TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
-------o0o-------
BÀI TIỂU LUẬN
TRIẾT HỌC
ĐỀ TÀI:
PHÂN TÍCH QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH. TỪ ĐÓ RÚT RA Ý NGHĨA
PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ LIÊN HỆ THỰC TIỄN
1
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..................................................................................................................2
I, QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH........................................................3
1, Khái niệm phủ định..............................................................................................3
1.1. Phủ định thông thường................................................................................3
1.2. Phủ định biện chứng....................................................................................3
2. Đặc điểm của phủ định biện chứng......................................................................4
2.1. Tính khách quan..........................................................................................4
2.2. Tính kế thừa.................................................................................................4
3. Nội dung quy luật phủ định của phủ định...........................................................5
4. Nhận xét................................................................................................................. 7
II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN..................................................................7
III. VẬN DỤNG QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH PHÂN TÍCH Q
TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM.............................8
1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp ở
Việt Nam....................................................................................................................8
2. Vai trò của quy luật phủ định của phủ định trong phát triển kinh tế-xã hội
.................................................................................................................................... 9
2.1. Con đường phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam không phải là con
đường thẳng, bằng phẳng mà theo đường xoáy ốc quanh co, phức tạp............10
2.2. Con đường phát triển của Việt Nam hiện nay bao gồm cả sự rút ngắn và bỏ
qua.................................................................................................................... 11
KẾT LUẬN............................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................14
1
MỞ ĐẦU
Aristote từng nói “Triết học bắt đầu từ sự ngạc nhiên”. Quả đúng như vậy khi
mà triết học đã giải đáp cho vô vàn những dấu hỏi xung quanh chúng ta, nhưng thực
sự thì triết học là gì? Tìm hiểu sâu hơn thì triết học là bộ mơn nghiên cứu về những
vấn đề chung và cơ bản của con người, thế giới quan và vị trí của con người trong
thế giới quan, những vấn đề có kết nối với chân lý, sự tồn tại, kiến thức, giá trị, quy
luật, ý thức và ngôn ngữ.
Trong triết học, phép biện chứng duy vật giữ vai trò là “linh hồn sống”, là “cái
quyết định” trong thế giới quan và phương pháp luận triết học của chủ nghĩa Mác Lênin, tạo nên tính khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, đồng thời nó
cũng là thế giới quan vả phương pháp luận chung nhất của hoạt động sáng tạo trong
các lĩnh vực nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn.
Quy luật phủ định của phủ định là một trong ba quy luật cơ bản của phép biện
chứng duy vật, chỉ ra khuynh hướng của sự phát triển, theo đó sự phát triển của sự
vật, hiện tượng có xu hướng, khuynh hướng lặp lại giai đoạn đầu nhưng ở trình độ
cao hơn, phát triển theo hình xoắn trơn ốc. Nó làm sáng tỏ chiều hướng vận động,
phát triển của các sự vật và có ý nghĩa phương pháp luận trong nhận thức và hoạt
động thực tiễn. Để làm rõ hơn vấn đề trên, bài tiểu luận sẽ phân tích quy luật phủ
định của phủ định, từ đó rút ra ý nghĩa phương pháp luận, đồng thời vận dụng quy
luật phân tích q trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
2
I, QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH
Ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật có ý nghĩa phương pháp luận chỉ
đạo mọi hoạt động của con người để thực hiện quan điểm toàn diện, quan điểm phát
triển và quan điểm lịch sử - cụ thể về phương diện vạch ra nguồn gốc, động lực,
cách thức và xu hướng phát triển tiến lên của các sự vật, hiện tượng trong thế giới.
Ở đây, ta sẽ đi sâu vào tìm hiểu quy luật phủ định của phủ định. Trước hết, chúng ta
cần trả lời câu hỏi phủ định là gì?
1, Khái niệm phủ định
1.1. Phủ định thơng thường
Trước khi tìm hiểu phủ định biện chứng là gì, cần hiểu thế nào là phủ định.
Trong đời sống thường ngày, khái niệm phủ định thường được biểu hiện bằng từ
“không”, phủ định có nghĩa là khơng, bác bỏ một cái gì đó. Nhưng trong triết học,
phủ định được hiểu là sự thay thế sự vật, hiện tượng này bằng sự vật, hiện tượng
khác trong quá trình vận động và phát triển.
Bất cứ sự vật, hiện tượng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra, tồn tại,
phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi được thay bằng sự vật mới. Sự thay thế đó
là phủ định.
Phủ định là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Khơng có phủ
định, sự vật không phát triển được.
1.2. Phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng là khái niệm dùng để chỉ sự phủ định làm tiền đề, tạo điều kiện
cho sự phát triển.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hóa từ những thay đổi về lượng dẫn
đến những thay đổi về chất; sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho
mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời thay
thế.
Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động, phát triển không ngừng của sự vật.
Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Điều đó có nghĩa là sự phủ
định là tiền đề, điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay
thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng.
3
2. Đặc điểm của phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng có hai đặc điểm cơ bản là tính khách quan và tính kế thừa.
2.1. Tính khách quan
Phủ định biện chứng có tính khách quan vì ngun nhân của sự phủ định nằm trong
chính bản thân sự vật, hiện tượng. Nó là kết quả của q trình đấu tranh giải quyết
mâu thuẫn tất yếu, bên trong của bản thân sự vật, tạo khả năng ra đời của cái mới
thay thế cái cũ. Nhờ việc giải quyết các mâu thuẫn mà sự vật ln phát triển, vì thế
phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong quá trình vận động và phát
triển của sự vật. Đồng thời, mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào
sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện
chứng khơng phụ thuộc vào ý muốn, ý chí của con người. Con người chỉ có thể tác
động làm cho q trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững
quy luật phát triển của sự vật.
2.2. Tính kế thừa
Kế thừa là việc cái mới ra đời từ việc giữ lại trong đó những yếu tố tích cực, tiến bộ
từ cái cũ và cải tạo đi cho phù hợp. Phủ định biện chứng là kết quả của sự tự thân
phát triển trên cơ sở giải quyết mâu thuẫn vốn có của sự vật, hiện tượng. Vì thế, cái
mới ra đời khơng phải là một sự phủ định tuyệt đối, phủ định sạch trơn, mà là một
sự phủ định có tính kế thừa. Sự phủ định ấy không chỉ đơn thuần là thủ tiêu, phá
hủy cái cũ, mà còn là sự giữ lại và phát triển những nhân tố tích cực đã có, tức là kế
thừa. Trong q trình phát triển, giữa cái cũ và cái mới bao giờ cũng có mối liên hệ
ràng buộc, tương tác qua lại, xâm nhập vào nhau, chuyển hóa lẫn nhau và làm tiền
đề của nhau. Cái cũ cũ khi mất đi khơng có nghĩa là mất đi hồn tồn, mà trong nó
vẫn được bảo tồn và giữ lại những yếu tố tích cực, những “hạt nhân hợp lý” để tạo
tiền đề, nền tảng cho sự phát triển tiếp theo. Ngược lại, cái mới phát triển cao hơn
không phải từ hư vô, trên mảnh đất trống không, mà là kết quả phát triển hợp quy
luật từ những gì hợp lý của cái cũ; là kết quả của sự đấu tranh và kế thừa tất cả
những yếu tố cịn tích cực của cái cũ. Diễn đạt tư tưởng đó, V.I.Lênin viết:
“Khơng phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không
phải sự phủ định hồi nghi, khơng phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là
cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng.., mà là sự phủ định coi như là
vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”.
4
Có thể nói, sự phát triển chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó những giai đoạn sau
bảo tồn tất cả những mặt tích cực được tạo ra ở giải đoạn trước và bổ sung thêm
những mặt mới phù hợp với hiện thực.
Phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn là sự liên
kết giữa cái cũ và cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, quá khứ và hiện tại. Phủ định
biện chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát triển.
3. Nội dung quy luật phủ định của phủ định
Trong sự vận động vĩnh viễn của thế giới vật chất, phủ định biện chứng là một q
trình vơ tận, tạo nên khuynh hướng phát triển của sự vật, hiện tượng từ trình độ thấp
đến trình độ cao hơn, diễn ra có tính chất chu kỳ theo hình thức "xốy ốc".
Trong chuỗi phủ định tạo nên quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng, mỗi lần
phủ định biện chứng đều tạo ra những điều kiện, tiền đề cho sự phát triển tiếp theo
của nó. Trải qua nhiều lẩn phủ định, tức "phủ định của phủ định" sẽ tất yếu dẫn tới
kết quả là sự vận động theo chiều hướng đi lên của sự vật, hiện tượng.
Tính chất chu kỳ của các q trình phát triển thường diễn ra theo hình thức "xốy
ốc", đó cũng là tính chất "phủ định của phụ định". Theo tính chất này, mỗi chu kỳ
phát triển của sự vật, hiện tượng thường trải qua hai lần phủ định cơ bản với của
hình thái tồn tại chủ yếu của nó, trong đó hình thái cuối mỗi chu kỳ lặp lại những
đặc trưng cơ bản của hình thái ban đầu chu kỳ đó nhưng trên cơ sở cao hơn về trình
độ phát triển nhờ kế thừa được những nhân tố tích cực và loại bỏ được những nhân
tố tiêu cực qua hai lần phủ định biện chứng.
Theo V.I. Lênin: "Từ khẳng định đến phủ định, - từ sự phủ định đến "sự thống nhất"
với cái bị khẳng định, khơng có cái đó, phép biện chứng trở thành một sự phủ định
sạch trơn, một trị chơi hay là chủ nghĩa hồi nghi".
Quy luật phủ định của phủ định khái quát tính chất chung, phổ biến của sự phát
triển: đó khơng phải là sự phát triển theo hình thức một con đường thẳng, mà là phát
triển theo hình thức con đường "xốy ốc". V.I. Lênin đã khái quát con đường đó như
sau: "Sự phát triển hình như diễn lại những giai đoạn đã qua, nhưng dưới một hình
thức khác, ở một trình độ cao hơn ("phủ định của phủ định"); sự phát triển có thể
nói là theo đường trơn ốc chứ khơng theo đường thẳng...".Khuynh hướng phát triển
theo đường xốy ốc thể hiện tính chất biện chứng của sự phát triển, đó là tính kế
thừa, tính lặp lại và tính tiến lên. Mỗi vịng mới của đường xoáy ốc cũng như lặp
lại, nhưng với một trình độ cao hơn. Sự tiếp nối của các vịng trong đường xốy ốc
5
phản ánh q trình phát triển vơ tận từ thấp đến cao của sự vật, hiện tượng trong thế
giới. Trong quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng phủ định biện chứng đã đóng
vai trị là những "vịng khâu" của q trình đó.
Tóm lại, nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định trong phép biện chứng
duy vật phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa cái phủ định và cái khẳng định trong
quá trình phát triển của sự vật, hiện tượng. Phủ định biện chứng là điều kiện cho sự
phát triển, cái mới ra đời là kết quả của sự kế thừa những nội dung tích cực từ trong
sự vật, hiện tượng cũ, phát huy nó trong sự vật, hiện tượng mới và tạo nên tính chu
kỳ của sự phát triển. Nhận xét về vai trò của quy luật này, Ph. Ăngghen đã viết: "
phủ định cái phủ định là gì? Là một quy luật vơ cùng phổ biến vả chính vì vậy mà
có một tầm quan trọng và có tác dụng vơ cùng to lớn về sự phát triển của tự nhiên,
của lịch sử và của tư duy".
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển do mâu thuẫn. Mỗi lần phủ
định là kết quả đấu tranh và chuyển hóa của các mặt đối lập trong bản thân sự vật.
Các mặt đối lập ở đây là mặt khẳng định và mặt phủ định. Phủ định lần một sẽ làm
cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình (như quả trứng ban đầu đối lập với
gà mái con; gà mái con là vật trung gian). Sau một hoặc nhiều lần phủ định tiếp
theo sẽ ra đời một sự vật mới đối lập với cái trung gian (nhiều quả trứng sinh ra đối
lập với gà mái con). Mà đối lập với cái trung gian nghĩa là dường như tương đồng
với sự vật ban đầu, dường như quay trở lại thời điểm xuất phát (như việc một quả
trứng sinh ra nhiều quả trứng, một hạt thóc sinh ra nhiều hạt thóc).
Như thế ta thấy, đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện chứng thơng qua
phủ định của phủ định chính là sự phát triển dường như quay trở lại cái cũ, nhưng
trên cơ sở cao hơn.
Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát triển, đồng thời
lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo. Cứ thế, các chu kỳ phát
triển cứ nối tiếp nhau tạo thành sự phát triển, sự tiến lên vô cùng tận của thế giới,
nhưng khơng phải theo đường thẳng mà theo hình xốy ốc.
Sở dĩ nói “theo hình xốy ốc” vì “hình xốy ốc” đã biểu đạt được các đặc trưng của
quá trình phát triển biện chứng: tính kế thừa, tính lặp lại nhưng khơng quay trở lại
và tính chất tiến lên của sự phát triển. Mỗi vịng mới của đường “xốy ốc” thể hiện
trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dường như quay lại cái đã qua, lặp lại
6
vòng trước. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vơ tân của sự phát triển,
tính vơ tận của sự tiến lên từ thấp lên cao.
4. Nhận xét
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát
triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi
theo đường thẳng mà diễn ra quanh co, phức tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ
khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Do đó, trong hoạt
động của mình, ta cần phải biết kế thừa những tinh hoa, tốt đẹp của cái cũ. Phủ định
hoàn toàn những cái hay, hợp lý của cái cũ là không khách quan, không tơn trọng sự
thật, đó là lãng phí. Tơn trọng quy luật phủ định của phủ định là cơ sở giúp ta xây
dựng thái độ khoa học đối với cái mới, hiểu rõ cái mới, cái tiến bộ phù hợp với quy
luật và xu thế phát triển.
Từ góc nhìn của quy luật này, ta sẽ rút ra được ý nghĩa phương pháp luận.
II. Ý NGHĨA PHƯƠNG PHÁP LUẬN
Quy luật phủ định của phủ định đã chỉ rõ sự phát triển là khuynh hướng chung, là
tất yếu của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Song, quá trình phát
triển không diễn ra theo đường thẳng nhưng quanh co phức tạp, phải trải qua nhiều
lần phủ định, nhiều khâu trung gian. Điều đó giúp chúng ta tránh được cách nhìn
phiến diện, giản đơn trong việc nhận thức các sự vật, hiện tượng, đặc biệt là các
hiện tượng xã hội, và do vậy cần phải kiên trì đổi mới, khắc phục khuynh hướng bi
quan, chán nản, dao động trước những khó khăn của sự phát triển.
Quy luật phủ định của phủ định cũng khẳng định tính tất thắng của cái mới, vì cái
mới là cái ra đời phù hợp với quy luật phát triển của sự vật. Mặt dù khi mới ra đời,
cái mới có thể cịn non yếu, song nó là cái tiến bộ hơn, là giai đoạn phát triển cao
hơn về chất so với cái cũ. Vì vậy, trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, cần có
nhận thức đúng về cái mới và có thái độ đúng đối với cái mới đồng thời chủ động
phát hiện ra cái mới, tạo điều kiện cho cái mới phát triển.
Phải có cái nhìn biện chứng trong khi phê phán cái cũ, cần phải biết sàng lọc, kế
thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ, tránh thái độ “hư vô chủ nghĩa”, “phủ định
sạch trơn”.
7
Lí luận nhận thức của chủ nghĩa duy vật biện chứng nghiên cứu bản chất, tính quy
luật, những hình thức và phương pháp nhận thức, vấn đề chân lý. Nó giải đáp một
cách đúng đắn và đầy đủ mặt thứ hai trong vấn đề cơ bản của triết học
III. VẬN DỤNG QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH PHÂN TÍCH QUÁ
TRÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ-XÃ HỘI CỦA VIỆT NAM
1. Những tồn tại và bất cập của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp ở Việt
Nam.
Sau kháng chiến thắng lợi, dựa vào kinh nghiệm của các nước XHCN, đất nước ta
bắt đầu xây dựng mơ hình kinh tế kế hoạch hố tập trung dựa trên hình thức sở hữu
cơng cộng về tư liệu sản xuất. Với sự nỗ lực của nhân dân ta và sự giúp đỡ tận tình
của các nước XHCN khác mơ hình kinh tế kế hoạch hố đã phát huy được tính ưu
việt của nó, từ một nền kinh tế lạc hậu và phân tán, bằng cơng cụ kế hoạch hóa nhà
nước đã tập trung vào tay mình một lực lượng vật chất quan trọng về đất đai, tài sản
và tiền bạc để ổn định và phát triển kinh tế. Nền kinh tế kế hoạch hóa trong thời kỳ
đầu thực hiện ở nước ta đã tỏ ra phủ định, nó đã tạo ra một bước chuyển biến quan
trọng về mặt kinh tế xã hội. Đồng thời nó cũng thích hợp với nền kinh tế thời chiến
và đóng vai trị quan trọng việc tạo ra chiến thắng vĩ đại của dân tộc. Nó cho phép
Đảng và Nhà nước huy động ở mức độ cao nhất sức người và sức của cho tiền
tuyến. Nhưng sau giải phóng miền Nam, bức tranh toàn cảnh về hiện trạng kinh tế
đã có nhiều thay đổi to lớn. Trong một nền kinh tế cùng một lúc tồn tại cả 3 loại
hình kinh tế tự cấp, tự túc, nền kinh tế kế hoạch hố tập trung và nền kinh tế hàng
hố. Đó là thực tế khách quan tồn tại sau năm 1975 nhưng chúng ta vẫn tiếp tục chủ
trương xây dựng kinh tế chỉ huy như ở Miền Bắc trước đây. Do các quan hệ kinh tế
đã thay đổi rất nhiều, việc áp dụng cơ chế quản lý cũ vào điều kiện nền kinh tế đã
thay đổi làm xuất hiện hàng loạt các hiện tượng tiêu cực. Trong nền kinh tế tập
trung quan liêu bao cấp có sự phân phối một cách mạnh mẽ mọi sản phẩm lao động,
giá trị thì bị ấn định trước theo những chỉ tiêu của Nhà nước, điều này dẫn đến việc
những quy luật kinh tế khách quan như quy luật giá cả, quy luật cung cầu, quy luật
giá trị bị vi phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu thơng tiền tệ, giá cả bị vi
phạm nghiêm trọng, làm cho tình hình lưu thơng tiền tệ, giá cả khơng kiểm sốt
được, đặc biệt là trong những năm 80, lạm phát của nước ta đã lên đến 3 con số làm
cho đời sống nhân dân vơ cùng khó khăn và tình hình kinh tế nước ta lâm vào tình
trạng khủng hoảng. Nền sản xuất kém phát triển được sự bảo hộ của Nhà nước lại
8
càng trở nên trì trệ. Bộ máy quản lý doanh nghiệp khơng hiệu quả, cồng kềnh, có
nhiều cấp trung gian và khơng năng động, phong cách thì cửa quyền dưới chính
sách bù lỗ của Nhà nước ngày càng khơng đem lại bất cứ một hiệu quả kinh tế nào.
Đồng thời do chủ quan cứng nhắc không cân nhắc tới sự phù hợp của cơ chế quản
lý kinh tế, chúng ta đã khơng quản lý có hiệu quả các nguồn tài nguyên sản xuất của
đất nước, trái lại đã dẫn tới việc sử dụng lãng phí một cách nghiêm trọng các nguồn
tài nguyên đó. Tài nguyên thiên nhiên bị phá hoại, môi trường bị ô nhiễm, sản xuất
kém hiệu quả, Nhà nước thực hiện bao cấp tràn lan. Những việc đó gây ra rất nhiều
hậu quả xấu cho nền kinh tế, sự tăng trưởng kinh tế gặp nhiều khó khăn, sản phẩm
trở nên khan hiếm, ngân sách bị thâm hụt nặng nề, thu nhập từ nền kinh tế không đủ
tiêu dùng, tích luỹ hàng năm hầu như khơng có vốn đầu tư chủ yếu vào vay và viện
trợ của nước ngoài. Đến cuối những năm 80, giá cả leo thang, khủng hoảng kinh tế
đi liền với lạm phát cao đã làm cho đời sống nhân dân bị giảm sút thậm chí một số
địa phương nạn đói đang rình rập. Ngun nhân sâu xa về sự suy thoái nền kinh tế ở
nước ta là do đã áp dụng dập khuôn một mô hình kinh tế chưa thích hợp và kém
hiệu quả. Trước sự suy thoái kinh tế nghiêm trọng như trên, thêm vào đó viện trợ
nước ngồi bị giảm sút đã đặt nền kinh tế nước ta với sự bức bách đòi hỏi phải đổi
mới. Đổi mới để thoát khỏi khủng hoảng và phát triển đi lên.
2. Vai trò của quy luật phủ định của phủ định trong phát triển kinh tế-xã hội
Việc nghiên cứu quy luật phủ định của phủ định có vai trị hết sức quan trọng đối
với con đường phát triển ở Việt Nam hiện nay. Dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
con đường phát triển của Việt Nam khơng gì khác là độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, để có thể thực hiện thành cơng mục tiêu này, chúng ta
cần hiểu đúng về con đường của sự phát triển. Con đường của sự phát triển là con
đường quanh co phức tạp, không phải theo đường thẳng mà theo đường xốy ốc, có
bao gồm cả sự tha hóa, những bước rút ngắn và bỏ qua. Chỉ có nhận thức đúng về
con đường của sự phát triển, chúng ta mới có thể tìm ra được những giải pháp đưa
đất nước vượt qua những thách thức để bứt lên tiến kịp và tiến cùng thời đại.
9
2.1. Con đường phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam không phải là con đường
thẳng, bằng phẳng mà theo đường xốy ốc quanh co, phức tạp.
Q trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một q trình lâu dài, khó khăn,
nhiều thử thách. Đảng ta khẳng định, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
“là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái
mới nhằm tạo ra sự biến đổi về chất trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất
thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình
thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”. Theo sự khái quát của Đảng, thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội là một quá trình cách mạng sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp
giữa cái cũ và cái mới. Trong thời kỳ quá độ, ở nước ta sẽ diễn ra sự biến đổi mang
tính chất bản chất, căn bản và toàn diện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội; và
q trình đó phải diễn ra lâu dài với nhiều bước phát triển. Đó là do, đất nước ta
mới trải qua hai cuộc chiến tranh nên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều bị tàn
phá, chưa qua thời kỳ phát triển tư bản chủ nghĩa nên hầu như chưa có những tiền
đề thực tiễn cơ bản cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội, hệ thống chủ nghĩa xã hội
thế giới tan rã và phong trào xã hội chủ nghĩa và công nhân quốc tế đang ở thời kỳ
thối trào. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch ln chống phá, tìm cách xóa bỏ chủ
nghĩa xã hội. Khi cái mới và cái cũ cịn hiện hữu đầy mâu thuẫn, q trình đấu tranh
giữa tiến bộ và lạc hậu, giữa tư tưởng tập thể và tư tưởng cá nhân ích kỷ, hẹp hịi,
khi tiềm lực kinh tế còn chưa đủ mạnh, những tiêu cực trong xã hội và trong Đảng
vẫn cịn thì những tồn tại, những khó khăn và thách thức này dẫn đến một cuộc
khủng hoảng kinh tế, xã hội kéo dài. Biểu hiện rõ nhất là sản xuất trì trệ, lạm phát
tăng nhanh, công ăn việc làm thiếu, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn, lịng tin
của dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và sự điều hành quản lý của Nhà nước giảm
sút. Đây chính là những bước lùi tương đối trong quá trình phát triển cũng như xây
dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Nhận thức được những sai lầm và hạn chế trong
đường lối, chủ trương của mình, Đảng ta đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất
nước trong Đại hội VI của Đảng (năm 1986). Đại hội này đã đánh dấu bước ngoặt
trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đưa nước ta thoát ra khỏi sự
khủng hoảng, ngày càng phát triển. Như vậy, thực tiễn lịch sử đã chứng minh, con
đường phát triển của Việt Nam là một con đường dài, với nhiều bước đi, nhiều giai
đoạn, trong đó có cũng cả những bước lùi tương đối.
10
2.2. Con đường phát triển của Việt Nam hiện nay bao gồm cả sự rút ngắn và bỏ
qua.
Sự rút ngắn trong con đường phát triển hồn tồn có thể thực hiện được nếu có
những điều kiện thích hợp. Ngày nay, khoa học - cơng nghệ phát triển nhanh chóng
cùng với q trình tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng đã có tác
động mạnh mẽ đến quá trình phát triển kinh tế, xã hội của các quốc gia, trong đó có
Việt Nam. Để đáp ứng được nhu cầu hội nhập quốc tế, các quốc gia tiến hành điều
chỉnh chiến lược phát triển theo hướng tăng cường liên kết, vừa hợp tác, vừa cạnh
tranh, nhất là trong các lĩnh vực như thương mại, đầu tư, nhân lực, khoa học - công
nghệ,... Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, tiến trình hội nhập quốc tế của
Việt Nam ngày càng sâu rộng, nhất là hội nhập trong lĩnh vực kinh tế. Thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng được hoàn thiện. Chúng ta đã
thiết lập được nhiều quan hệ đối tác chiến lược về kinh tế, như: tham gia đóng góp
và xây dựng Cộng đồng ASEAN; hoàn thiện thị trường trong nước đầy đủ hơn theo
cam kết Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO); tham gia ký kết nhiều hiệp định
thương mại tự do đa phương và song phương; tham gia đàm phán Hiệp định đối tác
xuyên Thái Bình Dương (TPP)... Như vậy, để đáp ứng được yêu cầu của sự phát
triển, yêu cầu của hội nhập quốc tế, không bị tụt hậu với thế giới, chúng ta đã mở
cửa để hội nhập. Đây cũng chính là điều kiện và cơ hội để ta có thể có những bước
nhảy vọt trong sự phát triển về kinh tế - xã hội, từ đó rút ngắn con đường phát triển
của mình.
Trên cơ sở vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lê-nin và những điều
kiện thực tiễn của Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định lựa chọn con đường tiến lên
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này được Đảng ta thể hiện
rất rõ tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986), Đảng ta khẳng định: từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa xã hội phải trải qua thời kỳ quá độ lâu dài là một tất yếu khách quan.
Thời kỳ quá độ ở nước ta do tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội từ một nền sản xuất
nhỏ, bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa, đương nhiên phải lâu dài và rất
khó khăn. Đến Đại hội VII của Đảng (năm 1991), Đảng ta khẳng định: Nước ta quá
độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Đến các Đại hội VIII, IX,
X của Đảng, mặc dù có nhiều sự bổ sung và điều chỉnh, nhưng nhìn chung, về cơ
bản, Đảng ta đều nhất quán với Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội được Đại hội VII thông qua. Dù lựa chọn con đường tiến lên
11
chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng nhìn vào thành tựu to lớn
sau 30 năm đổi mới, chúng ta thấy được sự đúng đắn, hợp lý trong việc lựa chọn
con đường phát triển của Đảng ta. Như vậy, khi nhìn nhận và đánh giá về sự phát
triển thì chúng ta khơng chỉ thấy sự phát triển theo đường thẳng, đi lên theo bậc
thang từ thấp đến cao, mà còn phải thấy được những bước rút ngắn, bỏ qua khi có
điều kiện thích hợp.
V. I. Lê-nin đã từng nói, “Cho rằng lịch sử thế giới phát triển đều đặn không va vấp,
không đổi khi nhẩy lùi những bước rất lớn là không biện chứng, không khoa học,
không đúng về lý luận”. Con đường phát triển của Việt Nam chắc chắn cũng khơng
nằm ngồi quy luật vận động chung này.
12
KẾT LUẬN
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát
triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ đi
theo đường thẳng mà diễn ra quanh co, phức tạp trong đó bao gồm nhiều chu kỳ
khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Vì vậy, quá trình đổi
mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng đó. Nền kinh tế nhiều thành
phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự quản lý điều tiết của nhà nước
tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập trung, bao cấp đặt nền móng cho xã hội phát
triển cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên ở mỗi mơ
hình đều có đặc điểm riêng, do đó, chúng ta đã nhận thức được vấn đề và đã có cách
thức tác động phù hợp với sự phát triển của thực tiễn đất nước, đưa đất nước thoát
khỏi khủng hoảng kinh tế và từng bước xóa bỏ đói nghèo nhưng khơng vì thế mà
chúng ta khơng trân trọng cái cũ. Chúng ta đã biết giữ hình thức cải tạo nội dung,
biết kế thừa và sử dụng đặc trựng tiến bộ của nền kinh tế tập trung là tiền đề để phát
triển nền kinh tế thị trường trên cơ sở đảm bảo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tuy nhiên để có thành công như hôm nay, trong hoạt động của chúng ta, cả hoạt
động nhận thức cũng như hoạt động thực tiến chúng ta phải vận dụng tổng hợp tất
cả những quy luật một cách đầy đủ sâu sắc, năng động, sáng tạo phù hợp với điều
kiện cụ thể. Chỉ có như vậy hoạt động của chúng ta, kể cả hoạt động học tập, mới có
chất lượng và hiệu quả cao.
13
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Bộ giáo dục và đào tạo (2019), Giáo trình Kinh tế chính trị (Sử dụng trong
các trường Đại học- Hệ khơng chun lý luận chính trị), tài liệu tập huấn giảng dạy
năm 2019
2/ C.Mác và Ph.Ăngghen (2005), Tồn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
3/ V. I. Lê-nin (2005), Tồn tập, t.26, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
4/ C.Mác và Ph. Ăngghen (2004), Tồn tập, t.20, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia,
Hà Nội
5/ Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội tồn quốc lần thứ X, XI, XII, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội
14