Tải bản đầy đủ (.pdf) (264 trang)

Tang ma của người nùng phàn slình ở tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.7 MB, 264 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC X HI V NHN VN
------------------------------------Lời cam đoan
Tôi xin cam đoan: Đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nghiên cứu trong luận án là trung thực, ch-a đ-ợc ai công bố
trong bất kỳ công trình nào.
Nghiên cứu sinh
nguyễn thị ngân

tang ma của ng-ời Nùng Phàn Slình
Nguyễn Thị Ngân
ở tỉnh thái nguyên

LUN N TIN S LCH SỬ

HÀ NỘI, 2011


MỤC LỤC
Trang
Mở đầu...........................................................................................

1

1. Lý do chọn đề tài .........................................................................

1

2. Mục đích nghiên cứu ...................................................................

2



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...............................................

3

4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .................................

4

5. Đóng góp của luận án ..................................................................

6

6. Kết cấu của luận án ......................................................................

6

Chương 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ...............

7

1.1 - Cơ sở lý thuyết .......................................................................

7

1.2 - Lịch sử nghiên cứu vấn đề .....................................................

19

1.3 - Khái niệm tang ma .................................................................


26

Tiểu kết chương 1 ........................................................................

30

Chương 2: NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở TỈNH THÁI NGUYÊN
VÀ NHỮNG QUAN NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN TANG MA....................

31

2.1- Điều kiện cư trú…....................................................................

31

2.2 - Tình hình dân cư .....................................................................

35

2.3 - Đặc điểm lịch sử, văn hoá, xã hội ..........................................

41

2.4 - Tín ngưỡng và quan niệm liên quan đến tang ma …………..

56

Tiểu kết chương 2…......................................................................


66

Chương 3: TANG MA TRUYỀN THỐNG ........................................

68

3.1 - Các loại tang ma ….................................................................

68

3.2 - Tang ma của người chết bình thường .....................................

72

3.3 - Tang ma của thầy cúng …......................................................

118


3.4 - Tang ma của người chết khơng bình thường ......................…

127

3.5 - Để tang…….........................................................……..…….

128

Tiểu kết chương 3 .........................................................................

132


Chương 4: SỰ BIẾN ĐỔI TRONG TANG MA .................................

134

4.1 - Các nội dung của sự biến đổi ................................................

134

4.2 - Nguyên nhân biến đổi tang ma ...............................................

158

4.3 - Một số vấn đề đặt ra trong tang ma ........................................

166

Tiểu kết chương 4 .........................................................................

170

Chương 5: TANG MA CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH VÀ VIỆC
XÂY DỰNG ĐỜI SỐNG MỚI .…………………………………...…

172

5.1 - Tang ma biểu hiện đạo hiếu trong gia đình …..........................

172


5.2 - Tang ma biểu hiện mối quan hệ cộng đồng …........................

174

5.3 - Tang ma phản ánh tín ngưỡng, tơn giáo tộc người .................

179

5.4 - Tang ma phản ánh nghệ thuật dân gian tộc người ..................

191

5.5 - Tang ma, nguồn sử liệu góp phần nghiên cứu lịch sử tộc người

196

5.6 - Tang ma phản ánh đời sống vật chất tộc người .........................

199

5.7 - Khai thác giá trị văn hố trong tang ma của người Nùng
Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên…....................................................

206

Tiểu kết chương 5 .........................................................................

210

Kết luận ........................................................................................


212

Những công trình cơng bố của tác giả về nội dung luận án.......

216

Tài liệu tham khảo ........................................................................

217

Danh sách nhân chứng cung cấp thông tin tư liệu điền dã dân tộc học

223

Phụ lục 1 - Tư liệu chữ viết .............................................................

228

Phụ lục 2, 3, 4, 5 - Tư liệu hình ảnh ...............................................

260


Danh mục các ký hiệu và chữ viết tắt
trong luận ¸n

BTVHCDTVN:

Bảo tàng Văn hoá các dân tộc Việt Nam


DT:

Dân tộc

DTH:

Dân tộc học

GS:

Giáo sư

KHXH:

Khoa học xã hội

Nxb:

Nhà xuất bản

PGS :

Phó giáo sư

PTS:

Phó tiến sỹ

TS:


Tiến sỹ

Tr:

Trang


MỞ ĐẦU
1 – LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Những năm gần đây, Đảng và Nhà nƣớc ta luôn chú trọng xây dựng
nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bảo tồn, phát huy
bản sắc văn hoá dân tộc trƣớc yêu cầu hội nhập và phát triển bền vững
(Nghị quyết Trung ƣơng V - khóa VIII, Nghị quyết Trung ƣơng VII - khoá
IX). Do vậy, việc nghiên cứu, khai thác kho tàng văn hoá dân tộc, trong đó,
nghi lễ chu kỳ đời ngƣời có ý nghĩa quan trọng đối với yêu cầu bảo tồn, phát
triển văn hoá Việt Nam. Trong chu kỳ đời ngƣời của ngƣời Nùng Phàn
Slình ở tỉnh Thái Nguyên, tang ma phản ánh nhiều khía cạnh của cuộc sống,
giúp chúng ta nhận diện rõ hơn về quan niệm vũ trụ, nhân sinh quan, thế
giới quan, ý nguyện tâm linh và các quy tắc ứng xử gia đình, cộng đồng tộc
ngƣời. Tang ma cũng phản ánh sâu sắc đạo hiếu, đạo nghĩa của ngƣời sống
dành cho ngƣời chết, ngƣời sống với ngƣời sống, chi phối đời sống xã hội
Nùng một cách lâu dài, bền bỉ, thậm chí trở thành những ràng buộc xã hội,
tạo nên sức cố kết cộng đồng mạnh mẽ. Vì vậy, nghiên cứu tang ma của
Nùng Phàn Slình ở Thái Ngun góp phần đáp ứng yêu cầu phải bảo tồn,
phát triển văn hố Việt Nam, trong giai đoạn hiện nay.
Thái Ngun có 63.816 ngƣời Nùng (Số liệu năm 2009) [81, tr. 162],
sinh sống ở các huyện Đồng Hỷ, Đại Từ, Định Hoá, Võ Nhai, Phú Lƣơng,
Phú Bình, trong đó ngƣời Nùng Phàn Slình chiếm 5,22% dân số tồn tỉnh.

Tang ma của ngƣời Nùng Phàn Slình hàm chứa nhiều giá trị văn hố truyền
thống. Nó phản ánh các tập tục liên quan đến văn hoá tâm linh về thân phận
con ngƣời và nhiều thông tin liên quan đến lịch sử, kinh tế, nếp sống và giao
thoa văn hoá tộc ngƣời. Chúng ta cần nghiên cứu, bảo tồn các giá trị tốt đẹp
trong tang ma và những thành tố văn hố góp phần tạo nên bản sắc tộc ngƣời.
1


Nghi lễ tang ma đã ăn sâu vào tiềm thức của ngƣời Nùng Phàn Slình, trở
thành những tập tục truyền thống. Những quy ƣớc cộng đồng tƣởng nhƣ rất
khó thay đổi, nhƣng trên thực tế, tang ma đang biến đổi cùng với sự phát triển
của xã hội. Mặc dù biến đổi chậm so với các thành tố văn hoá khác, nhƣng sự
phục hồi, biến đổi các nghi lễ đang diễn ra ở nhiều nơi khác nhau, làm cho nhiều
lễ tục tốt đẹp trong tang ma đang bị mai một theo quan niệm mới của con
ngƣời, một số hủ tục lại có cơ trỗi dậy, ảnh hƣởng đến sự phát triển của xã hội.
Tang ma truyền thống của ngƣời Nùng Phàn Slình ở tỉnh Thái
Nguyên là một hệ thống nghi lễ khá phức tạp, liên quan đến quan niệm và
con đƣờng đi của linh hồn để lý giải cho các quan niệm ấy, dƣới sự chủ trì
của thầy Tào. Tuy nhiên, các thầy "Tào", thầy "Mo" lớp trƣớc đều đã lớn
tuổi, con cái của họ không muốn kế tục nghề cúng của dịng họ, nếu có làm
thì cũng cải biên nhiều lễ tục cho phù hợp với cuộc sống mới. Trong khi đó,
một số thầy cúng khơng muốn nói và giải thích gì với ngƣời ngồi dịng họ,
vì sợ mất ma, không thể hành nghề hoặc sợ bị đƣa đi cải tạo nhƣ trƣớc đây.
Vì vậy cần có những cơng trình chuyên khảo nghiên cứu, ghi chép đầy đủ
quá trình tang ma truyền thống ngƣời Nùng Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên.
Từ những lý do trên đây, tôi đã chọn: "Tang ma của người Nùng Phàn
Slình ở tỉnh Thái Nguyên" làm đề tài luận án tiến sỹ của mình. Chúng tơi hy
vọng, cơng trình sẽ nhận diện một cách hệ thống về tang ma truyền thống, sự
biến đổi và những vấn đề bất cập trong thực tại đời sống của ngƣời Nùng Phàn
Slình, góp phần bảo tồn, phát huy các giá trị tốt đẹp trong tang ma, nêu ra các

giải pháp khắc phục những bất cập, xây dựng cơ sở khoa học cho việc ban hành
các văn bản quản lý phù hợp, góp phần giữ gìn bản sắc văn hố tộc ngƣời.
2 - MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

- Cung cấp nguồn tƣ liệu mới, tồn diện, có hệ thống về tang ma truyền
thống và biến đổi trong tang ma của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên.
2


- Nghiên cứu làm rõ quá trình tang ma truyền thống và biến đổi trong
tang ma của ngƣời Nùng Phàn Slình trong q trình giao thoa văn hố.
- Nghiên cứu góp phần xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định
các chủ trƣơng chính sách đối với ma chay, phục vụ yêu cầu nghiên cứu, chỉ
ra các giá trị văn hoá trong tang ma và giải quyết những vấn đề đang đặt ra
trong tang ma của ngƣời Nùng Phàn Slình cũng nhƣ các tộc ngƣời thiểu số
ở Thái Nguyên trong giai đoạn hiện nay.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

- Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là tang ma truyền thống và những
biến đổi trong tang ma của ngƣời Nùng Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên.
- Phạm vi nghiên cứu: đề tài tập trung nghiên cứu về tang ma của
ngƣời Nùng Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên với khung thời gian các nghi lễ
tang ma còn diễn ra ở cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI.
Trong số khu vực phân cƣ của ngƣời Nùng ở tỉnh Thái Nguyên, chúng
tôi tập trung điền dã ở 4 huyện: Đồng Hỷ, Võ Nhai, Đại Từ, Định Hố. Đồng
thời tìm hiểu tang ma ở các huyện Phú Lƣơng (Thái Nguyên), Na Rì, Bạch
Thơng (Bắc Kạn), Bình Gia, Văn Quan (Lạng Sơn), Quảng Uyên (Cao Bằng)
để có căn cứ so sánh về tang ma của ngƣời Nùng ở các địa phƣơng.
Tại huyện Võ Nhai, sau 5 đợt khảo sát thực địa tại các xã Lâu
Thƣợng, Bình Long: tháng 5 (2004), tháng 7, 8 (2007), tháng 2, 3 (2008),

tháng 3 (2009) với khoảng thời gian 55 ngày, chúng tôi ghi chép về tang ma
chủ yếu qua lời kể của cƣ dân Nùng Phàn Slình và các thầy Tào. Tại đây, trong
suốt thời gian khảo sát, chúng tôi đƣợc chứng kiến, tham dự duy nhất một đám
tang đầy đủ của ông Lƣơng Ngọc Thăng, ngƣời Nùng Cháo, xóm Đồng Chăn,
xã Lâu Thƣợng, nhƣng mời nhóm Tào Nùng Phàn Slình về làm tang lễ.
Tại huyện Đại Từ, chúng tôi điền dã 3 đợt vào tháng 5 (2006), tháng
10 (2008) và tháng 6 (2009), tại 3 điểm có ngƣời Nùng sinh sống: Bản
3


Ngoại, Phú Xuyên và Mỹ Yên, xem xét tang ma truyền thống, sự giao thoa,
biến đổi trong tang ma của cƣ dân trong vùng.
Tại huyện Đồng Hỷ, chúng tôi tiến hành 8 đợt nghiên cứu điền dã
(khoảng 80 ngày), vào các thời điểm tháng 6, 7 (2003), tháng 2, 3 (2005),
tháng 7, 9 (2008), tháng 6 (2009) ở 3 xã: Tân Long, Văn Lăng và Hồ Bình.
Tại đây, chúng tơi chứng kiến 6 đám tang của ngƣời Nùng Phàn Slình ở các
lứa tuổi khác nhau, từ 60- 90 tuổi, ngƣời q cố có cả thầy cúng, ngƣời bình
thƣờng, có cả nam và nữ.
Tại huyện Định Hố, chúng tơi tiến hành 2 đợt điền dã, mỗi đợt 7
ngày (tháng 2, 7 (2009), tại các xã: Phúc Chu, Bảo Cƣờng, Chợ Chu.
Tại tỉnh Lạng Sơn, chúng tôi dành 15 ngày (tháng 10/2009) điền dã ở
các huyện Bình Gia, Văn Quan, trong đó tập trung nhiều nhất ở xã Hồng
Phong, để có tƣ liệu đối chiếu, so sánh, làm rõ tang ma ngƣời Nùng Phàn Slình
ở tỉnh Thái Nguyên. Thời gian tìm hiểu ở các địa danh khác chủ yếu tích luỹ
trong quá trình cơng tác từ năm 1998 đến nay.
4. NGUỒN TƢ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

- Nguồn tư liệu: Nguồn tƣ liệu để hoàn thành luận án chủ yếu là tƣ liệu
điền dã, đƣợc thu thập tại địa bàn nghiên cứu thuộc bốn huyện: Đồng Hỷ, Đại
Từ, Võ Nhai, Định Hố, nơi có số lƣợng đồng bào Nùng sinh sống đơng và

tập trung. Ngồi ra, chúng tơi nghiên cứu tang ma của các nhóm Nùng địa
phƣơng ở Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn để có dữ liệu so sánh, đối chiếu.
Ngồi nguồn tƣ liệu điền dã, luận án cịn khai thác, sử dụng kết quả
nghiên cứu của các nhà dân tộc học, nhân học trong và ngoài nƣớc phản ánh
về đời sống và xã hội và tang ma của dân tộc Nùng cũng nhƣ một số dân tộc
khác ở Việt Nam; Kế thừa tƣ liệu từ các luận án, luận văn tại Trƣờng Đại
học Văn hoá Hà Nội, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thuộc
Đại học Quốc gia Hà Nội. Bên cạnh đó, luận án cịn sử dụng các tài liệu của
4


một số bộ môn khoa học: Lịch sử, Ngôn ngữ, Văn hóa dân gian, Bảo tàng học ...
- Phương pháp nghiên cứu:Trong quá trình thực hiện, luận án dựa
trên cơ sở lý luận và phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và
chủ nghĩa duy vật lịch sử để xem xét về tang ma của ngƣời Nùng Phàn Slình
trong từng bối cảnh lịch sử và điều kiện tự nhiên, xã hội tộc ngƣời ở tỉnh
Thái Nguyên. Khi nghiên cứu về tang ma, chúng tôi cũng dựa trên quan
điểm của Đảng và Nhà nƣớc Việt Nam về vấn đề dân tộc và tôn giáo.
Phƣơng pháp chủ yếu của luận án là phƣơng pháp dân tộc học, nhân
học tôn giáo, trong đó, chúng tơi chú trọng điền dã dân tộc học, tiếp xúc trực
tiếp với các đối tƣợng, thông qua phỏng vấn sâu, phỏng vấn nhóm ở các
giới, các lứa tuổi, có nghề nghiệp, địa vị xã hội khác nhau (cán bộ xã,
huyện, ...), có mối quan hệ khác nhau với ngƣời quá cố và tang chủ; Các cá
nhân là dân tộc láng giềng trong cùng vùng cƣ trú để có cái nhìn tổng thể về
tang ma của ngƣời Nùng. Đồng thời quan sát, ghi chép, ghi hình, ghi âm
một số đám tang của ngƣời Nùng ở các xã, huyện trong tỉnh Thái Nguyên,
thu thập các tài liệu sống động, minh chứng cho nội dung luận án. Trong
quá trình điền dã, chúng tơi rất quan tâm thảo luận nhóm, để có đƣợc những
nhận định, đánh giá khách quan về tang ma, bản chất nghi lễ, sự giao thoa,
biến đổi trong tang ma của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên.

Bên cạnh đó, chúng tơi cịn sử dụng phƣơng pháp hệ thống để lý giải
các vấn đề liên quan đến tang ma, tiếp cận tài liệu văn bản, tham khảo ý
kiến của các nhà khoa học để có đƣợc những nhận định, đánh giá sâu hơn,
khoa học và bao quát hơn. Phƣơng pháp liên ngành dân tộc học, văn hoá
học, lịch sử, bảo tàng học, xã hội học và so sánh cũng đƣợc áp dụng trong quá
trình nghiên cứu để chỉ ra sự biến đổi các nghi lễ tang ma theo chiều lịch đại,
sự biến đổi về tập quán tang ma của ngƣời Nùng ở các địa phƣơng trong
quan hệ với các tộc ngƣời láng giềng và sự phát triển đi lên của xã hội.
5


Từ cơ sở lý thuyết, lịch sử nghiên cứu vấn đề và phƣơng pháp tiếp
cận nêu trên, chúng tôi xem xét một số khái niệm liên quan đến tang ma,
nhằm xác định rõ phạm vi nghiên cứu luận án.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

- Luận án là một khảo cứu có hệ thống đầu tiên về các nghi lễ tang
ma, quan niệm sinh tử, các yếu tố ảnh hƣởng đến tang ma, các quy tắc ứng
xử gia đình, cộng đồng liên quan đến đạo hiếu, đạo nghĩa, của ngƣời Nùng
Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên.
- Luận án cung cấp thêm nguồn tƣ liệu điền dã mới, qua đó góp phần
nhận diện đầy đủ hơn về tang ma truyền thống và những biến đổi trong tang
ma của ngƣời Nùng Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên.
- Kết quả nghiên cứu góp phần khẳng định các giá trị văn hoá trong
tang ma tộc ngƣời, làm cơ sở khoa học cho việc định hƣớng các chính sách
văn hố, xã hội phù hợp với đời sống mới trong thời kỳ cơng nghiệp hố,
hiện đại hố đất nƣớc.
6. KẾT CẤU CỦA LUẬN ÁN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, những cơng trình cơng bố liên quan

đến nội dung luận án, danh mục tài liệu tham khảo, danh sách nhân chứng
cung cấp thông tin, phụ lục, luận án đƣợc bố cục thành 5 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan về tình hình nghiên cứu
Chƣơng 2: Người Nùng Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên và những
quan niệm liên quan đến tang ma
Chƣơng 3: Tang ma truyền thống
Chƣơng 4: Sự biến đổi trong tang ma
Chương 5: Tang ma của người Nùng Phàn Slình và việc xây dựng
đời sống mới

6


Chƣơng 1
TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1 – CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Tang ma là một thành tố quan trọng trong đời sống con ngƣời, gắn liền
với quan niệm, tín ngƣỡng và tơn giáo tộc ngƣời. Vì vậy, trong q trình
nghiên cứu, chúng tơi vận dụng các quan điểm của chủ nghĩa Mác Lê-nin, tƣ
tƣởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam, các nghiên
cứu dân tộc học, nhân học tôn giáo làm cơ sở lý thuyết nghiên cứu luận án.
1.1.1 – Quan điểm Mác xít về tơn giáo, tín ngƣỡng
Trong tác phẩm “Chống Đuy-rinh” (1878), Ph. Ăng-ghen chỉ rõ: “Bất
cứ tôn giáo nào cũng chỉ là sự phản ánh hƣ ảo vào bộ óc ngƣời ta những sức
mạnh hƣ ảo ở bên ngoài chi phối cuộc sống thƣờng ngày của họ, chỉ là sự
phản ánh mà sức mạnh thế gian mang hình thức siêu thế gian” 1[3, tr. 537].
Trong tác phẩm “Lút – Vích Phơ Bách và sự cáo chung của triết học
cổ điển Đức” (1886), Ph. Ăng-ghen tiếp tục khẳng định: “Tôn giáo một khi
đã xuất hiện bao giờ cũng giữ lại một số quan niệm nhất định do quá khứ để

lại, cũng nhƣ là trong tất cả các lĩnh vực tƣ tƣởng, truyền thống, là một lực
lượng bảo thủ rất lớn. Song những sự biến đổi xảy ra trong số quan niệm đó
đều đƣợc phát sinh từ những mối quan hệ giai cấp, nghĩa là từ những mối
quan hệ kinh tế giữa những ngƣời gây ra những sự biến đổi ấy”2[4, tr. 652].
Khi nói về tác hại của tơn giáo, tín ngƣỡng đối với cuộc sống con
ngƣời, trong tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen
(1843 – 1844), C. Mác chỉ rõ: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị
Ph. Ăng-ghen “Chống Duy-ring”, Nhà xuất bản Sự thật, năm 1984, tr. 537.
Ph. Ăng-ghen " Lut - Vich Pho Bach và sự cáo chung của nền triết học cổ điển Đức” MácĂng-ghen tuyển tập, Tập 2, Nhà xuất bản Sự thật – 1962, tr. 652
1
2

7


áp bức, là trái tim của thế giới khơng có trái tim, cũng nhƣ nó là tinh thần
của những trật tự khơng có tinh thần.Tơn giáo là thuốc phiện của nhân dân”
[50, tr. 272 - 403]. Theo đó, tơn giáo là chất chỉ có tác dụng làm giảm đau
cho con ngƣời, nhƣng khơng thể làm cho con ngƣời có cuộc sống hạnh
phúc. Muốn cho con ngƣời hạnh phúc là phải xoá tận gốc nguồn gốc nhận
thức và nguồn gốc xã hội của tơn giáo.
Hạt nhân của tơn giáo chính là niềm tin tôn giáo. Khi đã tin vào thực thể
tự nhiên có thể ban phúc hay giáng hoạ, ngƣời ta phải thực hiện niềm tin bằng
hành động thờ cúng, dâng lễ vật. Đây chính là vấn đề cốt lõi đảm bảo cho sự
tồn tại của hành động thờ cúng trong tang ma của ngƣời Nùng Phàn Slình.
Nhƣ vậy, niềm tin của ngƣời Nùng Phàn Slình vào các lực lƣợng siêu nhiên,
mang tính thiêng liêng, đƣợc chấp nhận một cách trực giác và tác động qua lại
một cách hƣ ảo, thông qua hành lễ của đội ngũ thầy Tào và gia quyến. Cƣ dân
Nùng Phàn Slình đã thực hiện hành vi tôn giáo với một hệ thống nghi lễ tang
ma, báo hiếu hết sức chi tiết. Hành vi ấy nhằm lý giải những vấn đề trên trần

thế cũng nhƣ con đƣờng dẫn linh hồn từ trần thế sang thế giới bên kia theo hệ
thống quy tắc nhất định. Hành vi ấy có sự thay đổi, thêm bớt ở mỗi thời kỳ lịch
sử, mỗi hồn cảnh địa lý - văn hóa. Đó là sự biểu đạt lịng thành kính, cầu xin
đấng siêu nhiên, tổ tiên và linh hồn cha (mẹ) ban tặng sự bình an, thịnh vƣợng,
an ủi ngƣời sống, làm giảm nỗi sợ hãi và sự đau buồn phải chia lìa ngƣời thân.
Chính vì vậy, khi tiếp cận quan điểm về tơn giáo của chủ nghĩa MácLê-nin, luận án sẽ có đƣợc những định hƣớng đúng khi đề xuất những giải
pháp khắc phục những vấn đề còn tồn tại trong tang ma của ngƣời Nùng
Phàn Slình hiện nay.
1.1.2 - Quan điểm của Đảng, Nhà nước Việt Nam về tơn giáo, tín ngưỡng
Đảng, Nhà nƣớc ta, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có các
quan điểm chỉ đạo cụ thể về vấn đề tơn giáo, tín ngƣỡng.
8


Theo quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đối với ngƣời theo tơn
giáo thì đức tin tơn giáo và lịng u nƣớc khơng hề mâu thuẫn. Một ngƣời
dân Việt Nam có thể vẫn là một ngƣời dân yêu nƣớc, đồng thời cũng vẫn là
một tín đồ chân chính. Với Ngƣời: Kính chúa gắn liền với yêu nƣớc, phụng
sự nhân dân và phụng sự tổ quốc, nƣớc có vinh thì đạo mới sáng, nƣớc có
độc lập thì tín ngƣỡng mới đƣợc tự do.
Từ khi ra đời (1930) đến nay, các Nghị quyết của Đảng đều nhất quán
bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng tơn giáo và khơng tín ngƣỡng tơn giáo của
nhân dân. Nghị quyết đại hội VII (1992) của Đảng ghi rõ: Tín ngƣỡng tơn giáo
là nhu cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân. Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứ X của Đảng (4/2006) tiếp tục khẳng định: Đồng bào các tôn giáo là bộ
phận quan trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Thực hiện nhất qn chính
sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng, theo hoặc khơng theo tơn
giáo của cơng dân… Động viên giúp đỡ đồng bào theo đạo và các chức sắc tôn
giáo sống “tốt đời, đẹp đạo”… Đấu tranh ngăn chặn các hoạt động mê tín dị
đoan, các hành vi lợi dụng tín ngƣỡng tơn giáo làm phƣơng hại đến lợi ích

chung của đất nƣớc, vi phạm quyền tự do tôn giáo của công dân”.
Nhiều sắc lệnh, nghị quyết và nghị định đã được Chính phủ Việt Nam
ban hành trong các thời kỳ đều bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng của nhân
dân, nhƣ sắc lệnh số 234/SL ngày 14/6/1955, Nghị quyết số 297/CP ngày
11/11/1977 của Hội đồng chính phủ “Về một số chính sách đối với tơn
giáo”, Nghị định 69/HĐBT, ngày 4/3/1991 “Về các hoạt động tôn giáo”,
Nghị định số 26, ngày 19/4/1999 “Về các hoạt động tôn giáo”, Nghị định số
26 ngày 19/4/1999 “Về các hoạt động tơn giáo”... trong đó, Nghị quyết
Trung ƣơng lần thứ bảy (khoá IX), số 25 – NQ/TW, ngày 12/3/2003 đã nêu rất
rõ quan điểm của Đảng ta về công tác tơn giáo “Tín ngưỡng, tơn giáo là nhu
cầu tinh thần của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong
9


quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Nghị điịnh số 22/2005
NĐ/CP hƣớng dẫn thi hành một số điều của Pháp lệnh tín ngƣỡng tơn giáo
(2004)1 [78, tr. 38].
Nhƣ vậy, Đảng, Nhà nƣớc Việt Nam luôn coi tín ngƣỡng, tơn giáo là
nhu cầu tinh thần của nhân dân. Đồng bào các tôn giáo là bộ phận quan
trọng của khối đại đoàn kết dân tộc. Chúng ta cần thực hiện nhất qn chính
sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do tín ngƣỡng của cơng dân, động viên
giúp đỡ đồng bào … sống “tốt đời, đẹp đạo”. Tiếp cận quan điểm này, luận
án sẽ có những đề xuất những biện pháp đúng để bảo tồn, khai thác những
giá trị văn hoá và giải quyết những vấn đề đang đặt ra trong tang ma của
ngƣời Nùng Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên.
1.1.3 – Quan điểm của giới khoa học về tơn giáo, tín ngƣỡng
Trong số các chun gia hàng đầu của thế giới về tơn giáo học, có thể
nêu tên giáo sƣ, tiến sĩ X.A Tocarev, nhà nghiên cứu tôn giáo nổi tiếng của
Liên Xô thời Xô Viết.
Trong nhiều cơng trình về tơn giáo, tín ngƣỡng của ơng, có một số

cơng trình giúp ngƣời nghiên cứu có thể tham khảo khi xác định cơ sở lý
luận của đề tài. Đó là cơng trình cơng bố năm 1979, đăng tải trên tạp chí
Dân tộc học Xơ Viết nhan đề: “Về tôn giáo nhƣ hiện tƣợng xã hội” (suy
nghĩ của nhà dân tộc học)2 [68].
Để minh hoạ cho quan điểm của mình, tác giả đã cho cơng bố một loạt
các bài nghiên cứu, trong đó có bài rất có giá trị về “Tập tục mai táng, ý nghĩa
và nguồn gốc của chúng”, đăng trong “Tạp chí Tự nhiên”, năm 1985. Ý chính

- Ban tơn giáo Chính phủ “Tơn giáo và chính sách tôn giáo ở Việt Nam”, Nhà xuất bản Hà
Nội, năm 2006 (tr. 38-70)
1

X.A Tocarev “Về tôn giáo như hiện tượng xã hội, suy nghĩ của nhà dân tộc học” (Tiếng Nga).
Tạp chí Dân tộc học Xơ Viết, số 3, năm 1979 (Bản dịch của Giáo sư, tiến sỹ Phan Hữu Dật)
2

10


của tập tục mai táng, theo tác giả, là thiết lập mối quan hệ qua lại trần tục và
thiêng liêng giữa các thế hệ, chính xác là giữa ngƣời sống và ngƣời chết1[69].
Trong tác phẩm Các hình thái tơn giáo sơ khai và sự phát triển của
chúng, X.A Tocarev cũng coi ma chay là một trong những hình thái biểu
hiện của tôn giáo sơ khai [67]. Theo ông, dấu hiệu của sự xuất hiện tôn giáo
sớm nhất là vào thời kỳ cổ đại, biểu hiện của nó rất đơn giản nhƣ việc bôi
màu lên da ngƣời chết, chôn cất ngƣời chết trong các tƣ thế khơng bình
thƣờng, hoặc chơn cơng cụ, v.v . Trong số 15 loại hình tơn giáo nguyên thuỷ
mà tác giả X.A Tocarev đã phân chia, chúng tơi chỉ tiếp cận một số loại
hình: Ma thuật làm hại, ma chay, thờ cúng tổ tiên và đạo Shaman để nghiên
cứu về tang ma của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên.

Tiếp cận loại hình Ma thuật làm hại, chúng tôi không xem xét quan
điểm của X.A Tocarev khi quy mọi bệnh tật, chết chóc là do sự phù phép
của con ngƣời ở giai đoạn tan rã của xã hội nguyên thuỷ. Chúng tôi chỉ quan
tâm tới yếu tố ma thuật trong tang ma. Đó là các thầy phù thuỷ có khả năng
dùng lời phù chú, phép thuật để giáng hoạ xuống con ngƣời, khiến ngƣời ta
sợ hãi. Từ nghiên cứu đó, chúng tơi xem xét yếu tố ma thuật mà các thầy
cúng ở những dòng họ khác nhau trong xã hội Nùng Phàn Slình sử dụng để
đối phó với phép thuật của các dòng thầy khác trong quá trình thực hiện các
nghi lễ tang ma.
Tiếp cận loại hình Ma chay, trƣớc hết luận án xem xét khái niệm về ma
chay. Đó là sự biểu thị tồn bộ các lễ nghi tơn giáo có quan hệ với ngƣời chết
và những tín ngƣỡng gắn liền với các lễ nghi đó. Ma chay là hình thức phổ
biến rộng rãi ở tất cả các dân tộc. Nghi lễ, tín ngƣỡng gắn liền với ngƣời chết
1

X.A. Tocarev “Tập tục mai táng, ý nghĩa và nguồn gốc của chúng” (tiếng Nga). Tạp chí Tự

nhiên, số 9, 1985 (Bản dịch của giáo sƣ, tiến sỹ Phan Hữu Dật)

11


chiếm vị trí khá rõ nét trong tất cả các tơn giáo, từ những hình thái ngun
thuỷ đến những tơn giáo phức tạp nhất. Tiếp cận này hƣớng chúng tôi nghiên
cứu các tín ngƣỡng tơn giáo gắn liền với tang ma của ngƣời Nùng Phàn Slình.
Tiếp cận loại hình Đạo Shaman, luận án kế thừa lý thuyết coi đạo
Shaman là hình thái tơn giáo đặc biệt. Các thầy pháp shaman, những ngƣời
đƣợc xem là có khả năng dùng phù phép, đƣa mình vào trạng thái hơn mê,
trực tiếp giao tiếp với các thần linh. Trình tự của các thầy pháp shaman là nhảy
múa, ca hát, đánh trống, gõ chiêng, thanh la, não bạt, để thần linh nhập vào

thầy pháp hay các đạo cụ cúng, thầy có thể chu du lên xứ sở thần linh, những
ngƣời xung quanh cũng bị ảo giác thôi miên, sẵn sàng tin vào khả năng siêu
nhiên ấy, để rồi chỉ đạo hành động thực hành các nghi lễ cầu cúng của mình.
Hiện nay, các thầy cúng (Tào, mo, then, pụt ...) vẫn tồn tại trong xã
hội Nùng Phàn Slình ở Thái Nguyên và nhiều dân tộc khác ở Việt Nam. Tuy
nhiên, hành động thờ cúng và sử dụng nhạc cụ để giao tiếp với thần linh của
các thầy pháp vẫn mang ảnh xạ của thầy shaman. Vì vậy, bên cạnh lý thuyết
của X.A Tocarev, luận án cũng xem xét một số bài viết của các tác giả nƣớc
ngoài liên quan đến shaman và thờ cúng ma, tổ tiên. Trong đó, chúng tơi tiếp
cận các bài viết: Shaman giáo biểu diễn trong phòng nội bộ của Waldermar
Bogoras (tr. 302 -307) (Reprinted from Waldermar Bogoras, The Chukchee,
Vol.VII of Franz Boas (ed.), The Jesup North Facific Expedition (“Memoirs of
the Americam museum of natural history,” Vol. XI, Parts 2 and 3 [Leiden : E.
J. Brill, 1904 – 1909), pp.433 - 441, by permission of the american museum of
Natural History); Một chuyến đi của shaman tới linh hồn biển của Knud
Rasmussen (tr. 308 – 311); Sử dụng nhạc cụ và sự chuyển đổi của Rodney
Needham (tr. 311-317) ... Từ cơ sở của các bài viết, các tác giả của cuốn
sách này đã đƣa ra lời giới thiệu cho phần mục đích của shaman, sự khác
nhau giữa các shaman và các thầy cúng [27, tr. 301, 380)].
12


Luận án kế thừa lý thuyết nghiên cứu này cùng với lý thuyết của X.A
Tocarev để có sự so sánh giữa thầy shaman thời kỳ cổ đại với các thầy cúng,
cụ thể là thầy Tào, ngƣời có vai trị chính trong việc điều hành nghi lễ tang
ma của ngƣời Nùng Phàn Slình. Các thầy shaman và thầy cúng (Tào, Mo,
Then, Pụt), tuy cùng là thầy cúng nhƣng có sự khác biệt. Thầy shaman dùng
pháp thuật để thoát hồn khỏi xác, lên thượng giới, xuống đáy biển, hồ
trong khơng gian và đạo cụ cúng… trực tiếp giao tiếp với thần linh, rồi về
nói với người thụ lễ. Các thầy Tào, Mo, Then, Pụt sử dụng phép thuật mời

thần linh về tiếp xúc với người thụ lễ.
Trong số các thầy cúng của ngƣời Nùng Phàn Slình, thầy Tào có quyền
năng và phép thuật cao nhất, là đầu mối liên hệ giữa thế giới bên dƣơng và thế
giới bên âm. Với ngƣời Nùng, thầy Tào chỉ có nam giới mới đƣợc hành nghề
thầy Tào, đƣợc thầy Tào cao tay hơn cấp bằng sắc, ấn tín và chỉ có thày Tào
mới đƣợc hành lễ làm ma cho ngƣời chết, chỉ có thày Tào mới có thể đƣa linh
hồn siêu thốt về với tổ tiên. Tuy nhiên, Tào chủ khơng thể phá ngục một mình
nếu khơng có sự giúp đỡ của các thầy phụ ở cấp độ quyền năng thấp hơn nhƣ
thầy Mo. Những bản Nùng Phàn Slình sinh sống đan xen với ngƣời Tày cịn có
thêm các thầy Then, Pụt cùng tham gia lễ tang. Họ chủ yếu là những tín đồ
Đạo giáo, nhƣng khi cúng lại tụng kinh Phật. Họ không qua trƣờng lớp, nhƣng
phải khổ luyện học tập những kiến thức, bao gồm: tín ngƣỡng, tơn giáo, luật
tục, văn học, nghệ thuật, thiên văn, địa lý, y học...do thế hệ trƣớc truyền lại.
Ngƣời Nùng Phàn Slình có sự phân biệt các cấp bậc thày cúng của hai
ngành Tào khác nhau là “Tào Slăng” và “Tào Lài”. Cả hai ngành đều xuất
phát từ một ơng tổ, vì vậy nghi thức hành lễ và lời cúng trong tang ma cơ
bản giống nhau, đều thờ Phật, Pháp, Tăng, Tam bảo và đội mũ tam kim.
Tuy nhiên, mỗi nhóm có trang phục hành lễ và một số nghi thức cúng khác
nhau. Tào Slăng thờ thêm Luân Lộ vƣơng bồ tát và Địa Tạng vƣơng bồ tát
13


(Hai quan nhỏ cai quản dƣới đất), mặc áo cà sa khoác chéo ngực theo kiểu
nhà Phật. Tào Lài thờ thêm Ngƣu Ma Vƣơng, mặc áo dài thụng thêu trang
trí hình rồng ở hai thân trƣớc, tồn thân sau là một mảng thêu lớn hình dung
về vũ trụ và các vị thần. Quá trình hành lễ, ngành Tào Slăng chủ yếu dùng
lời nói nhẹ nhàng, ít dùng kiếm, nhƣng ngành Tào Lài lại sử dụng kiếm
trong suốt quá trình hành lễ. Ngôn ngữ của thầy Tào là bạch thoại. Khi hành
lễ, thầy Tào xƣớng theo sách cúng bằng chữ Hán, nhƣng cũng có chỗ
chuyển sang “văn than” bằng tiếng nơm Nùng cho phù hợp với nhạc hiếu và

phong tục địa phƣơng.
Then, Pụt đƣợc coi là thang bậc trên, nhất thiết phải cấp sắc 3 đèn, 5
đèn, 9 đèn... mới đƣợc hành nghề. Sau khi làm lễ thụ phong, các bà then đội
mũ 5 dải, sau mỗi lần tăng cấp, mũ then lại đƣợc tăng thêm 2 dải, khi đƣợc
cấp 15 dải là tột bậc. Nhiệm vụ của then, pụt là cúng cầu yên giải hạn, chuộc
hồn ngƣời chết, đƣa lên cõi tiên. Then Pụt thƣờng cúng bằng tiếng Tày, Nùng
với những bài đã thuộc lịng, kèm theo đàn tính 2 dây và chùm nhạc xóc.
Tiếp cận loại hình Thờ cúng tổ tiên của X.A Tocarev và ý nghĩa thờ
cúng ma và tổ tiên của các tác giả trong Reader in comparative religion, luận
án xác định đƣợc tập tục này là đặc trƣng của giai đoạn thị tộc phụ quyền. Họ
thờ cúng ông bà, cha mẹ, những ngƣời đồng tộc đã chết và các loài ma với
niềm tin là tổ tiên, các loài ma sẽ che chở cho con cháu, kèm theo đó là
những nghi lễ cầu xin của các thành viên thị tộc. Tín ngƣỡng này đƣợc hình
thành trên cơ sở của lòng tin vào và sự tồn tại của linh hồn ở thế giới bên kia.
Chúng tôi kế thừa quan điểm của X.A Tocarev coi tang ma là một
trong những hình thái biểu hiện của tơn giáo sơ khai. Vì vậy nói tới tang ma
phải nói tới hai thế giới (thế giới của ngƣời sống và thế giới sau khi chết, thế
giới hữu hình và vơ hình) và tín ngƣỡng tôn giáo. Từ quan điểm này, chúng
tôi cũng làm rõ một số khái niệm: tang chế và nghi lễ tơn giáo. Nói đến tang
14


chế là nói đến thế giới hiện hữu và các phép tắc quy định việc làm ma, đƣa
đám, để tang ngƣời chết. Nói đến tơn giáo phải đụng chạm đến vấn đề hai thế
giới: Thế giới hiện hữu và thế giới phi hiện hữu, thế giới của ngƣời sống và thế
giới sau khi chết 74, tr. 61 . Tôn giáo là niềm tin vào các lực lƣợng siêu nhiên,
vơ hình mang tính thiêng liêng, đƣợc chấp nhận một cách tự giác và tác động
qua lại một cách siêu thực (hay hƣ ảo), nhằm lý giải những vấn đề trên trần
thế, cũng nhƣ ở thế giới bên kia 74, tr. 136 . Từ các khái niệm đó, chúng tơi
tiếp cận nghiên cứu về tang ma của ngƣời Nùng Phàn Slình trên cả hai bình

diện: hệ thống nghi lễ biểu thị các quan niệm về thế giới trần gian, thế giới
tâm linh và các quy tắc ứng xử của ngƣời sống với ngƣời chết, từ khi chuẩn
bị tang lễ đến mãn tang. Trong từng nghi lễ, đòi hỏi phải xét tới vai trị của cá
nhân tham gia tang ma, khơng chỉ có tang chủ, tang quyến, thầy cúng mà mở
rộng ra các mối quan hệ thơng gia, làng xóm và cộng đồng.
Trên cơ sở lý thuyết của các nhà khoa học thế giới, chúng tơi tiếp cận
nghiên cứu về tang ma, tín ngƣỡng, tôn giáo của các nhà khoa học xã hội
đầu ngành trong nƣớc. Trƣớc hết phải kể đến cơng trình: Vũ trụ luận
Mường của phó giáo sƣ Nguyễn Từ Chi, một cơng trình đƣợc dịch sang
tiếng Pháp [11]. Nội dung cuốn sách dẫn dắt ta đi qua đêm lễ tang cổ truyền
của ngƣời Mƣờng một cách tuần tự, tỷ mỉ, dựa trên các bản tang ca đƣợc
làm sống lại chủ yếu bằng phƣơng pháp vấn thoại, hồi cố, giúp ta hình dung
một cách sinh động con đƣờng đƣa tiễn các linh hồn ngƣời chết, qua đó
hiện dần lên quan niệm vũ trụ luận ba tầng, bốn thế giới nhìn theo trục dọc
(tầng trên Trời, tầng Giữa và tầng Dƣới. Tầng Dƣới lại đƣợc chia thành hai
thế giới. Thế giới Dƣới nƣớc và thế giới Dƣới đất), với rất nhiều khuếch đại
thu nhỏ hoặc đảo ngƣợc trong cấu trúc Vũ trụ luận "hai bên là cõi sống và
cõi chết, trong mối liên kết giữa mƣờng ma và mƣờng trần nhìn theo trục
ngang. Ma ở đây đƣợc coi là xạ ảnh của cá nhân con ngƣời, của một tộc
15


ngƣời cùng cội nguồn với ngƣời Kinh, nhƣng mang nét đặc trƣng riêng,
chƣa bị pha tạp hoặc ảnh hƣởng của văn hóa phƣơng Bắc. Lý giải của phó
giáo sƣ Nguyễn Từ Chi về con đƣờng linh hồn sang thế giới bên kia là:
“Giờ đã đến lúc đƣa ngƣời thân vừa mất về thế giới bên kia, một thế giới
phù hợp với thân phận mới của ngƣời ấy: một tinh linh đã hoàn toàn tách
khỏi thân xác ngƣời sống. Giữa thế giới đó và thế giới của chúng ta là cả
một khoảng cách chỉ có thể vƣợt qua bằng uy lực của bố mo.
Trong tang lễ của ngƣời Mƣờng, phó giáo sƣ Nguyễn Từ Chi cũng

khẳng định vị trí của bố mo - thầy mo. Họ đóng vai trị bắt buộc và quyết
định trong toàn bộ nghi thức tang ma của ngƣời Mƣờng. Trong các nghi
thức tang ma, thầy mo phải thuyết phục và hƣớng dẫn, hai hành động đi đôi
với nhau nhiều khi xen lẫn trƣớc sau, cũng có lúc phải hồ vào nhau thành
một q trình đồng nhất, làm cho ngƣời chết hiểu đƣợc quy luật tự nhiên
của sự sống và cái chết, mà ngƣời chết phải tách khỏi thế giới của ngƣời
sống, sẵn sàng đi tiếp hành trình đến thế giới dành riêng cho họ. Vì chức
năng đó mà bố mo phải thực hành lễ: ngồi xếp bằng trịn từ đầu hơm đến
mờ sáng, đầu đội mũ, áo tế lễ, tay cầm chuông và dao lễ, túi đựng Khot
(một số vật thiêng chứa đựng siêu lực của bố mo, do thế hệ trƣớc truyền lại,
hoặc đƣợc Thánh Sƣ của bố mo báo mộng qua giấc mơ), vừa cúng vừa hát
tang ca, để kết nối giữa Mƣờng đất - Mƣờng ngƣời - Mƣờng trời, làm sứ giả
của các Mƣờng, phục vụ lợi ích chung cao nhất của cộng đồng Mƣờng.
Vũ trụ luận ngƣời Mƣờng cũng khắc hoạ rõ “bố mo”, ngƣời mang
dáng dấp của đạo sỹ, nhƣng có cả yếu tố shaman giáo và thày cúng, vừa hát,
vừa cúng, làm phép giúp linh hồn siêu thoát, thực hiện ý nguyện của con
ngƣời và cộng đồng. Sự khắc hoạ này cũng cung cấp nguồn dữ liệu quan
trọng để luận án có căn cứ so sánh với thầy Tào trong tang ma của ngƣời
Nùng Phàn Slình.
16


Nhƣ vậy, thông qua nghiên cứu chuyên sâu về tang ma của ngƣời
Mƣờng, tác giả Nguyễn Từ Chi đã nêu lên một phƣơng pháp tiếp cận nhân
học tôn giáo rất bổ ích cho luận án nghiên cứu về tang ma của ngƣời Nùng
Phàn Slình ở tỉnh Thái Nguyên.
Luận án cũng tiếp cận quan điểm về shaman giáo của giáo sƣ Trần
Quốc Vƣợng thông qua bài viết: Mấy ý kiến về trống đồng và tâm thức Việt
cổ, đăng ngày 26/05/2008 trên trang website: www.vanhoahoc.edu.vn, của
Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và nhân văn thành phố Hồ Chí Minh [76]

Thơng qua nghiên cứu trống đồng, giáo sƣ Trần Quốc Vƣợng đã bày tỏ giả
thuyết: Lễ tang của người Đông Sơn, của người Mường ngày trước và việc
cải táng thu xương cũng như tín ngưỡng đồng cốt của người Việt trước đây
đều chịu ảnh hưởng ít nhiều của tư tưởng sa-man giáo của các dân tộc đi săn
và chăn nuôi miền thảo nguyên. Pháp sư sa-man và các đệ tử có sự tu luyện
thần bí liên quan đến sự chiêm ngắm chính bộ xương của mình, trên cơ sở
trích dẫn và đồng tình với quan điểm của Mircea Eliade trong cuốn: Huyền
thoại, giấc mơ và huyền bí (chữ Pháp), Paris, tr. 113, 1953, cho rằng: "Tất cả
thủ tục vu nghiễm sa-man giáo cổ truyền đều theo đuổi một mục đích: Phá
khn khổ phàm tục của cảm giác. Những giọng hát đều đều, những nhịp
điệu của trống phách, bài ca, bài cúng... nhắc đi nhắc lại, sự mệt mỏi, sự trai
giới của nhịn ăn, sự nhảy múa, thuốc ma tuý v.v... rút cục tạo ra một hoàn cảnh
cảm giác mở vào "siêu nhiên"... Con hƣơng đệ tử cố gắng chết đi ở cảm giác
phàm tục để tái sinh vào cảm giác thần bí. Cảm giác này biểu lộ ra bằng cách
mở những khả năng cảm giác, hay là bằng cách thu đƣợc những năng khiếu
siêu cảm giác phi thƣờng" ..."Sự tập luyện tinh thần nhƣ thế ngụ ý vƣợt ra
ngoài thời gian, vị pháp sƣ sa-man không những tiên tri về một nội quan sự
chết của thể xác, mà còn thấy lại đƣợc cái ngƣời ta có thể đƣợc là nguồn sống
trƣờng cửu của bộ xƣơng. Chính từ xƣơng cốt mà động vật và loài ngƣời tái
17


sinh; chúng dừng lại ít lâu ở đời sống thần xác và đến lúc chết, đời sống của
chúng kết tinh vào xƣơng cốt để lại tái sinh theo vòng luân hồi bất tuyệt... (Sự
chiêm ngắm bộ xƣơng của mình hay là những kỹ thuật tu luyện tinh thần trƣớc
xác chết, bộ xƣơng ngƣời hay sọ ngƣời chết) đối với pháp sƣ sa-man của
những dân tộc đi săn và du mục có nghĩa là thấy lại nguồn sống cùng tột của
động vật, tức là tham gia vào Bản thể" (Trần Quốc Vượng đd).
Cũng thông qua bài viết Mấy ý kiến về trống đồng và tâm thức Việt
cổ của giáo sƣ Trần Quốc Vƣợng, chúng tôi đƣợc tiếp cận với lý thuyết của

G. Condominas trong tác phẩm Không gian xã hội - Về khu vực Đông Nam
á, Flammarion, Paris, 1980 và quan điểm cuả ông về tƣ duy lƣỡng hợp:
“Nếu chấp nhận cái khái niệm "không gian xã hội" mà G. Condominas định
nghĩa là "Toàn bộ hệ thống tƣơng quan đặc trƣng cho một nhóm ngƣời xác
định" trong đó bao hàm khơng gian thực và khơng gian ảo (trong huyền
thoại) thì ta có thể nói rằng: trong tâm thức cƣ dân Việt cổ, không gian xã
hội bao hàm Cõi Trên/cõi Chết, Cõi Đất/cõi Dƣới, cõi Sống, cõi Nƣớc. Hệ
tƣ duy về không gian xã hội, theo tôi vẫn là hệ tƣ duy Lƣỡng hợp”.
Tang ma liên quan đến vấn đề tôn giáo, nên chúng tôi cũng xem xét
quan điểm của Phật giáo, Đạo giáo và Nho giáo. Đó là những giáo lý ảnh
hƣởng khá sâu sắc đến đời sống của ngƣời Nùng Phàn Slình, nhằm nghiên
cứu tang ma trong tính tồn diện và phát triển của nó. Nho giáo đề cao vai
trị của ơng trời, hình thành quan niệm thiên mệnh, thiên đạo, thiên nhân
tƣơng cảm. Đạo giáo coi vũ trụ có ba tầng: Trời, đất và địa phủ. Mỗi tầng
đều có thứ bậc, trật tự rõ ràng, đứng đầu là Ngọc Hồng thƣợng đế. Phật
giáo quan niệm thế giới vơ cùng vơ tận, đƣợc tạo bởi: Vật chất (Đất, nƣớc,
khơng khí, lửa) và tinh thần. Thế giới sinh trụ, dị diệt là chuyện bình thƣờng.
Nhân muốn thành quả phải có dun, dun hồ hợp thì phát triển, khơng
hồ hợp thì tan rã. Cuộc đời này tồn tại là do ta, nhân nào sẽ gặp quả ấy.
18


Mặc dù các cơng trình nghiên cứu trên đây khơng trực tiếp liên quan
đến văn hoá hay tang ma của ngƣời Nùng Phàn Slình, nhƣng tất cả các quan
điểm về tơn giáo, tín ngƣỡng, ma chay, tang lễ, tang ma đã trình bày trên
đây là những cơ sở lý thuyết quan trọng để chúng tơi nghiên cứu, hồn
thành luận án.
1.2 – LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ

Từ trƣớc đến nay đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu của các học

giả trong và ngồi nƣớc về tang ma. Trong đó, chúng tơi tiếp cận nghiên
cứu cơng trình của các tác giả: Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn, Hà Văn Thƣ,
Bế Viết Đẳng, Khổng Diễn, Phạm Quang Hoan, Nguyễn Văn Huy, Nguyễn
Khắc Tụng, Nguyễn Anh Ngọc, Hoàng Nam, Lâm Bá Nam, Lê Văn Bé, Lê
Ngọc Thắng, Phạm Minh Thảo, Bùi Thiết, Hồng Minh Lợi, Đỗ Th Bình,
Ngơ Văn Doanh, Hồng Tuấn Nam, Lý Hành Sơn, Đổng Văn Dinh, Lâm
Nhân, Nguyên Đào …
Các nghiên cứu về văn hoá và tang ma của ngƣời Nùng trƣớc hết phải
kể đến các cơng trình: Sơ lược giới thiệu các nhóm Tày, Nùng, Thái ở Việt
Nam- Nxb KHXH (1968) của Lã Văn Lô - Đặng Nghiêm Vạn [30, tr. 227 –
254]. Các tác giả đã dành một chƣơng trình bày về tơn giáo, ý niệm về cái
chết và sự tồn tại của thế giới bên kia. Tuy nhiên, trong đó khơng có chun
mục riêng về tang ma của nhóm Nùng Phàn Slình ở tỉnh Thái Ngun.
Trong cuốn Văn hố Tày, Nùng của Lã Văn Lơ, Hà Văn Thƣ (1984)
[29, tr. 50 - 54], các tác giả đã dành 5 trang viết về ma chay, với một tiểu
mục riêng biệt, giới thiệu liệt kê về 9 nghi lễ chính với 13 lễ nhỏ, bao gồm:
Rửa mặt, khâm liệm, đại siêu, nhập quan, khai tàng lò, pạt háo (thụ tang),
xám pjầu ngày (dâng cơm), xiên đàn phá ngục, mùng san, mài xe, khay tu
mả và ngày giỗ, sinh nhật. Trong lễ khâm liệm, các tác giả nhắc đến hai
hình thức đại liệm và tiểu liệm. Đại liệm gồm bảy tấm vải quấn thi hài và
19


thắt bảy nút đối với nam, chín tấm vải quấn thi hài và thắt chín nút đối với
nữ. Tiểu liệm đơn giản hơn, con cái có bao nhiêu vải sẽ quấn bấy nhiêu
quanh thi hài ngƣời quá cố. Trong lễ đại siêu, các tác giả có nhắc đến hình
ảnh ngƣời chết đƣợc dựng trong tƣ thế ngồi dựa lƣng vào ghế, trên dải vải
trắng. Trong lễ hạ huyệt, tác giả có nhắc đến nghi thức thả gà xuống huyệt
để “an sơn thần”… Tuy các tác giả chỉ trình bày chung về ma chay của
ngƣời Tày, Nùng, không phân biệt những đặc trƣng trong tang lễ của các

nhóm Nùng địa phƣơng, nhƣng những gợi mở của các tác giả Lã Văn Lô,
Hà Văn Thƣ đã giúp chúng tôi quan sát, phân tích ký hơn về tang ma của
ngƣời Nùng phàn Slình, đồng thời giúp chúng tơi có cơ sở dữ liệu để so
sánh, đối chiếu với tang ma của ngƣời Nùng phàn Slình ở tỉnh Thái Ngun.
Cơng trình: Dân tộc Nùng ở Việt Nam (1992) [40, tr. 208 - 211], tác
giả Hoàng Nam đã dành 4 trang cho một tiểu mục riêng về ma chay của
ngƣời Nùng ở Việt Nam, trong đó, tác giả mới khái lƣợc về tang ma, coi đó
nhƣ một thành tố văn hố tộc ngƣời. Tuy nhiên, qua đó, ngƣời đọc có thể
thấy đƣợc quan niệm của ngƣời Nùng với hai phần cơ thể là xác và hồn,
tƣơng ứng với hai thế giới dƣơng và âm, việc làm ma ba ngày và những mối
quan hệ xung quanh tang ma. Cơng trình cũng gợi mở nhiều giá trị văn hố
trong lĩnh vực tang ma cịn đang để ngỏ nhƣ: vai trò của thầy Tào, hàng
phƣờng, các nghi lễ liên quan đến tín ngƣỡng tơn giáo.
Cơng trình Các dân tộc Tày Nùng ở Việt Nam, do giáo sƣ Bế Viết
Đẳng làm chủ nhiệm dự án, và tập thể tác giả (1992) [16, tr. 213 - 224], đã
dành 12 trang viết về nghi lễ đám tang, song vẫn mang tính khái quát, coi
tang ma nhƣ một phần trong đời sống văn hố các dân tộc Tày, Nùng. Trong
đó, các tác giả có nhắc đến thế giới của ngƣời sống và thế giới của ngƣời
chết theo quan niệm của ngƣời Tày, Nùng; giới thiệu tóm tắt q trình của
các nghi lễ tang ma của ngƣời bình thƣờng (từ khi sinh ra đến khi mãn tang)
20


với một số chi tiết nghi lễ tang ma rời rạc của các nhóm dân tộc Tày, Nùng
Lịi, Nùng An ở Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang, Bắc Thái và một số
trƣờng hợp “chết bất đắc kỳ tử” nhƣ chết trẻ, chết do sinh đẻ, trẻ em bị chết.
Cơng trình: Hơn nhân và gia đình các dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt
Nam (1994) của tác giả Đỗ Thuý Bình [9, tr. 227 - 254], đã dành 28 trang để
trình bày về nghi lễ ma chay của ba dân tộc Tày, Nùng, Thái. Tác giả đã phân
tích quan niệm về linh hồn của đồng bào, miêu tả về tang ma bốn ngày của

ngƣời Thái, sáu nghi lễ chính trong tang ma của ngƣời Tày, Nùng, bao gồm:
rửa mặt, khâm liệm, đại siêu, nhập quan, xên đàn phá ngục, đƣa ma, với
nhiều tiết lễ từ khi con ngƣời tắt thở đến khi mãn tang. Tác giả có đề cập đến
con gà cúng vong linh, nhƣng mới chỉ dừng lại ở trƣờng hợp ngƣời chết có
con, gà sẽ đƣợc mổ bụng, trƣờng hợp chƣa có con, con gà sẽ ra sao, tác giả
chƣa đề cập đến. Trong lễ rửa mặt, tác giả nhắc đến nghi lễ của ngƣời Nùng
An ở Cao Bằng, ngƣời Tày ở Lục Yên (Hoàng Liên Sơn, nay là Yên Bái) và
tập tục chải tóc cho ngƣời chồng quá cố của ngƣời Thái, sau đó giữ lại một
nửa chiếc lƣợc để chôn theo. Trong lễ khâm liệm, tác giả chủ yếu dành những
miêu tả cụ thể cho ngƣời Tày ở Cao Bằng và Hoàng Liên Sơn. Các nghi lễ
khác, tác giả có nhắc đến nghi thức tang ma của ngƣời Tày, ngƣời Nùng An,
Nùng Lòi, nhƣng tang ma của ngƣời Nùng Phàn Slình hầu nhƣ khơng đƣợc
nhắc tới. Tuy nhiên, những nghiên cứu về ma chay các dân tộc Tày, Thái mà
tác giả đề cập góp phần giúp tơi so sánh, đối chiếu, hoàn thành luận án.
Trong cuốn Địa chí Thái Nguyên [82, tr. 546] của Tỉnh uỷ – Hội
đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Ngun, 2009, có dành một
trang trình bày khái qt về nghi lễ tang ma của dân tộc Nùng, coi tang ma
nhƣ một thành tố trong tổng thể văn hoá các tộc ngƣời tỉnh Thái Ngun.
Các cơng trình nghiên cứu trên đây chủ yếu đề cập đến tang ma nhƣ
một bộ phận cấu thành văn hố tộc ngƣời, coi nó nhƣ một vấn đề liên quan
21


×