Tải bản đầy đủ (.pdf) (312 trang)

Khảo sát và nghiên cứu một số truyện thơ tiêu biểu của người thái ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.28 MB, 312 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------

HỒNG KHẮC NAM

Q TRÌNH PHÁT TRIỂN
QUAN HỆ VIỆT NAM-THÁI LAN (19762000)

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

Hà Nội – 2004


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

--------------------------

HỒNG KHẮC NAM

Q TRÌNH PHÁT TRIỂN
QUAN HỆ VIỆT NAM-THÁI LAN (19762000)
Chuyên ngành: Lịch sử cận đại và hiện đại
Mã số: 50304

LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. VŨ DƯƠNG NINH



Hà Nội – 2004


MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

5

DANH MỤC CÁC BẢNG

6

PHẦN MỞ ĐẦU

7

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ QUAN HỆ VIỆT NAM-THÁI LAN
TRONG LỊCH SỬ

29

1.1. Những tiền đề của quan hệ Việt Nam-Thái Lan

29


1.2. Quan hệ Việt Nam-Thái Lan trước 1883

38

1.3. Quan hệ Việt Nam-Thái Lan từ 1883 đến 1945

46

1.4. Quan hệ Việt Nam-Thái Lan từ 1945 đến 1954

52

1.5. Quan hệ Việt Nam-Thái Lan từ 1954 đến 1975

57

CHƯƠNG 2: QUAN HỆ VIỆT NAM - THÁI LAN TỪ 1976 ĐẾN 1989

2.1. Bước đầu cải thiện quan hệ Việt Nam-Thái Lan (1976-1978)

73
73

2.1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực

73

2.1.2. Quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong giai đoạn 1976-1978

79


2.2. Sự trở lại tình trạng đối đầu trong quan hệ Việt Nam-Thái
Lan (1979-1985)

88

2.2.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực

89

2.2.2. Quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong giai đoạn 1979-1985

95

3


2.3. Bước chuyển sang hoà dịu trong quan hệ Việt Nam-Thái
Lan (1985-1989)

110

2.3.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực

110

2.3.2. Quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong giai đoạn 1985-1989

115


CHƯƠNG 3: QUAN HỆ VIỆT NAM-THÁI LAN TỪ 1989 ĐẾN 2000

3.1. Sự khẳng định xu thế hoà dịu và hợp tác trong quan hệ Việt
Nam-Thái Lan (1989-1995)

130
130

3.1.1. Bối cảnh quốc tế

130

3.1.2. Quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong quan hệ Việt NamASEAN

138

3.1.3. Quan hệ song phương Việt Nam-Thái Lan từ 1989 đến
1995

144

3.2. Sự hợp tác cùng phát triển trong quan hệ Việt Nam-Thái
Lan (1995-2000)

159

3.2.1. Bối cảnh quốc tế

159


3.2.2. Quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong ASEAN

164

3.2.3. Quan hệ song phương Việt Nam-Thái Lan từ 1995 đến
2000

171

PHẦN KẾT LUẬN

194

DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ ĐƯỢC
CÔNG BỐ

207

TÀI LIỆU THAM KHẢO

208

PHỤ LỤC

224

4


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AFTA

Khu vực thương mại tự do

ASEAN Free Trade Area

ASEAN
AIA

ASEAN Investment Area

Khu vực đầu tư ASEAN

AICO

Agreement on Industrial

Chương trình hợp tác cơng nghiệp

Cooperation

ASEAN

ASEAN Inter-Parliamentary

Tổ chức liên minh Quốc hội

Organization

ASEAN


AMF

Asian Monetary Fund

Qũy Tiền tệ Châu Á

APEC

Asia Pacific Economic

Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á–

Cooperation

Thái Bình Dương

ASEAN Regional Forum

Diễn đàn khu vực ASEAN

AIPO

ARF

ASEAN Association of South East Asian

Hiệp hội các nước Đông Nam Á

Nations

ASEM

Asia-Europe Meeting

Hội nghị Á-Âu

EAEG

East Asian Economic Group

Nhóm kinh tế Đơng Á

EU

European Union

Liên minh Châu Âu

IMF

International Monetary Fund

Quỹ Tiền tệ quốc tế

JIM

Jakarta Informal Meeting

Hội nghị khơng chính thức Gia các
ta về Campuchia


NIE

New Industrial Economy

Nền kinh tế mới cơng nghiệp hố

SEATO

Southeast Asian Treaty

Tổ chức Hiệp ước Đông Nam Á

Organization
WB

Ngân hàng thế giới

World Bank

5


WTO

Tổ chức Thương mại thế giới

World Trade Organization

DANH MỤC CÁC BẢNG

Trang
Bảng 1.1: Mức độ tham gia về quân sự của Thái Lan vào
chiến tranh Việt Nam trong thời gian 1964-1973

61

Bảng 2.1: Quan hệ thương mại giữa Thái Lan và Việt Nam
từ 1978 đến 1983

109

Bảng 2.2: Quan hệ thương mại giữa Thái Lan và Việt Nam
từ 1985 đến 1988

118

Bảng 3.1: Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Thái Lan
từ 1990 đến 1995

151

Bảng 3.2: Đầu tư trực tiếp của Thái Lan vào Việt Nam
từ 1991 đến 1995

152

Bảng 3.3: Quan hệ thương mại giữa Việt Nam-Thái Lan
từ 1995 đến 2000

182


Bảng 3.4: Đầu tư trực tiếp theo ngành của Thái Lan ở Việt Nam

6

187


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Mục đích và ý nghĩa của đề tài
Theo quy luật tồn tại và phát triển của nhân loại, theo quy luật hình
thành và vận động của quốc gia, nhu cầu phát triển quan hệ với bên ngoài của
mọi quốc gia, mọi dân tộc là một hiện tượng tất yếu. Tất yếu bởi đó khơng chỉ
là điều kiện để con người tồn tại và phát triển mà còn là cơ sở để quốc gia
hình thành và vận động. Con người không thể sống biệt lập cũng như quốc
gia không thể thiếu hoạt động đối ngoại.
Lịch sử đã chứng tỏ điều này. Cùng với sự phát triển của con người và
sự vận động của thế giới là quá trình mở rộng quan hệ đối ngoại. Trong một
chừng mực nào đó, có thể coi lịch sử các quốc gia là lịch sử của những quá
trình nội tại và phát triển quan hệ với bên ngoài. Điều này lại càng đặc biệt có
ý nghĩa trong bối cảnh ngày nay khi thế giới ngày càng trở nên thống nhất,
các liên hệ xuyên quốc gia ngày càng tràn ngập, sự hoà quyện giữa hai quá
trình ngày càng sâu sắc.
Giờ đây, quan hệ đối ngoại đã trở thành một hoạt động mang tính sống
cịn đối với sự tồn vong của mọi quốc gia, dân tộc. Quan hệ giữa chúng đã trở
thành một phần thiết yếu trong đời sống của từng quốc gia, dân tộc.
Việt Nam và Thái Lan không phải là những ngoại lệ. Là một phần của
nhân loại, là những quốc gia trong cùng một khu vực của thế giới, hai nước
không thể không chịu sự chi phối của các quy luật xã hội nói trên. Dù khơng
chung địa giới nhưng mối quan hệ “láng giềng” giữa hai nước đã có một q

trình lâu đời, liên tục với các liên hệ phong phú đa diện, đa tầng. Tuy có sự
đậm nhạt khác nhau qua từng thời kỳ, song quan hệ này ln có một vị trí
quan trọng trong đời sống hai nước.

7


Hiện nay, mối quan hệ Việt Nam-Thái Lan vẫn tiếp tục có ý nghĩa quan
trọng đối với cả hai nước và khu vực. Thông qua quan hệ song phương, Việt
Nam và Thái Lan là yếu tố tác động trực tiếp tới sự phát triển của nước kia.
Cùng là thành viên của ASEAN, quan hệ này đóng vai trị nổi bật và có ảnh
hưởng mạnh mẽ tới các xu thế phát triển quan hệ ở Đông Nam Á. Thông qua
sự tương tác trong hệ thống các quan hệ quốc tế, quan hệ này cịn có ý nghĩa
như mơi trường tồn tại và phát triển của cả hai nước.
Với tầm quan trọng như vậy, quá trình quan hệ Việt Nam-Thái Lan từ
năm 1976 đến năm 2000 đã được chọn làm đề tài cho luận án tiến sĩ này. Đây
là đề tài vừa có tính lịch sử, vừa có ý nghĩa hiện đại. Thơng qua việc tái hiện
và khảo cứu q trình quan hệ Việt Nam-Thái Lan từ năm 1976 đến năm
2000, đề tài sẽ giúp vạch ra những cơ sở lịch sử cũng như bản chất và đặc
điểm của mối quan hệ này. Đồng thời, từ việc nghiên cứu tiến trình vận động
của quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong lịch sử, đề tài cũng giúp làm sáng tỏ
động lực phát triển và những yếu tố tác động tới quan hệ trên. Từ đó, có thể
dự báo triển vọng và chỉ ra những thuận lợi khó khăn trong quan hệ này.
Với mục đích nghiên cứu như trên, đề tài này vừa mang ý nghĩa khoa
học, vừa mang ý nghĩa chính trị. Về mặt khoa học, việc nghiên cứu đề tài này
là sự đóng góp cho việc xây dựng cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
lịch sử quan hệ quốc tế và lịch sử quan hệ đối ngoại của Việt Nam. Trong khi
đó, ý nghĩa chính trị của đề tài này là sự đóng góp cho việc hoạch định đường
lối đối ngoại nói chung, cho chính sách phát triển quan hệ với Thái Lan nói
riêng trên con đường tăng cường hợp tác khu vực và hội nhập kinh tế quốc tế

của đất nước ta hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Tình hình nghiên cứu ở trong nước

8


Do vị trí địa lý gần gũi, mối quan hệ giữa hai nước đã được hình thành
từ lâu, hai bên đã sớm nhận thức được tầm quan trọng đối với nhau, Thái Lan
đã trở thành một đối tượng nghiên cứu được quan tâm khá sớm ở nước ta.
Trong các sách sử cổ liên quan đến đề tài này, có thể chia ra làm hai loại
chính. Thứ nhất, đó là các bộ biên niên sử lớn như “Đại Việt sử ký tồn thư”
của Ngơ Sĩ Liên, “Việt sử thơng giám cương mục” và “Đại Nam thực lục” của
Quốc sử quán triều Nguyễn. Thứ hai, đó là các thư tịch cổ như “Dư địa chí”
của Nguyễn Trãi, “Vân đài loại ngữ” của Lê Q Đơn, “Lịch triều hiến
chương loại chí” của Phan Huy Chú hay “Đại Nam liệt truyện chính biên”
của Quốc sử quán triều Nguyễn... Trong khi các bộ biên niên sử chủ yếu ghi
chép các sử liệu liên quan trực tiếp đến quan hệ giữa Việt Nam và Thái Lan
thì nguồn sử liệu sau lại chú ý nhiều hơn đến đất nước và con người Thái Lan.
Nếu trong thời nhà Lê, các sử liệu về Thái Lan và quan hệ Việt Nam-Thái
Lan cịn tương đối ít ỏi thì đến thời nhà Nguyễn, các sử liệu này đã tăng lên cả
về chất lẫn lượng, phản ánh mối quan hệ Xiêm-Nguyễn đã tương đối phát
triển.
Trước năm 1975, do đất nước ta đang ở trong tình trạng chiến tranh nên
việc nghiên cứu Thái Lan khơng phát triển lắm. Khơng có nhiều cơng trình
chun khảo về Thái Lan. Các tác phẩm viết về Thái Lan chủ yếu là những
bài báo khai thác khía cạnh coi Thái Lan như thuộc địa kiểu mới và là công cụ
của Mỹ trong chiến tranh xâm lược Việt Nam. Bên cạnh đó, cũng có một số
tác phẩm khác đề cập đến phương diện quan hệ nhân dân-nhân dân giữa hai
nước như hoạt động của Bác Hồ và Việt kiều tại Thái Lan. Ví dụ, “Bác HồHồi ký” (1960), “Cuộc vận động cứu quốc của Việt kiều ở Thái Lan” của Lê

Mạnh Trinh (1961), tập hồi ký “Đầu nguồn” (1975), “Đường Bác Hồ đi cứu
nước” (1975),...
Sau năm 1976, do nhu cầu cải thiện quan hệ giữa hai nước, việc nghiên
cứu Thái Lan bắt đầu được quan tâm nhiều hơn và cũng được tiến hành có hệ

9


thống hơn. Bước sang thập kỷ 80, do sự nổi lên của quan hệ Việt Nam-Thái
Lan xung quanh “vấn đề Campuchia”, việc nghiên cứu về Thái Lan nói
chung, mối quan hệ Việt Nam-Thái Lan nói riêng càng được chú ý. Biểu hiện
rõ nét nhất là việc hội nghị khoa học về Thái Lan lần đầu tiên đã được Ban
Đông Nam Á thuộc Uỷ ban Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức năm 1980. Từ
khi công cuộc Đổi mới bắt đầu ở nước ta, do nhu cầu cải thiện quan hệ đối
ngoại của nước ta trong khu vực, việc nghiên cứu về Thái Lan và quan hệ
Việt Nam-Thái Lan ngày càng được đẩy mạnh. Đến đầu thập kỷ 90, trước
triển vọng cải thiện quan hệ Việt Nam-Thái Lan, việc nghiên cứu chủ đề này
đã có sự phát triển mạnh mẽ. Tháng 2/1991, Hội thảo khoa học “Việt NamThái Lan: Truyền thống và hiện đại” đã được tổ chức tại Hà Nội... Cho đến
nay, việc nghiên cứu Thái Lan ở Việt Nam đã tương đối phát triển cả về bề
rộng lẫn bề sâu. Yêu cầu của xã hội và đòi hỏi của tình hình mới đã thúc đẩy
việc nghiên cứu Thái Lan và quan hệ Việt Nam-Thái Lan.
Về đại thể, có thể chia các tác phẩm nghiên cứu về quan hệ Việt NamThái Lan thành hai nhóm. Thứ nhất, đó là các tác phẩm nghiên cứu về các
mặt của đất nước Thái Lan. Thứ hai là các tác phẩm nghiên cứu trực tiếp về
quan hệ Việt Nam-Thái Lan.
Trong nhóm thứ nhất, có các tác phẩm mang tính tổng quan như “Thái
Lan - một số nét về chính trị, kinh tế-xã hội” của Nguyễn Khắc Viện (1988),
“Vương quốc Thái Lan: Lịch sử và hiện tại” (1990) của Vũ Dương Ninh,
“Lịch sử Thái Lan từ thế kỷ XVI đến những năm của thập niên 80” (1993) của
Huỳnh Văn Tòng, “Lịch sử Vương quốc Thái Lan” (1995) của Lê Văn Quang,
“Lịch sử Thái Lan” (1998) do Nguyễn Tương Lai và Phạm Nguyên Long chủ

biên, “Thái Lan: Truyền thống và hiện đại” (1998) do Nguyễn Tương Lai chủ
biên... Bên cạnh đó là các tác phẩm nghiên cứu về từng mặt khác nhau của
Thái Lan như “Kinh tế Thái Lan” (1988) của Viện Nghiên cứu Quản lý kinh
tế Trung ương, “Kinh tế Vương quốc Thái Lan” (1992) của Lâm Quang

10


Hun, “Tìm hiểu văn hố Thái Lan” (1994) của nhiều tác giả... Mặc dù quan
hệ Việt Nam-Thái Lan chỉ là một phần khơng lớn và được trình bày tương đối
khái quát, song các nghiên cứu này đã giúp ích cho việc nghiên cứu quan hệ
Việt Nam-Thái Lan. Các tác phẩm này khơng chỉ đem lại cái nhìn tổng quan
về tiến trình lịch sử của mối quan hệ đó mà cịn cung cấp kiến thức phong phú
về Thái Lan – một chủ thể trong quan hệ này.
Trong nhóm này, đáng tiếc là chưa có một cơng trình tổng quan nào tập
trung nghiên cứu về chính sách đối ngoại và lịch sử quan hệ quốc tế của Thái
Lan. Cũng có những cơng trình đề cập tới lĩnh vực đối ngoại của Thái Lan
song hướng nghiên cứu lại tập trung vào vấn đề quan hệ khác như luận văn
Phó tiến sĩ của Nguyễn Thu Mỹ “Thái Lan trong chính sách Đơng Dương của
Cộng hoà nhân dân Trung Hoa”, “Mối quan hệ giữa Mỹ và Thái Lan trước
những diễn biến ở Đông Dương từ năm 1975 đến nay” của Nguyễn Khánh
Vân... Mặc dù vậy, các cơng trình này đã góp phần đáng kể trong việc tìm
hiểu động thái đối ngoại của Thái Lan cũng như những yếu tố bên ngoài tác
động tới quan hệ Việt Nam-Thái Lan.
Trong nhóm tác phẩm thứ hai, việc nghiên cứu chủ yếu đi theo hai
hướng. Hướng thứ nhất là nghiên cứu quan hệ Việt Nam-Thái Lan như một
phần trong tổng thể quan hệ đối ngoại nào đó, mà ở đây chủ yếu là trong quan
hệ Việt Nam với các nước Đông Nam Á. Hướng thứ hai là nghiên cứu trực
tiếp về quan hệ Việt Nam-Thái Lan. Có khá nhiều cơng trình nghiên cứu có
giá trị đi theo hướng đầu tiên. Có thể nêu lên một số tác phẩm điển hình như

“Về mối quan hệ giữa các nước ASEAN với các nước Đông Dương” (1990)
của Nguyễn Quốc Hùng, “Lịch sử bang giao Việt Nam-Đông Nam Á” (1993)
của Phan Lạc Tuyên, “Việt Nam-ASEAN” (1996) do Phạm Đức Thành làm
chủ biên, “ASEAN và sự hội nhập của Việt Nam” (1997) do Đào Huy Ngọc
làm chủ biên, “Việt Nam-ASEAN: Cơ hội và thách thức” (1998) do Phạm Đức
Thành làm chủ biên, “Quan hệ thương mại-đầu tư giữa Việt Nam và các nước

11


thành viên ASEAN” (1998) của Võ Thanh Thu, “Hội nhập Việt Nam-ASEAN:
Tiến trình, thực trạng và những vấn đề đặt ra” (2002) của Vũ Dương Ninh...
Với cách tiếp cận khu vực và do yêu cầu nghiên cứu tổng thể, các cơng trình
này khơng tập trung đi sâu vào quan hệ Việt Nam-Thái Lan nhưng lại giúp
thấy được những tương tác giữa môi trường khu vực với mối quan hệ này.
Hướng thứ hai trong nhóm này là các chuyên khảo có chủ đề chính là
quan hệ Việt Nam-Thái Lan. Đây là hướng nghiên cứu gần gũi nhất với đề tài
của luận án. Với khách thể như vậy, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của các
cơng trình này tương đối đa dạng. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu toàn diện quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong khoảng thời gian sau
năm 1976. Các cơng trình đã có hoặc nghiên cứu tổng thể quá trình quan hệ
nhưng trong khoảng thời gian hẹp hơn, hoặc tập trung nghiên cứu một lĩnh
vực tương tác hay một vấn đề cụ thể nào đó.
Trong các cơng trình nghiên cứu mang tính tổng quan về quan hệ Việt
Nam-Thái Lan, gần gũi nhất với đề tài có cơng trình nghiên cứu “Quan hệ
Việt Nam-Thái Lan trong những năm 90” (2001) do Nguyễn Tương Lai làm
chủ biên. Đây là một cuốn sách chuyên khảo gần như duy nhất về đề tài này
và đề cập tương đối bao quát về quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong các lĩnh
vực chủ yếu. Cơng trình cũng phân tích các nhân tố chế định mối quan hệ này
như chính sách của các nước lớn, của ASEAN và quá trình phát triển quan hệ

giữa hai nước trong lịch sử. Đồng thời, cơng trình này cũng đưa ra những dự
báo về triển vọng của mối quan hệ Việt Nam-Thái Lan.
Ở nước ta, cơng trình nghiên cứu tổng quan ở dạng sách về đề tài này là
khá ít ỏi. Trong khi đó, các bài viết về những vấn đề cụ thể hay lĩnh vực nào
đó trong quan hệ Việt Nam-Thái Lan lại phổ biến hơn nhiều. Các cơng trình
này được đăng chủ yếu trên các tạp chí như Nghiên cứu Đơng Nam Á, Việt

12


Nam và Đông Nam Á ngày nay, Những vấn đề kinh tế thế giới, Nghiên cứu
kinh tế, Nghiên cứu quốc tế...
Có thể kể đến một số bài đáng chú ý như bài viết của Phạm Xuân Nam
“Tổng quan về quan hệ Việt Nam-Thái Lan: Quá khứ, hiện tại và triển vọng
tương lai” (1991) đã khái quát quá trình vận động của mối quan hệ này, từ đó
đưa ra những dự báo về chiều hướng phát triển tiếp tục. Cũng từ góc độ lịch
sử, trong bài “Cái nhìn lịch sử về quan hệ Việt Nam-Thái Lan: Vấn đề quá
khứ và lợi ích hiện nay” (1991), Dương Trung Quốc phân tích những vấn đề
lịch sử tồn tại và tác động của chúng đối với mối quan hệ này. Không chỉ đề
cập đến yếu tố lịch sử, bài viết “Quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong mối quan
hệ khu vực” (1992) của Vũ Dương Ninh còn chỉ ra tác động của yếu tố khu
vực tới sự thăng trầm trong quan hệ Việt Nam-Thái Lan. Đứng từ góc độ
phân tích chủ thể, Nguyễn Thu Mỹ đã tập trung phân tích những động thái
trong sự thay đổi chính sách của Thái Lan và tác động của nó tới quan hệ Việt
Nam-Thái Lan qua các bài viết “Chính sách “Biến Đơng Dương từ chiến
trường thành thị trường” và tác động của nó tới quan hệ kinh tế Thái LanĐông Dương” (1991) và “Thái Lan: những điều chỉnh trong chính sách đối
với Việt Nam, Lào, Campuchia trong mấy năm gần đây” (1993)…
Khi quan hệ Việt Nam-Thái Lan bắt đầu phát triển, các bài viết về khía
cạnh kinh tế của mối quan hệ này ngày càng nhiều. Bài viết của Trương Duy
Hồ về “Vai trị của ngoại thương Thái Lan đẩy mạnh buôn bán trong khu

vực” (1995) đã khảo sát tác động của chính sách thương mại Thái Lan tới khu
vực và Việt Nam. Bài viết của Nguyễn Bộ Lĩnh “Quan hệ buôn bán Việt
Nam-Thái Lan” (1996) giới thiệu và phân tích quan hệ thương mại giữa hai
nước. Trong lĩnh vực kinh tế, cịn có bài viết của Hà Huy Thành “Quan hệ
kinh tế Việt Nam-Thái Lan: 20 năm phát triển” (1997) đã điểm lại quá trình
phát triển cũng như phân tích những mặt được, mặt chưa được của sự hợp tác
kinh tế Việt Nam-Thái Lan từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Cũng

13


với mục đích này, Nguyễn Xuân Thắng trong bài viết “25 năm quan hệ kinh
tế Việt Nam-Thái Lan và triển vọng” (2001) đã tập trung nghiên cứu về quan
điểm và thực trạng của mối quan hệ kinh tế này, từ đó phân tích những vấn đề
đặt ra và dự báo triển vọng. Trên cơ sở xem xét sự phát triển nhiều mặt trong
quan hệ Việt Nam-Thái Lan, Nguyễn Diệu Hùng cũng đưa ra những nghiên
cứu khái quát về mối quan hệ này trong bài viết “Quan hệ Việt Nam-Thái Lan
từ đầu thập kỷ 90 (thế kỷ XX) tới nay” (2001)... Bên cạnh những bài viết mang
tính tổng hợp như vậy, cịn có những bài nghiên cứu đi sâu vào một số vấn đề
cụ thể như “Khủng hoảng tiền tệ Thái Lan và ảnh hưởng đến các nước trong
khu vực và Việt Nam” (1997) của Phạm Ngọc Long, “Quá trình phân định
biển Việt Nam-Thái Lan” (1998) của Nguyễn Hồng Thao....
Các lĩnh vực khác trong quan hệ Việt Nam-Thái Lan như văn hoá-xã
hội cũng thu hút được sự quan tâm của giới học giả nước ta. Điển hình là các
nghiên cứu trong “Kỷ yếu hội nghị khoa học về Thái Lan” (1980) của Ban
Đơng Nam Á, trong cuốn “Tìm hiểu văn hố lịch sử Thái Lan” (1994) và
trong khá nhiều các bài viết khác đăng trên tạp chí Nghiên cứu Đơng Nam
Á... Mặc dù các bài viết không trực tiếp bàn về quan hệ Việt Nam-Thái Lan
song các nghiên cứu này cũng giúp tìm hiểu thêm cơ sở lịch sử và văn hố-xã
hội giúp duy trì mối quan hệ giữa hai nước.

Như vậy, trong vài năm gần đây ở nước ta, việc nghiên cứu quan
hệ giữa Việt Nam với các nước Đông Nam Á, trong đó có Thái Lan đã phát
triển tương đối mạnh mẽ. Nhu cầu của xã hội và sự phong phú hơn về nguồn
tài liệu tham khảo cũng như nhiều phương pháp nghiên cứu mới đã tạo điều
kiện cho sự phát triển này. Mặc dù đề tài quan hệ Việt Nam-Thái Lan vẫn
được chú ý nhưng chưa có cơng trình chun khảo nào nghiên cứu đầy đủ về
tồn bộ q trình quan hệ trong thời gian 1976-2000. Những cơng trình
nghiên cứu mang tính khái qt cao thì khơng chủ trương chuyên sâu, những

14


cơng trình chun sâu thì lại chủ yếu đi vào một mảng quan hệ hay một lĩnh
vực hoạt động nào đó trong một khoảng thời gian nhất định.
Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Về chủ đề này ở nước ngoài, hầu hết các cơng trình đi theo hướng
nghiên cứu các mặt của đất nước Thái Lan. Ở Liên Xô trước kia, việc nghiên
cứu về Thái Lan cũng được quan tâm. Trong đó, đáng chú ý là các cơng trình
nghiên cứu tổng quan về Thái Lan như “Lịch sử hiện đại Thái Lan 19281959” (1960) của Rebricova N.V., “Lịch sử Thái Lan” (1973) của Berzin
E.O., “Thái Lan: Lịch sử kinh tế-xã hội” (1977) của Rebricova N.V., “Thái
Lan: Xã hội và Nhà nước” (1984) của Rebricova N.V. và Kalashnhikov N.I.
(1984). Ngoài ra, cịn có một số tác giả khác cũng nghiên cứu về Thái Lan
như Kassic V.B., Zibob A.B., Kornhev V.I., Dolnikova V.A., … Tình hình
nghiên cứu của các học giả Phương Tây cũng tương tự như vậy. Đã có khá
nhiều cơng trình loại này về Thái Lan như “Thái Lan” (La Thailande) (1963)
và “Tiến trình của nước Thái Lan hiện đại” (L’evolution de la Thailande
contemporainne) (1967) của Fistié Pierre, “Lịch sử Thái Lan và Campuchia”
(History of Thailand and Cambodia) (1970) của Manich M.L., “Nghiên cứu
đất nước Thái Lan” (Thailand: A country study) (1989) của Barbara Leitch
LePoer, “Lịch sử Thái Lan” (Histoire de la Thailande) (1998) của Galland

Xavier… Trong hầu hết các cơng trình trên, quan hệ Việt Nam-Thái Lan được
đề cập không nhiều song chúng lại cung cấp những cơ sở lịch sử quan trọng
để nghiên cứu quá trình của mối quan hệ này.
Vốn là một mảng đề tài quan trọng trong nghiên cứu Thái Lan, quan hệ
quốc tế và chính sách đối ngoại của Thái Lan cũng được khá quan tâm, đặc
biệt là học giả các nước lớn và một số nước ở gần Thái Lan như Ấn Độ hay
các nước Đông Nam Á. Tuy quan hệ Việt Nam-Thái Lan khơng phải là đối
tượng nghiên cứu chính nhưng mối quan hệ này thường được xem xét như

15


một phần của chính sách đối ngoại Thái Lan, trong quan hệ quốc tế ở Đông
Nam Á hoặc cụ thể hơn là trong quan hệ Việt Nam-ASEAN. Có thể nêu lên
một số cơng trình điển hình như “Thái Lan và cuộc đấu tranh vì Đơng Nam
Á” (Thailand and the Struggle for Southeast Asia) (1965) của Neuchterlein
Donald E. đã chỉ ra tầm quan trọng của mối quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong
chính sách Đơng Nam Á của Thái Lan. “Thái Lan: Trước thách thức của
những năm 1980” (Thailand: Meeting the challenge of the 1980s) (1981) của
Morell David đã đề cập đến những vấn đề trong quan hệ Việt Nam-Thái Lan
và tác động của nó đối với Thái Lan. Hay cơng trình “Chính sách đối ngoại
của Thái Lan” (The Foreign Policy of Thailand) (1990) của Neher Clark D.
đã nghiên cứu cơ sở và đặc điểm chính sách đối ngoại của Thái Lan, trong đó
có chính sách đối với Việt Nam. Cũng gần như vậy là cuốn “Chính sách đối
ngoại của Thái Lan” (1991) của tác giả người Nga Fomitrepva E.A. khi
nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Thái Lan đã đề cập đến quan hệ Việt
Nam-Thái Lan. Ngoài ra, gần gũi với đề tài cịn có các cơng trình đã giúp ích
nhiều cho việc tìm hiểu cơ chế và yếu tố tác động tới quan hệ Việt Nam-Thái
Lan như “Quân đội và chế độ chính trị ở Thái Lan 1945-1980” (1982) của
học giả Liên Xô Fedorov V.A., “Thái Lan: Nguồn gốc sự cầm quyền của giới

quân sự” (Thailand: Origins of Military Rule) (1978) của Elliott David, “Bán
dân chủ: Tiến trình của Hệ thống chính trị Thái Lan” (Demi-Democracy. The
evolution of the Thai Political System) (1997) của Likhit Dhiravegin, …
Bên cạnh đó, cũng có những cơng trình nghiên cứu quan hệ Việt NamThái Lan nhưng số lượng là khá ít ỏi. Cơng trình “Thái Lan trong năm 1980:
Đối đầu với Việt Nam và sự sụp đổ của Kriangsak” (Thailand in 1980:
Confrontation with Vietnam and the fall of Kriangsak) (1981) của Niksch
Lary A. phân tích về quan hệ Việt Nam-Thái Lan dưới thời thủ tướng
Kriangsak. Cơng trình này nghiên cứu khá sâu sắc về quá trình chuyển sang
đối đầu của quan hệ này sau khi “vấn đề Campuchia” xảy ra. “Thái Lan và

16


Đông Nam Á: mạng lưới của Cách mạng Việt Nam 1885-1954” (Thailand and
Southeast Asia: Networks of the Vietnam Revolution 1885-1954) (1999) của
Gosha Christopher là một cơng trình nghiên cứu khá công phu về sự tương tác
giữa hai nước trong bối cảnh Đông Nam Á nhưng phạm vi thời gian nghiên
cứu lại nằm ngoài khung thời gian của đề tài luận án… Nhìn chung, các cơng
trình chun khảo nghiên cứu quan hệ Việt Nam-Thái Lan là tương đối hiếm.
Trong khi đó, đối với các học giả Thái Lan, đây cũng là một đề tài khá
được quan tâm. Việc nghiên cứu Việt Nam bắt đầu phát triển trong khoảng 30
năm trở lại đây và được tiến hành chủ yếu tại các trung tâm hay viện nghiên
cứu thuộc một số trường đại học lớn của Thái Lan như Chulalongkorn,
Thammasat, Chieng Mai... Một số cuộc hội thảo liên quan đến đề tài quan hệ
Việt Nam-Thái Lan đã được tổ chức như cuộc hội thảo “Biến Đông Dương từ
chiến trường thành thị trường” ngày 28/4/1989, cuộc hội thảo về quan hệ kinh
tế của Thái Lan đối với Đông Dương được tổ chức tại Đại học Thammasat
ngày 10/6/1989, cuộc hội thảo kỷ niệm 20 năm quan hệ Thái Lan-Việt Nam
do Bộ Ngoại giao Thái Lan và Trường Đại học Thammasat tổ chức (1996)...
Khi quan hệ giữa hai nước được cải thiện, các học giả Thái Lan đã quan tâm

nhiều hơn tới việc nghiên cứu Việt Nam và quan hệ Việt Nam-Thái Lan.
Nghiên cứu của học giả Thái Lan thường quan tâm đến các vấn đề đương đại
trong quan hệ kinh tế, chính trị hơn là quá trình lịch sử quan hệ giữa hai nước.
Cũng giống như tình hình nghiên cứu đề tài này tại Việt Nam và nước
ngoài, quan hệ Việt Nam thường được nghiên cứu như một phần trong quan
hệ quốc tế ở Đông Nam Á hay trong tổng thể quan hệ đối ngoại của Thái Lan.
Ví dụ, “Cái nhìn chiến lược cho Thái Lan trong những năm 1980” (The
strategic outlook for Thailand in the 1980s) (1980) của Upadit Pachariyankun
hay “Hợp tác ASEAN-Việt Nam trong ngoại giao phòng ngừa” (ASEANVietnamese Cooperation in Preventive Diplomacy) (1995) do Sarasin
Viraphon chủ biên đã phân tích những vấn đề đang tồn tại, những thuận lợi và

17


khó khăn cũng như đánh giá triển vọng của quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong
lĩnh vực an ninh-chính trị.
Nhìn chung ở Thái Lan, các cơng trình chun khảo nghiên cứu về đề
tài này cũng không nhiều. Một trong những học giả Thái Lan nghiên cứu
nhiều về đề tài này là Thanyathip Sripana thuộc Viện Nghiên cứu Châu Á của
Trường Đại học Chulalongkorn. Các cơng trình chủ yếu của bà là “Triển vọng
đầu tư và thương mại giữa Thái Lan và Việt Nam” (1989), “Quan hệ thương
mại Thái Lan-Việt Nam: Những hạn chế vẫn đang tồn tại” (1991), “Những
khuynh hướng thương mại giữa Thái Lan với Việt Nam và các nước Đông
Dương” (1992) ... đã đề cập đến những tiềm năng và triển vọng, thuận lợi và
khó khăn trong việc phát triển quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong những năm
đầu cải thiện quan hệ. Đến khi quan hệ hai nước bắt đầu bước vào giai đoạn
phát triển, Thanyathip Sripana đã xuất bản một số cơng trình nghiên cứu mở
rộng và đi sâu vào nhiều vấn đề và lĩnh vực quan hệ. Bài viết “Thái Lan và
Việt Nam, Thái Lan với các nước láng giềng của mình” (1995) phân tích về
vai trị của Việt Nam cũng vị trí của mối quan hệ này trong chính sách khu

vực của Thái Lan. Bài “Sự phát triển quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong
những năm 1990” (1996) đánh giá những kết quả đạt được cũng như các vấn
đề đặt ra trong mối quan hệ này. Còn bài viết “20 năm quan hệ ngoại giao
Thái Lan-Việt Nam: Thái Lan và Việt Nam đã hiểu biết về nhau như thế
nào?” (1997) đề cập đến những tiến bộ mới trong việc tăng cường sự hiểu
biết lẫn nhau và xây dựng lòng tin trong quan hệ giữa hai nước. Trong bài viết
“25 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Thái Lan-Việt Nam” (2001), Thanyathip
Sripana đã khái quát quá trình chuyển đổi quan hệ này từ trạng thái thù địch
sang hợp tác hữu nghị và từ đó đã nêu lên một số vấn đề cần khắc phục để
tiếp tục phát triển quan hệ này trong tương lai...
Bên cạnh đó, cịn một số cơng trình đáng chú ý khác cũng có liên quan
đến đề tài này của các học giả Thái Lan. Theeravit Khien là một học giả Thái

18


Lan nghiên cứu về Việt Nam viết bài “Sự dính líu của các siêu cường trong
các cuộc xung đột ở Đơng Dương” (1981). Ơng đã lý giải về một trong
ngun nhân quan trọng nhất dẫn đến tính chất đối đầu trong quan hệ Thái
Lan-Việt Nam là sự can thiệp của các nước lớn. Một học giả Thái Lan khác
cũng nghiên cứu nhiều về quan hệ Việt Nam-Thái Lan là Chulacheeb
Chinwanno. Ông đã nghiên cứu khái quát về tiến trình quan hệ giữa hai nước
trong bài “Quan hệ Việt Nam-Thái Lan: Một cái nhìn tổng quan” (1991).
Trong “Hai thập kỷ quan hệ Thái Lan-Việt Nam: Từ quá khứ bất hoà đến sự
hợp tác ngày nay” (1996), ông không chỉ đánh giá tổng qt về q trình quan
hệ giữa hai nước. Ơng đã xem xét những xung đột chủ yếu trong quá khứ,
những nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi tính chất quan hệ và vấn đề hợp tác
hiện nay trong quan hệ Việt Nam-Thái Lan… Bên cạnh đó, có thể kể thêm
cuốn “Chính sách của Thái Lan đối với cuộc xung đột Việt Nam-Campuchia”
(Thailand’s Policy towards the Vietnam-Kampuchea Conflict) (1985) của

Viện Nghiên cứu Châu Á thuộc Đại học Chulalongkorn đã đề cập đến vấn đề
xung đột Thái Lan-Việt Nam xung quanh “vấn đề Campuchia”.
Nhìn chung, việc nghiên cứu đề tài quan hệ Việt Nam-Thái Lan đã
được quan tâm cùng với sự phát triển của các chuyên ngành “Thái học” và
“Việt Nam học” và khi quan hệ Việt Nam-Thái Lan ngày càng trở thành quan
trọng đối với hai nước. Mặc dù những kết quả nghiên cứu đạt được là đáng kể
song vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Hơn nữa, cũng
chưa có một cơng trình nào tiến hành nghiên cứu tổng thể quan hệ Việt NamThái Lan kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao đến nay. Vì thế, luận
án “Tiến trình quan hệ Việt Nam-Thái Lan từ 1976 đến 2000” hi vọng sẽ
đóng góp vào việc nghiên cứu đề tài này cũng như cho sự phát triển của quan
hệ Việt Nam-Thái Lan trong thực tiễn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

19


Đối tượng nghiên cứu
Lịch sử quan hệ Việt Nam-Thái Lan là một dịng chảy liên tục. Vì thế,
đối tượng nghiên cứu của luận án chính là q trình vận động của mối quan
hệ đó trong khoảng thời gian từ năm 1976 đến năm 2000. Quan hệ Việt NamThái Lan thời gian này diễn ra tương đối phức tạp. Nó thay đổi theo từng thời
kỳ, thậm chí theo từng giai đoạn nhỏ với những sắc thái khác nhau. Để làm rõ
đối tượng nghiên cứu trên, luận án cố gắng tập hợp, xử lý và hệ thống hoá tư
liệu nhằm tái hiện một cách tương đối đầy đủ quá trình diễn biến của quan hệ
Việt Nam-Thái Lan từ năm 1976 đến năm 2000. Đồng thời, trên cơ sở hệ
thống tư liệu như vậy, luận án đi vào làm rõ và phân tích tính chất cơ bản và
những đặc điểm chủ yếu của mối quan hệ này trong từng thời kỳ.
Tuy nhiên, việc nghiên cứu đối tượng trên không chỉ dừng ở việc mô
tả, khái quát và nêu lên các sắc thái khác nhau qua từng giai đoạn lịch sử mà
cịn phân tích động lực cũng như những yếu tố tác động tới tiến trình phát
triển của quan hệ Việt Nam-Thái Lan. Bên cạnh đó, trên cơ sở nhận thức

những thuận lợi, khó khăn và các vấn đề đang tồn tại trong quan hệ này, luận
án sẽ rút ra một số bài học kinh nghiệm và đề xuất một vài giải pháp hữu ích
nhằm mục đích đóng góp vào sự tiếp tục phát triển của mối quan hệ giữa hai
nước.
Quan hệ Việt Nam-Thái Lan là mối quan hệ đa diện, diễn ra đồng thời
trên nhiều lĩnh vực khác nhau như an ninh-chính trị, kinh tế, văn hố-xã hội...
Giữa các mặt quan hệ ln có sự tương giao dù mức độ mạnh yếu khác nhau
theo từng thời kỳ. Vì thế, dọc theo trục thời gian trong một tiến trình lịch sử,
đối tượng nghiên cứu trên cũng được xem xét trên các lĩnh vực khác nhau
cùng với việc phân tích tác động qua lại giữa các lĩnh vực quan hệ. Điều này
sẽ giúp cho việc nghiên cứu đối tượng trên được toàn diện hơn cũng như góp
phần lý giải những đặc điểm và tính chất trong quan hệ này.

20


Quan hệ Việt Nam-Thái Lan cũng là mối quan hệ đa tầng bởi nó được
thực hiện ở nhiều cấp độ khác nhau với sự tham gia của các lực lượng xã hội
khác nhau. Việc tìm hiểu quan hệ Việt Nam-Thái Lan trên các tầng nấc quan
hệ nhà nước, nhân dân… sẽ giúp làm rõ hơn động lực và những nhân tố bên
trong tác động tới sự vận động của mối quan hệ này. Trên cơ sở đó, luận án sẽ
góp phần làm sáng tỏ cấu trúc và cơ chế vận hành của quan hệ này.
Quan hệ quốc tế là một hiện tượng xã hội phức tạp. Là một bộ phận
trong hệ thống quan hệ quốc tế, quan hệ Việt Nam-Thái Lan luôn phải chịu
nhiều tác động to lớn từ bên ngồi với quy mơ, cường độ và những cách thức
khá đa dạng. Trong bối cảnh tồn cầu hố và sự tuỳ thuộc lẫn nhau ngày càng
tăng, quan hệ Việt Nam-Thái Lan ngày càng chịu chi phối của môi trường
quốc tế. Vì thế, đối tượng nghiên cứu của luận án được xem xét trong sự vận
động chung của bối cảnh quốc tế và khu vực. Điều này sẽ giúp tìm hiểu các
nhân tố bên ngồi có ảnh hưởng tới quan hệ Việt Nam-Thái Lan, giúp đánh

giá mức độ tác động và khả năng chi phối của chúng lên quan hệ Việt NamThái Lan cũng như khả năng điều chỉnh tác động bên ngoài của quan hệ này.
Phạm vi nghiên cứu
Giới hạn về mặt thời gian của đề tài là từ năm 1976 đến năm 2000.
Mốc mở đầu cụ thể chính là ngày 6/8/1976 khi hai nước Việt Nam và Thái
Lan thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức. Đây là một sự kiện đánh dấu sự
chấm dứt những năm tháng xung đột sâu sắc và đối đầu căng thẳng giữa hai
nước trong thời gian hai cuộc chiến tranh Đông Dương. Đây cũng là sự kiện
mở đầu cho những cơ hội cải thiện quan hệ và tăng cường hợp tác. Trong khi
đó, mốc kết thúc của luận án là năm 2000. Mốc này không đánh dấu sự thay
đổi về chất trong quan hệ Việt Nam-Thái Lan mà đây chỉ là một sự quy ước
có tính tạm thời. Vào thời điểm này, quan hệ Việt Nam-Thái Lan vẫn đang
tiếp tục phát triển. Việc lựa chọn mốc năm 2000 làm điểm kết thúc của luận

21


án chủ yếu dựa trên thời điểm chuyển giao giữa hai thiên niên kỷ và liên quan
đến thời điểm đăng ký đề tài này vào năm 2001.
Các quan hệ quốc tế thường là loại quan hệ hai hoặc đa chiều. Bởi thế,
“quan hệ Việt Nam-Thái Lan” ở đây xin được hiểu là mối quan hệ hai chiều
mà chủ yếu là quan hệ của Việt Nam đối với Thái Lan. Còn khi nói đến “quan
hệ Thái Lan-Việt Nam” là muốn nhấn mạnh những động thái quan hệ từ phía
Thái Lan.
4. Nguồn tài liệu và Phương pháp nghiên cứu.
Nguồn tài liệu
Các nguồn tài liệu được sử dụng trong luận án này bao gồm:
Thứ nhất, các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lê nin, văn kiện
Đại hội đại biểu toàn quốc Đảng Cộng sản Việt Nam, nghị quyết của Trung
ương và chỉ thị của Bộ chính trị. Đây là nguồn tư liệu quan trọng có tác dụng
định hướng nghiên cứu.

Thứ hai, các tài liệu chính thức như những văn bản của Chính phủ và
của Bộ Ngoại giao hai nước, tuyên bố chung Việt Nam-Thái Lan, hiệp định
ký kết giữa hai nước, thông cáo báo chí, các văn kiện chính thức của
ASEAN... Đây là một nguồn tư liệu quan trọng cung cấp những thơng tin cơ
bản, các sự kiện lớn một cách chính thức và xác thực
Thứ ba, diễn văn, bài phát biểu, trả lời phỏng vấn của các nhà lãnh đạo
và quan chức cấp cao hai nước... Nguồn tài liệu này có ý nghĩa lớn trong việc
tìm hiểu quan điểm và động thái của hai chủ thể trong mối quan hệ Việt NamThái Lan.
Thứ tư, tài liệu đánh giá hay báo cáo tổng hợp về quan hệ Việt NamThái Lan của một số bộ ngành ở nước ta. Các tài liệu này giúp ích rất nhiều
trong việc tìm hiểu, nghiên cứu quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong các lĩnh

22


vực quan hệ khác nhau. Chúng giúp đem lại cái nhìn tồn diện và sâu sắc về
mối quan hệ này. Hơn nữa, nguồn tài liệu này còn cung cấp những con số
thống kê trong từng mặt quan hệ, giúp thấy được sự vận động của các lĩnh
vực cụ thể trong tiến trình chung.
Thứ năm, các cơng trình nghiên cứu về quan hệ Việt Nam-ASEAN của
các học giả trong và ngoài nước. Đây là nguồn có giá trị tham khảo cho việc
nghiên cứu đề tài này không chỉ ở trong thông tin, mà còn trong phương pháp
nghiên cứu và các quan điểm đánh giá khác nhau.
Các nguồn thông tin trên được khai thác qua các sách, tạp chí nghiên
cứu, kỷ yếu hội nghị khoa học, báo chí và Internet. Các tài liệu này chủ yếu
bằng tiếng Việt, tiếng Anh và một phần bằng tiếng Nga. Các tài liệu bằng
tiếng Thái được khai thác qua bản dịch.
Phương pháp nghiên cứu
Quan hệ Việt Nam-Thái Lan từ 1976 đến 2000 là một hiện tượng xã
hội mang tính q trình. Vì thế, việc nghiên cứu đề tài này được dựa trên các
phương pháp nghiên cứu cơ bản là phương pháp duy vật biện chứng và duy

vật lịch sử. Trong đó, thế giới quan của chủ nghĩa Mác-Lê nin, quan điểm về
sự vận động của lịch sử xã hội loài người, phép biện chứng của sự phát triển,
các quy luật vận động, nguyên lý phát triển, nguyên lý về mối liên hệ phổ
biến và quan điểm toàn diện đã được áp dụng như những phương pháp nghiên
cứu chủ đạo trong bản luận án này.
Quan hệ Việt Nam-Thái Lan diễn ra gắn bó với lịch sử Việt Nam, trong
những điều kiện đặc thù của Cách mạng Việt Nam. Là một bộ phận của quan
hệ quốc tế thế giới, quan hệ Việt Nam-Thái Lan luôn chịu tác động mạnh mẽ
của mơi trường quốc tế và khu vực. Vì thế, một nền tảng tư duy quan trọng
khác được quán xuyến toàn bộ luận án là quan điểm quốc tế của Đảng ta và
các quan điểm đối ngoại trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Đó là các quan điểm

23


kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh dân tộc với
sức mạnh thời đại, tăng cường quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế...
Quan hệ Việt Nam-Thái Lan từ 1976 đến 2000 là một quá trình lịch sử.
Vì thế, các phương pháp nghiên cứu lịch sử được sử dụng chủ yếu trong luận
án. Đó là phương pháp mơ tả lịch sử nhằm tái hiện bức tranh chung và quá
trình của mối quan hệ này. Bên cạnh đó, phương pháp lịch đại đã được kết
hợp với phương pháp đồng đại trong việc trình bày quá trình quan hệ Việt
Nam-Thái Lan. Việc sử dụng phương pháp lịch đại cho thấy rõ vai trị của các
yếu tố lịch sử cũng như tính quá trình tương đối liên tục của mối quan hệ này.
Còn phương pháp đồng đại được sử dụng để nghiên cứu các yếu tố bên trong
và bên ngoài tác động tới quan hệ Việt Nam-Thái Lan. Phương pháp logiclịch sử được áp dụng nhằm lý giải các hiện tượng, phân tích động thái, tìm
hiểu ngun nhân chi phối sự vận động của tiến trình quan hệ này. Trong khi
đó, phương pháp so sánh lịch sử đã được vận dụng để làm rõ những thay đổi
về chất và lượng của mối quan hệ này qua từng thời kỳ, từng giai đoạn. Việc

tiến hành đồng thời hai phương pháp so sánh lịch sử và logic-lịch sử giúp
nhận thức được tính chất và đặc điểm của quan hệ này trong các giai đoạn lịch
sử…
Bên cạnh đó, một số phương pháp khác cũng được sử dụng trong luận
án này. Phương pháp hệ thống không chỉ đặt quan hệ Việt Nam-Thái Lan
trong tổng thể quan hệ đối ngoại của mỗi nước mà đặt nó trong bối cảnh khu
vực và quốc tế. Nhờ đó, mơi trường tác động và các lực bên ngoài chi phối
quan hệ này cũng sẽ được chỉ ra và phân tích. Trong khi đó, phương pháp cấu
trúc thì lại giúp phân tích cơ chế vận hành và đặc điểm cấu trúc của quan hệ
Việt Nam-Thái Lan. Trong từng lĩnh vực quan hệ cụ thể, một số phương pháp
khác cũng được áp dụng. Ví dụ, trong lĩnh vực an ninh-chính trị, phép chứng
minh dãy được sử dụng không chỉ để làm sáng tỏ tính q trình của hiện

24


tượng mà còn để hạn chế bớt những nhận định chủ quan mang tính siêu hình.
Hay trong lĩnh vực kinh tế, phương pháp thống kê cũng được sử dụng nhằm
phản ánh tiến trình quan hệ kinh tế giữa hai nước và làm rõ thêm các kết quả
nghiên cứu. Ngoài ra, trong quá trình thực hiện luận án, việc khảo sát thực
địa, gặp gỡ trao đổi với các học giả Thái Lan, phỏng vấn những người trực
tiếp làm công tác quan hệ Việt Nam-Thái Lan… cũng đã được tiến hành.
Không chỉ là một quá trình lịch sử, quan hệ Việt Nam-Thái Lan cũng là
một hiện tượng quan hệ quốc tế. Bởi thế, việc nghiên cứu đối tượng này cũng
được kết hợp với các phương pháp nghiên cứu quốc tế. Quan hệ Việt NamThái Lan đã được xem xét và nghiên cứu trên bốn cấp độ phân tích quan hệ
quốc tế: Cấp độ toàn cầu, cấp độ liên quốc gia, cấp độ quốc gia và cấp độ cá
nhân. Ngoài ra, một số phương pháp và quan điểm nghiên cứu quan hệ quốc
tế cũng đã được vận dụng trong luận án. Đó là các lý thuyết quan hệ quốc tế
hiện đại như chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do, lý thuyết về hợp tác và
hội nhập, lý thuyết về nguyên nhân xung đột quốc tế, quan điểm về hệ thống

quốc tế, các quan điểm về chủ thể và lợi ích trong quan hệ quốc tế, phương
pháp nghiên cứu chính sách đối ngoại...
Tất nhiên sự phân chia các loại phương pháp như trên chỉ mang tính
tương đối bởi khả năng kết hợp vận dụng lẫn nhau của chúng và do tính chất
liên ngành trong nghiên cứu lịch sử nói chung, lịch sử quan hệ quốc tế nói
riêng. Tuy nhiên, việc kết hợp những phương pháp này đã cho phép xem xét
quan hệ Việt Nam-Thái Lan như một cấu trúc hoàn chỉnh gồm nhiều yếu tố
tác động qua lại với nhau, vận động theo một trục thời gian, trong một môi
trường tương tác có tính biến động cao. Nó cũng giúp chúng ta nhận thức
được nguồn gốc của các sự kiện, tính chất và đặc điểm của mối quan hệ qua
những thời kỳ cũng như góp phần dự báo được những xu hướng và cái đích
mà quan hệ này sẽ tiến tới.

25


×