cho chúng ta những
nguyên lý, những nguyên tắc phương pháp
luận cơ bản để chúng ta tìm lời giải đáp cho
những vấn đề của hiện tại. Từ tinh thần ấy,
chúng tôi nhận thấy rằng tư tưởng Hồ Chí
Minh về mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân
chính là kim chỉ nam định hướng, là cơ sở
lý luận quan trọng trong việc hoạch định mọi
chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước. Từ tư tưởng của Người, Đảng
cần đặc biệt coi trọng và phát huy hơn nữa vai
trò, sức mạnh của mối quan hệ giữa Đảng với
nhân dân trong điều kiện mới. Để có thể giữ
vững và tăng cường hơn nữa mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân trong công cuộc đổi mới
ở Việt Nam hiện nay thì vấn đề quan trọng
là mọi chủ trương, đường lối, chính sách của
Đảng phải xuất phát từ nhân dân, phải quán
triệt chặt chẽ bốn nguyên tắc chủ yếu sau đây:


<i>Một là, Đảng phải thực sự lấy dân làm </i>
<i>gốc, phải thực sự phục vụ lợi ích thiết thực </i>
<i>của nhân dân.</i>


<i>Hai là, Đảng Cộng sản Việt Nam phải </i>
<i>thực sự dựa vào dân và biết phát huy đầy đủ </i>
<i>sức mạnh của quần chúng nhân dân cho sự </i>
<i>nghiệp cách mạng.</i>


<i>Ba là, Đảng cần phải phát huy quyền làm </i>


<i>chủ của nhân dân, tạo động lực đẩy mạnh </i>
<i>công cuộc đổi mới đất nước.</i>


</div>

<!--links-->

×