Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Phân tích sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân hiện nay còn nắm giữ sứ mệnh lịch sử đó không? Vì sao?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (267.56 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA ĐẦU TƯ
-----------   -----------

BÀI TẬP LỚN
Môn học: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Đề bài:
1. Phân tích sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Giai cấp cơng nhân
hiện nay cịn nắm giữ sứ mệnh lịch sử đó khơng? Vì sao?
2. Phân tích một mơ hình về chủ nghĩa xã hội đương đại ?

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Lê Thư
Sinh viên thực hiện : Lê Công Tuấn Giang
Mã sinh viên

: 11191402

Lớp

: CNXH KH- 27

Năm học

: 2020-2021

Hà Nội, 2020
***

1



TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA ĐẦU TƯ
-----------   -----------

BÀI TẬP LỚN
Môn học: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Đề bài:
1. Phân tích sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Giai cấp cơng nhân
hiện nay cịn nắm giữ sứ mệnh lịch sử đó khơng? Vì sao?
2. Phân tích một mơ hình về chủ nghĩa xã hội đương đại ?

Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Lê Thư
Sinh viên thực hiện : Lê Công Tuấn Giang
Mã sinh viên

: 11191402

Lớp

: CNXH KH- 27

Năm học

: 2020-2021

Hà Nội, 2020
***

2



MỤC LỤC
MỤC LỤC…………………………………………………………................03
LỜI CẢM ƠN…………………………………………………………...........04
NỘI DUNG………………………………………………................................05
A. Phân tích sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Giai cấp công nhân
hiện nay cịn nắm giữ sứ mệnh lịch sử đó khơng? Vì sao?..........................05
1. Khái niệm và đặc điểm của giai cấp công nhân.........................................05
2. Nội dung và đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân................07
3. Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân....................................10
4. Những điều kiện quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân..........11
5. Giai cấp cơng nhân hiện nay có cịn giữ sứ mệnh lịch sử đó khơng? Vì
sao?................................................................................................................13
B. Phân tích một mơ hình về chủ nghĩa xã hội đương đại...........................16
I. Tiền đề về mặt lý luận ................................................................................16
II. Đặc điểm của mơ hình..............................................................................17
1. Kinh tế........................................................................................................17
2. Chính trị.....................................................................................................18
3. Xã hội.........................................................................................................20
III. Đánh giá mơ hình CNXH ở Israel............................................................21
Đánh giá chung:............................................................................................23
TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................25

3


LỜI CẢM ƠN
“Lời đầu tiên, em xin chân thành tỏ lịng biết ơn sâu sắc đến giáo viên bộ
mơn chủ nghĩa xã hội khoa học - cô Nguyễn Thị Lê Thư đã ân cần chỉ bảo, dạy
dỗ chúng em trong suốt thời gian qua, nhất là trong hoàn cảnh đất nước và xã hội

vẫn đang chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh như hiện nay. Những kiến thức quý báu
mà cô truyền tải đã góp phần rất lớn vào bài tập lớn này!
Em xin gửi lời cảm ơn đến những anh, chị, những cá nhân đã luôn quan tâm
giúp đỡ, cổ vũ tinh thần, tạo động lực để em hoàn thiện bài tập này !
Bài tập lớn đã giúp em rất nhiều trong việc nâng cao khả năng diễn giải và
phát triển tư duy. Dù vậy, trong quá trình làm bài khó tránh khỏi những thiếu sót
khơng đáng có. Em rất mong có thể nhận được sự thơng cảm, góp ý và chỉ bảo từ
q cơ!
Chúc cơ và gia đình ln bình an!

Hà Nội, ngày 01 tháng 10 năm 2020
Sinh viên thực hiện
LÊ CÔNG TUẤN GIANG

4


NỘI DUNG
A. Phân tích sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân. Giai cấp cơng nhân
hiện nay cịn nắm giữ sứ mệnh lịch sử đó khơng? Vì sao?
1. Khái niệm và đặc điểm của giai cấp công nhân
* Khái niệm GCCN: Theo Mác – Ăngghen, GCCN có hai thuộc tính:
- Về nghề nghiệp: Là những người lao động trực tiếp hay gián tiếp vận hành
các công cụ sản xuất có tính chất cơng nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hoá
cao (Là điều kiện để GCCN phát triển).
+ Trực tiếp: Là những người trực tiếp vận hành, điều khiển các cơng cụ sản
xuất có tính chất cơng nghiệp.
+ Gián tiếp: Là những người quản lý quá trình lao động cơng nghiệp, những
người tham gia vào q trình sản xuất công nghiệp: tiếp thị, bán sản phẩm… Môi
trường lao động của họ là các ngành cơng nghiệp có trình độ kỹ thuật khác nhau.

Trong đó lực lượng cơng nhân hiện đại gắn với nền đại công nghiệp là bộ phận cơ
bản và là hạt nhân của GCCN. Quan điểm này được Mác - Ăngghen khẳng định:
“Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại cơng
nghiệp, cịn giai cấp vơ sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”
- Vị trí trong QHSX:
+ Dưới CNTB: Là những người lao động khơng có, hoặc cơ bản khơng có
TLSX phải bán sức lao động, làm thuê cho nhà Tư bản, bị GCTS bóc lột giá trị
thặng dư. C.Mác, Ph.Ăngghen khẳng định rằng: “...giai cấp chỉ có thể sống với
điều kiện là kiếm được việc làm, và cũng chỉ kiếm được việc làm nếu lao động
của họ làm tăng thêm tư bản,... Những cơng nhân ấy buộc phải tự bán mình để
kiếm ăn từng bữa một. Là một hàng hoá, tức là một món hàng hố đem bán như
bất cứ món hàng nào khác; vì thế, họ phải chịu hết thảy mọi sự may rủi của cạnh
tranh, mọi sự lên xuống của thị trường”.
Mác và Ăngghen đặc biệt nhấn mạnh thuộc tính thứ hai này , vì chính điều đó
khiến cho người công nhân trở thành giai cấp đối kháng với giai cấp tư sản. Đồng
thời thuộc tính này nói lên đặc trưng cơ bản của giai cấp công nhân dưới chế độ tư
bản, nên Mác và Ăngghen còn gọi giai cấp công nhân là giai cấp vô sản.
5


+ Khi giành được chính quyền (dưới CNXH): Họ cùng nhân dân lao động làm
chủ xã hội, làm chủ TLSX, cùng nhau hợp tác lao động cho mình. (Vì xã hội
XHCN dựa trên chế độ công hữu về TLSX, tạo sự cơng b ằng, bình đẳng cho mọi
người, trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội). Ngày nay do sự phát triển của
KHCN , làm cho công nhân cũng có sự thay đổi lớn lao; bên cạnh cơng nhân của
nền cơng nghiệp cơ khí, xuất hiện cơng nhân của nền cơng nghiệp tự động hố.
Hoặc ở các nước Tư bản phát triển, bên cạnh nền công nghiệp, xuất hiện ngày
càng nhiều loại ngành dịch vụ
(Hiện nay chiếm khoảng 50-70%). Vậy những người làm trong những ngành
này có phải là cơng nhân? Xét trên cả hai tiêu chí như trên họ vẫn là công nhân:

Về nghề nghiệp: Tuy không trực tiếp vận hành máy móc như cơng nhân cơng
nghiệp truyền thống, song nghề nghiệp của họ vẫn gắn liền với cơng nghiệp và
hoạt động theo lối cơng nghiệp.
Vị trí trong QHSXT BCN: Họ vẫn là những người khơng có TLSX, phải bán
sức lao động làm thuê cho nhà Tư bản và bị bóc lột giá trị thặng dư.
Từ nghiên cứu về GCCN trên hai thuộc tính cơ bản của nó, có thể định nghĩa
về GCCN như sau:
“Giai cấp cơng nhân là một tập đồn xã hội ổn định, hình thành và phát triển
cùng với quá trình phát triển của nền công nghiệp hiện đại, với nhịp độ phát triển
của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội hố ngày càng cao; là lực lượng sản
xuất cơ bản tiên tiến, trực tiếp hoặc tham gia vào quá trình sản xuất, tái sản xuất ra
của cải vật chất và cải tạo các mối quan hệ xã hội; là lực lượng chủ yếu của tiến
trình lịch sử quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội; ở các nước tư bản
chủ nghĩa, giai cấp công nhân là những người khơng có hoặc về cơ bản khơng có
tư liệu sản xuất phải làm thuê cho giai cấp tư sản và bị giai cấp tư sản bóc lột giá
trị thặng dư; ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân cùng nhân dân lao
động làm chủ những tư liệu sản xuất chủ yếu và cùng nhau hợp tác lao động vì lợi
ích chung của tồn xã hội trong đó có lợi ích chính đáng của mình.”
Định nghĩa trên đã khái quát những điểm chung, bản chất của GCCN hiện đại
là:
+ Bao gồm cả những người lao động sản xuất vật chất trực tiếp hoặc gián tiếp
6


trong các ngành cơng nghiệp hoặc có tính chất cơng nghiệp.
+ Trình độ kỹ thuật của GCCN cũng có sự khác nhau.
+ Địa vị KT – XH phụ thuộc vào chế độ CT – XH đương thời (dưới CNXH
hay dưới CNTB)
Tóm lại , hai tiêu chí trên về GCCN đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị , vẫn là
phương pháp luận để nghiên cứu GCCN hiện đại và SMLS của nó trong thời đại

ngày nay, và là cơ sở để phân biệt GCCN với các giai cấp khác.
2. Nội dung và đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân
Ta có thể khái qt nội dung chính của sứ mệnh lịch sử, đó là: Xố bỏ chế độ
tư bản chủ nghĩa, xoá bỏ chế độ người áp bức bóc lột người, giải phóng giai cấp
cơng nhân, nhân dân lao động và toàn thể nhân loại khỏi mọi sự áp bức, bóc lột,
nghèo nàn, lạc hậu, xây dựng xã hội chủ nghĩa văn minh.
Những sứ mệnh ấy được phản ánh thông qua ba lĩnh vực:
a) Về kinh tế
Là nhân tố hàng đầu của LLSX xã hội hóa cao, giai cấp công nhân cũng là đại
biểu cho quan hệ sản xuất mới, tiên tiến nhất dựa trên chế độ công hữu về TLSX,
đại biểu cho phương thức sản xuất tiến bộ nhất thuộc về xu thế phát triển của lịch
sử xã hội.
Vai trị chủ thể của giai cấp cơng nhân, trước hết là chủ thể của quá trình sản
xuất vật chất để sản xuất ra của cải vật chất ngày càng nhiều đáp ứng nhu cầu
ngày càng tăng của con người và xã hội. Bằng cách đó, giai cấp công nhân tạo
tiền đề vật chất- kỹ thuật cho sự ra đời của xã hội mới.
Mặt khác, tính chất xã hội hóa cao của LLSX địi hỏi một quan hệ sản xuất
mới, phù hợp với chế độ công hữu các TLSX chủ yếu của xã hội là nền tảng, tiêu
biểu cho lợi ích của tồn xã hội. Giai cấp cơng nhân đại biểu cho lợi ích chung
của xã hội.
Chỉ có giai cấp công nhân là giai cấp duy nhất không có lợi ích riêng với nghĩa
là tư hữu. Nó phấn đấu cho lợi ích chung của tồn xã hội. Nó chỉ tìm thấy lợi ích
chân chính của mình khi thực hiện được lợi ích chung của cả xã hội.
Ở các nước xã hội chủ nghĩa, giai cấp công nhân thông qua q trình cơng
nghiệp hóa và thực hiện “ một kiểu tổ chức xã hội mới về lao động” để tăng năng
7


suất lao động xã hội và thực hiện các nguyên tắc sở hữu, quản lý và phân phối
phù hợp với nhu cầu phát triển sản xuất, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.

Trên thực tế, hầu hết các nước xã hội chủ nghĩa lại ra đời từ phương thức phát
triển rút ngắn, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Do đó, để thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình về nội dung kinh tế, giai cấp cơng nhân phải đóng vai trị nịng cốt
trong q trình giải phóng LLSX (vốn bị kìm hãm, lạc hậu, chậm phát triển trong
quá khứ), thúc đẩy LLSX phát triển để tạo cơ sở cho quan hệ sản xuất mới, xã hội
chủ nghĩa ra đời.
Cơng nghiệp hóa là một tất yếu có tính quy luậ để xây dựng cơ sở vật chất- kỹ
thuật của chủ nghĩa xã hội. Thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng
nhân phải là lực lượng đi đầu thực hiện cơng nghiệp hóa, cũng như hiện nay,
trong bối cảnh đổi mới và hội nhấp quốc tế, yêu cầu mới đặt ra đòi hỏi phải gắn
liền cơng nghiệp hóa với hiện đại hóa, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài ngun, mơi trường.
b) Về chính trị - xã hội
Giai cấp công nhân cùng với nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản, tiến hành cách mạng chính trị để lật đổ quyền thống trị của giai cấp tư
sản, xóa bỏ chế độ bóc lột, áp bức của chủ nghĩa tư bản, giành quyền lực về tay
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Thiết lập nhà nước kiểu mới, mang bản
chất giai cấp công nhân, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện quyền
lực của nhân dân, quyền dân chủ và làm chủ xã hội của tuyệt đại đa số nhân dâ
lao động.
Giai cấp công nhân và nhân dân lao động sử dụng nhà nước của mình, do mình
làm chủ như một cơng cụ có hiệu lực để cải tạo xã hội cũ và tổ chức xây dựng xã
hội mới, phát triển kinh tế và văn hóa, xây dựng nền chính trị dân chủ- pháp
quyền, quản lý kinh tế - xã hội và tổ chức đời sống xã hội phục vụ quyền và lợi
ích của nhân dân lao động, thực hiện dân chủ, cơng bằng, bình đẳng và tiến bộ xã
hội, theo lý tưởng và mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.
c) Về văn hóa tư tưởng
Thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp cơng nhân trong tiến trình cách
mạng cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới trên lĩnh vực văn hóa, tư tưởng
8



cần phải tập trung xây dựng hệ giá trị mới: lao động, cơng bằng; dân chủ; bình
đẳng và tự do.
Hệ giá trị mới này là sự phủ định các giá trị tư sản mang bản chất tư sản và
phục vụ cho giai cấp tư sản; những tàn dư các giá trị đã lỗi thời, lạc hậu của các
xã hội quá khứ. Hệ giá trị mới thể hiện bản chất ưu việt của chế độ mới xã hội chủ
nghĩa sẽ từng bước phát triển và hồn thiện.
Giai cấp cơng nhân thực hiện cuộc cách mạng về văn hóa, tư tưởng bao gồm
cải tạo cái cũ lỗi thời, lạc hậu, xây dựng cái mới, tiến bộ trong lĩnh vực ý thức tư
tưởng, trong tâm lý, lối sống và trong đời sống tinh thần xã hội. Xây dựng và
củng cố ý thức hệ tiên tiến của giai cấp cong nhân, đó là chủ nghãi Mác- Lênin,
đấu tranh để khắc phục ý thức hệ tư sản và các tàn dư cịn sót lại của các hệ tư
tưởng cũ. Phát triển văn hóa, xây dựng con người mới xã hội chủ nghĩa, đạo đức
và lối sống mới xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng đặt ra đối với sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân hiện đại.
Câu hỏi được đưa ra: Vì sao giai cấp cơng nhân có những sứ mệnh lịch sử
đó ?
Theo quan điểm duy vật lịch sử, sứ mệnh lịch sử của một giai cấp không phải
do ý muốn chủ quan quy định mà trái lại, được quy định bởi những điều kiện
khách quan của lịch sử; đồng thời cũng chính điều kiện lịch sử khách quan đó là
cơ sở khách quan tạo cho giai cấp đó có được những đặc điểm chính trị – xã hội
mang tính cách mạng có thể thực hiện được sứ mệnh lịch sử ấy.
Chứng minh:
Thứ nhất, theo lý luận hình thái kinh tế – xã hội, nhân tố quyết định sự phát
triển của xã hội là sự phát triển của lực lượng sản xuất; trong đó, người lao động
là lực lượng sản xuất hàng đầu. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa hay trong bất cứ
một xã hội nào dựa trên sự phát triển của nền đại cơng nghiệp thì lực lượng sản
xuất hàng đầu của nó vẫn là người cơng nhân. Chính người cơng nhân là đại biểu
cho sự phái triển của lực lượng sản xuất tiên tiến nhất của thời đại ngày nay;

khơng có một giai cấp nào có thể thay thế địa vị đó.
Chú ý: ở đây là nói người cơng nhân với tư cách là sản phẩm của nền sản xuất
đại công nghiệp tư bản chủ nghĩa hay xã hội chủ nghĩa; nó đại biểu cho sự phát
9


triển của lực lượng sản xuất tiên tiến của xã hội hiện thời và xã hội tương lai.
Thứ hai, trong các giai cấp, tầng lớp xã hội đối lập (mâu thuẫn) giai cấp tư sản
thì chỉ có giai cấp cơng nhân là giai cấp ở vào địa vị mâu thuẫn trực tiếp nhất và
có tính đối kháng. Điều này khiến cho giai cấp cơng nhân trở thành giai cấp có
tính cách mạng triệt để nhất trong cuộc đấu tranh chống lại ách thống trị, áp bức
và bóc lột của giai cấp tư sản. Trong cuộc đấu tranh để tự giải phóng mình và giải
phóng tồn thể nhân dân lao động khỏi ách thống trị, áp bức, bóc lột của giai cấp
tư sản, giai cấp công nhân (với tư cách là giai cấp vơ sản) khơng mất gì cả, ngoại
trừ mất xiềng xích, cịn nếu được thì dược cả thế giới.
Thứ ba, xuất phát từ đặc điểm của nền sản xuất công nghiệp, nhất là nền công
nghiệp hiện đại, khiến cho giai cấp cơng nhân có được tính tở chức cao với kỷ
luật chặt chẽ. Đồng thời, với sự phát triển mở rộng, có tính xã hội hố cao của nền
sản xuất cơng nghiệp khiến cho giai cấp cơng nhân có được mối quan hệ liên
minh mang tính quốc tế của nó từ cơ sở của nền cơng nghiệp phát triển và nền
kinh tế thị trưịng mở rộng có xu hướng quốc tế hố. Mặt khác, đội ngũ của nó
cũng khơng ngừng lớn mạnh nhờ q trình phát triển của cơng nghiệp hoá ngày
càng mở rộng trong phạm vi một quốc gia cũng như ở nhiều quốc gia khác nhau.
Thứ tư, giai cấp công nhân là giai cấp thuộc những người lao động, điều đó là
cơ sở khách quan cho sự liên minh vững chắc và lâu dài giữa giai cấp công nhân
với các giai cấp và tầng lớp lao động khác trong toàn xã hội, tạo thành lực lượng
cách mạng của cơng cuộc cách mạng xố bỏ xã hội cũ, xây dựng xã hội mới – xã
hội xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, giai cấp cơng nhân là giai cấp có được hệ tư tưởng khoa học của nó
– đó là chủ nghĩa Mác – Lênin.

3. Đặc điểm sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân
Có bốn đặc điểm chính:
- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân xuất phát từ những tiền đề kinh tế
xã hội của sản xuất mang tính xã hội hóa.
- Thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân là sự nghiệp cách mạng
của bản thân giai cấp công nhân cùng với đơng đảo quần chúng và mang lại lợi
ích cho đa số.
10


- Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân không phải là thay thế chế độ sở
hữu tư nhân này bằng một chế độ sở hữu tư nhân khác mà là xóa bỏ triệt để chế
độ tư hữu về tư liệu sản xuất.
- Việc giai cấp công nhân giành lấy quyền lực thống trị xã hội là tiền đề để cải
tạo toàn diện, sâu sắc và triệt để xã hội cũ và xây dựng thành công xã hội mới với
mục tiêu cao nhất là giải phóng con người.
4. Những điều kiện quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân
a) Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp cơng nhân
Khẳng định tính tất yếu khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp
công nhân, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu rõ: “...Cùng với sự phát triển của đại
cơng nghiệp, chính cái nền tảng trên đó giai cấp tư sản đã sản xuất và chiếm hữu
sản phẩm của nó, đã bị phá sập dưới chân giai cấp tư sản. Trước hết, giai cấp tư
sản sản sinh ra người đào huyệt chơn chính nó. Sự sụp đổ của giai cấp tư sản và
thắng lợi của giai cấp vô sản đều là tất yếu như nhau”
Điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân bao
gồm:
Thứ nhất, do địa vị kinh tế của giai cấp công nhân quy định:
Giai cấp công nhân là con đẻ, là sản phẩm của nền đại công nghiệp trong
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, là chủ thể của quá trình sản xuất vật chất
hiện đại. Vì thế, giai cấp cơng nhân đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến và

lực lượng sản xuất hiện đại.
Nền sản xuất hiện đại với xu thế xã hội hóa cao đã tạo ra “tiền đề thực tiễn
tuyệt đối cần thiết” (C.Mác) cho sự nghiệp xây dựng xã hội mới.
Điều kiện khách quan này là nhân tố kinh tế, quy định giai cấp công nhân là
lực lượng phá vỡ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa, giành chính quyền về tay
mình, chuyển từ giai cấp “tự nó” thành giai cấp “vì nó”.Giai cấp cơng nhân trở
thành đại biểu cho sự tiến hóa tất yếu của lịch sử, là lực lượng duy nhất có đủ điều
kiện để tổ chức và lãnh đạo xã hội, xây dựng và phát triển LLSX và quan hệ sản
xuất xã hội chủ nghĩa, tạo nền tảng vững chắc để xây dựng để xây dựng chủ nghĩa
xã hội với tư cách một chế độ xã hội kiểu mới, khơng cịn chế độ người áp bức,
bóc lột người.
11


Thứ hai, do địa vị chính trị - xã hội của giai cấp công nhân quy định:
Là con đẻ của nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân có được
những phẩm chất của một giai cấp tiên tiến, giai cấp cách mạng: tính tổ chức và
kỷ luật, tự giác và đoàn kết trong cuộc đấu tranh tự giải phóng mình và giải phóng
xã hội.
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân sở dĩ được thực hiện bởi giai cấp cơng
nhân, vì nó là một giai cấp cách mạng, đại biểu cho LLSX hiện đại, cho phương
thức sản xuất tiên tiến thay thế phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, xác lập
phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa, hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ
nghĩa. Giai cấp công nhân là giai cấp đại biểu cho tương lai, cho xu thế đi lên của
tiến trình phát triển lịch sử. Đây là đặc tính quan trọng, quyết định bản chất cách
mạng của giai cấp công nhân. Hồn tồn khơng phải vì nghèo khổ mà giai cấp
cơng nhân là một giai cấp cách mạng. Tình trạng nghèo khổ của giai cấp công
nhân dưới chủ nghĩa tư bản là hậu quả của sự bóc lột, áp bức mà giai cấp tư sản
và chủ nghĩa tư bản tạo ra đối với cơng nhân. Đó là trạng thái mà cách mạng sẽ
xóa bỏ để giải phóng giai cấp cơng nhân và giải phóng xã hội.

b) Điều kiện chủ quan để giai cấp công nhân thực hiện sứ mệnh lịch sử
Thứ nhất, sự phát triển của bản thân giai cấp công nhân cả về số lượng và chất
lượng
Sự phát triển về số lượng phải gắn với sự phát triển về chất lượng giai cấp
công nhân hiện đại, đảm bảo cho giai cấp công nhân thực hiện được sứ mệnh lịch
sử của mình. Chất lượng giai cấp cơng nhân phải thể hiện ở trình độ trưởng thành
về ý thức chính trị của một giai cấp cách mạng, tức là tự giác nhận thức được vai
trị và trọng trách của giai cấp mình đối với lịch sử, do đó giai cấp cơng nhân phải
được giác ngộ về lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác –Lênin.
Là giai cấp đại diện tiêu biểu cho phương thức sản xuất tiên tiến, chất lượng
giai cấp cơng nhân cịn phải thể hiện ở năng lực và trình độ làm chủ khoa học kỹ
thuật và công nghệ hiện đại, nhất là trong điều kiện hiện nay. Cuộc cách mạng
công nghiệp lần thứ 4 đang tác động sâu sắc vào sản xuất, vào quản lý và đời sống
xã hội nói chung, đang địi hỏi sự biến đổi sâu sắc tính chất, phương thức lao
động của cơng nhân, lao động trí óc, bằng năng lực trí tuệ, bằng sức sáng tạo ngày
12


càng tăng lên, lao động giản đơn, cơ bắp trong truyền thống sẽ giảm dần bởi sự hỗ
trợ của máy móc, của cơng nghệ hiện đại, trong đó có vai trị của cơng nghệ thơng
tin.Trình độ học vấn, tay nghề, bậc thợ của cơng nhân, văn hóa sản xuất, văn hóa
lao động đáp ứng yêu cầu của kinh tế tri thức là những thước đo quan trọng về sự
phát triển chất lượng của giai cấp công nhân hiện đại.
Thứ hai, Đảng Cộng sản là nhân tố chủ quan quan trọng nhất để giai cấp công
nhân thực hiện thắng lợi sứ mệnh lịch sử của mình.
Đảng Cộng sản- đội tiên phong của giai cấp công nhân ra đời và đảm nhận vai
trò lãnh đạo cuộc cách mạng là dấu hiệu về sự trưởng thành vượt bậc của giai cấp
công nhân với tư cách là giai cấp cách mạng.
Đảng Cộng sản đại biểu trung thành cho lợi ích của giai cấp cơng nhân, của
dân tộc và xã hội. Sức mạnh của Đảng không chỉ thể hiện ở bản chất giai cấp

công nhân mà còn ở mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, với quần
chúng lao động đông đảo trong xã hội, thực hiện cuộc cách mạng do Đảng lãnh
đạo để giải phóng giai cấp và giải phóng xã hội.
c) Ngồi hai điều kiện trên, ngồi ra cần phải có sự liên minh giai cấp giữa giai
cấp công nhân và giai cấp nông dân và các tầng lớp lao động khác do giai cấp
công nhân thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo
5. Giai cấp cơng nhân hiện nay có cịn giữ sứ mệnh lịch sử đó khơng? Vì sao?
Đầu tiên, giai cấp cơng nhân hiện nay là ai? Cụ thể, giai cấp công nhân hiện
nay là những tập đoàn người sản xuất và dịch vụ bằng phương thức công nghiệp
tạo nên cơ sở vật chất cho sự tồn tại và phát triển của thế giới hiện nay.
Tiếp theo ta sẽ đi vào so sánh sự khác biệt giữa giai cấp công nhân hiện nay và
giai cấp cơng nhân truyền thống trước kia xem có gì khác biệt.
Thứ nhất , về điểm tương đồng, giống với giai cấp công nhân trước kia, giai
cấp công nhân hiện nay vẫn đang là lực lượng sản xuất hàng đầu của xã hội hiện
đại. Họ là chủ thể của q trình sản xuất cơng nghiệp hiện đại mang tính xã hội
hóa ngày càng cao => Họ đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến của xã hội hiện
đại.
Thêm nữa, ở các nước tư bản chủ nghĩa hiện nay, quan hệ sản xuất tư bản chủ
nghĩa với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa sản sinh ra tình trạng bóc lột =>
13


Cùng vẫn bị bóc lột giá trị thăng dư bởi giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản.
Từ những điểm trên, có thể khẳng định: Lý luận về sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân trong chủ nghĩa Mác- Lênin vẫn mang giá trị khoa học và cách
mạng, vẫn có ý nghĩa thực tiễn to lớn, chỉ đạo cuộc đấu tranh cách mạng hiện nay
của giai cấp công nhân, phong trào công nhân và quần chúng lao động, chống chủ
nghĩa tư bản và lựa chọn con đường xã hội chủ nghĩa trong sự phát triển của thế
giới ngày nay”
Thứ hai, về những điểm khác biệt: Có hai sự khác biệt chính giữa những người

cơng nhân TK XIX với những người cơng nhân ngày nay. Đó là giai cấp cơng
nhân hiện nay có các yếu tố hiện đại trong sản xuất xã hội. Điều đó thể hiện ở
trình độ khoa học- kỹ thuật và cơ cấu ngành nghề trong thời buổi hiện tại. Mặt
khác, cịn có sự khác biệt về trình độ giữa xưa và nay. Ở thế kỷ XIX, giai cấp
cơng nhân thuở đó hầu hết là những người cơng nhân cổ cồn xanh đóng vai trị là
lực lượng nịng cốt, hao phí lao động lúc này vẫn là hao phí về sức lực, cơ bắp.
Cịn hiện nay, giai cấp công nhân là những người công nhân cổ cồn trắng, cơng
nhân trí thức làm nịng cốt. Họ hao phí nhiều về trí lực khi tham gia vào nền sản
xuất hiện tại.
Như vậy ta có thể phần nào khẳng định: Sứ mệnh lịch sử vẫn thuộc về giai
cấp công nhân hiện đại.
Dù trong nền kinh tế tri thức và cơng nghiệp 4.0 hiện đại được tự động hóa,
thậm chí, người máy có thể sẽ thay thế một bộ phận người lao động thì giai cấp
cơng nhân hiện đại vẫn là người sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội và
là người phải được hưởng thụ xứng đáng các thành quả phát triển. Đó là một
trong những nội dung được nhiều đại biểu tán thành tại Hội thảo khoa học quốc tế
“Di sản tư tưởng của Các Mác và ý nghĩa thời đại” được diễn ra do Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo T.Ư, Hội đồng Lý luận T.Ư
cùng các đơn vị đã phối hợp tổ chức nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh Các Mác
(5.5.1818 - 5.5.2018).
Chủ tịch Hội đồng Lí luận T.Ư bày tỏ: Có ý kiến cho rằng, trong nền kinh tế tri
thức và công nghiệp 4.0, sứ mệnh lịch sử hiện nay khơng cịn thuộc về giai cấp
công nhân mà là thuộc về một số tầng lớp, giai cấp khác, thậm chí là thuộc về
14


người máy... Tuy nhiên, nhờ lí luật Mác, chúng ta thấy rõ, dù nền sản xuất hiện
đại được tự động hóa, nhưng xét về nội dung kinh tế thì giai cấp công nhân hiện
đại vẫn là người sản xuất ra của cải vật chất chủ yếu cho xã hội và là người phải
được hưởng thụ xứng đáng các thành quả phát triển.

Ở khía cạnh tư tưởng, chính trị thì chỉ có giai cấp cơng nhân mới tập hợp được
các giai tầng lao động khác do Đảng Cộng sản lãnh đạo để xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do dân, vì dân. Do địa vị chính trị, xã hội của mình,
chỉ có giai cấp cơng nhân mới giải quyết được các vấn đề chính trị - xã hội trong
q trình xây dựng xã hội mới.
Về góc độ văn hóa - tư tưởng, chỉ có giai cấp cơng nhân mới là lực lượng xác
lập được các hệ giá trị mới như lao động, cơng bằng, dân chủ, bình đẳng, tự do...
để thay thế cho hệ giá trị tư sản cũ.
Do đó, học thuyết của Các Mác và chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò, sứ mệnh
lịch sử của giai cấp cơng nhân hiện nay vẫn cịn ngun giá trị, ý nghĩa thời sự.
Đặc biệt, đối với cách mạng Việt Nam, giai cấp cơng nhân ln có 1 vai trị và
vị trí hết sức quan trọng. Trong các giai đoạn cách mạng trước đây, giai cấp công
nhân Việt Nam không chỉ là giai cấp lãnh đạo cách mạng mà còn là một trong
những lực lượng cách mạng chủ yếu trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân nhằm xóa bỏ sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, phong kiến, giành
độc lập dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản. Trong giai đoạn
cách mạng hiện nay, giai cấp công nhân Việt Nam tiếp tục đảm đương sứ mệnh
lịch sử lớn lao, không chỉ tiếp tục là giai cấp lãnh đạo cách mạng mà còn là lực
lượng tiên phong, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới.
Về mặt sản xuất, giai cấp công nhân là lực lượng cơ bản, chủ yếu, có vai trò to
lớn trong nền kinh tế quốc dân. Mặc dù về số lượng, giai cấp công nhân ở nước ta
chiếm tỉ lệ không lớn trong tổng số dân cư (chiếm tỷ lệ 11% dân số và 21% lực
lượng lao động xã hội) nhưng nắm giữ những cơ sở vật chất và các phương tiện
sản xuất hiện đại nhất của xã hội, quyết định phương hướng phát triển chủ yếu
của nền kinh tế. Giai cấp công nhân là lực lượng lao động đóng góp nhiều nhất
vào ngân sách nhà nước. Hằng năm, giai cấp cơng nhân đóng góp hơn 60% tổng
sản phẩm xã hội và 70% ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, trong quá trình phát
15



triển, giai cấp cơng nhân Việt Nam vẫn cịn những mặt hạn chế, bất cập, chưa đáp
ứng yêu cầu của sự phát triển đất nước và nhiệm vụ chính trị cần phải khắc phục.
“Thế giới ngày nay đã trải qua nhiều biến động. Xu hướng hợp tác, đối thoại
đã dần thay thế cho sự căng thẳng, đối đầu trong các quan hệ quốc tế. Tuy nhiên,
những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác về đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân trong việc tạo dựng 1 xã hội mới khơng cịn áp bức, bất
cơng vẫn cịn ngun sức sống của nó. Trong xã hội Việt Nam hiện tại, giai cấp
công nhân đang ngày càng lớn mạnh và khẳng định được vai trò của mình trong
cơng cuộc đổi mới đất nước. Để làm được điều đó, khơng những Đảng ta mà tồn
dân tộc, trong đó giai cấp cơng nhân là nịng cốt phải tự mình phấn đấu, nâng cao
tri thức, tay nghề để có thế làm tốt sứ mệnh lịch sử đã đề ra, phấn đấu đưa nước ta
từ 1 nước nông nghiệp sớm trở thành 1 nước công nghiệp đúng như mục tiêu mà
Đảng và Nhà nước đã đặt ra nhằm đưa đất nước phát triển lên 1 tầm cao mới,”PGS.TS Hoàng Phúc Lâm nói.
B. Phân tích một mơ hình về chủ nghĩa xã hội đương đại.
Mơ hình Chủ nghĩa cộng sản ở Israel
( Mà sau đây cơ bản là đề cập đến mơ hình Kibbutz – “Tế bào” của nền kinh
tế Israel)
I. Tiền đề về mặt lý luận
Mơ hình Chủ nghĩa cộng sản ở Israel được thể hiện qua một mơ hình kinh tế
nông thôn độc đáo và kỳ lạ được gọi là Kibbutz. Kibbutz đầu tiên có tên là
Degania ở phía Tây Nam của biển Galilee , những người sáng lập ra kibbutz là
những người Do Thái quay về vùng đất mà ngày nay là Israel , từ bỏ chủ nghĩa tư
bản , nỗ lực tạo nên một xã hội bình đẳng dựa trên các nguyên tắc của chủ nghĩa
Mác – nguyên tắc làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu. Khẩu hiệu này được
Mác lần đầu tiên nhắc đến vào năm 1875.
Mơ hình Kibbutz sơ khai là những nơng trại cộng đồng, nghĩa là các nông dân
cùng làm việc à phân chia tài sản theo ngun tắc bình qn, nó cịn cao hơn mơ
hình xã hội chủ nghĩa theo định nghĩa của K.Mác. Đây là nguyên tắc cho phép sự
phân phối tự do về của cải, hàng hóa và dịch vụ. Theo quan điểm Mác – xít , sự
16



sắp xếp như vậy có thể đạt được nhờ nguồn sản phẩm và dịch vụ dồi dào mà một
xã hội cộng sản có thể sản xuất được. Theo ý tưởng này thì với sự phát triển tồn
diện của nền sản xuất xã hội và lực lượng sản xuất tự do , mọi nhu cầu của tất cả
mọi người sẽ đều được đáp ứng.
II. Đặc điểm của mơ hình
1. Kinh tế
Về kinh tế, Kibbutz tổ chức hoàn toàn theo kinh tế thị trường. Mơ hình kinh tế
Kibbuz được hình thành từ năm 1960 cho đến nay, phát triển tốt và đang thực hiện
ở một mức độ nhất định phương châm “làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu”
đối với các xã viên của mình.
Những quy định ban đầu về sở hữu của các kibbutz thể hiện rõ sắc thái cộng
sản chủ nghĩa: cơng hữu tồn bộ tư liệu sản xuất và tiêu dùng. Hình thái sở hữu
duy nhất của kibbutz hồi mới thành lập là công hữu mọi thứ, từ tư liệu sản xuất
đến tiêu dùng đều là của chung. Đất đai và các công cụ sản xuất, nhà cửa, thiết bị
sản xuất và sinh hoạt,... đều thuộc sở hữu của cả cộng đồng. Ở kibbutz khơng có
sở hữu tư nhân vì khi gia nhập, các thành viên đã tự nguyện chuyển tất cả tài sản
của họ cho cộng đồng.
Các thành viên được bố trí cơng việc phù hợp với năng lực bản thân trong sản
xuất, dịch vụ. Những việc thường nhật như dọn vệ sinh, bếp núc, nhà ăn,… được
thực hiện theo ngun tắc lần lượt, xoay vịng. Khơng có sự phân biệt nào về vị trí
làm việc của mọi người, dù là quản lý, chuyên gia hay là dịch vụ. Tất cả đều
khơng có lương, mà chỉ được hưởng một mức phụ cấp như nhau, tùy theo khả
năng tài chính của mỗi kibbutz. Mọi người cũng khơng phải đóng thuế thu nhập
cá nhân cho nhà nước vì kibbutz sẽ đóng thuế cho họ.
Kibbutz hiện nay là một tổ hợp nơng - cơng nghiệp hiện đại và có năng lực
sản xuất cao và khá nhanh nhạy với cơ chế thị trường. Trên lĩnh vực sản xuất
nơng nghiệp, kibbutz có quan hệ rất gắn bó với khoa học và cơng nghệ từ các nhà
khoa học ở các viện nghiên cứu và trường đại học. Nhiều thành tựu khoa học

nông nghiệp của Israel xuất phát hoặc được ứng dụng trong các kibbutz. Israel có
cơng thức: nơng nghiệp là 95% khoa học và công nghệ cộng với 5% sức lao động.
Nhà nước đầu tư lớn ban đầu và thường xuyên hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp
17


ở các kibbutz. Israel đứng đầu thế giới trong đầu tư cho phát triển nông nghiệp,
thường khoảng 100 triệu USD/năm. Một nửa trong số đó là từ ngân sách (50 triệu
USD/năm), từ hợp tác quốc gia (12 triệu USD/năm), từ các tổ chức nông nghiệp
(6 triệu USD/năm), từ tư nhân 25 triệu USD/năm,…
Israel có hơn 100 quỹ tài chính đang hoạt động, quản lý số vốn 10 tỷ USD.
Năm 2004, các quỹ đầu tư quốc tế chiếm hơn 50% tổng vốn đầu tư, đây là một ví
dụ cho việc Israel là một điểm đến đầu tư hấp dẫn của nhiều nhà đầu tư nước
ngồi. Khoa học và cơng nghệ là một trong những lĩnh vực phát triển cao và có
mức độ cơng nghiệp hóa mạnh nhất ở Israel. Phần trăm số lao động Israel tham
gia vào lĩnh vực khoa học và công nghệ, cũng như tỷ lệ số vốn bỏ vào nghiên cứu
và phát triển trong tổng sản phẩm quốc nội đứng hàng đầu thế giới
Trong khi vẫn lấy nông nghiệp làm ngành kinh tế quan trọng, ngày nay nhiều
kibbutz mở rộng hoạt động sang lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ. Sản phẩm công
nghiệp đa dạng, nhưng thường là cơ khí, nhựa và chế biến thực phẩm. Hầu hết cơ
sở công nghiệp ở quy mô nhỏ và vừa (chưa đến 100 công nhân).
Hiện nay, “kinh tế đối ngoại” của kibbutz hồn tồn theo cơ chế thị trường.
Nơng nghiệp Israel được gọi là “vườn rau của châu Âu mùa đông” với gần 4 tỷ
USD nông phẩm xuất khẩu năm 2014. Về hiệu quả kinh tế, kibbutz đóng góp 33%
sản phẩm nơng nghiệp và 6,3% sản phẩm công nghiệp vào tổng sản phẩm của
Israel, trong khi dân số chỉ chiếm 2,5%.
2. Chính trị
Kibbutz đóng một vai trị quan trọng trong quốc phịng và chính trị Israel.
Israel là quốc gia của người Do thái được thành lập từ ngày 14-5-1948 (2). Quá
trình lập quốc đã diễn ra trong bối cảnh khơng hịa bình. Israel có chung biên giới

với 5 nước là: Palestine, Ai Cập, Jordan, Syria và Lebanon. Họ đã trải qua 3 cuộc
chiến với các nước Arập láng giềng vào các năm: 1948, 1967 và 1973 và đến nay
vẫn còn trong trạng thái xung đột. Những năm 1950 - 1960, nhiều kibbutz thành
lập trong vùng biên giới còn chưa ổn định, đã trở thành các đồn biên phòng bảo
vệ Tổ quốc. Trong “Cuộc chiến tranh sáu ngày” khi Israel hy sinh 800 quân nhân
thì 200 là các thành viên của kibbutz. Vì vậy, đến nay kibbutz vẫn được hưởng
đặc quyền: tuy chỉ chiếm gần 4% dân số nhưng ln có 15% ghế trong Quốc hội.
18


Đại diện cao nhất của tất cả các Kibbutz trên cả nước là một tổ chức có tên là
Cơ quan điều hành (KibbutzThe Kibbutz Movement). Cơ quan này là trụ sở trung
ương, đại diện cho tất cả các Kibbutz trong việc giải quyết với chính phủ và chính
quyền địa phương mọi vấn đề của các Kibbutz thông qua các bộ phận thuộc cơ
quan và các phịng ban hành chính.
Các hoạt động của Cơ quan điều hành Kibbutz hướng tới tăng cường sức
mạnh của các Kibbutz ở mọi miền khác nhau và phát triển các cộng đồng Kibbutz
cả về kinh tế, xã hội và tư tưởng, trong đó tập trung vào vấn đề phúc lợi xã hội,
đảm bảo tương lai của các thành viên và tăng trưởng dân số cho cộng đồng. Tăng
trưởng dân số thậm chí cịn là một trong những ưu tiên hàng đầu, gắn liền với
phương châm một cộng đồng mạnh là một cộng đồng phát triển hài hịa mọi mặt
giáo dục, văn hóa, phúc lợi xã hội và đảm bảo được tính liên kết chặt chẽ, hiệu
quả.
Cơ quan điều hành Kibbutz gồm Tổng thư ký, Giám đốc điều hành, các
phòng và các ban. Đứng đầu là Ban quản lý có trách nhiệm đề ra kế hoạch phát
triển Kibbutz, đại diện cho lợi ích của các Kibbutz trên toàn quốc về các vấn đề
cấp quốc gia; đồng thời làm việc với từng Kibbutz về các vấn đề cơ bản, theo sát
hoạt động của các phòng ban và đưa ra nội dung cho các cuộc họp lãnh đạo
Kibbutz. Mỗi lãnh đạo của một Kibbutz là một đại biểu nói lên tiếng nói cho
Kibbutz của mình, thực chất những cuộc họp của Kibbutz giống như cuộc họp

Quốc hội của một nhà nước bất kỳ. Cơ quan điều hành Kibbutz có đầy đủ các
phòng, ban phụ trách mọi mặt của đời sống, gồm các ban như Ban Kinh tế, Ban
Điều phối khu vực và Ban Công tác quốc gia, Ban Hợp tác xã, Ban Tăng trưởng
nhân khẩu, Ban Y tế và Phúc lợi, Ban An ninh Kibbutz và các phòng như Phòng
Giáo dục, Phòng Nhân sự, Phòng Pháp chế, Phòng Phát triển cá nhân, Phòng Xúc
tiến sự tiến bộ của phụ nữ, Phịng Văn hóa và Phịng Phụ trách các tình nguyện
viên đến từ nước ngoài.
Ở cấp độ từng Kibbutz, việc hoạch định và đưa ra chính sách, bầu cán bộ, ủy
quyền quản lý ngân sách của Kibbutz hay phê duyệt thành viên mới đều phải
thông qua đại hội của tất cả các thành viên. Đại hội này không chỉ là nơi đưa ra
các quyết định mà còn là một diễn đàn để các thành viên có thể bày tỏ ý kiến và
19


quan điểm của họ. Những vấn đề xảy ra thường nhật như nhà ở, tài chính, kế
hoạch sản xuất, y tế, và văn hóa được các ủy ban dân bầu xử lý. Mỗi ủy ban đó
bao gồm người đứng đầu Kibbutz, các thư ký, thủ quỹ, các điều phối viên phụ
trách từng lĩnh vực cụ thể trong đời sống của Kibbutz và những nhân viên hỗ trợ
khác.
Có thể nói, cơ cấu tổ chức của hệ thống Kibbutz chính là mơ hình tổ chức của
một nhà nước thu nhỏ theo tư tưởng của chủ nghĩa Mác. Tính chặt chẽ trong cơ
cấu tổ chức giúp cho mơ hình này tồn tại và phát triển thịnh vượng trong suốt hơn
một thế kỷ qua dù cũng có những giai đoạn thăng trầm.
3. Xã hội
a) Giáo dục
Về giáo dục, trong thời kỳ đầu khi Kibbutz mới thành lập, trẻ em của các hộ
gia đình được tập trung lại để giáo dục theo lối giáo dục sớm của người Do
Thái. Chúng có thể về với cha mẹ vào những buổi chiều hay những ngày cuối
tuần. Sau này, trong nỗ lực xây dựng mối quan hệ tình cảm gia đình bền chặt,
nhiều Kibbutz đã để trẻ nhỏ ngủ tại nhà với cha mẹ cho tới tuổi đi học. Ở mẫu

giáo, trẻ em được các bảo mẫu chăm sóc và giáo dục chu đáo tại nhà trẻ tập trung.
Khi đến cấp học cao hơn, các trẻ được chỉ định làm việc phù hợp với khả năng:
Nhỏ làm những việc đơn giản, vừa sức; lớn hơn phải làm một số việc trong
Kibbutz và ở cấp trung học, mỗi tuần chúng phải dành một ngày làm một công
việc trong một ngành nào đó của nền kinh tế Kibbutz. Ngồi ra, Kibbutz cịn có
sự hỗ trợ nhất định cho những trẻ em có tài năng nổi trội cần một mơi trường đặc
biệt để phát triển. Con em xã viên được Kibbutz cấp học bổng toàn phần cho thời
gian học 12 năm phổ thông và đại học trong nước.
Trẻ em phải trở thành con người mang tinh thần xã hội và truyền thống dân tộc
Do thái là mục tiêu của giáo dục. Hầu hết các em đều trưởng thành từ “trường
làng” nhưng đều là những cơ sở giáo dục rất tốt. Các gia đình Israel ở thành phố
thường gửi con về các trường ở kibbutz để cùng với kiến thức, được giáo dục tình
cảm quê hương, ý thức cộng đồng và những kỹ năng sống. Kibbutz cũng chi trả
học phí cho những thành viên đi học đại học, cao đẳng trên thành phố.
b) Y tế
Khi các xã viên và con cái họ ốm đau, Kibbutz chịu trách nhiệm thanh tốn
hồn tồn mọi chi phí về y tế căn cứ vào thực tế chữa bệnh theo nhu cầu.
20


Xã viên Kibbutz được nghỉ hưu theo qui định chung của Nhà nước ở tuổi 69 đối
với nam giới, 67 đối với nữ giới. Nhưng ở Kibbutz nếu muốn, xã viên có thể tiếp
tục làm việc trong thời gian tuỳ thích. Khi tuổi già, sức yếu hoặc bệnh tật, xã viên
được đến trại dưỡng lão miễn phí hoặc được Kibbutz th người lao động nước
ngồi đến chăm sóc tại gia đình. Các nhu cầu chữa bệnh, dưỡng lão của thành
viên cũng được thỏa mãn theo tinh thần “sức khỏe thành viên là tài sản của cả
cộng đồng”.
c) Về pháp luật
Với những người lười biếng nhất thời, ban lãnh đạo Kibbutz cho rằng đó là
nhu cầu cần nghỉ ngơi của con người nên cứ để họ nghỉ. Nếu lười nhác kéo dài,

ban lãnh đạo Kibbutz sẽ đến thuyết phục để họ nhận ra sự ăn bám người khác là
điều xấu. Dư luận cộng đồng khinh bỉ có sức răn đe mạnh hơn cả pháp luật khiến
người lười nhác phải thay đổi. Bà Kantor Dafana xã viên Kibbutz Dalia cho biết,
nếu người lười vẫn khơng chuyển, Kibbutz có cơ chế đuổi ra khỏi cộng đồng.
Nhưng đến nay hình phạt này chưa bao giờ phải sử dụng. Động cơ để người lao
động cống hiến hết mình là danh dự, sự tuyên dương, động viên kịp thời của ban
lãnh đạo Kibbutz và sự tôn vinh của cộng đồng. Tên và thành tích của người có
cơng được cơng bố kịp thời và cơng khai trên bản tin địa phương.
Để tránh tham nhũng, mọi khoản thu nhập và chi phí của Kibbutz được cơng
khai dán trên bảng thông tin của cộng đồng. Ban lãnh đạo được đại hội xã viên
bầu ra, chịu trách nhiệm giám sát của một cơ chế cơng khai hồn tồn mọi quyết
định và chính sách của Kibbutz.
III. Đánh giá mơ hình CNXH ở Israel
a, Ưu điểm:
Ở mơ hình Kibbutz nói riêng và chủ nghĩa xã hội nói chung, người dân (ở đây
được gọi là kibbutznic hay xã viên) khơng cịn bị bóc lột vì họ sở hữu tư liệu sản
xuất. Hình thái sở hữu duy nhất của kibbutz hồi mới thành lập là công hữu mọi
thứ, từ tư liệu sản xuất đến tiêu dùng đều là của chung. Đất đai và các công cụ sản
xuất, nhà cửa, thiết bị sản xuất và sinh hoạt,... đều thuộc sở hữu của cả cộng đồng.
Ở Kibbutz khơng có sở hữu tư nhân vì khi gia nhập, các thành viên đã tự nguyện
chuyển tất cả tài sản của họ cho cộng đồng.
Lợi nhuận được phân bổ cơng bằng giữa tất cả các xã viên theo đóng góp cá
nhân của họ. “Kibbutz là nơi tinh thần cộng đồng rất cao, mọi người sống và làm
việc hết mình vì nhau, ở đó khơng ai có tài sản riêng”. Ở đây nguyên tắc cộng
21


đồng, “cùng làm, cùng hưởng” được đề cao.
Hệ thống hợp tác cũng cung cấp cho những người không thể làm việc những
gì mà họ cần, họ thiếu. Kibbutz đáp ứng nhu cầu cơ bản của họ vì lợi ích của tồn

xã hội.
Kibbutz có phúc lợi xã hội cao, tất cả mọi người được hưởng những quyền lợi
như nhau, đều được học, được chữa bệnh, được chăm sóc khi có bệnh,... Và tất cả
đều miễn phí.
Hơn hết, với mơ hình như vậy thì tài nguyên thiên nhiên được bảo tồn vì lợi
ích của tồn thể.
b, Nhược điểm:
Nhược điểm lớn nhất của chủ nghĩa xã hội là nó dựa vào bản chất hợp tác của
con người để làm việc. Như vậy nó bỏ qua những người trong xã hội là những
người cạnh tranh, khơng hợp tác. Những người cạnh tranh sẽ có xu hướng tìm
cách lật đổ và phá vỡ xã hội vì lợi ích của chính họ. Nhưng mặt khác, nếu được tổ
chức quản lý tốt, được hỗ trợ từ nhà nước và xã hội, tạo ra được môi trường chung
tốt thì vẫn là một hướng phát triển có tính bền vững cả về kinh tế và xã hội.
Khi phát triển theo hướng chủ nghĩa xã hội, tuy có sự tăng trưởng nhất định
về kinh tế nhưng theo đó có sự tăng tiêu dùng tư nhân và theo thời gian, ít nhiều
sẽ làm gia tăng bất bình đẳng thu nhập.
Ngồi ra, một số ý kiến cho rằng sự thành công của mơ hình Kibbutz cịn có
những mặt trái ít ai biết:
1) Các Kibbutz cực kỳ phân biệt chủng tộc: Chỉ chấp nhận người Israel, cịn
người Arab hay Palestine thì qn khẩn trương, thậm chí một người đàn ơng
Israel mà lấy vợ Arab thì cũng khơng có cửa sống trong kibbutz tồn người Israel.
2) Các kibbutz nhận được rất nhiều ưu đãi và trợ cấp các loại của nhà nước Israel:
Do vậy chúng mới thành công về mặt kinh tế.
3) Các kibbutz có liên hệ chặt chẽ với quân đội: Các sĩ quan quân đội cũng như
bính lính của các đơn vị tinh nhuệ Israel phần lớn xuất thân từ các kibbutz.
4) Cấu trúc xã hội của các kibbutz là khép kín và hồn tồn độc đốn về tư tưởng:
Cả cộng đồng sẽ ủng hộ một quan điểm chính trị, thậm chí đọc cùng một tờ báo,
bất cứ ai làm khác sẽ bị cô lập.
Đánh giá chung:
Ellis Shuman đã đánh giá, Kibbutz chính “là ví dụ thành cơng nhất thế giới

về lối sống xã hội chủ nghĩa, một điều gần như không tưởng của nền dân chủ và
chủ nghĩa quân bình”6. Hơn một thế kỷ đã qua, Kibbutz vẫn tiếp tục tồn tại sau
22


những thăng trầm của lịch sử. Tuy nhiên, người dân Kibbutz cũng như những
người ngoài Kibbutz đã đặt ra nhiều câu hỏi về tương lai của mơ hình xã hội có
một khơng hai trên thế giới này, đặc biệt là từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế
nghiêm trọng vào những năm 1980 và những thay đổi sâu rộng về mặt thế chế vào
những năm 1990.
Về mặt kinh tế, trong những thời điểm khủng hoảng kể trên, đa số các
Kibbutz đều phải đối mặt với những khó khăn về kinh tế cũng như sự suy giảm về
nhân khẩu. Số người dời bỏ Kibbutz ngày càng nhiều hơn số người gia nhập. Cho
đến đầu thế kỷ XX, một kế hoạch phục hồi tài chính tồn diện mới được thực hiện
nhằm giải quyết những khoản nợ khổng lồ của rất nhiều Kibbutz. Thiểu số các
Kibbutz còn lại vẫn tiếp tục phát triển mạnh cả về kinh tế lẫn số lượng nhân khẩu.
Sự bất bình đẳng giữa các cộng đồng Kibbutz hiện tại ngày càng sâu sắc hơn so
với trước đây. Điều này cũng dẫn tới việc vai trò lãnh đạo của các ủy ban liên
Kibbutz bị suy giảm, trong khi trước đây các tổ chức này là nhân tố chủ chốt giúp
cộng đồng Kibbutz liên kết chặt chẽ và phát triển mạnh mẽ.
Tương lai của Kibbutz còn liên quan tới những thay đổi về mặt thể chế. Bàn
về cải cách nhằm đem lại sự thịnh vượng trước đây của Kibbuz, người ta đưa ra
hai xu hướng. Một là hướng tới sự chuyển dịch sâu rộng trong việc áp dụng cơ
chế thị trường và nguyên tắc thứ bậc trong các Kibbutz. Theo đó, người ta sẽ tăng
cường hiệu quả kinh tế của Kibbutz, thúc đẩy quyền tự chủ của các thành viên và
thu hút được các thành viên mới từ bên ngoài Kibbutz. Ngược lại là xu hướng kết
hợp giữa cả các nguyên tắc truyền thống của cộng đồng Kibbutz và các nguyên
tắc mới, đối nghịch theo cơ chế thị trường và sự phân biệt thứ bậc. Mâu thuẫn
trong cách cải tổ cơ chế và nguyên tắc hoạt động hiện vẫn tồn tại trong cộng đồng
Kibbutz và nhu cầu lựa chọn một cách thức hoạt động thống nhất ngày càng được

đề cao.
Hiện Kibbutz cũng đang tìm cách đối mặt với những thách thức của cuộc
sống hiện đại trong thời đại công nghệ, đồng thời vẫn đang cố duy trì cơ chế bình
đẳng ban đầu của mình. Các hoạt động truyền thống của Kibbutz trước đây thể
hiện ở ngun tắc qn bình cịn duy trì ở một số ít các Kibbutz. Thành viên của
Kibbutz có nhu cầu kết nối nhiều hơn với thế giới bên ngồi cũng như có nhiều
nhu cầu hơn về tư hữu tài sản. Vì thế, mọi điều chỉnh lúc này đều cần đến những
23


thay đổi to lớn. Một số người lo ngại rằng những thay đổi đó đang khiến Kibbutz
đi quá xa so với các nguyên tắc và giá trị ban đầu; trong khi đó một số khác tin
rằng khả năng thích nghi và thỏa hiệp chính là chìa khóa cho sự tồn tại của
Kibbutz. Dù có cải tổ thế nào thì Kibbutz cũng cần giải quyết được hai vấn đề lớn
đang gặp phải về mặt kinh tế và phương thức hoạt động. Nói rõ hơn, cần phải có
một sự bứt phá để có được một nền kinh tế phát triển ổn định, thịnh vượng và một
thể chế chặt chẽ với các nguyên tắc hoạt động thống nhất, đồng thuận hợp
với lòng dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1, Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học, xuất bản 2019.
2, Báo Lao động ngày 05/05/2018, bài viết Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Các Mác.
3, Website: />4, Website: />5, Tài liệu: Những mơ hình chủ nghĩa xã hội hiện thực
6, Và một số tài liệu tham khảo khác.
24


25



×