Tải bản đầy đủ (.pdf) (214 trang)

Các thiết chế quản lý đô thị thăng long thế kỷ xvi xviii

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.82 MB, 214 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN NGỌC PHÚC

CÁC THIẾT CHẾ QUẢN LÝ
ĐÔ THỊ THĂNG LONG THẾ KỶ XVI - XVIII

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Hà Nội, 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN NGỌC PHÚC

CÁC THIẾT CHẾ QUẢN LÝ
ĐÔ THỊ THĂNG LONG THẾ KỶ XVI - XVIII
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số:

602254

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS.TS VŨ VĂN QUÂN


Hà Nội, 2007


BẢNG CÁC TỪ VIẾT TẮT

CM

Khâm định Việt sử thông giám cương mục

ĐVTS

Đại Việt thơng sử

LT

Lịch triều hiến chương loại chí

LTCL

Lê triều chiếu lịnh thiện chính

LQKS

Lê quý kỷ sự

LTTK

Lịch triều tạp kỷ

Nxb


Nhà xuất bản

TB

Đại Việt sử ký tục biên

TT

Đại Việt sử ký toàn thư

Tr.

Trang


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

4

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

5

3. Mục đích nghiên cứu


8

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu

8

5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu

9

6. Đóng góp của luận văn

12

7. Bố cục luận văn

12

Chương 1 CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ ĐÔ THỊ
THĂNG LONG THẾ KỶ XVI - XVIII

1.1 Các tác động tự nhiên

14
14

1.1.1 Đặc điểm địa chất, địa hình

14


1.1.2 Đặc điểm khí hậu, thuỷ văn

14

1.2 Các tác động chính trị

16

1.2.1 Thăng Long với vai trị trung tâm chính trị - hành chính
đất nước

16

1.2.2 Những biến động chính trị

17

1.3 Các tác động kinh tế - xã hội

20

1.3.1 Sự hưng khởi của nền kinh tế hàng hố và đơ thị

20

1.3.2 Tác động xã hội

25

Tiểu kết


28

Chương 2 CÁC THIẾT CHẾ QUẢN LÝ ĐÔ THỊ THĂNG LONG THẾ
KỶ XVI - XVIII

30

2.1 Thành Thăng Long thế kỷ XVI - XVIII

30

2.1.1 Hệ thống thành luỹ

30

2.1.2 Khu vực chính trị - hành chính

32

2.1.3 Khu vực kinh tế - dân gian

35

2.2 Tổ chức bộ máy quản lý đơ thị
2.2.1 Cơ cấu đơn vị hành chính và tổ chức bộ máy quan lại
1

40
40



- Cơ cấu tổ chức đơn vị hành chính các cấp

40

- Nguyên tắc tổ chức; nhiệm vụ, chức trách của bộ máy
quản lý hành chính các cấp

42

2.2.2 Đào tạo, tuyển chọn, bổ dụng và các cơ chế kiểm soát, tổ
chức quản lý hành chính

52

- Đào tạo, tuyển chọn và bổ dụng

52

- Cơ chế vận hành, giám sát các hoạt động của bộ máy hành
chính các cấp

55

2.3 Các cơ chế tự trị - tự quản trong hoạt động quản lý đô thị

58

Tiểu kết


67

Chương 3 HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ THĂNG LONG THẾ KỶ XVI 69

XVIII

3.1 Quản lý dân cư

69

3.1.1 Các biện pháp hành chính quản lý dân cư

69

3.1.2 Quan lại, Nho sĩ, binh lính

70

3.1.3 Thợ thủ cơng - thương nhân, nơng dân

77

3.1.4 Các đối tượng dân cư khác

80

3.2 Quản lý các hoạt động kinh tế

84


3.2.1 Quản lý thủ công nghiệp

85

3.2.2 Quản lý thương nghiệp

87

3.2.3 Quản lý các hoạt động ngoại thương

91

3.2.4 Quản lý nông nghiệp

94

3.3 Quản lý an ninh trật tự đô thị

96

3.4 Quản lý tài nguyên, môi trường

101

3.4.1 Quản lý đất đai

101

3.4.2 Quản lý sông, hồ, đầm và hệ thống đê điều


103

3.5 Quản lý một số lĩnh vực khác

106

3.5.1 Một số chính sách quản lý giáo dục, khoa cử

106

3.5.2 Quản lý phong tục, nếp sống

109

Tiểu kết

112

KẾT LUẬN

115
2


TÀI LIỆU THAM KHẢO

118

PHỤ LỤC


- Phụ lục 1: Biên niên sự kiện Thăng Long thế kỷ XVI - XVIII
- Phụ lục 2: Nội dung các lệnh dụ về tổ chức và hoạt động quản lý
Thăng Long trong "Lê triều chiếu lịnh thiện chính"
- Phụ lục 3: Một số quy định đối với Thăng Long trong "Quốc triều
hình luật"
- Phụ lục 4: Một số quy định trong "Lê triều hội điển"
- Phụ lục 5: Văn bia
- Phụ lục 6: Tư liệu phương Tây về Thăng Long - Kẻ Chợ (trích dịch)
- Phụ lục 7: Bản đồ Thăng Long thời Lê-Trịnh, một số hình ảnh Hà Nội cổ

3


PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
1.1 Trong công cuộc cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nƣớc hiện nay, q
trình đơ thị hố cũng diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đơ thị đang ngày càng khẳng định
vai trị chủ đạo đối với khu vực nơng thơn và tồn xã hội nói chung. Vấn đề quản lý
và phát triển đơ thị do đó đang đặt ra những u cầu bức thiết, đòi hỏi sự đầu tƣ trên
nhiều phƣơng diện, từ nguồn vốn vật chất, nguồn nhân lực, trình độ, kinh nghiệm tổ
chức và quản lý... Vì vậy, đơ thị và lĩnh vực quản lý đô thị trở thành đối tƣợng quan
tâm nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, theo nhiều hƣớng tiếp cận.
1.2 Lịch sử hình thành và phát triển đô thị Việt Nam đã trải qua nhiều giai
đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn, theo sự vận động của q trình kinh tế - xã hội, đơ
thị Việt Nam có đặc điểm, tính chất và đặc thù riêng. Thời Bắc thuộc, hình thành
một số đơ thị - lỵ sở cai trị của chính quyền đơ hộ (Luy Lâu, Tống Bình), cảng thị nơi diễn ra các hoạt động trao đổi bn bán trong và ngồi nƣớc (Lạch Trƣờng,
Chiêm Cảng). Thời Trung đại, các vƣơng triều phong kiến độc lập đều chú ý xây
dựng kinh đô trở thành trung tâm quyền lực, do vậy, loại hình đơ thị chính trị hành chính có điều kiện phát triển (Hoa Lƣ, Thăng Long, Tây Đơ).

Nhìn một cách tổng qt, đến trƣớc thời cận đại, đô thị Việt Nam mang đặc
trƣng của loại hình đơ thị phƣơng Đơng truyền thống, đó là sự kết hợp của hai yếu
tố đô (trung tâm, lỵ sở hành chính quan liêu) và thị (tụ điểm kinh tế, nơi tập trung
các hoạt động sản xuất, trao đổi hàng hoá). Tuy nhiên, dƣới tác động của nhiều
nhân tố khác nhau, trong suốt q trình tồn tại, có đơ thị nổi bật hơn về chức năng
hành chính (Cổ Loa, Phú Xn), ngƣợc lại, có đơ thị chủ yếu giữ vị trí trung tâm
kinh tế (Phố Hiến, Hội An).
1.3 Trƣờng hợp điển hình, hội tụ đầy đủ cả hai yếu tố đô - thị là Thăng Long
- Hà Nội. Hơn 9 thế kỷ kể từ thời điểm định đô năm 1010, gần nhƣ liên tục, Thăng
Long luôn giữ đƣợc sự phát triển cân đối, vừa đảm trách vai trò của một trung tâm
chính trị - hành chính, vừa là trung tâm kinh tế hàng đầu của đất nƣớc, trở thành đô
thị tiêu biểu suốt thời kỳ trung đại. Xuyên suốt quá trình tồn tại và phát triển của
đơ thị này, mỗi giai đoạn lịch sử, quản lý đô thị Thăng Long, trong đó có việc tổ
4


chức và vận hành bộ máy quản lý hành chính, các lĩnh vực quản lý đô thị (quản lý
dân cƣ, văn hố, tài ngun...) có thể xem nhƣ một đại diện, phản ánh hiệu quả
quản lý đô thị, quản lý đất nƣớc đƣơng thời.
1.4 Khác với thời Lý, Trần, Lê Sơ, trải ba thế kỷ XVI, XVII, XVIII dƣới thời
Mạc và Lê Trung hƣng là thời kỳ diễn ra nhiều biến động về chính trị - xã hội của
đất nƣớc: các cuộc nội chiến, xung đột phe phái giữa các tập đoàn phong kiến Bắc
triều - Nam triều, Đàng Trong - Đàng Ngoài, thể chế quyền lực “lƣỡng đầu chế” thời
Lê - Trịnh (tồn tại song song hai hệ thống chính quyền tại Thăng Long: triều đình
vua Lê và hệ thống Ngũ phủ phủ liêu của chúa Trịnh), sự lan rộng về địa bàn và quy
mô của các phong trào khởi nghĩa nông dân... tác động không nhỏ tới đời sống kinh
tế - xã hội. Thăng Long với vai trò trung tâm chính trị - hành chính đất nƣớc là địa
phƣơng chịu tác động mạnh mẽ và thƣờng xuyên từ những biến động này.
Bên cạnh đó, giai đoạn thế kỷ XVI - XVIII, cả trên bình diện trong nƣớc và
quốc tế đều diễn ra những chuyển biến thuận lợi, tạo đà cho quá trình phát triển

phồn thịnh của nền kinh tế hàng hố và sự hƣng khởi của đơ thị Thăng Long - Kẻ
Chợ. Sự hƣng khởi này đƣợc biểu hiện trên nhiều phƣơng diện: hoạt động kinh tế
nhộn nhịp, cơ cấu, số lƣợng dân cƣ, quy hoạch đô thị, đời sống sinh hoạt văn hố
đơ thị...
Bài học kinh nghiệm về tổ chức và quản lý đô thị trong bối cảnh nhƣ vậy
hẳn sẽ giúp ích cho cơng cuộc quản lý và phát triển đô thị đƣơng đại.
Với những nguyên nhân và lý do trên, tác giả đã quyết định chọn vấn đề
“Các thiết chế quản lý đô thị Thăng Long thế kỷ XVI - XVIII” làm đề tài luận
văn của mình.

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là một đơ thị Việt Nam tiêu biểu, Thăng Long - Hà Nội trở thành đối tƣợng
thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nƣớc. Thăng Long Hà Nội đƣợc tìm hiểu từ nhiều góc độ, trên nhiều lĩnh vực và ở nhiều giai đoạn
lịch sử khác nhau.
Thiết chế quản lý đô thị, tổ chức bộ máy quản lý đô thị thuộc phạm vi lĩnh
vực tổ chức, xây dựng bộ máy quản lý hành chính nhà nƣớc tại địa phƣơng, nằm
trong tổng thể các định chế chính trị - hành chính đƣơng thời. Về vấn đề này, có
5


thể kể đến một số nghiên cứu vừa mang tính lý luận về nội dung, phƣơng pháp tiếp
cận, vừa là những giới thiệu khái quát về các thiết chế quản lý nhƣ: Đinh Gia Trinh
[1968]: Sơ thảo lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt Nam, Lê Kim Ngân [1974]:
Văn hố chính trị Việt Nam: Chế độ chính trị Việt Nam thế kỷ XVII và XVIII, Vũ
Thị Phụng [1990]: Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Trần Thị Vinh [2004]:
Thể chế chính quyền nhà nước thời Lê - Trịnh: sản phẩm đặc biệt của lịch sử Việt
Nam thế kỷ XVII- XVIII...
Trong những chuyên khảo về đô thị Việt Nam thời kỳ cổ trung đại, Đô thị
cổ Việt Nam (do tập thể các tác giả của Viện Sử học biên soạn, xuất bản năm
1989) là cơng trình tập hợp, trình bày một cách hệ thống về lịch sử hình thành,

vai trò, đặc điểm kinh tế - xã hội các đô thị tiêu biểu thời kỳ cổ trung đại. Trong
các nội dung nghiên cứu về Thăng Long - Hà Nội, vấn đề thiết chế quản lý và
hoạt động quản lý đơ thị qua các thời kỳ có đƣợc đề cập, tuy nhiên mới dừng lại
ở mức độ rất khái quát.
Đối với những nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử Thăng Long - Hà Nội, hai
tập sách: Lịch sử thủ đô Hà Nội (Trần Huy Liệu chủ biên) công bố lần đầu năm
1960 và Hà Nội - Thủ đô nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Trần Quốc
Vƣợng chủ biên, công bố năm 1984) viết về lịch sử Thăng Long - Hà Nội, có
phạm vi thời gian bao quát từ thời kỳ cổ đại đến khi trở thành Thủ đô của nƣớc
Việt Nam. Vấn đề tổ chức bộ máy, thiết chế quản lý đô thị Thăng Long cũng chỉ
đƣợc nhắc đến một cách sơ lƣợc, đặt trong tiến trình chung của toàn bộ lịch sử
Thăng Long - Hà Nội.
Năm 1993, cơng trình Thăng Long - Hà Nội thế kỷ XVII - XVIII - XIX (vốn
là một luận án Tiến sĩ bảo vệ năm 1984) của tác giả Nguyễn Thừa Hỷ đƣợc xuất
bản. Đây đƣợc coi là nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về Thăng Long - Kẻ Chợ
trong thời kỳ hƣng khởi của nền kinh tế hàng hoá và đơ thị. Với cơng trình này,
thơng qua nguồn tƣ liệu phong phú, diện mạo, kết cấu kinh tế - xã hội của một
thành thị trung đại đƣợc tác giả trình bày, phân tích đầy đủ và hệ thống. Tuy nhiên,
vì khơng phải là đối tƣợng nghiên cứu chính, vấn đề thiết chế quản lý đơ thị tuy có
đƣợc tác giả đề cập nhƣng cũng chỉ sơ lƣợc trong khi trình bày về cấu trúc và quá

6


trình vận hành của các hoạt động kinh tế - xã hội đƣơng thời tại Thăng Long - Kẻ
Chợ.
Trong các nghiên cứu của học giả nƣớc ngoài về lịch sử Thăng Long - Hà
Nội, đáng chú ý có Luận án Tiến sĩ chuyên ngành nghiên cứu Ấn Độ và vùng Viễn
Đông của Phillipe Papin [1997]: Des "villages dans la ville" aux "villages
urbains". Ľ espace et les formes du poivoir à Ha-noi de 1805 à 1940 (Từ những

làng trong thành phố đến những ngơi làng đơ thị hố. Khơng gian và các hình thức
quyền lực ở Hà Nội từ 1805 đến 1940). Đây là giai đoạn lịch sử Thăng Long - Hà
Nội, lịch sử Việt Nam nói chung có nhiều biến động. Từ vị trí kinh đơ thời Lê,
Thăng Long trở thành thủ phủ Bắc thành thời Tây Sơn và đầu thời Nguyễn, tỉnh
thành Hà Nội thời Minh Mạng và thủ phủ của Liên bang Đông Dƣơng thời thuộc
Pháp, bƣớc vào thời kỳ cận đại hố, chuyển mình mạnh mẽ theo mơ hình đơ thị
phƣơng Tây. Bối cảnh đó đã tác động sâu sắc tới vấn đề tổ chức, quản lý hành
chính đơ thị.
Ngồi ra cịn có những nghiên cứu khác, gồm các tập sách và chuyên luận
công bố trên các tạp chí (Nghiên cứu lịch sử, Khảo cổ học, Xưa và Nay...) của
nhiều tác giả (Trần Quốc Vƣợng, Phan Huy Lê, Trần Huy Bá, Nguyễn Khắc Đạm,
Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Thừa Hỷ, Nguyễn Vinh Phúc...). Những năm sáu
mƣơi, bẩy mƣơi của thế kỷ trƣớc, các tác giả quan tâm và tập trung làm rõ vấn đề
quy mơ, vị trí và chức năng của hệ thống thành luỹ Thăng Long qua các thời kỳ,
triều đại. Từ khoảng những năm tám mƣơi cho đến nay, các vấn đề về dân cƣ, các
hoạt động kinh tế, sinh hoạt văn hoá, quản lý hành chính...bắt đầu đƣợc chú ý
nhiều hơn so với giai đoạn trƣớc đó.
Gần đây, trong q trình triển khai đề tài khoa học KX09.02: Thăng Long Hà Nội với vai trò trung tâm chính trị, hành chính của đất nước - những bài học về
quản lý và phát triển do PGS.TS Vũ Văn Qn chủ trì, đã có một số khố luận Cử
nhân khoa Lịch sử, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc
gia Hà Nội) nhƣ: Quy hoạch, tổ chức bộ máy và hoạt động quản lý hành chính
Đơng Kinh thời Lê Sơ (1428 - 1527) của Phan Trắc Thành Động [2006], Tổ chức
và quản lý thành Thăng Long thời Lê - Trịnh (1592 - 1789) của Đinh Thị Mai
[2006]. Tuy nhiên, do giới hạn bởi phạm vi và quy mơ của một khóa luận tốt

7


nghiệp, các khóa luận này cũng mới đề cập những nét chung, nổi bật của vấn đề tổ
chức, quản lý, đặc biệt là thiết chế quản lý đô thị Thăng Long.

Nhƣ vậy, dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu nhƣng những chuyên khảo
về Thăng Long - Kẻ Chợ giai đoạn XVI - XVIII chƣa thật nhiều, nhất là chƣa có
nghiên cứu nào chọn vấn đề thiết chế quản lý Thăng Long thời Mạc và Lê - Trịnh
làm đối tƣợng nghiên cứu trực tiếp và chuyên sâu.

3. Mục đích nghiên cứu
Với việc tập hợp, phân tích các nguồn tƣ liệu lịch sử, luận văn mong muốn
khắc hoạ một cách hệ thống vấn đề tổ chức và hoạt động quản lý đơ thị Thăng
Long - Kẻ Chợ với vai trị trung tâm chính trị - hành chính đất nƣớc, dƣới tác động
của các nhân tố, các biến động về chính trị - kinh tế và xã hội của qua ba thế kỷ
XVI, XVII và XVIII.
Thơng qua việc tìm hiểu vấn đề quản lý đô thị trong một giai đoạn lịch sử
kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp, khuyến nghị, góp phần phục vụ công cuộc
xây dựng và quản lý đô thị Việt Nam nói chung và của Thủ đơ Hà Nội hiện nay
nói riêng.

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài thuộc lĩnh vực quản lý đơ thị, trong đó, tập
trung vào việc tìm hiểu q trình thiết lập và hồn bị cơ cấu đơn vị hành chính và
bộ máy quản lý các cấp. Trong đó có các vấn đề từ đào tạo, tuyển chọn, bổ dụng
quan lại, nhiệm vụ, chức trách của các cấp quản lý, nguyên tắc tổ chức, giám sát
hoạt động quản lý. Cơ chế tự quản - tự trị trong một số lĩnh vực của đời sống kinh
tế, xã hội, văn hố, tổ chức cộng đồng cƣ dân đơ thị...
Những nội dung trên đƣợc thể hiện trong quá trình thực thi các lĩnh vực
quản lý đô thị Thăng Long - Kẻ Chợ (quản lý dân cƣ, hoạt động kinh tế, tài nguyên
môi trƣờng, quản lý trật tự an ninh đô thị...) tại Thăng Long - Kẻ Chợ ba thế kỷ
XVI, XVII và XVIII. Ngoài những năm đầu thế kỷ XVI dƣới triều Lê Sơ và cuối
thế kỷ XVIII dƣới triều Tây Sơn, đây là giai đoạn tƣơng đƣơng với thời kỳ nắm
quyền tại Thăng Long của nhà Mạc và nhà Lê - Trịnh.


8


Về giới hạn khơng gian hành chính, Thăng Long giai đoạn này gồm hai
huyện Quảng Đức (thời Nguyễn đổi là Vĩnh Thuận) và Vĩnh Xƣơng (sau đổi là
Thọ Xƣơng) thuộc phủ Phụng Thiên, tƣơng đƣơng với địa bàn các quận trung tâm
của Thủ đơ Hà Nội hiện nay: Ba Đình, Hoàn Kiếm, Hai Bà Trƣng và Đống Đa và
Tây Hồ.

5. Nguồn tài liệu và phương pháp nghiên cứu
5.1 Các nguồn tài liệu
Thăng Long là trung tâm chính trị - hành chính, trung tâm kinh tế, văn hóa
của cả nƣớc, tài liệu thƣ tịch biên chép, phản ánh các sự kiện, các lĩnh vực hoạt
động của đời sống diễn ra hoặc liên quan đến kinh đô phong phú, đa dạng hơn so
với nhiều địa phƣơng khác. Tuy nhiên, do những biến động lịch sử, so với thời
Nguyễn và các giai đoạn sau đó, nguồn tƣ liệu phản ánh vấn đề thiết chế quản lý
đơ thị cịn lại khơng nhiều và đầy đủ.
Tài liệu thƣ tịch cổ tham khảo và trích dẫn trong luận văn gồm nhiều loại: các
bộ chính sử, văn bản pháp luật, văn bia, các tác phẩm chí, tác phẩm văn học... do các
sử quan, học giả đƣơng thời tập hợp, biên soạn trong thời Lê - Trịnh và thời Nguyễn.
Đại Việt sử ký tồn thư, là bộ chính sử do Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều
Lê biên soạn theo thể biên niên, dựa trên bộ Đại Việt sử ký của Lê Văn Hƣu soạn
thời Trần và Đại Việt sử ký của Phan Phu Tiên biên soạn giữa thế kỷ XV.., chép
lịch sử dân tộc từ kỷ Hồng Bàng trong truyền thuyết đến hết năm 1675, đƣợc khắc
in lần đầu vào năm Chính Hồ 18 (1697). Đây là bộ quốc sử lớn và sớm nhất của
nƣớc ta còn lại đến ngày nay. Giá trị của Đại Việt sử ký tồn thư là ở chỗ, cơng
trình đã cung cấp một nguồn sử liệu gốc cơ bản nhất về lịch sử dân tộc, khơng
riêng cho sử học mà cịn rất nhiều ngành khoa học xã hội khác.
Về kết cấu, bộ sử ký đƣợc chia thành 2 phần: Ngoại kỷ gồm 5 quyển, phần
Bản kỷ 19 quyển. Phần Bản kỷ lại chia thành 3 phần: Bản kỷ toàn thƣ, Bản kỷ thực

lục và Bản kỷ tục biên. Trong luận văn này, chúng tơi tham khảo và trích dẫn các
ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư từ quyển 14 thuộc Bản kỷ thực lục đến hết
quyển 19 phần Bản kỷ tục biên.

9


Khâm định Việt sử thông giám cương mục, do Quốc sử quán triều Nguyễn
biên soạn trong 25 năm (1856 - 1881), in xong năm Kiến Phúc 1 (1884). Đây là bộ
thông sử đồ sộ, chép lịch sử Việt Nam từ thời dựng nƣớc đến năm 1789. Sách gồm
52 quyển, chia thành 2 phần: Tiền biên và Chính biên. Khi biên soạn, Cương mục
chủ yếu dựa vào ghi chép của Đại Việt sử sứ ký tồn thư, đồng thời có bổ sung
thêm sự kiện từ ghi chép của một số tài liệu dã sử, thi văn tập của Việt Nam và sử
Trung Quốc. Ngồi ra, Cương mục cịn có thêm nhiều phần khảo cứu và chú giải
địa danh rất giá trị, là sự bổ sung và tiếp nối quan trọng của Đại Việt sử ký toàn thư.
Lịch triều tạp kỷ (Hậu Lê lịch triều tạp kỷ), do Ngô Cao Lãng biên soạn,
gồm 6 quyển, chép từ năm Dƣơng Đức 1 (1672) đến năm Chiêu Thống 3 (1789),
cũng đƣợc xem là bộ sử nối tiếp của Đại Việt sử ký toàn thư. Lịch triều tạp kỷ đƣợc
biên soạn theo thể biên niên, tuy nhiên, giá trị về mặt sử liệu của nó ở chỗ cơng
trình là một nguồn sử liệu khá phong phú, trên nhiều lĩnh vực chính trị, luật pháp,
kinh tế, văn hoá, các sinh hoạt xã hội... đƣợc tác giả trình bày khá cụ thể, giúp cho
ngƣời nghiên cứu có đƣợc những nhận thức phong phú, đầy đủ hơn về giai đoạn
lịch sử này.
Việt sử cương mục tiết yếu, do Đặng Xuân Bảng biên soạn, bắt đầu từ thời
kỳ Hùng Vƣơng dựng nƣớc, kết thúc khi nhà Tây Sơn chấm dứt (1802). Cơng trình
này tập trung vào việc ghi chép điển chƣơng chế độ của các triều đại, về địa danh
lịch sử, sự biến động về lãnh thổ qua các thời kỳ lịch sử.
Bên cạnh các bộ chính sử biên soạn theo thể biên niên cịn có các nguồn sử
liệu quan trọng, cung cấp nhiều thông tin liên quan đến các chế độ điển chƣơng,
luật lệ, quy chế quan lại...trong giai đoạn này nhƣ: Quốc triều hình luật, Hồng Đức

thiện chính thư, Lê triều chiếu lịnh thiện chính, Lê triều quan chế, Lê triều cựu
điển, Lê triều hội điển.
Quốc triều hình luật (Lê triều hình luật, Luật Hồng Đức) - bộ luật hình quan
trọng và chính thống nhất của triều Lê, gồm 13 chƣơng, cộng lại có 722 điều, phân
làm 6 quyển. Quốc triều hình luật là bộ luật xƣa nhất, đầy đủ nhất của nƣớc ta hiện
nay còn lƣu giữ đƣợc. Bên cạnh những điều luật quy định chung, Quốc triều hình
luật có nhiều điều khoản áp dụng riêng cho việc tổ chức bộ máy quản lý và hoạt

10


động trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quản lý an ninh trật tự tại
kinh thành.
Bổ sung cho Quốc triều hình luật là Lê triều quan chế, chƣa rõ tác giả của
bộ sách này. Về niên đại biên soạn, căn cứ vào nội dung sách có nhắc đến niên
hiệu Cảnh Hƣng (1740 - 1786), có thể xác định sách đƣợc biên soạn sớm nhất là
vào cuối thế kỷ XVIII hoặc đầu thế kỷ XIX. Về nội dung, Lê triều quan chế chép
các quy định về chức tƣớc, phẩm trật của quan văn, võ ở triều đình và địa phƣơng.
Đây là một tài liệu tham khảo bổ ích, cung cấp những chi tiết mà các sách chép về
quan chế đời Lê chƣa đề cập đến hoặc đề cập nhƣng chƣa cụ thể, chi tiết.
Lê triều chiếu lịnh thiện chính gồm tập hợp các văn bản chiếu lệnh, sắc dụ
quy định và liên quan đến các chế độ điển chƣơng, luật lệ, quy chế quan lại, luật
pháp...ban hành từ năm Vĩnh Tộ 7 (1625) đến niên hiệu Chính Hồ (1680 - 1705)
đời Lê Hy Tơng. Nội dung các chiếu lệnh, sắc dụ chép trong Lê triều chiếu lịnh
thiện chính gồm những quy định cụ thể, các điều cấm răn, quy định thƣởng phạt áp
dụng cho nhiều lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội, từ tổ chức bộ máy
quan lại, việc duyệt tuyển, khảo khố, việc tơ thuế, tài dụng, định chế cho hình pháp,
khoa cử đến các lĩnh vực của đời sống sinh hoạt hàng ngày. Chính vì vậy, đây là một
tài liệu rất có giá trị giúp cho việc tìm hiểu các chủ trƣơng, biện pháp cũng nhƣ hiệu
quả quản lý đất nƣớc của chính quyền Lê - Trịnh.

Một cơng trình quan trọng khác là Lịch triều hiến chương loại chí của Phan
Huy Chú, bộ sách gồm 49 quyển. Tác giả dùng phƣơng pháp biên soạn theo thể
“chí”, các nội dung đƣợc tập hợp, phân loại, sắp xếp theo 10 loại chí, gồm: Dư địa
chí, Nhân vật chí, Quan chức chí, Lễ nghi chí, Khoa mục chí, Quốc dụng chí, Hình
luật chí, Binh chế chí, Văn tịch chí và Bang giao chí. Trong từng loại "chí", các tƣ
liệu, sự kiện - nhất là thời Hậu Lê - đƣợc Phan Huy Chú trình bày khoa học, phản
ánh đƣợc tƣơng đối đầy đủ các mặt của đời sống chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội
của đất nƣớc, trong đó có Thăng Long.
Ngồi ra, các tác phẩm văn học sử viết theo lối tùy bút, ký nhƣ: Vũ trung tuỳ
bút của Phạm Đình Hổ, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống
chí của Ngơ gia văn phái... là những tƣ liệu q, góp phần bổ sung cho nguồn tƣ
liệu chính thống. Qua những tác phẩm này, đời sống xã hội Thăng Long thời kỳ Lê
11


- Trịnh, từ các sinh hoạt diễn ra trong phủ chúa, đời sống thƣờng nhật của tầng lớp
công hầu, nho sĩ và dân chúng, không gian thành Thăng Long cách đây hơn hai
trăm năm... đƣợc phác họa một cách sinh động.
Trong q trình thực hiện, chúng tơi cịn tham khảo và trích dẫn một số tài
liệu Hán Nơm khác nhƣ văn bia, hƣơng ƣớc. Hiện bia ký có niên đại thế kỷ XVI XVIII ở Hà Nội, nhất là khu vực thuộc hai huyện Quảng Đức, Vĩnh Xƣơng/Thọ
Xƣơng cịn khơng nhiều (một phần trong số này đã đƣợc tuyển dịch và công bố
trong Tuyển tập văn bia Hà Nội (2 tập) và Văn khắc Hán Nôm Việt Nam). Thông
tin cung cấp từ tƣ liệu này khá phong phú.
Bên cạnh các tài liệu thƣ tịch cổ do các tác giả trong nƣớc biên soạn, phải kể
đến các tập du ký của nhiều tác giả nƣớc ngoài từng đến Thăng Long trong hai thế
kỷ XVII - XVIII, có thể kể đến: Jean Baptiste Tavernier với Tập du ký mới và kỳ
thú về vương quốc Đàng Ngoài, W. Dampier: Một chuyến du hành sang Bắc Kỳ
năm 1688, Charles B. Maybon: Một thương điếm Anh ở Đông Kinh (Tonkin) trong
thế kỷ XVII (1672 - 1679) và Người châu Âu ở An Nam. Dựa trên những sự việc,
nhân vật bản thân tiếp xúc hoặc chứng kiến, các thƣơng nhân, giáo sĩ truyền đạo

đến từ châu Âu trong các ghi chép của mình đã cung cấp những hiểu biết về lịch
sử, văn hoá - xã hội của Đàng Ngồi nói chung cũng nhƣ Thăng Long thời kỳ Lê Trịnh nói riêng.
5.2 Phương pháp nghiên cứu
Từ nội dung, mục đích nghiên cứu, với việc tập hợp các nguồn tƣ liệu, luận
văn sử dụng phƣơng pháp lịch sử và phƣơng pháp logic để tổng hợp, so sánh, đối
chiếu các nguồn tƣ liệu nhằm tái hiện, nhận thức sâu sắc hơn về vấn đề cơ cấu, tổ
chức quản lý đơ thị, từ chính sách đào tạo, tuyển dụng, các lĩnh vực quản lý và
hiệu quả quản lý Thăng Long - Kẻ Chợ trong ba thế kỷ XVI - XVIII

6. Đóng góp của luận văn
- Vấn đề tổ chức và quản lý đô thị Thăng Long - Kẻ Chợ thông qua các
nguồn tƣ liệu đƣợc trình bày một cách tồn diện, hệ thống, qua đó góp phần nhận
diện Thăng Long ở một giai đoạn phát triển phồn thịnh.

12


- Rút ra những bài học lịch sử trong vấn đề quản lý và phát triển đô thị, đề
xuất một số quan điểm, giải pháp tổ chức và phát triển Thủ đơ trong thời kỳ hiện
đại hố, cơng nghiệp hố, hƣớng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.

7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và phụ lục, nội dung chính của
luận văn đƣợc bố cục thành ba chƣơng:
Chương 1: Các nhân tố tác động đến quản lý đô thị Thăng Long
thế kỷ XVI - XVIII
Chương 2: Các thiết chế quản lý đô thị Thăng Long thế kỷ XVI XVIII
Chương 3: Hoạt động quản lý đô thị Thăng Long thế kỷ XVI XVIII

13



CHƢƠNG 1
CÁC NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN QUẢN LÝ ĐÔ THỊ THĂNG LONG
THẾ KỶ XVI - XVIII

1.1 Các nhân tố tự nhiên
Cuộc sống của con ngƣời ngay từ khi tiến xuống khai phá, định cƣ và lập
nên những làng xóm đầu tiên trên vùng đất Hà Nội cổ cho đến khi Thăng Long Hà Nội trở thành trung tâm chính trị - hành chính, kinh tế - văn hố của đất nƣớc
luôn chịu sự tác động, chi phối bởi các nhân tố tự nhiên (bao gồm các đặc điểm về
địa chất, địa hình, khí hậu, thuỷ văn...).
Trong các nhân tố tác động (tự nhiên, chính trị, kinh tế, xã hội), mơi trƣờng
tự nhiên là nhân tố mang tính chất hằng xun, góp phần hình thành và để lại dấu
ấn trong lối sống, thế ứng xử, tập quán sản xuất, tổ chức đời sống cộng đồng...

1.1.1 Đặc điểm địa chất, địa hình
Ở vị trí trung tâm của tam giác châu thổ Bắc Bộ, có độ cao trung bình 520m so với mực nƣớc biển, đặc điểm địa hình Hà Nội là sự thấp dần từ Bắc xuống
Nam, và từ Tây sang Đông, tạo thành một vùng võng ở trung tâm, các nhà địa chất
hiện đại gọi đó là "trũng Hà Nội" hay "võng Hà Nội".
Về mặt địa chất, vỏ trái đất khu vực này không những "mỏng" hơn so với
những nơi khác mà tại đó cịn xuất hiện các vệt chia cắt do kết quả của hiện tƣợng
đứt gãy sâu. Những đặc điểm này khiến cho cƣờng độ chuyển động của vỏ trái đất
ở "trũng Hà Nội" thƣờng khá lớn - đây chính là nguyên nhân gây ra các trận động
đất trong lịch sử. Đại Việt sử ký toàn thư và Khâm định Việt sử thông giám cương
mục chép rất nhiều lần động đất tại Thăng Long, riêng thời Lê - Trịnh, ít nhất đã có
5 lần vào tháng 4 năm Mậu Ngọ (1678), tháng 12 năm Ất Sửu (1685), tháng 5 năm
Tân Sửu (1721), tháng 2 năm Đinh Hợi (1767) và tháng 1 năm Giáp Ngọ (1774).

1.1.2 Đặc điểm khí hậu, thuỷ văn
Thời tiết và sự vận hành các mùa trong năm diễn ra ở Thăng Long mang đặc

trƣng chung của khí hậu miền Bắc: đó là vùng nhiệt đới gió mùa, mùa hè nóng,

14


mƣa nhiều và mùa đơng lạnh, mƣa ít. Giữa hai mùa nóng và lạnh có sự thay đổi và
khác biệt rõ rệt, xen giữa hai mùa cịn có hai thời kỳ chuyển tiếp (mùa xuân, mùa
thu). Khí hậu và lƣợng mƣa nhƣ vậy đã tác động khơng nhỏ đến dịng chảy của các
sông đi qua địa phận kinh thành. Sông Tô Lịch: "là phân lƣu của sông Nhị.., sông
này mùa đông, mùa xuân nông cạn, mùa hè mùa thu nƣớc lớn, phải đi bằng
thuyền" [28, 186].
Ngồi sơng Tơ Lịch, Thăng Long là nơi hội tụ dịng chảy của nhiều con
sơng, trong đó, lớn nhất chính là sơng Nhĩ Hà (sơng Hồng). Ngồi sơng, hệ thống
hồ đầm tự nhiên dày đặc - nhiều trong số này là dấu vết sót lại sau khi đổi dịng
của các dịng sơng cổ (Hồ Tây, hồ Hồn Kiếm...). Chính đặc điểm sơng - hồ này đã
tạo cho Thăng Long - Hà Nội một diện mạo cảnh quan nổi bật: thành phố sông hồ:
Khen ai khéo hoạ dư đồ
Trước sơng Nhị thuỷ, sau hồ Hồn Gươm
Nếu lấy Nhĩ Hà làm trục chính thì Thăng Long là đô thị một bên sông; theo
quy chiếu của dân gian, đây là thành phố trong sông:
Nhị Hà quanh Bắc sang Đơng
Kim Ngưu, Tơ Lịch là sơng bên này.
Dƣới góc độ lịch sử quy hoạch và kiến trúc thành luỹ, ngay từ giai đoạn tiền
Thăng Long, từ toà thành đất của Lý Bí bên cửa sơng Tơ Lịch cho đến các vòng
thành Thăng Long thời độc lập Lý, Trần, Lê đều thể hiện sự gắn bó, nƣơng theo và
tận dụng tối đa yếu tố cảnh quan địa hình sơng - hồ.
Tuy nhiên, đặc tính sơng - hồ cũng là mối đe doạ tiềm tàng đối với kinh
thành Thăng Long. Hàng năm, vào mùa mƣa, nƣớc lũ thƣờng dâng cao, tràn vào
kinh thành. Đắp đê là giải pháp đƣợc các triều đại phong kiến lựa chọn từ rất sớm
để ngăn dòng nƣớc lớn, bảo vệ mùa màng, cuộc sống. Sử chép, ngay từ thời Lý,

năm 1108, triều đình đã cho "đắp đê ở phƣờng Cơ Xá" [34, 123], các triều Trần,
Lê tiếp tục nhiều lần gia cố, hoàn thiện. Cho đến đầu thời Nguyễn, đoạn sông
Hồng qua Hà Nội đƣợc mô tả: "Đê sơng Nhị: ở phía đơng bắc tỉnh thành, chạy dài
về phía nam, huyện Vĩnh Thuận 945 trƣợng, huyện Thọ Xƣơng 270 trƣợng, đều là
15


đê đắp từ đời trƣớc" [28, 205]. Tuy nhiên, rất nhiều lần, khi hệ thống đê này không
chịu đƣợc sức mạnh của dòng nƣớc, đê vỡ, nƣớc lũ đã tràn vào kinh thành, phá huỷ
các cơng trình xây dựng, cung điện, nhà cửa, đe doạ đến cuộc sống, tính mạng của
ngƣời dân... Một số trận lụt lớn dƣới thời Lê - Trịnh tại Thăng Long đƣợc sử biên
niên ghi lại:
- Tháng 8 năm Nhâm Tuất (1622): Trời mƣa to, thành nội lở đến 6 - 7 chỗ
cộng hơn 30 trƣợng (khoảng 120m).
- Tháng 6 năm Canh Ngọ (1630): Nƣớc to đổ về, sông Nhị (sông Hồng) đầy
tràn, ngập vào đƣờng phố. Cửa Nam nƣớc chảy nhƣ thác đổ, phố phƣờng nhiều
ngƣời bị chết đuối.
- Tháng 9 năm Tân Mùi (1631): Mƣa nhƣ trút, nƣớc sơng Nhị dâng to, điện
đình trong ngoài (kinh thành) ngập sâu đến 1 thƣớc (khoảng 0,4m).
- Tháng 6 năm Nhâm Thân (1632): Mƣa to 3 - 4 ngày không ngớt. Sân trong
cung và các điện nƣớc ngập vài tấc.

1.2 Các tác động chính trị
1.2.1 Thăng Long với vai trị trung tâm chính trị - hành chính đất nước
Trong lịch sử hình thành và phát triển của Thăng Long - Hà Nội, việc định
đô Thăng Long năm 1010 đƣợc coi là sự kiện mở đầu, chính thức xác lập vai trị
trung tâm chính trị - hành chính đất nƣớc của đô thị này. Tổ chức bộ máy, thiết lập
cơ chế quản lý cũng nhƣ hiệu quả quản lý đô thị Thăng Long chịu sự chi phối chặt
chẽ từ tính chất đặc thù đó.
Với vai trị trung tâm chính trị - hành chính, Thăng Long là nơi tập trung, là

đầu mối cao nhất của hệ thống các cơ quan quản lý, bộ máy quan lại của triều đình...
Hầu hết các sự kiện chính trị, bang giao quan trọng của đất nƣớc đều diễn ra tại kinh
đô, vấn đề bảo đảm an ninh cho kinh đô tác động và có mối quan hệ mật thiết đối
với sự hƣng vong của vƣơng triều. Ngƣợc lại, diện mạo, sự ổn định và phát triển của
kinh đô chịu tác động rất lớn từ những diễn biến chính trị của triều đình, từ các sinh
hoạt chốn cung đình của vua quan, quý tộc... Đó cũng chính là ngun nhân cơ bản
dẫn đến việc đan xen về nội dung cũng nhƣ đối tƣợng quản lý giữa triều đình trung
ƣơng và bộ máy quản lý địa phƣơng các cấp trực tiếp quản lý kinh thành.
16


Là trung tâm chính trị - hành chính của đất nƣớc, việc thiết lập hệ thống đơn
vị hành chính các cấp, tổ chức bộ máy quan lại, cơ cấu quản lý và vận hành, nhiệm
vụ của bộ máy quan lại tại kinh đô... - trong so sánh tƣơng quan với các địa
phƣơng của cả nƣớc - ít nhiều đều có sự khác biệt. Thời Trần, năm 1230, triều đình
cho đặt ty Bình Bạc, năm 1265 đổi thành Đại An phủ sứ, sau lại đổi thành Kinh sƣ
đại doãn, đây là cơ quan hành chính và tƣ pháp với tên gọi, chức năng chỉ có ở
kinh đơ Thăng Long. Thời Lê, năm 1466, triều đình lập ra đơn vị hành chính đặc
biệt trực thuộc triều đình, đó là phủ Trung Đơ (năm 1469 đổi thành phủ Phụng
Thiên)...

1.2.2 Những biến động chính trị
Đại Việt thời Lê Sơ có những bƣớc phát triển vƣợt bậc trên nhiều lĩnh vực,
đặc biệt dƣới thời Lê Thánh Tông (1460 - 1497). Nhƣng ngay sau khi Lê Thánh
Tông mất (1497) cho đến khi nhà Lê Sơ sụp đổ (1527) là 30 năm chính trƣờng Đại
Việt diễn ra nhiều biến động lớn... Sự suy yếu của chính quyền trung ƣơng đồng
nghĩa với việc quyền lực dần bị phân tán, tính thống nhất của quốc gia phong kiến
trung ƣơng tập quyền bị phá vỡ, vị thế trung tâm chính trị, hành chính của Thăng
Long cũng vì thế mà có phần ảnh hƣởng và suy giảm.
Từ năm 1515 liên tục nổ ra các cuộc khởi nghĩa của Phùng Chƣơng (Sơn

Tây), Đặng Hân và Lê Hất (Thanh Hoa), Trần Công Ninh (Yên Lãng), Trần Cảo
(Thuỷ Đƣờng). Năm 1516, Trịnh Duy Sản giết vua Lê Tƣơng Dực ở cửa nhà Thái
Học, ngay sau đó, kinh thành bị Trần Cảo chiếm giữ rồi lại bị Nguyễn Hoằng Dụ
đốt phá...
Năm 1527, sau khi dẹp đƣợc các phe đảng chống đối, Mạc Đăng Dung thay
thế nhà Lê, lập nên nhà Mạc.
Nhà Mạc chỉ làm chủ đƣợc Đơng Kinh trong vịng 65 năm (1527 - 1592),
nhƣng thời gian ổn định thực sự của nhà Mạc lại khơng nhiều; phần vì nhà Mạc
cịn tập trung vào cuộc chiến với họ Trịnh, phần vì chú trọng cho việc xây dựng
Dƣơng Kinh - kinh đô thứ hai ở vùng biển, quê gốc của Đăng Dung (nay thuộc
Kiến Thụy, Hải Phòng) nhiều hơn. Bản thân Mạc Đăng Dung sau khi nhƣờng ngơi
cho con, lên làm Thái thƣợng hồng cũng về ở Dƣơng Kinh. Những khi về Thăng
Long, vua Mạc thƣờng cho lập hành cung bên ngoài thành, trong Cấm thành, cung
17


điện lại ít đƣợc tu sửa. Ngay cả khi triều Mạc chuyển hẳn về Thăng Long, nhà Mạc
chủ yếu chỉ tập trung xây đắp, sửa sang thành luỹ cho kiên cố để đề phịng các trận
tiến cơng của lực lƣợng ủng hộ nhà Lê. Thêm nữa, các vua triều Mạc đều là những
ngƣời có quan điểm tƣơng đối thực dụng, thống mở và có sự khuyến khích các
hoạt động bn bán. Các vua Mạc cũng có những biện pháp nhất định nhằm ổn
định đời sống nhân dân. Trong bối cảnh đó, đời sống kinh tế - văn hố Thăng Long
thời Mạc có điều kiện phát triển tự nhiên, ít bị ràng buộc bởi các chính sách gị bó.
Chính sử về sau đã nhận xét: “Từ đấy, ngƣời buôn bán và kẻ đi đƣờng đều đi tay
khơng, ban đêm khơng cịn trộm cƣớp, trâu bị thả chăn khơng phải đem về...
Trong khoảng vài năm, ngƣời đi đƣờng không nhặt của rơi, cổng ngồi khơng phải
đóng, đƣợc mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên”. [25, 115]
Mặc dù lật đổ nhà Lê, lập nên vƣơng triều mới nhƣng nhà Mạc khơng làm
chủ hồn tồn đƣợc đất nƣớc. Khơng lâu sau khi nhà Lê Sơ sụp đổ, vùng đất từ
Thanh Hoá trở vào đã trở thành địa bàn chiếm giữ và quy tụ các lực lƣợng chống

lại nhà Mạc, tôn phù nhà Lê trung hƣng. Cuộc nội chiến Nam - Bắc triều (1545 1592) kéo dài gần 50 năm với 40 trận chiến lớn nhỏ đã ảnh hƣởng ít nhiều đến
kinh thành Thăng Long. Năm 1592, khi Nam triều đánh bật nhà Mạc, thu phục
Thăng Long, hệ thống luỹ do Mạc Mậu Hợp đắp bị Trịnh Tùng cho san phẳng.
Quân Mạc tuy bị đẩy lui khỏi kinh thành nhƣng vẫn chiếm cứ vùng Cao Bằng, năm
1600 và 1623, dƣ đảng nhà Mạc còn kéo quân xuống tấn công Thăng Long.
Cuộc chiến Trịnh - Mạc để lại những thiệt hại nặng nề cho các hoạt động
sản xuất cũng nhƣ các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Đồng ruộng bị biến thành
bãi chiến trƣờng, đê điều bị phá hoại, mất mùa, nông dân bần cùng hoá bị đẩy vào
các cuộc chiến tranh, một bộ phận đi tha hƣơng lƣu tán...
Trong khi phân liệt Nam - Bắc triều chƣa kết thúc thì phân tranh Trịnh Nguyễn đã manh nha, rồi bùng phát thành các cuộc xung đột quân sự. Trong vòng
45 năm (1627 - 1672), quân Trịnh đã 6 lần chủ động tiến quân vào Đàng Trong
(các năm 1627, 1633, 1643, 1648, 1661 và 1672), năm 1655 quân Nguyễn đánh ra
Đàng Ngoài, cuộc chiến kéo dài 5 năm. Năm 1672, hai bên tạm thời đình chiến,
lấy sông Gianh làm giới tuyến, Đàng Trong - từ sơng Gianh (Quảng Bình) trở vào

18


Nam dƣới quyền cai trị của các chúa Nguyễn, Đàng Ngồi - từ sơng Gianh trở ra
Bắc, dƣới sự kiểm soát của chúa Trịnh.
Năm 1592, Trịnh Tùng xƣng vƣơng, lập vƣơng phủ, thể chế quyền lực vua
Lê - chúa Trịnh ở Đàng Ngồi chính thức xác lập và tồn tại gần hai thế kỷ. Vua Lê
chỉ còn là hƣ vị, chúa mới là ngƣời nắm thực quyền. Ở Thăng Long, bên cạnh các
cơ quan nha môn sảnh viên và lục bộ của triều đình, dần hình thành các cơ quan,
chức vị chuyên trách mới, thuộc Ngũ phủ phủ liêu. Bộ máy tổ chức quan lại thời
Lê - Trịnh vì thế ngày càng cồng kềnh, nhiều cơ quan và chức vị mới ra đời bên
cạnh những chức vị cũ vẫn tồn tại nhƣng lại ít có nội dung hoạt động.
Cũng vì vua Lê khơng cịn nắm thực quyền nên Hồng thành thời kỳ này
hầu nhƣ không đƣợc tu bổ, xây dựng gì thêm. Trong khi đó, để củng cố vị thế
chính trị, khẳng định quyền lực, một quần thể kiến trúc cung điện đã dần hình

thành, thƣờng gọi là Phủ Chúa hay Vƣơng Phủ ngoài Hoàng thành, cận kề với khu
vực kinh tế - dân gian.
Tình hình chính trị thời Lê trung hƣng diễn biến ngày càng phức tạp, chúa
Trịnh ức chế, lấn át, khơng ít lần lộng quyền, tự ý phế lập vua Lê: năm 1619, Trịnh
Tùng giết vua Lê Kính Tơng lập Lê Thần Tơng; năm 1732, Trịnh Giang truất ngôi
rồi sai ngƣời giết Lê Duy Phƣờng, lập Lê Thuần Tơng lên thay, năm 1769, Trịnh
Sâm vì ghen ghét đố kỵ đã truất ngôi và bức hại Thái tử Duy Vĩ, lập con thứ của
vua Lê Hiển Tông làm Thái tử. Bản thân nội bộ họ Trịnh không êm ấm. Mâu thuẫn
do việc tranh giành ảnh hƣởng, chức tƣớc, quyền lợi tác động khơng nhỏ đến sự
n bình đất kinh sƣ. Năm 1623, Trịnh Xuân - con thứ của Trịnh Tùng nổi loạn,
phóng lửa đốt kinh thành. Trịnh Tùng phải rời phủ Chúa, đến ở làng Hoàng Mai,
rồi đánh lừa giết chết Trịnh Xuân...
Năm 1786, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy tiến ra Thăng Long, Quân
của Trịnh Khải chống cự nhƣng nhanh chóng thất bại. Chính quyền chúa Trịnh tồn
tại hơn 200 trên đất Thăng Long bị lật đổ. Thực hiện khẩu hiệu "tôn phù", Nguyễn
Huệ trao quyền lại cho vua Lê.
Lê Hiển Tông (1740 - 1786) băng hà, Nguyễn Huệ lập Lê Duy Kỳ lên ngôi tức Lê Chiêu Thống. Sau khi Nguyễn Huệ về nam, Trịnh Bồng âm mƣu lập lại

19


ngơi chúa. Tình hình Bắc Hà rối ren, Trịnh Bồng tuy bị diệt nhƣng vua Lê kém tài
bất lực càng khiến cho Nguyễn Hữu Chỉnh, Vũ Văn Nhậm cậy công lao, ỷ thế lộng
hành. Nguyễn Huệ lần thứ hai đƣa quân ra Thăng Long, chỉnh đốn mọi việc ở Bắc
Hà, cho Ngô Văn Sở ở lại trông coi Thăng Long rồi rút quân về Phú Xuân. Từ đây,
Bắc Hà chính thức sáp nhập và thuộc quyền cai quản của Nguyễn Huệ.
Năm 1787, trên bƣớc đƣờng cùng, Lê Chiêu Thống kém tài bất lực bỏ trốn
sang Trung Quốc, cầu cứu nhà Mãn Thanh. Nhân cơ hội này, cuối năm 1788, vua
Thanh Càn Long phát 29 vạn quân binh xâm lƣợc nƣớc ta, tiến về hƣớng Thăng
Long.

Đầu năm 1789, Nguyễn Huệ thần tốc kéo quân ra Bắc, đại phá quân Thanh,
giải phóng Thăng Long. Thăng Long với cung điện đền đài qua binh lửa chiến tranh
bị tàn phá nặng nề. Sau chiến thắng, triều Tây Sơn định đô ở Phú Xuân (Huế). Kinh
đô Thăng Long cũ trở thành Bắc Thành, cũng đã giảm phần nào vị thế chính trị.

1.3 Các tác động kinh tế - xã hội
1.3.1 Sự hưng khởi của nền kinh tế hàng hố và đơ thị
Sự hƣng khởi của nền kinh tế hàng hố và đơ thị, đặc biệt trong hai thế kỷ
XVII - XVIII đã tác động mạnh mẽ đến việc tổ chức quản lý đô thị Thăng Long Kẻ Chợ giai đoạn này.
Có nhiều nhân tố tác động, cả về chính trị, kinh tế, xã hội đƣa đến sự hƣng
khởi của nền kinh tế hàng hoá và đô thị. Ba thế kỷ XVI, XVII và XVIII, biến động
chính trị nhiều và dữ dội nhƣng khơng phải lúc nào cũng đƣa đến tác động nghịch
đối với sự phát triển kinh tế.
Thế kỷ XVI, đóng đơ ở Thăng Long nhƣng triều Mạc không quan tâm nhiều
đến Thăng Long. Bên cạnh đó, đối với các hoạt động kinh tế, triều Mạc cịn có
cách nhìn tƣơng đối cởi mở và thực dụng. Do đó, đời sống kinh tế Thăng Long
thời Mạc cũng có phần khởi sắc, ít có sự gị bó, câu thúc bởi các quy định nhƣ thời
Lê Sơ. Thợ thủ cơng trong các thơn, phƣờng có các điều kiện để có thể tự do sản
xuất, trao đổi hàng hố. Đó là một nhân tố thuận lợi tạo đà cho sự phát triển của
nền kinh tế hàng hoá ở Thăng Long - Kẻ Chợ trong các thế kỷ sau.

20


Bƣớc sang chế kỷ XVII và XVIII, thái độ của triều đình Lê - Trịnh đối với
các hoạt động sản xuất, buôn bán của cƣ dân Thăng Long - Kẻ Chợ và các thƣơng
nhân nƣớc ngoài trong một số thời điểm có thể có sự dao động, thiếu nhất quán,
hàm chứa nhiều mâu thuẫn nhƣng cơ bản vẫn là sự khoan nhƣợng và thoáng mở.
Trên đà phát triển từ thời Mạc, Thăng Long - Kẻ Chợ thời Lê - Trịnh trở
thành một đơ thị có nền kinh tế hàng hố phát triển, các quan hệ giao thƣơng diễn

ra nhộn nhịp khơng chỉ với các địa phƣơng trong nƣớc mà cịn với cả nhiều nƣớc
trong khu vực và thế giới.
Bên cạnh các tác động chính trị, những chuyển biến về kinh tế - xã hội trong
nƣớc và ở Thăng Long - Kẻ Chợ thời kỳ này cũng là nhân tố không nhỏ đƣa đến sự
hƣng khởi của nền kinh tế hàng hố:
- Mặc dù khơng nhận đƣợc sự ủng hộ, thậm chí bằng nhiều biện pháp để hạn
chế, cản trở từ chính quyền phong kiến, theo quy luật khách quan, quá trình phân
hố và tập trung ruộng đất vẫn diễn ra ngày càng mạnh mẽ, đƣa đến những chuyển
biến sâu sắc trong đời sống nông dân và xã hội nông thôn. Một bộ phận nơng dân
khơng cịn ruộng đất, chuyển sang làm các nghề thủ cơng. Kinh nghiệm tích luỹ
cùng với việc học tập, chuyển giao công nghệ trong nƣớc và quốc tế đƣa đến
những tiến bộ nhanh chóng về kỹ thuật sản xuất, điều này càng đẩy mạnh và xúc
tiến các hoạt động thủ công nghiệp phát triển.
- Sự thay đổi và tăng lên về số lƣợng, quy mô của bộ máy quan liêu cai trị
tại kinh thành, cùng với đó là nhu cầu kiến thiết cung điện, dinh thự cùng các sinh
hoạt xa xỉ của đông đảo tầng lớp quý tộc, quan lại; nhu cầu buôn bán, tiêu dùng
các sản phẩm hàng hoá của bộ phận thị dân đang phát triển mạnh mẽ về số lƣợng,
tất cả tạo nên sức thu hút/nhu cầu tập trung một lƣợng lớn thợ thủ công tại kinh
thành. Những ngƣời thợ này đến từ nhiều làng chuyên nghề khác nhau, mang theo
nguồn vốn, nhân lực, kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất... Bản thân quá trình này cũng
là một yếu tố kích thích nền kinh tế hàng hoá Thăng Long - Kẻ Chợ và các vùng
ven phát triển, từ khâu sản xuất cho đến các hoạt động trao đổi, buôn bán các sản
phẩm nông nghiệp và thủ cơng nghiệp.
Trên bình diện quốc tế, hai thế kỷ XVI và XVII đƣợc coi là “kỷ nguyên
thƣơng mại”. Sau những phát kiến địa lý của châu Âu, các luồng giao thƣơng Tây 21


Đơng và hệ thống mậu dịch châu Á dần hình thành, chủ yếu bao gồm hai tuyến
giao thƣơng quốc tế ở Biển Đông. Thăng Long - Kẻ Chợ với ƣu thế của một đô thị
lớn nhất nƣớc, hoạt động kinh tế nhộn nhịp, giao thông thuỷ thuận tiện, hội tụ

nhiều thế mạnh trong việc thiết lập các mối quan hệ bn bán với phƣơng Tây,
cũng nhƣ duy trì và mở rộng, phát triển các quan hệ bn bán sẵn có với nƣớc
châu Á. Đây là nhân tố ngoại sinh quan trọng, tác động mạnh mẽ tới sự phát triển
và hƣng thịnh của nền kinh tế hàng hoá Thăng Long - Kẻ Chợ trong các thế kỷ
XVI, XVII và XVIII.
Dƣới tác động của những nhân tố trên đây, diện mạo bức tranh kinh tế
Thăng Long - Kẻ Chợ với sự hƣng khởi của nền kinh tế hàng hoá đƣợc biểu hiện
trƣớc hết chính ở khâu sản xuất hàng hố, chủ yếu tập trung ở sự phát triển đa dạng
các ngành nghề thủ công nghiệp dân gian. Bên cạnh các làng nghề thủ công nghiệp
kết hợp với nông nghiệp và các hoạt động kinh tế khác, xuất hiện hàng loạt các
phƣờng nghề, làng nghề chuyên nghiệp, tập trung ở tứ trấn, vùng ven đô và ngay
tại các phƣờng thôn trong kinh thành.
Các làng nghề, cụm làng nghề nổi tiếng tại tứ trấn nhƣ: làng nhuộm Đan
Loan (Hải Dƣơng); cụm 3 làng Chắm: Văn Lâm, Phong Lâm, Trúc Lâm ở Hƣng
Yên làm nghề thuộc da; cụm các làng Đề Cầu, Đại Bái ở Bắc Ninh làm nghề đúc
đồng; cụm làng nghề dệt vùng La (La Phù, La Khê, La Cả - Hà Tây); các làng
nghề tiện, sơn (ở Thƣờng Tín - Hà Tây), làng gốm Bát Tràng (Bắc Ninh)... Các
làng nghề, cụm làng nghề, phƣờng nghề vùng ven đô chuyên một số mặt hàng thủ
cơng với quy trình sản xuất phức tạp nhƣ: dệt (Trích Sài, Bái Ân, Trúc Bạch, Nghi
Tàm), làm giấy (Yên Thái, Hồ Khẩu, Nghĩa Đô) ven Hồ Tây, đúc đồng Ngũ Xã...
Trong khi đó, bản thân sự phát triển của kinh thành đã tạo ra lực hút những ngƣời
thợ thủ công làng xã di cƣ ra Kẻ Chợ vừa sản xuất, vừa bn bán, hình thành nhiều
phƣờng chun nghề, các phố chuyên mặt hàng về nhuộm, thuộc da, tiện, sơn, đúc
bạc... trong kinh thành.
Hoạt động buôn bán trao đổi hàng hoá tại Thăng Long - Kẻ Chợ đƣợc thực
hiện chủ yếu thông qua mạng lƣới chợ và các cửa hàng với một đội ngũ các thợ thủ
công - thƣơng nhân đông đảo.

22



×