Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

luận văn:LỄ HỘI OÓC PÒ VỚI SLI, LƯỢN CỦA NGƯỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở HOÀ BÌNH - ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (653.06 KB, 116 trang )



S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn


đại học thái nguyên
tr-ờng đại học s- phạm





hoàng thuý nga




sli, l-ợn và lễ hội oóc pò của ng-ời nùng phàn
slình ở hoà bình - đồng hỷ - thái nguyên






luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn












tHáI NGUYÊN - 2010
S húa bi Trung tõm Hc liu i hc Thỏi Nguyờn

1
đại học thái nguyên
tr-ờng đại học s- phạm





hoàng thuý nga




sli, l-ợn và lễ hội oóc pò của ng-ời nùng phàn
slình ở hoà bình - đồng hỷ - thái nguyên

chuyên ngành: văn học việt nam
mã số: 60.22.34





luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn





Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Hằng Ph-ơng





tHáI NGUYÊN - 2010

LI CM N


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

2
Để hoàn thành luận văn này, ngoài sự cố gắng, nỗ lực của bản thân, em
đã nhận đƣợc rất nhiều sự giúp đỡ. Qua đây em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu
sắc tới:
Nhà trƣờng, khoa Ngữ văn và các thầy cô giáo đã giảng dạy em
trong suốt khoá học.
TS. Nguyễn Hằng Phƣơng đã tận tâm hƣớng dẫn, chỉ bảo cho em
trong suốt quá trình nghiên cứu để em hoàn thành luận văn của mình.
Bác Hoàng Văn Toòng, bác Hoàng Văn Bạn và nhân dân xã Hoà Bình đã
nhiệt tình giúp đỡ em trong quá trình đi điền dã sƣu tầm và dịch tƣ liệu.

Các thầy cô trong Hội đồng chấm Luận văn đã đọc và chỉ bảo giúp em
tiếp tục hoàn thiện hơn luận văn của mình.















MỤC LỤC
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

3
Trang
Trang phụ bìa…………………………………………………………… ….1
Lời cảm ơn……………………………………………………………… ….2
Mục lục ………………………………………………………………… ….3
MỞ ĐẦU ……………………………………………………………… … 4
Chƣơng 1. KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở HOÀ BÌNH -
ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI 11
1.1. Khái quát về huyện Đồng Hỷ 11

1.2. Ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên 15
1.3. Khái lƣợc về sli, lƣợn…………………….………… 24
Chƣơng 2. SLI, LƢỢN CỦA NGƢỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở HOÀ BÌNH -
ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN 32
2.1. Những nội dung cơ bản của sli, lƣợn ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái
Nguyên 32
2.1.1. Tiếng hát ca ngợi con ngƣời 32
2.1.2. Tiếng hát tâm tình của đôi lứa 37
2.1.3. Bức tranh nông thôn miền núi 43
2.2. Một số yếu tố nghệ thuật của sli, lƣợn ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên 52
2.2.1. Ngôn ngữ 52
2.2.2. Kết cấu 59
2.2.3. Diễn xƣớng sli, lƣợn 63
Chƣơng 3. LỄ HỘI OÓC PÒ VỚI SLI, LƢỢN CỦA NGƢỜI NÙNG PHÀN
SLÌNH Ở HOÀ BÌNH - ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN 70
3.1. Các nghi thức và yếu tố tâm linh trong lễ hội Oóc Pò 70
3.2. Mối quan hệ giữa lễ hội Oóc Pò với các làn điệu sli, lƣợn 83
3.3. Bảo tồn, phát huy những giá trị của lễ hội Oóc Pò và các làn điệu sli lƣợn 93
KẾT LUẬN………………………………………… ………………… 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………….…………………… ….104
PHỤ LỤC …………….…………………………………………………….116
MỞ ĐẦU
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

4
1. Lý do chọn đề tài.
1.1. Việt Nam là một quốc gia có nhiều dân tộc, mỗi dân tộc, mỗi địa
phƣơng có những nét độc đáo riêng về văn hoá tinh thần và văn hoá vật chất.
Những nét riêng, nét độc đáo ấy tạo nên một vƣờn hoa muôn màu sắc, tạo nên
sự thống nhất trong tính đa dạng của nền văn hoá Việt Nam. Vì vậy việc giữ

gìn và phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của các dân tộc đang là
mục tiêu chung của toàn Đảng và nhân dân ta. Sƣu tầm, nghiên cứu những
sáng tác văn học dân gian đang đƣợc lƣu truyền ở các địa phƣơng cũng nằm
trong mục tiêu đó.
Làn điệu sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ
- Thái Nguyên phản ánh đời sống tinh thần của cộng đồng dân tộc Nùng
Phàn Slình ở nơi đây. Những lời ca dân gian ấy mang giá trị văn học to lớn
nhƣng chƣa đƣợc nghiên cứu rộng rãi và sâu sắc. Đã có một số công trình
nghiên cứu nhƣng mới chỉ tiếp cận ở khía cạnh văn hoá. Các ban ngành đã
bƣớc đầu quan tâm nhƣng chƣa hệ thống, bộ phận ngữ văn chƣa nghiên cứu
cụ thể.
1.2. Bản thân là một giáo viên Ngữ văn, đang theo học cao học chuyên
ngành Văn học Việt Nam, quá trình giảng dạy và học tập đã giúp ngƣời viết
nhận thức đƣợc những giá trị văn hoá, văn học dân gian có ý nghĩa hết sức to
lớn đối với đời sống tinh thần của ngƣời dân. Việc nghiên cứu văn học dân
gian nói chung, làn điệu sli, lƣợn và lễ hội Oóc Pò của ngƣời Nùng Phàn
Slình ở xã Hoà Bình huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên nói riêng sẽ giúp cho
ngƣời viết tích luỹ kiến thức, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, trau dồi tình
cảm thẩm mĩ và rèn luyện nhân cách. Từ đó giáo dục cho học sinh những
tình cảm tốt đẹp về lòng yêu thƣơng con ngƣời, tình yêu quê hƣơng đất nƣớc,
khơi dậy ở mỗi học sinh ý thức về việc giữ gìn phát huy những giá trị văn hoá
truyền thống của dân tộc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

5
1.3. Là ngƣời sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Đồng Hỷ – Thái Nguyên,
ngay từ khi còn học phổ thông, tôi đã đƣợc tiếp xúc, giao lƣu và có mối quan
hệ gần gũi với cộng đồng dân tộc Nùng ở xã Hoà Bình huyện Đồng Hỷ. Từng
tham dự các lễ hội, đƣợc nghe những làn điệu sli, lƣợn của đồng bào nơi đây,
tôi sớm có tình cảm, sự đam mê văn hoá của họ. Đặc biệt trong đợt thực tế

tìm hiểu, sƣu tầm các làn điệu sli, lƣợn, và lễ hội Oóc Pò, lòng nhiệt tình, sự
say mê của những ngƣời dân nơi đây đã thúc đẩy tôi thực hiện đề tài này.
Đồng Hỷ là một vùng đất giàu truyền thống văn hoá với sự đa dạng của
các dân tộc anh em cùng chung sống. Trƣớc sự vận động và phát triển của xã
hội, những yếu tố của cuộc sống hiện đại tác động mạnh đến đời sống của mỗi
ngƣời dân. Thực tế: “Thanh niên bây giờ không mấy quan tâm đến văn hoá
của dân tộc mình, số người thuộc, biết hát những làn điệu sli, lượn ngày càng
ít đi…” (Lời của Ông Toòng ở xóm Tân Đô xã Hoà Bình huyện Đồng Hỷ),
cho thấy sự cần thiết trong việc bảo tồn nét văn hoá của dân tộc Nùng. Thực
hiện đề tài này, tôi mong sẽ góp phần bảo tồn gìn giữ những giá trị văn hoá quý
báu đang có nguy cơ bị mất đi đó.
Qua việc nghiên cứu làn điệu sli, lƣợn và lễ hội Oóc Pò của ngƣời Nùng
ở Hoà Bình - Đồng Hỷ – Thái Nguyên, tôi mong sẽ đóng góp một phần vào
việc gìn giữ những giá trị văn học dân gian của địa phƣơng, cũng là góp phần
vào việc gìn giữ những giá trị văn hoá phi vật thể của dân tộc.
Chính vì những lẽ trên, chúng tôi đã lựa chọn đề tài: “Sli, lƣợn và lễ hội
Oóc Pò của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên”,
với mong muốn đóng góp một phần vào việc nghiên cứu Văn học dân gian
hiện nay.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Không phải đến tận bây giờ sli, lƣợn (những làn diệu dân ca) và những lễ
hội văn hoá của ngƣời Nùng mới đƣợc quan tâm. Từ lâu những nội dung này
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

6
đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu. Họ đã có công sƣu tầm, giới
thiệu, dịch thuật và tìm hiểu những khía cạnh của vốn văn hoá cổ này.
Ngƣời đầu tiên phải kể đến là tác giả Vi Hồng với cuốn “Sli, lƣợn, dân ca
trữ tình tày Nùng” [ 25 ].Nội dung của tác phẩm này đã nghiên cứu về đời
sống văn hoá tinh thần của đồng bào Tày, Nùng qua các làn điệu dân ca sli,

lƣợn của họ. Những nét đẹp của con ngƣời, những nét văn hoá độc đáo trong
đời sống lao động đã đƣợc tác giả phản ánh rõ trong tác phẩm. Tác phẩm
cũng đã giới thiệu một số bài sli, bài lƣợn của dân tộc Tày, Nùng.
Cũng trong tác phẩm của Vi Hồng, trong bài “Nội dung của Lƣợn”
[04], tác giả đã phân tích những giá trị nội dung phong phú của lƣợn “một loại
hình dân ca chủ yếu của dân tộc Tày - và một phần của Nùng”. Lƣợn là những
bài ca ca ngợi con ngƣời, ca ngợi thiên nhiên, ca ngợi cuộc sống và sức lao
động cũng nhƣ sự sáng tạo của họ. Đặc biệt, tác giả cũng nhận thấy sự vận
động thay đổi của lƣợn:
“Cuộc sống mới ngày nay có bao nhiêu sự thay đổi lớn, lƣợn cũng một
lần nữa thay màu, đổi sắc để thích hợp hơn với thời đại mới” [04;191]
Ngoài ra, nghiên cứu về các làn điệu dân ca của các dân tộc Tày Nùng,
nhà văn Vi Hồng còn một số bài viết nhƣ: “Vài ý nghĩ nhỏ bƣớc đầu về thơ ca
dân tộc Tày, Nùng” [04;109], “Thì thầm dân ca nghi lễ” [26]
Bài viết: “Giá trị vốn cổ văn học dân tộc thơ ca - Tục ngữ Tày - Nùng”
của tác giả Lạc Dƣơng in trong cuốn “Bƣớc đầu tìm hiểu vốn văn nghệ Việt
Bắc” - Sở Văn Hoá Thông Tin Việt Bắc phát hành, có đoạn viết: “Vốn cổ thơ
ca, tục ngữ Tày - Nùng có nhiều nét đặc sắc phản ánh nhiều mặt xa xƣa của
đồng bào Tày – Nùng nhƣ kĩ thuật sản xuất nông nghiệp, xã hội…mà giá trị
nhận thức, giá trị giáo dục, giá trị phê phán hiện thực tới nay vẫn còn phát huy
tác dụng thời sự thiết thực.” [04; 38]
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

7
Cuốn “Sơ lƣợc giới thiệu các nhóm dân tộc Tày, Nùng, Thái ở Việt
Nam” của Lã Văn Lô, Đặng Nghiêm Vạn [11] đã giới thiệu khái quát xã hội,
con ngƣời và văn hoá ba dân tộc Tày, Nùng, Thái.
Những thành tựu trên đã phản ánh những đóng góp lớn cho lịch sử
nghiên cứu văn hoá, văn học dân gian của các dân tộc Tày, Nùng. Song
những nghiên cứu trên đều trải dài trên một phạm vi rộng, do vậy chƣa làm rõ

đƣợc sắc thái phong phú, đa dạng của văn hóa Nùng ở một địa phƣơng cụ thể.
Làn điệu sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã Hoà Bình huyện
Đồng Hỷ rất phong phú và đa dạng, thƣờng gắn với các lễ hội trong sinh hoạt
văn hoá tinh thần của dân tộc Nùng: Đám cƣới, ma chay, mừng nhà mới,
mừng thọ…Trong lễ hội Oóc Pò, lời sli, lƣợn là những lời ca, ca ngợi mùa xuân,
ca ngợi tình yêu, lời giao duyên, tỏ tình của những chàng trai, cô gái Nùng.
Nghiên cứu về các lễ hội, về sli, lƣợn của ngƣời Nùng ở xã Hoà Bình
huyện Đồng Hỷ, đã thu hút một số nhà nghiên cứu:
- “Múa xiên tâng và tang ca trong đám ma của dân tộc Nùng” - Th.s
Nguyễn Thị Ngân. (Cán bộ Bảo tàng văn hoá các dân tộcViệt Nam)
- Phóng sự: “ Đám cưới Nùng và câu chuyện về chiếc túi nải”
- “Nghi lễ và âm nhạc trong hôn nhân của ngƣời Nùng Phàn Slình ở
Tân Đô – Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên” – Ngô Thị Việt Anh (Giảng
viên trƣờng Đại học Sƣ phạm nghệ thuật Trung ƣơng)
Các công trình nghiên này chủ yếu tìm hiểu về các khía cạnh phong
tục, tập quán, nghi lễ dân gian, chƣa quan tâm đến phần lời của các làn điệu
sli, lƣợn.
Mặc dù chƣa nghiên cứu cụ thể, hệ thống về sli, lƣợn của ngƣời Nùng
nhƣng những công trình nghiên cứu trên là những gợi ý đáng quý để chúng
tôi thực hiện đề tài nghiên cứu này.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

8
3. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu về làn điệu sli, lƣợn và lễ hội Oóc Pò của ngƣời Nùng ở Hoà
Bình - Đồng Hỷ – Thái Nguyên nhằm:
* Chỉ ra cái hay, cái đẹp về nội dung và nghệ thuật trong lời sli, lƣợn của
dân tộc Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên, góp phần khẳng
định giá trị của chúng trong đời sống văn hoá tinh thần của ngƣời Nùng nói chung

trong đó có ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà BÌnh - Đồng Hỷ - Thái Nguyên.
* Nghiên cứu lễ hội Oóc Pò trong mối quan hệ với sli, lƣợn nhằm phát hiện
ra mối quan hệ biện chứng, sâu sắc giữa văn học dân gian với đời sống văn hoá
tinh thần của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên
* Góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc.
4. Đối tƣợng nghiên cứu
* Đối tƣợng chính là lời sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình
- Đồng Hỷ – Thái Nguyên
* Đối tƣợng quan tâm nữa là lễ hội Oóc Pò và những nét văn hoá của
ngƣời Nùng Phàn Slình .
* Ngoài ra trong điều kiện có thể chúng tôi sẽ tìm hiểu thêm lời sli, lƣợn
và những đặc điểm văn hoá của ngƣời Nùng ở nơi khác để so sánh đối chiếu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
* Nghiên cứu một số vấn đề lí luận có liên quan đến đề tài.
* Sƣu tầm, khảo sát, thống kê, phân tích lí giải lời sli, lƣợn và lễ hội Oóc Pò
của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ từ các góc độ nhìn nhận.
* Tìm hiểu lễ hội Oóc Pò và mối quan hệ của nó với làn điệu sli, lƣợn.
Từ đó hiểu về đời sống văn hoá, tinh thần của đồng bào dân tộc Nùng ở Hoà
Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên.
* Bƣớc đầu nêu một số suy nghĩ về bảo tồn, phát huy những giá trị văn
hoá của làn điệu sli, lƣợn và Lễ hội cầu mùa trong đời sống đƣơng đại.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

9
6. Phạm vi nghiên cứu
* Phạm vi tƣ liệu nghiên cứu:
- Văn bản của chính tác giả sƣu tầm từ các nghệ nhân qua điền dã.
- Những tƣ liệu ở các vùng khác để so sánh đối chiếu.
- Mạng Intenet.
* Phạm vi vấn đề nghiên cứu:

Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ, chúng tôi tìm hiểu một số đặc điểm
nội dung, thi pháp tiêu biểu và mối quan hệ giữa làn điệu sli, lƣợn với lễ hội
Oóc Pò (Lễ hội cầu mùa) của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ
– Thái nguyên.
7. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trên bình diện phƣơng pháp luận, chúng tôi tiếp cận chủ yếu theo quan
điểm ngữ văn học, dựa vào những thành tố ngôn từ của lời sli, lƣợn trong lễ
hội Oóc Pò để phân tích. Tuy nhiên sli, lƣợn là một loại hình dân ca cho nên
khi tìm hiểu phải đặt nó trong môi trƣờng diễn xƣớng, đời sống văn hoá của
dân tộc Nùng. Do vậy tiếp cận nghiên cứu theo quan điểm văn hoá học là cần
thiết, song cần phải nghiên cứu theo quan điểm tiếp cận liên ngành, xem xét
đối tƣợng từ nhiều góc độ, ngành khoa học khác nhau.
Trên bình diện phƣơng pháp cụ thể, chúng tôi sử dụng: Phƣơng pháp
điền dã văn học, phƣơng pháp hệ thống, phƣơng pháp khảo sát thống kê,
phƣơng pháp so sánh đối chiếu, phƣơng pháp phân tích tổng hợp.
8. Đóng góp của đề tài
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu có hệ thống về các
làn điệu sli, lƣợn và lễ hội Oóc Pò ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên
Sƣu tầm, nghiên cứu lời sli, lƣợn và lễ hội Oóc Pò của ngƣời Nùng Phàn
Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ – Thái Nguyên, ngƣời viết sẽ góp phần bảo tồn
những giá trị đặc sắc của văn học dân gian đang có nguy cơ bị mai một trƣớc
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

10
sự thay đổi của xã hội hiện đại, góp phần nâng cao tình yêu quê hƣơng, ý thức
giữ gìn vốn văn hoá dân gian của quê hƣơng.
9. Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và thƣ mục tham khảo, nội dung chính của
luận văn gồm 3 chƣơng:
Chƣơng 1. Khái quát về ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng

Hỷ - Thái Nguyên và một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài
Chƣơng 2. Sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng
Hỷ - Thái Nguyên
Chƣơng 3. Lễ hội Oóc Pò với sli, lƣợn của ngƣời Nùng Phàn Slình ở
Hoà Bình - Đồng Hỷ – Thái Nguyên
















Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

11
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ NGƢỜI NÙNG PHÀN SLÌNH Ở
HOÀ BÌNH - ĐỒNG HỶ - THÁI NGUYÊN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Khái quát về huyện Đồng Hỷ

1.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên của huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên
* Vị trí địa lý: Đồng Hỷ là một huyện miền núi nằm ở phía Đông Bắc
tỉnh Thái Nguyên, có diện tích tự nhiên 46.177 ha, trải dài từ 21 độ 32 phút
đến 21 độ 51 phút vĩ Bắc, giữa 105 độ 46 phút đến 106 độ 04 phút kinh Đông.
Huyện Đồng Hỷ giáp huyện Chợ Mới tỉnh Bắc Kạn ở phía Bắc, huyện Võ
Nhai ở phía Đông Bắc; giáp huyện Phú Lƣơng ở phía Tây; giáp thành phố
Thái Nguyên và huyện Phú Bình ở phía Nam và giáp huyện Yên Thế thuộc
tỉnh Bắc Giang về phía Đông.
* Điều kiện tự nhiên:
Đất đai: Địa hình huyện Đồng Hỷ có độ dốc thoai thoải từ Đông Bắc
xuống Tây Nam. Phía Bắc và Đông Bắc huyện thuộc dãy núi đá vôi Bắc Sơn
hùng vĩ. Các xã Văn Lăng, Tân Long, Hoà Bình, Quang Sơn và kéo dài xuống
phía Nam huyện có những khối núi đá vôi đồ sộ, có đỉnh cao tới 600 mét. Các
xã phía Bắc và Đông Bắc của huyện thuộc vùng núi cao, độ cao trung bình là
120 mét so với mặt nƣớc biển. Tiếp dãy núi đá lớn là vùng đồi núi thấp nhiều
đồi hình bát úp, độ cao từ 50 đến 60 mét, có khả năng phát triển cây công
nghiệp (mía, lạc, chè…). Các xã nằm phía hạ lƣu sông Cầu có độ cao trung
bình 20 mét so với mặt nƣớc biển với những cánh đồng bằng phẳng thuận lợi
cho việc phát triển lúa nƣớc và cây thực phẩm (rau xanh, đậu…).
Khí hậu: Đồng Hỷ nằm ở vùng Bắc chí tuyến, trong vành đai nhiệt đới
Bắc bán cầu, nên khí hậu ở đây mang tính chất nhiệt đới nóng ẩm, gió mùa.
Mùa nóng từ tháng 3 đến tháng 10; mùa lạnh từ tháng 11 đến tháng 3 năm
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

12
sau. Nhiệt độ trung bình là 22 độ C. Số giờ nắng trong năm là 1.628 giờ. Mỗi
năm ở Đồng Hỷ trung bình có khoảng 21 – 22 đợt gió mùa Đông Bắc tràn qua.
Sông ngòi: Mật độ sông, suối của Đồng Hỷ bình quân là 0,2 km/km2,
tất cả đều bắt nguồn từ khu vực núi cao phía Bắc, Đông Bắc và đều chảy vào
sông Cầu. Sông Cầu chảy theo hƣớng Bắc – Nam là biên giới phía Tây của

huyện với độ dài 47 km, là nguồn cung cấp nƣớc chính, có tiềm năng khai
thác vận tải thuỷ. Theo đánh giá của các nhà địa chất, mạch nƣớc ngầm của
Đồng Hỷ có trữ lƣợng lớn, đủ cung cấp nƣớc sinh hoạt cho năm, bảy trăm
ngàn dân.
Giao thông: Về giao thông, tổng chiều dài đƣờng bộ của huyện là
729,8 km, trong đó có quốc lộ 1B qua địa bàn huyện dài 15,5 km, đƣờng liên
tỉnh dài 27 km, đƣờng liên huyện dài 57,5 km, đƣờng liên xã 171 km, đƣờng
liên xóm 404 km. Mật độ giao thông toàn huyện bình quân đạt 13,4 km/km2,
ô tô vận tải cỡ lớn có thể đến đƣợc trung tâm tất cả các xã trong huyện, đây là
điều kiện thuận lợi cho giao lƣu văn hoá kinh tế trong huyện ngày càng phát triển.
1.1.2. Đặc điểm lịch sử của huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên
Huyện Đồng Hỷ đƣợc thành lập năm 1469. Đời Hồng Đức năm thứ 21
gồm 9 tổng, 33 xã. Từ ngày thành lập đến nay, địa giới hành chính của huyện
đã nhiều lần thay đổi. Tính từ năm 1960 đến 1985, huyện lị chuyển đến 5 lần.
Ban đầu địa điểm của huyện ở Xuân Quang xã Gia Sàng, năm 1962 dịch lên
Xuân Thịnh (Gia Sàng), năm 1965 chuyển vào Xà Cạt (xã Quyết Thắng) sau
đó chuyển ra làng Thịnh (xã Quyết Thắng). Từ tháng 7 năm 1985 đến nay,
huyện lị lại chuyển sang thị trấn Chùa Hang cách thành phố Thái Nguyên 3
km về phía Đông Bắc.
Trƣớc đây, huyện Đồng Hỷ nằm trên tả ngạn sông Công và dọc hai bên
bờ sông Cầu, đến tháng 4 năm 1985, Hội đồng Bộ trƣởng (nay là Chính phủ)
ra Quyết định số 108/HĐBT điều chỉnh địa giới một số huyện, thành, thị
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

13
trong Tỉnh Bắc Thái, huyện Đồng Hỷ chuyển sang nằm trọn trên tả ngạn
sông Cầu.
Toàn huyện có 20 đơn vị hành chính trực thuộc, bao gồm 17 xã và 3 thị
trấn, trong đó có hai xã thuộc xã vùng cao là Tân long và Văn Lăng, 2 xã
vùng đặc biệt khó khăn là Hợp Tiến và Cây Thị, 4 xã và 1 thị trấn thuộc vùng

I (trung du) là thị trấn Chùa Hang, các xã Đồng Bẩm, Cao Ngạn, Huống
Thƣợng, 12 xã, 1 thị trấn còn lại thuộc vùng II (miền núi).
1.1.3. Khái quát về kinh tế – văn hoá xã hội của huyện Đồng Hỷ
Trƣớc kia Đồng Hỷ không phải là huyện giàu có, nhƣng nền kinh tế đa
dạng, có tiềm năng về rừng, khoáng sản, có khả năng tự cấp, tự túc lƣơng
thực đến những nhu cầu thiết yếu của đời sống trong một xã hội nông nghiệp.
Sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân các dân tộc Đồng Hỷ từng bƣớc xây
dựng đời sống mới. Đặc biệt sau khi thực hiện đƣờng lối đổi mới theo tinh
thần Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (12-1986), bộ mặt kinh tế
xã hội huyện Đồng Hỷ đã có nhiều chuyển biến sâu sắc, đời sống nhân dân
trong huyện đƣợc nâng lên rõ rệt. Nguồn sống chính của nhân dân huyện
Đồng Hỷ là cây công nghiệp, một số xã có nghề trồng rừng, trông cây công
nghiệp (chè, mía…). Các nghề thủ công (mộc, rèn) rải rác hầu khắp các xã
trong huyện: nghề nấu đƣờng ở Minh Lập, nung vôi ở Hoá Trung, Đồng
Bẩm…, đặc biệt các ngành khai thác đá, sản xuất xi măng ở Núi Voi, Quang
Sơn, Cao Ngạn, khai thác quặng sắt ở Trại Cau. Hiện nay sản xuất công
nghiệp đang trở thành một mũi phát triển mạnh của huyện Đồng Hỷ.
Từ một huyện nông nghiệp lạc hậu, mang nặng tính tự cung tự cấp, đến
năm 2009 Đồng Hỷ đã xây dựng đƣợc nền kinh tế với cơ cấu hợp lí. Tổng sản
phẩm sản xuất trên địa bàn huyện (theo giá cố định 1994) ƣớc đạt 704 tỷ
đồng, tăng 10,71% so với cùng kỳ. Trong đó sản xuất công nghiệp và xây
dựng cơ bản trên địa bàn tiếp tục có hƣớng phát triển, giá trị sản xuất công
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

14
nghiệp, xây dựng cơ bản (Theo giá cố định 1994) trên địa bàn ƣớc đạt
714/690 tỷ đồng, bằng 103% kế hoạch. Trong đó: Công nghiệp ƣớc đạt 473 tỷ
đồng/469 tỷ đồng tăng 13,2% so với cùng kỳ, xây dựng ƣớc đạt 241 tỷ/221 tỷ,
tăng 18,6% so với cùng kỳ, đạt 264 tỷ đồng, tăng 16.06%. Tổng giá trị sản
xuất nông lâm nghiệp, thuỷ sản toàn huyện (Theo giá cố định 1994) ƣớc đạt

288/255 tỷ đồng, tăng 2,07%. Trong đó về nông nghiệp đạt 268 tỷ, tăng 2,2%.
Khu vực dịch vụ ƣớc đạt 282 tỷ đồng, tăng 11,18% so với cùng kỳ.
Công tác văn hoá xã hội: Đồng Hỷ đã tổ chức tốt các hoạt động văn hoá,
thể dục thể thao mừng Đảng, mừng xuân và kỉ niệm các ngày lễ lớn của đất
nƣớc; Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gƣơng đạo đức Hồ Chí
Minh”, phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá” trên địa
bàn đã đƣợc triển khai đạt hiệu quả cao. Năm 2009 huyện đã xây dựng đƣợc
10/10 nhà văn hoá xóm, bản, tổ nhân dân, đạt 100% kế hoạch, nâng tổng số
nhà văn hoá lên 228/257; 15/18 xã, thị trấn có trung tâm văn hoá thể thao.
Tăng cƣờng công tác quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di tích văn hoá đƣợc
xếp hạng cấp nhà nƣớc, đẩy mạnh công tác quản lý nhà nƣớc trên các lĩnh vực
văn hoá, kinh doanh dịch vụ văn hoá và quảng cáo trên địa bàn.
Dân số và công tác dân tộc: Đồng Hỷ là một vùng đất chuyển tiếp giữa
vùng núi Đông Bắc xuống vùng đồng bằng châu thổ. Tính theo thời điểm 01-
04-2009, tổng dân số của huyện là 112.612 ngƣời, trong đó nam là 58.492
ngƣời, chiếm 52%, nữ là 54.120 ngƣời, chiếm 48%. Tỷ lệ tăng dân số bình
quân trong 10 năm của huyện Đồng Hỷ là 0,67%, thấp hơn mức tăng bình
quân của tỉnh Thái Nguyên. Là một vùng đất đai phì nhiêu, màu mỡ, giàu
khoáng sản, Đồng Hỷ là một huyện tập trung nhiều cộng đồng dân tộc anh em
cùng chung sống. Thành phần dân tộc chủ yếu là dân tộc Kinh, ngoài ra còn
có các dân tộc thiểu số nhƣ Tày, Nùng, Sán Dìu, HMông, Cao Lan… Chính
quyền Huyện đã thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho các đồng bào thiểu số
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

15
nghèo, đời sống khó khăn nhƣ: trợ giá, trợ cƣớc cho các mặt hàng chính sách,
hỗ trợ vay vốn phát triển sản xuất, chƣơng trình 134, 135. Đại hội Đại biểu
các dân tộc thiểu số huyện Đồng Hỷ lần thứ nhất đã đƣợc tổ chức trang trọng,
thể hiện truyền thống văn hoá, lịch sử, phát huy sức mạnh của cộng đồng các
dân tộc trên địa bàn.

Về giáo dục: Năm học 2008 -2009 huyện đã hoàn thành chƣơng trình
tiểu học đạt 99,1%, tốt nghiệp THPT đạt 83,5%. Duy trì và giữ vững phổ cập
giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS, có 4 trƣờng đƣợc
công nhận đạt chuẩn quốc gia. Giáo dục của huyện tiếp thực hiện tốt các cuộc
vận động của nghành, triển khai công tác thanh tra toàn diện các trƣờng để
duy trì nền nếp kỉ cƣơng dạy và học; Tổ chức triển khai phong trào thi đua
“Xây dựng trƣờng học thân thiện, học sinh tích cực”, “Mỗi thầy cô giáo là
một tấm gƣơng tự học và sáng tạo”…
Nhìn chung, hiện nay Đồng Hỷ là một huyện đang có sự phát triển mạnh
về mọi mặt kinh tế, văn hoá xã hội.
1.2. Ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình - Đồng Hỷ - Thái Nguyên
1.2.1. Nơi cư trú
Thái Nguyên là một tỉnh miền núi hiện có số lƣợng ngƣời Nùng sinh
sống đứng thứ sáu cả nƣớc, sau Lạng Sơn, Cao Bằng, Đắc Lắc, Bắc Giang,
Hà Giang, dân số có 1.046.159 ngƣời, trong đó có 5628 ngƣời Nùng, chiếm
5,2 % dân số toàn tỉnh. Đồng bào Nùng sống tập trung theo các nhóm địa
phƣơng ở các huyện Đồng Hỷ, Đại Từ, Võ Nhai… Xã Hoà Bình, huyện Đồng
Hỷ là một xã miền núi nằm ở phía Bắc của huyện đồng Hỷ, cách trung tâm
thành phố Thái Nguyên khoảng hơn 20 km. phía Đông giáp xã Tân Long,
phía Nam giáp xã Minh Lập, phía Bắc giáp xã Văn Lăng. Là một xã miền núi
với nhiều xóm vùng sâu vùng xa, địa hình núi đá hiểm trở, ngƣời dân xã Hoà
Bình còn gặp phải rất nhiều khó khăn trong đời sống, tuy nhiên hiện nay xã
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

16
Hoà Bình đang đẩy mạnh công tác xây dựng, phát triển kinh tế xã hội, đời
sống của ngƣời dân trong xã có nhiều đổi thay. Xã Hoà Bình là một trong
những xã vùng sâu của huyện Đồng Hỷ, trong xã hiện có nhiều dân tộc anh
em cùng chung sống nhƣ: Dao, Cao Lan, Tày, Nùng Trong đó ngƣời Nùng
Phàn Slình sống ở các xóm: Đồng Vung, Đồng Cầu và chủ yếu là ở xóm Tân

Đô. Xóm Tân Đô là điểm đến đầu tiên của ngƣời Nùng Phàn Slình trên đƣờng
chuyển cƣ từ Lạng Sơn đến Thái Nguyên. Để phục vụ đề tài luận văn này,
chúng tôi tập trung nghiên cứu về ngƣời Nùng Phàn Slình xã Hoà Bình,
huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên.
Xóm Tân Đô nằm trên khu vực đệm giữa vùng núi thấp với vùng núi
cao, đƣợc núi rừng bao bọc. Theo thống kê của xã Hoà Bình, hiện trong xóm
có 455 nhân khẩu, số lƣợng ngƣời Nùng Phàn Slình là 357 ngƣời, chiếm
khoảng 92,6% tổng số nhân khẩu của xóm. Xóm có diện tích tự nhiên 393 ha,
trong đó: diện tích đồi rừng chiếm 338 ha, rừng trồng 45 ha, đất trồng chè 20
ha, đất soi màu 2 ha, đất ruộng 33 ha.Tuy mới di cƣ xuống Thái Nguyên chƣa
lâu nhƣng ngƣời Nùng Phàn Slình đã sống định canh, định cƣ thành làng bản.
1.2.2. Nguồn gốc tộc người
Theo các kết quả nghiên cứu đã đƣợc công bố, qua các gia phả của một
số dòng họ Nùng ở Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên…, qua các nguồn sử
liệu, chúng ta biết rằng nguồn gốc lịch sử của dân tộc Nùng ở Việt Nam có
hai bộ phận. Bộ phận thứ nhất là hai tộc Tày, Nùng có chung cội nguồn, thuộc
nhóm Âu Việt và bộ phận thứ hai là một số nhóm Nùng có tộc danh xác định
ở cấp độ các nhóm địa phƣơng mới di cƣ vào Việt Nam cách đây 300 - 400
năm. Đại bộ phận ngƣời Nùng ở Việt Nam nói chung và ngƣời Nùng ở xã
Hoà Bình, huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên nói riêng đều có nguồn gốc từ
Trung Quốc. Họ di cƣ sang Việt Nam theo từng nhóm, vào từng thời điểm
khác nhau, chia làm nhiều đợt. Nguyên nhân di cƣ của họ chủ yếu là do bị áp
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

17
bức bóc lột nặng nề, bị chèn ép và nhất là bị đàn áp đẫm máu sau các cuộc
khởi nghĩa không thành. Loạn giặc cƣớp bóc cùng với nạn thiếu ruộng đất
cũng đẩy họ đi tìm nơi sinh cƣ lập nghiệp mới.
Theo tƣ liệu của Nguyễn Thị Ngân, giám đốc Bảo tàng Văn hoá các
dân tộc Việt Nam về gia phả của ngƣời Nùng An, Nùng Phàn Slình ở các địa

phƣơng nhƣ Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn và Thái Nguyên, chúng tôi thấy
rằng bộ phận ngƣời nùng Phàn Slình cƣ trú tại huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái
Nguyên có nguồn gốc di cƣ từ Quảng Tây – Trung Quốc vào Văn Quan, Bình
Gia – Lạng Sơn rồi sau đó một bộ phận đã tiến xuống định cƣ ở Thái Nguyên.
Ngƣời Nùng Phàn Slình đến định cƣ ở xã Hoà Bình huyện Đồng Hỷ
khá muộn, ngƣời dân ở đây kể lại rằng vào thập niên 30 của thế kỉ XX, họ di
chuyển từ các xã Văn Vụ, Quang Trung thuộc huyện Bình Gia, tỉnh Lạng Sơn
tới đây làm ăn sinh sống, khi đó ở đây đất đai còn rất hoang sơ. Với truyền
thống ngàn đời của ngƣời Nùng, họ đã khai khẩn đất đai, dẫn thuỷ nhập điền,
canh tác rộng nƣớc, chăn nuôi… xây dựng xóm làng.
Ông Lý Ngọc Tân, ngƣời Nùng Phàn Slình, chủ tịch, kiêm phó Bí thƣ
Đảng uỷ xã Hoà Bình cho biết gia đình ông cùng những gia đình khác nhƣ
ông Hoàng Văn Bạn, Hoàng Văn Khoắy, Hoàng văn Sẩy, Hoàng Văn
Toòng…ở xã Hoà Bình di cƣ từ Lạng Sơn về Thái Nguyên để khai hoang, vỡ
đất từ năm 1933, đến năm 1935 thì định cƣ tại đây. Một số gia đình đến đây
muộn hơn nhƣ gia đình ông Lâm Văn Hoa, ông Lâm Ngọc Loan …chuyển từ
Lạng Sơn xuống sau sự kiện Biên giới Việt Trung năm 1979.
Những gia đình ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã Hoà Bình, huyện Đồng
Hỷ, tỉnh Thái Nguyên đều nhận mình là nhóm ngƣời Nùng Phàn Slình có
nguồn gốc, tổ tiên từ Châu Vạn Thành (Trung Quốc) di cƣ vào Lạng Sơn, sau
đó chuyển về sinh sống, lập nghiệp tại xã Hoà Bình huyện Đồng Hỷ, tỉnh
Thái Nguyên nhƣ ngày nay.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

18
1.2.3. Đôi nét về kinh tế, chính trị, văn hoá
* Kinh tế, chính trị
Kinh tế của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Hoà Bình chủ yếu dựa vào trồng
trọt, chăn nuôi và các hoạt động kinh tế khác nhƣ: hái lƣợm, săn bắn, đánh
cá,… Thực hiện hiệu quả công tác chuyển đổi cơ cấu kinh tế với việc giao

đất, giao rừng đến từng hộ dân, kinh tế của xã phát triển theo hƣớng ổn định,
đạt mức tăng trƣởng khá. Thu nhập kinh tế bình quân đầu ngƣời toàn xã về
lƣơng thực: 680kg/ngƣời/năm; về tiền: 4500.000/ngƣời/năm.
Với xóm Tân Đô, diện tích đất nông nghiệp có 33 ha, đất soi màu có 2
ha, đất nƣơng có 30 ha. Vốn là cƣ dân nông nghiệp trồng trọt, trong sản xuất
họ tuân theo nông lịch sản xuất khá chặt chẽ. Vụ chiêm kéo dài từ tháng giêng
tới tháng 05, vụ mùa từ tháng 05 đến tháng 09, vụ ngô đông từ tháng 09 đến
tháng 12. Các hoạt động trồng trọt của họ bao gồm canh tác ruộng nƣớc, rãy,
nƣơng thổ canh, soi bãi. Ruộng nƣớc là những đám ruộng thấp, ruộng trong
dọc quanh năm có nƣớc hoặc những ruộng có thể dẫn nƣớc vào, ruộng này có
thể cấy hai vụ lúa, một vụ mùa. Cùng với sự phát triển của hệ thống kênh
mƣơng của xã Hoà Bình, hiện nay diện tích ruộng nƣớc của ngƣời Nùng Phàn
Slình ở Hoà Bình đƣợc mở rộng hơn. Bên cạnh ruộng nƣớc, ngƣời dân nơi
đây còn canh tác trên nƣơng. Nƣơng thƣờng là nơi có thảm thực vật tốt, đó là
vùng có nhiều mùn, khi phát đốt sẽ có nhiều tro làm phân bón. Xƣa kia nƣơng
khai phá từ rừng già, nhƣng hiện nay vùng đồng bào Nùng Phàn Slình ở xã
Hoà Bình chủ yếu phát nƣơng từ rừng thứ sinh hoặc đồi cỏ tranh. Nƣơng
thƣờng đƣợc phát vào thời gian trƣớc tết và đốt dọn, gieo trồng vào tháng 1-2
kéo dài đến tháng 5 một vụ, sau đó tiếp tục vụ thứ 2 kéo dài đến tháng 10. Ở
xã Hoà Bình, nƣơng không dùng để trồng lúa nhƣ ở một số địa phƣơng khác
mà chủ yếu để trồng các loại cây khác nhƣ cây chè, ngô, sắn…Ngoài nƣơng
và ruộng nƣớc, gia đình ngƣời Nùng Phàn Slình nào ở xã Hoà Bình còn có
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

19
vƣờn (Soi) ở cạnh nhà hoặc ven đƣờng, ven suối gần bản để trồng các loại
rau, cây gia vị nhƣ gừng, tỏi. Rau đƣợc chia thành hai vụ, rau vụ đông và rau
vụ hè. Vụ đông đồng bào trồng bắp cải, xu hào, xà lách , vụ hè, đồng bào
trồng các loại bầu, mƣớp, gừng, nghệ… Ngoài ra trong vƣờn của ngƣời dân
cũng trồng một số cây trái ăn quả nhƣ vải, nhãn, hồng… Tuy nhiên quy mô

vƣờn nhỏ, chỉ từ vài chục đến vài trăm mét vuông nên sản phẩm từ vƣờn mới
chỉ ở mức tự cung tự cấp một phần rau trái.
Chăn nuôi: Chăn nuôi gia súc, đặc biệt là trâu, bò là hoạt động chăn
nuôi phổ biến và quan trọng, điều này gắn chặt với sản xuất nông nghiệp.
Mỗi gia đình ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã Hoà Bình đều nuôi từ 1 đến 2 con
trâu, chủ yếu nhằm lấy sức kéo phục vụ cho trồng trọt cụ thể là việc cấy lúa
nƣớc, trồng màu. Việc nuôi trâu tƣơng đối đơn giản: Ban ngày ngƣời dân lùa
trâu đi chăn, chiều tối lại xua về. Hiện nay, đồng bào ngƣời Nùng Phàn Slình
ở Hoà Bình đã tiến hành trồng cỏ chăn nuôi trâu bò. Bên cạnh đó ở xã Hoà
Bình, việc chăn nuôi lợn và chăn nuôi các loại gia cầm (gà, vịt, ngan…) cũng
đƣợc chú ý nhằm đáp ứng nhu cầu lấy thịt, bán hoặc phục vụ các nghi lễ.
Chăn nuôi thả cá dải dác ở một số gia đình, đồng bào thƣờng nuôi một số
giống cá: mè, chép, chắm thả ao. Ngoài ra nuôi ong mật cũng đƣợc duy trì ở
các gia đình ngƣời Nùng Phàn Slình nơi đây. Ong đƣợc nuôi bằng phƣơng
pháp thủ công nên chất lƣợng mật rất tốt, nhất là thu mật vào mùa các loại
hoa nở (tháng 2, 3, 4) mật có màu vàng ánh, ngọt lịm và hƣơng thơm lạ. Đây
cũng là một loại đặc sản quý của ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã Hoà Bình.
Ngoài trồng trọt, chăn nuôi, cộng đồng ngƣời Nùng ở đây còn duy trì
một số nghề thủ công nhƣ: làm ngói, làm nghề mộc, đan lát… các nghề thủ
công này đƣợc coi là các nghề phụ, đƣợc làm trong lúc nông nhàn chủ yếu để
phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp.
Hiện nay vì trình độ dân trí không đồng đều, nhận thức còn nhiều hạn
chế, đời sống chủ yếu dựa vào cây lúa nƣớc, do vậy việc phát triển kinh tế còn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

20
gặp phải nhiều khó khăn, nhƣng với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng Uỷ
cùng các đoàn thể, tập quán canh tác độc canh cấy lúa đã đƣợc chuyển sang
thâm canh những giống lúa mới, ngô cao sản, hoa màu, trồng cỏ chăn nuôi
trâu, bò…, góp phần tích cực vào công tác xoá đói giảm nghèo của xã. Cụ thể

năm 2009 bình quân thu nhập đầu ngƣời của xã đạt 10 triệu đồng/khẩu/năm.
Tại xã Hoà Bình các đoàn thể: Hội nông dân, Hội cựu chiến binh, hội
phụ nữ, đoàn thanh niên…hoạt động rất tích cực, đóng vai trò quan trọng
trong việc tuyên truyền, hƣớng dẫn, giúp đỡ nhân dân thực hiện tốt các chính
sách của Đảng và Nhà nƣớc. Trong phong trào chung của xã, các hoạt động
văn hoá văn nghệ thể dục thể thao của các xóm phát triển mạnh: các xóm
trong xã có một đội bóng chuyền, một đội văn nghệ, thƣờng xuyên giao lƣu
với các xã bạn và tham gia các chƣơng trình chào mừng, giao lƣu văn nghệ
của xã, của huyện. Xóm Tân Đô, xóm tập trung đông nhất ngƣời Nùng Phàn
Slình, đã thực hiện tốt phong trào: “Toàn dân đăng ký xây dựng đời sống văn
hoá”, đƣợc huyện Đồng Hỷ tặng bằng công nhận làng văn hoá cấp huyện và
từ năm 2001 đến 2009 đƣợc tỉnh Thái Nguyên tặng bằng công nhận làng văn
hoá tiêu biểu cấp tỉnh. Hƣởng ứng hoạt động của Mặt trận tổ quốc và các
đoàn thể trong xã, các tổ chức đoàn thể và nhân dân đã đẩy mạnh phong trào
xoá đói giảm nghèo, tham gia các cuộc vận động xã hội và bảo vệ trật tự trị an.
* Làng bản và nhà cửa
Nhà ở là sản phẩm văn hoá của con ngƣời, đồng thời là nơi hội tụ các sinh
hoạt gia đình và là hình ảnh thu nhỏ của văn hoá dân tộc. Dân tộc nào cũng
làm nhà để ở nhƣng tuỳ thuộc vào điều kiện tự nhiên, nghề nghiệp mà mỗi
dân tộc lại có những kiểu đặc trƣng riêng cùng những phong tục liên quan đến
ngôi nhà của mình.
Ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã Hoà Bình huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên
nằm trong cảnh quan cƣ trú vùng thung lũng lòng chảo nhỏ hẹp, dải dác men
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

21
theo các triền đồi. Nhà của nguời Nùng Phàn Slình nơi đây đa số dựa lƣng
vào sƣờn đồi, mặt hƣớng ra cánh đồng. Xóm, bản thiên về chiều dài, có
những nóc nhà cách nhau hàng chục mét. Điều kiện xây nhà lập bản của
ngƣời Nùng nơi đây là phải có nguồn nƣớc, đất thổ cƣ và đất thổ canh. Mặt

khác sống trong môi trƣờng thung lũng có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm, nên cần
phải khắc phục mƣa nguồn suối lũ, đồng thời phải bảo quản tốt nông sản phục
cụ cho đời sống kinh tế, ngƣời Nùng nói chung và ngƣời Nùng Phàn Slình nói
riêng phải tính toán chu đáo để làm sao dựng đƣợc ngôi nhà vừa tiện lợi vừa
bền vững cho mình và cho con cháu. Ngƣời Nùng thƣờng ở nhà sàn và nhà
nửa sàn nửa đất, trong đó nhà sàn là kiểu nhà truyền thống ƣa thích của họ.
Khác với nhà trình tƣờng của ngƣời Nùng Phàn Slình ở Lạng Sơn, Nhà
của ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã Hoà bình huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên
là kiểu nhà Sàn gần gũi với nhà sàn của ngƣời Tày. Nhà Sàn của ngƣời Nùng
Phàn Slình bao gồm 56 cột: 2 cột nóc, 7 cột cái, 18 cột quân, 26 cột hiên, 1
xà, 2 quái giang. Cột nóc dài 7,5 m, cột cái dài 5,5 m, cột quân dài 4,5 m, cột
hiên dài 3,5 m. Nhà Sàn gồm 2 bề, 1 bề rộng 14 m (4 gian, 2 chái), 1 bề rộng
15 m (5 gian 2 chái); một cầu thang gỗ có 7, 9 hoặc 11 bậc. Mái nhà lợp ngói
âm dƣơng (ngói máng), vách thƣng bằng gỗ tấm theo chiều dọc. Toàn bộ hệ
thống khung, kèo, cột, vách, sàn đều làm bằng gỗ tốt: Đinh, trai, nghiến…hệ
thống xuyên xà có kết cấu chắc chắn, tạo cho ngôi nhà có độ bền vững, có độ
tuổi lớn: 200 - 300 năm. Với ngƣời Nùng Phàn Slình, khi dựng nhà đầu tiên là
dựng cột cái, ngoài ra còn phải chọn giờ tốt để đặt nóc, lên nhà mới…Lễ vào
nhà mới là lễ nhóm bếp, ngƣời nhóm bếp phải là ngƣời làm ăn khá giả, có đủ
cả con trai và con gái. Có vậy mới đem đến nhiều may mắn cho chủ nhà.
Qua thực tế khảo sát, chúng tôi thấy so với nhà sàn của dân tộc Tày thì
nhà sàn của ngƣời Nùng có nhiều điểm khác: Về hình dàng bên ngoài, mái
nhà ngƣời Nùng thƣờng kéo dài hơn mái nhà ngƣời Tày. Nhà sàn của ngƣời
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

22
Nùng ít cửa sổ hơn và cửa sổ cũng thƣờng nhỏ hơn. Do vậy mà nhà của ngƣời
Nùng thƣờng thấp và tối, còn nhà sàn của ngƣời Tày thƣờng thoáng và có
nhiều ánh sáng hơn. Đến nay tại xã Hoà Bình mặc dù đời sống đã có nhiều
thay đổi, nhƣng nhà ở của ngƣời Nùng Phàn Slình vẫn giữ đƣợc những kiến

trúc truyền thống độc đáo của dân tộc mình. Nhà sàn của ngƣời Nùng nơi đây
không chỉ là nơi để che mƣa, che nắng mà còn là nơi chứa đựng, gửi gắm tâm
hồn và những sáng tạo nghệ thuật của những ngƣời nghệ nhân khi dựng lên
nếp nhà. Nhà sàn chứa đựng trí tuệ kiến trúc, có giá trị lâu đời cả về kĩ thuật
lẫn nghệ thuật.
* Y phục và trang sức
Trang phục của ngƣời Nùng Phàn Slình đƣợc cắt may từ vải sợi bông
nhuộm chàm, đơn giản, không thêu thùa, trang trí. Nam giới mặc quần chân
què ống rộng, cạp lá toạ, dài tới mắt cá chân, áo nam giới may kiểu cổ đứng
xẻ ngực, cài khuy bằng nút vải, có từ 2 đến 4 túi không nắp.
Áo của phụ nữ là áo 5 thân cài cúc bên nách phải, mặc quần chân què,
cạp lá toạ, luốn dây để buộc rút ngang hông, có dây thắt lƣng cũng bằng vải
chàm buông thõng ở phía sau trên cổ áo có ba chiếc cúc bạc. Các loại khăn,
các kiểu quấn khăn của ngƣời phụ nữ Nùng rất phong phú về chủng loại và
kiểu cách. Riêng với ngƣời Nùng Phàn Slình, khăn đội đầu của nữ giới có tới
ba kiểu. Ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã hoà Bình thƣờng chít khăn màu chàm,
xếp lại và quấn một vòng quanh đầu, buộc chéo hai đầu khăn ở phía sau dài
30 cm. Khi đi làm, chị em còn đội thêm chiếc nón đan bằng nan tre hay nan
giang. Khi đi chợ hay đi chơi, ngƣời phụ nữ còn xách tay hoặc khoác thêm
một chiếc túi nải bằng vải chàm để đựng các tƣ trang cần thiết.
Các loại trang sức đi kèm trang phục, chủ yếu chế tác bằng bạc, bao
gồm: Xà tích, khuyên tai, vòng tay…
Ngày nay, hầu hết thanh niên nam nữ dân tộc Nùng Phàn Slình ở xã
Hoà Bình, huyện Đồng Hỷ đều mặc quần âu, áo sơ mi, chỉ có ngƣời trung
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

23
tuổi, ngƣời già là vẫn giữ đƣợc và sử dụng những bộ y phục cổ truyền của dân
tộc mình. Đặc biệt trong những ngày lễ tết, những ngày hội của xóm làng họ
vẫn mặc những trang phục cổ truyền của dân tộc.

* Văn hoá tinh thần
Cũng nhƣ dân tộc Nùng nói chung, ngƣời Nùng Phàn Slình quan niệm
thế giới bao gồm toàn bộ thiên nhiên, con ngƣời và sự vật trên ba cõi, tƣơng
ứng với 3 tầng: trời, trần gian và âm phủ. Họ tin theo thuyết vạn vật hữu linh,
mọi sự vật hiện tƣợng trong tự nhiên đều có linh hồn. Vì vậy thờ cúng tổ tiên
là nghi thức tín ngƣỡng cổ truyền, quan trọng bậc nhất của dân tộc Nùng Phàn
Slình ở xã Hoà Bình huyện Đồng Hỷ tỉnh Thái Nguyên. Trong mỗi gia đình
đều có bàn thờ riêng và đƣợc đặt ở ban phía trên, là một nơi trang trọng của
ngôi nhà. Bàn thờ của ngƣời Nùng Phàn Slình đƣợc chia làm ba tầng: tầng
trên cùng thờ các vị thần linh, tầng thứ hai thờ các cụ ông, tầng dƣới cùng là
tầng thờ các cụ bà. Bàn thờ là nơi rất tôn nghiêm trong gia đình, gia đình nào
có tổ tiên hoặc có ngƣời làm thầy mo, thầy tào thƣờng có thêm bàn thờ riêng
tại một vị trí kín đáo, yên tĩnh buộc trên vách nhà, thờ các thánh thần thuộc
Đạo Giáo hoặc Đạo Khổng. Ngoài ra mỗi gia đình ngƣời Nùng Phàn Slình ở
đây còn thờ Ma giàn (ma khách) vị bảo vệ cho gia đình ở ngoài cửa hoặc
ngoài giọt gianh. Mỗi gia đình, mỗi dòng họ sẽ có một ma giàn khác nhau và
tên gọi khác nhau, tuỳ theo tên gọi của dòng họ đó. Đặc biệt khác so với tín
ngƣỡng của các dân tộc khác, ngƣời Nùng Phàn Slình thƣờng có ống bƣơng
hoặc lập vài miếng gỗ nhỏ đặt ở gốc cây, hòn đá để thờ thổ công, thổ địa.
Trong xóm có vài nơi đặt điểm thờ nhƣ vậy.
Ngoài việc thờ cúng các vị thần linh, tổ tiên tại nhà, ngƣời Nùng Phàn
Slình còn dựng đình thờ thành hoàng làng, đó là vị thần công cộng bảo vệ bản
làng, bảo vệ mùa màng gia súc… Hàng năm vào dịp lễ tết ngƣời ta mở hội
Oóc Pò (ra đồi) để cầu trời cho mƣa thuận gió hoà, mùa màng tƣơi tốt, mọi
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

24
ngƣời đều vui vẻ hạnh phúc. Vào ngày này các gia đình trong xóm mang lễ
vật, hƣơng hoa ra đình để dâng lên các vị thần cầu mong sức khoẻ, bình an
cho cả ngƣời và vật nuôi.

Văn hoá nghệ thuật: Ngƣời Nùng phàn Slình ở xã Hoà Bình có một kho
tàng truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện thơ… rất phong phú. Về âm
nhạc, làn điệu dân ca quen thuộc và phổ biến của họ sli, lƣợn và đặc biệt là
Cổ lẩu thƣờng đƣợc hát trong những dịp lễ tết, đám cƣới, các phiên
chợ…Nhạc khí của ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã Hoà Bình có trống, thanh la,
chũm choẹ, chuông. Dân vũ của ngƣời Nùng gồm các điệu múa, nhảy nhộn
nhịp, mạnh mẽ, hiện nay ngoài điệu múa lân trong lễ hội Oóc Pò, điệu múa
xiêng tâng vẫn đƣợc ngƣời Nùng Phàn Slình ở xã Hoà Bình, huyện Đồng Hỷ
sử dụng để tiễn đƣa ngƣời đã khuất trong nghi lễ tang ma của họ. Đặc biệt
trong đời sống hiện đại ảnh hƣởng khá nhiều nhƣng ngƣời dân nơi dây vẫn
giữ đƣợc những vốn văn hoá dân gian của dân tộc mình.
1.3. Khái lƣợc về sli, lƣợn
Sli, lƣợn là những thể loại trữ tình dân gian của các dân tộc Tày –
Nùng. Trong đời sống, đặc biệt là trong những dịp lễ hội, chợ phiên, khi có
khách vào bản…những câu sli, câu lƣợn lại tuôn trào. Từ trên nhà sàn đến
bƣớc chân xuống cầu thang, trên nƣơng hay trong ngày hội … ở đâu, lúc nào
lời ca tiếng hát của đồng bào dân tộc Tày – Nùng cũng vang lên. Các làn điệu
dân ca này có mặt trọng mọi lĩnh vực của cuộc sống, đó là những bài ca lao
động, sản xuất, hát mừng thọ, hát mừng đám cƣới, mừng nhà mới, mừng mùa
xuân, hát tiễn đƣa linh hồn ngƣời mất và đặc biệt là lời hát về tình yêu lứa đôi.
“Trai gái Tày – Nùng gửi gắm vào đấy tất cả nỗi lòng khao khát yêu
đƣơng, nỗi e thẹn thăm dò lúc buổi dầu trao duyên, những lời hẹn hò thề thốt
khi tình yêu đang độ chín, nỗi nhớ tình thƣơng khi xa nhau, những nỗi hờn
ghen, giận tủi, những lời oán, lời trách khi tình yêu dang dở, những giọng
đằm thắm ân tình khi đạt tình yêu trọn vẹn, thuỷ chung…” [4, 56-57]

×