Tải bản đầy đủ (.doc) (129 trang)

HỎI ĐÁP MÔN KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (719.16 KB, 129 trang )

HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Câu 1: Khái qt lịch sử hình thành và phát triển của mơn Kinh tế chính trị.
Trả lời:
Kinh tế chính trị là mơn khoa học xã hội nghiên cứu các quan hệ kinh tế trong
những giai đoạn phát triển nhất định của xã hội lồi người. Kinh tế chính trị ra đời và
trở thành một mơn khoa học độc lập vào thời kỳ hình thành phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa. Năm 1615, nhà kinh tế học người Pháp A.Môngcrêchiên lần đầu tiên
sử dụng thuật ngữ "kinh tế chính trị" và đánh dấu sự ra đời của mơn khoa học này. Từ
đó cho đến nay, kinh tế chính trị hình thành và phát triển thông qua các học thuyết
kinh tế:
* Chủ nghĩa Trọng thương (giữa thế kỷ XV - giữa thế kỷ XVII)
Chủ nghĩa Trọng thương ra đời ở Anh, sau đó là Pháp, Italia, Tây Ban Nha, Bồ
Đào Nha, Hà Lan... vào giữa thế kỷ XV đến giữa thế kỷ XVII. Chủ nghĩa Trọng
thương là những tư tưởng kinh tế đầu tiên của giai cấp tư sản ra đời trong bối cảnh
chế độ phong kiến bắt đầu tan rã, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ra đời đang
chuyển từ nền kinh tế hàng hóa giản đơn sang nền kinh tế thị trường. Đây là thời kỳ
tích lũy nguyên thủy tư bản. Đối tượng nghiên cứu của Chủ nghĩa Trọng thương là
lĩnh vực lưu thông, lấy tiền làm tiêu chuẩn đo lường sự phát triển giàu có của mỗi
quốc gia. Họ không biết đến quy luật kinh tế mà chủ trương phát triển kinh tế phải
dựa vào quyền lực của nhà nước. Đại biểu tiêu biểu của trường phái này là Uyliam
Staphot (1554-1612), Tômat Mun (1571-1641) ở Anh; A.Môngcrêchiên (1575-1629),
Cônbe (1618-1683) ở Pháp. Chủ nghĩa Trọng thương chỉ xem xét hiện tượng bên
ngoài mà chưa nghiên cứu bản chất bên trong, chỉ thấy được vai trị của lưu thơng mà
chưa thấy được vai trò của sản xuất nên khi nền sản xuất tư bản chủ nghĩa (TBCN) có
sự phát triển cao hơn đã làm cho những quan điểm của chủ nghĩa Trọng thương trở
nên lỗi thời và xuất hiện lý thuyết kinh tế mới tiến bộ hơn thay thế.
* Chủ nghĩa Trọng nông (giữa thế kỷ XVIII)
- Vào giữa thế kỷ XVIII, sự phát triển kinh tế ở Tây Âu đã có những thay đổi căn
bản. Ở Anh cuộc cách mạng công nghiệp đã bắt đầu, ở Pháp công trường thủ cơng đã
tạo ra được những ưu thế của nó trong sự phát triển, do vậy việc dùng thương mại để
bóc lột thuộc địa, để trao đổi không ngang giá đã mất ý nghĩa nên quá trình nghiên


cứu kinh tế đã chuyển từ lĩnh vực lưu thông sang sản xuất.
- Ở Pháp, do sự bóc lột hà khắc của địa chủ phong kiến, nông dân phải nộp địa tô
cao và nhiều thứ thuế khác; thêm vào đó chính sách kinh tế của Cônbe đã đẩy nước
Pháp đến cuộc khủng hoảng, đời sống nông dân khổ cực, nông nghiệp suy đồi. Yêu
cầu đặt ra cho nước Pháp lúc bấy giờ là phải phục hồi và phát triển nhanh sản xuất
nông nghiệp. Trước u cầu đó, chủ nghĩa Trọng nơng đã ra đời nhằm giải phóng
kinh tế nơng nghiệp của nước Pháp thốt khỏi quan hệ sản xuất phong kiến, phát triển
nông nghiệp theo kiểu tư bản chủ nghĩa.
- Quan điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa Trọng nông thể hiện ở việc phê phán
chủ nghĩa Trọng thương về của cải. Họ cho rằng sự phồn thịnh của quốc gia biểu hiện
ở số lượng nơng sản phẩm mà nhờ đó thỏa mãn nhu cầu của đời sống xã hội; nông
nghiệp là ngành kinh tế duy nhất tạo ra của cải và sản phẩm thuần túy chỉ được tạo ra
trong nông nghiệp. Họ ủng hộ việc sản xuất nông nghiệp theo kiểu tư bản chủ nghĩa,

1


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
bác bỏ sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, đòi tự do mậu dịch, tự do cá nhân,
quyền bất khả xâm phạm đối với chế độ tư hữu. Lần đầu tiên việc nghiên cứu tái sản
xuất xã hội được thể hiện trong "Biểu kinh tế" của Phơrăngxoa Kênê
là những tư tưởng thiên tài của thời kỳ đó.
- Tuy nhiên, chủ nghĩa Trọng nơng cũng cịn nhiều hạn chế như: chỉ coi nơng
nghiệp là ngành sản xuất duy nhất, là nguồn gốc của sự giàu có mà chưa thấy vai trị
của sản xuất công nghiệp; chưa thấy mối quan hệ giữa sản xuất và lưu thông; đã
nghiên cứu chủ nghĩa tư bản nhưng chưa phân tích được các phạm trù kinh tế như
hàng hóa, giá trị, tiền tệ, lợi nhuận.
- Đại biểu tiêu biểu của chủ nghĩa Trọng nông là Phơrăngxoa Kênê (1694-1774);
Tuyếcgô (1727-1771).
* Kinh tế chính trị tư sản cổ điển

- Cuối thế kỷ XVII, ở Anh và Pháp các công trường thủ công trong công nghiệp
và nông nghiệp phát triển mạnh mẽ, kinh tế chính trị tư sản cổ điển xuất hiện. Ở Anh,
mở đầu của kinh tế chính trị tư sản cổ điển là Uyliam Pétty (1623-1687) rồi đến
Ađam Xmít (1723-1790) và kết thúc ở Đavít Ricácđơ (1772-1823). Ở Pháp là Giăng
Batixơ Xây (1767-1823).
- Các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển đã chuyển đối tượng nghiên cứu từ lưu
thông sang sản xuất, nghiên cứu các vấn đề kinh tế của phương thức sản xuất tư bản
chủ nghĩa đặt ra. Họ đã xây dựng được một hệ thống các phạm trù và quy luật kinh tế
của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Họ đã áp dụng phương pháp trừu tượng
hóa khoa học khi nghiên cứu các mối liên hệ bên trong để vạch ra bản chất và quy
luật phát triển của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Họ ủng hộ tư tưởng tự do kinh tế,
phản đối sự can thiệp của nhà nước vào kinh tế, đề cao vai trò điều tiết của thị trường.
- Tuy nhiên, các nhà kinh tế chính trị tư sản cổ điển còn nhiều hạn chế như: coi
quy luật kinh tế của chủ nghĩa tư bản là quy luật tự nhiên, tuyệt đối, vĩnh cửu. Nhiều
vấn đề kinh tế họ mới chỉ nghiên cứu bên ngồi mà khơng đi vào phân tích bản chất
bên trong nên có những kết luận rút ra không khoa học, tầm thường. Đây là cơ sở để
sau này xuất hiện trường phái kinh tế chính trị tư sản tầm thường nhằm biện hộ, bảo
vệ cho chủ nghĩa tư bản trước những biến động của nền kinh tư bản chủ nghĩa, nhất là
sau khủng hoảng kinh tế 1825 và những cuộc khủng hoảng kinh tế tiếp theo theo chu
kỳ.
* Kinh tế chính trị Mác - Lênin.
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin do C. Mác (1818-1883) và Ph. Ăngghen (18201895) sáng lập vào nửa đầu thế kỷ XIX và được V.I.Lênin (1870-1924) bổ sung, phát
triển vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trong điều kiện mới.
- C. Mác đã làm một cuộc cách mạng trong khoa học kinh tế chính trị trên tất cả
các phương diện về đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, nội dung, tính
chất giai cấp... Trên cơ sở học thuyết giá trị, C.Mác đã xây dựng học thuyết giá trị
thặng dư - hòn đá tảng của kinh tế mác xít. C.Mác đã vạch rõ sự phát sinh, phát triển
và sự diệt vong tất yếu của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, đồng thời còn dự
báo về sự ra đời của phương thức sản xuất mới cao hơn, tiến bộ hơn thay thế CNTB,
đó là phương thức sản xuất cộng sản chủ nghĩa (CSCN).

- Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong điều kiện lịch sử mới, V.I.Lênin đã bảo
vệ và phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới. V.I.Lênin đã sáng tạo ra lý luận
khoa học về chủ nghĩa tư bản giai đoạn độc quyền hay còn gọi là chủ nghĩa đế quốc;

2


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
khởi thảo lý luận mới về cách mạng xã hội chủ nghĩa; tính tất yếu khách quan, đặc
điểm, nhiệm vụ cơ bản của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, V.I.Lênin
cịn vạch ra những q trình có tính quy luật trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã
hội qua nội dung của chính sách kinh tế mới (NEP) có ý nghĩa lý luận và thực tiễn
sâu sắc đối với sự phát triển của nhân loại.
Câu 2: Phân tích vai trị của sản xuất của cải vật chất và các yếu tố cơ bản
của q trình sản xuất. Tại sao nói sức lao động là yếu tố quan trọng và quyết
định nhất ?
Trả lời:
* Vai trò của sản xuất của cải vật chất
- Khái niệm
Sản xuất của cải vật chất là quá trình con người tác động vào tự nhiên, biến
đổi vật thể tự nhiên cho phù hợp nhu cầu của mình.
- Khi nói đến vai trị của sản xuất của cải vật chất, C.Mác cho rằng: sản xuất
của cải vật chất là cơ sở, là điều kiện của sự tồn tại và phát triển của con người và
xã hội loài người.
+ Xã hội chúng ta đang tồn tại với sự đan xen của những hoạt động: hoạt động
chính trị, hoạt động kinh tế, hoạt động văn hóa-xã hội, hoạt động khoa học, hoạt
động tơn giáo…, những hoạt động này có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Để những
hoạt động trên được diễn ra hằng ngày, trước hết con người phải tồn tại, bởi con
người chính là chủ thể của những hoạt động đó. Nhưng con người muốn tồn tại thì
cần phải sống, nghĩa là họ cần có thức ăn, đồ mặc, nhà ở, phương tiện đi lại, và

những nhu cầu cần thiết khác…Để có những yếu tố này buộc họ phải tạo ra chúng
tức là phải sản xuất và khơng ngừng sản xuất.
+ Xét trong mọi hình thái kinh tế - xã hội đều có một loại hình sản xuất riêng,
đặc trưng và phản ánh trình độ phát triển của xã hội đó. Khi lồi người mới khai
sinh, sống trong thời kỳ cơng xã ngun thuỷ hình thức lao động điển hình trong
chế độ xã hội này là săn bắn và hái lượm. Nhưng khi đời sống con người phát triển
thì nhu cầu về vật chất và tinh thần cũng tăng lên và những cái do tự nhiên ban
phát không đáp ứng được nên họ phải sản xuất, phải lao động. Trải qua các hình
thái kinh tế - xã hội đã hình thành nên các cuộc cách mạng lao động. Điều đó một
lần nữa khẳng định rằng: sản xuất của cải vật chất là cơ sở của đời sống xã hội,
đây được xem như một nguyên lý của sự phát triển.
- Ngày nay, dưới tác động của cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện
đại, cơ cấu kinh tế có sự biến đổi, ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ) thay thế
dần sản xuất vật chất, đã đóng góp tỷ trọng lớn trong thu nhập quốc dân nhưng
nguyên lý trên vẫn còn nguyên giá trị.
* Các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất
Trong quá trình sản xuất ln có sự tác động của ba yếu tố: sức lao động, đối
tượng lao động và tư liệu lao động
- Sức lao động

3


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
+ Sức lao động là tổng hợp thể lực và trí lực của con người được sử dụng
trong quá trình lao động. Sức lao động chỉ mới là điều kiện, khả năng của quá trình
sản xuất ra cả cải vật chất, muốn có sản phẩm vật chất con người phải tiêu dùng sức
lao động trong hiện thực, tức là lao động.
+ Lao động là hoạt động có mục đích, có ý thức của con người nhằm làm thay
đổi những vật thể tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của con người. Đây được xem là

hoạt động đặc trưng nhất và cũng là hoạt động sáng tạo của con người, nó khác với
hoạt động theo bản năng của động vật. Lao động không chỉ tạo ra của cải vật chất để
nuôi sống con người mà còn cải tạo bản thân con người, phát triển con người cả về
thể lực và trí lực Theo C.Mác: “Trong khi tác động vào tự nhiên ở bên ngoài thơng
qua sự vận động đó và làm thay đổi tự nhiên, con người cũng đồng thời thay đổi bản
tính của chính nó” [3, tr 270]. Nhờ có lao động, con người đã hiểu biết tự nhiên, phát
hiện ra các quy luật vận động của tự nhiên và xã hội làm cho sản xuất ngày càng có
hiệu quả hơn.
- Đối tượng lao động
+ Đối tượng lao động là bộ phận của giới tự nhiên mà lao động của con người
tác động vào nhằm biến đổi nó theo mục đích của mình. (là cái cần được tác động
hay bị tác động)
+ Căn cứ vào tính chất sử dụng, người ta chia đối tượng thành 2 loại:
Loại có sẵn trong tự nhiên: là loại mà khi ta tách ra khỏi môi trường tồn tại
của nó thì có thể sử dụng được như: khống sản trong lịng đất, tơm, cá dưới biển,
gỗ mọc trong rừng nguyên sinh…. Chúng là đối tượng lao động của ngành cơng
nghiệp khai thác và nó có xu hướng ngày càng bị cạn kiệt
Loại đã qua lao động chế biến như than trong nhà máy nhiệt điện, sắt thép để
chế tạo máy móc,… Đối tượng lao động thuộc dạng này gọi là nguyên liệu. Loại
này là đối tượng lao động của ngành công nghiệp chế biến và xu hướng ngày càng
tăng.
Mọi nguyên liệu đều là đối tượng lao động, nhưng không phải mọi đối tượng
lao động đều là nguyên liệu.
- Tư liệu lao động
+ Tư liệu lao động là một vật hay hệ thống những vật làm nhiệm vụ truyền dẫn
sự tác động của con người lên đối tượng lao động, nhằm biến đổi đối tượng lao
động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu của con người
+ Tư liệu lao động được chia thành 3 loại:
Thứ nhất, công cụ lao động hay cơng cụ sản xuất, nó trực tiếp truyền dẫn sự
tác động của con người lên đối tượng lao động.

Thứ hai, bộ phận phục vụ trực tiếp hoặc gián tiếp cho quá trình sản xuất như
nhà xưởng, kho tàng, bến bãi, bao bì, thùng chứa, ống dẫn...
Thứ ba, tư liệu lao động với tư cách là kết cấu hạ tầng sản xuất như giao
thông vận tải, thông tin liên lạc, phương tiện vận tải...
+ Trong tư liệu lao động thì cơng cụ lao động giữ vai trị quyết định đến năng
suất lao động, chất lượng sản phẩm. Tư liệu lao động kết hợp với đối tượng lao động
gọi là tư liệu sản xuất. Quá trình sản xuất là quá trình kết hợp của ba yếu tố sản
xuất cơ bản nói trên theo cơng nghệ nhất định. Trong đó sức lao động giữ vai trò

4


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
là yếu tố chủ thể còn đối tượng lao động và tư liệu lao động là khách thể của quá
trình sản xuất.
Câu 3: Phân tích đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin.
Trình bày nội dung và ý nghĩa của phương pháp trừu tượng hóa khoa học
trong nghiên cứu kinh tế chính trị.
Trả lời:
* Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin
Đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là quan hệ sản xuất hay
là quan hệ kinh tế giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, trao đổi
và tiêu dùng của cải vật chất.
- Bất cứ một nền sản xuất nào cũng đều diễn ra trong một phương thức sản xuất
nhất định và trong sự thống nhất giữa quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất, vì vậy
đối tượng nghiên cứu của kinh tế chính trị Mác - Lênin là quan hệ sản xuất trong sự
tác động qua lại với lực lượng sản xuất và kiến trúc thượng tầng.
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin nghiên cứu quan hệ sản xuất trong sự vận động,
phát triển để rút ra các phạm trù, quy luật kinh tế ở các giai đoạn phát triển nhất định
của xã hội. Phạm trù kinh tế là những khái niệm phản ánh bản chất của những hiện

tượng kinh tế như: hàng hóa, tiền tệ, giá trị, giá cả... Còn quy luật kinh tế phản ánh
những mối liên hệ tất yếu, bản chất thường xuyên lặp đi lặp lại của các hiện tượng và
quá trình kinh tế. Việc nghiên cứu các quy luật kinh tế nhằm vạch rõ quá trình vận
động và phát triển của lực lượng sản xuất xã hội; xác định bản chất, xu hướng vận
động của từng phương thức sản xuất, đồng thời chỉ ra điều kiện, khả năng vận dụng
các quy luật kinh tế vào việc giải quyết các mục tiêu kinh tế - xã hội.
* Nội dung phương pháp trừu tượng hóa khoa học
Khi nghiên cứu kinh tế chính trị cần sử dụng tổng hợp các phương pháp nhưng cơ
bản nhất, bao trùm nhất là phương pháp trừu tượng hóa khoa học. C.Mác viết: "Khi
phân tích những hình thái kinh tế, người ta khơng thể dùng kính hiển vi hay những
chất phản ứng hóa học được. Sức trừu tượng hóa phải thay thế cho cả hai cái đó" [3, t
16, tr 16].
Trừu tượng hóa khoa học là phương pháp loại bỏ khỏi quá trình và hiện tượng
được nghiên cứu những cái đơn nhất, ngẫu nhiên, tạm thời hoặc gác lại những nhân
tố nào đó để tìm ra cái bền vững, ổn định, điển hình. Nhờ đó mà nắm được bản chất
mối liên hệ phổ biến của các quá trình và hiện tượng kinh tế, tìm ra các phạm trù, quy
luật kinh tế phản ánh những bản chất ấy.
* Ý nghĩa của phương pháp trừu tượng hóa khoa học
Khi nghiên cứu kinh tế chính trị phải sử dụng phương pháp trừu tượng hóa là bởi
vì: nghiên cứu khoa học này khơng thể tiến hành trong các phịng thí nghiệm như
việc trộn lẫn các chất để cho ra một chất mới, khơng có thể dùng các thiết bị kỹ thuật
như máy móc, kính hiển vi để soi xét. Mặt khác, kinh tế luôn luôn biến động, nhiều
nhân tố tham gia vào quá trình kinh tế - xã hội, cho nên sử dụng phương pháp trừu
tượng hóa khoa học làm cho việc nghiên cứu trở nên đơn giản, nhanh chóng đi đến
kết quả hơn.

5


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ


Câu 4: Phân tích các chức năng của kinh tế chính trị và sự cần thiết phải
học tập kinh tế chính trị.
Trả lời:
* Chức năng của kinh tế chính trị
- Chức năng nhận thức
Kinh tế chính trị nghiên cứu và giải thích các hiện tượng, quá trình kinh tế của
đời sống xã hội, qua đó phát hiện bản chất của các hiện tượng và quá trình kinh tế
khách quan, các quy luật chi phối sự vận động của chúng, giúp con người vận
dụng các quy luật một cách có ý thức vào hoạt động kinh tế của mình đạt hiệu quả
cao.
- Chức năng thực tiễn
Kinh tế chính trị nhằm phục vụ hoạt động thực tiễn của con người, nó khơng
chỉ phát hiện ra bản chất của các quy luật kinh tế mà còn nghiên cứu đặc điểm,
điều kiện, cơ chế, hình thức, phương pháp...vận dụng các quy luật kinh tế vào hoạt
động thực tiễn một cách phù hợp và hiệu quả nhất. Thực tiễn lại kiểm nghiệm sự
đúng sai của nhận thức, từ đó có cách thức, biện pháp bồi dưỡng, nâng cao nhận
thức tư duy lý luận.
- Chức năng phương pháp luận
Kinh tế chính trị là nền tảng lý luận cho các khoa học kinh tế khác. Những kết
luận của kinh tế chính trị thông qua các khái niệm, phạm trù, quy luật kinh tế là cơ
sở lý luận chung cho các khoa học kinh tế ngành, kinh tế chức năng và một số
khoa học khác.
- Chức năng tư tưởng
Trong xã hội có giai cấp thì kinh tế chính trị mang tư tưởng giai cấp thống trị,
bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị. Kinh tế chính trị Mác - Lênin mang tư tưởng
của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, do đó nó bảo vệ lợi ích của giai cấp
cơng nhân và nhân dân lao động, đấu tranh nhằm xóa bỏ áp bức bóc lột giai cấp và
dân tộc, xây dựng thành công xã hội mới ưu việt, tiến bộ - xã hội chủ nghĩa.
* Sự cần thiết phải học tập kinh tế chính trị Mác - Lênin

Nghiên cứu kinh tế chính trị Mác - Lênin là một việc làm cần thiết không chỉ
đối với những người chuyên nghiên cứu kinh tế, những cán bộ quản lý kinh tế,
những nhà doanh nghiệp, những người đang học tập ở các trường học mà còn cần
thiết đối với mỗi người trong xã hội, bởi vì:
- Kinh tế chính trị Mác - Lênin là mơn khoa học duy nhất có khả năng nhận
thức và giải thích bản chất, mối liên hệ phổ biến của các hiện tượng và quá trình
kinh tế; phát hiện ra các quy luật chi phối sự vận động của chúng giúp cho con
người có thể vận dụng chúng một cách tự giác, phục vụ tốt nhất cho các nhu cầu,
lợi ích của mình.
- Trong cơng cuộc đổi mới hiện nay, việc học tập kinh tế chính trị Mác - Lênin

6


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
góp phần khắc phục sự lạc hậu về lý luận kinh tế, sự giáo điều tách rời lý luận với
cuộc sống hình thành tư duy kinh tế mới để làm giàu cho bản thân và xã hội.
- Học tập, nghiên cứu kinh tế chính trị Mác - Lênin giúp cho người học nâng
cao trình độ nhận thức, hiểu biết và vận dụng đúng đắn đường lối, chính sách kinh
tế của Đảng, Nhà nước. Trên cơ sở đó củng cố niềm tin vào đường lối, chính sách
kinh tế của Đảng, Nhà nước, thúc đẩy sự tự giác hồn thành nhiệm vụ kinh tế của
mình.
CHƯƠNG II
TÁI SẢN XUẤT VÀ TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
Câu 5: Trình bày các khái niệm và phân tích các khâu, nội dung của tái
sản xuất xã hội.
Trả lời:
* Các khái niệm về tái sản xuất xã hội
- Tái sản xuất: tái sản xuất là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại thường xuyên
và phục hồi không ngừng. Xã hội luôn phát triển, nhu cầu tăng lên và những nhu cầu

đó ln tồn tại cùng xã hội, nó có thể duy trì nhờ vào tái sản xuất.
- Căn cứ vào phạm vi có hai loại tái sản xuất:
+ Tái sản xuất cá biệt: tái sản xuất diễn ra trong từng doanh nghiệp, từng đơn vị
sản xuất kinh doanh. Ví dụ: tái sản xuất của công ty may Việt Tiến, tái sản xuất của
nhà máy sản xuất gạch ốp lát Hạ Long,...
+ Tái sản xuất xã hội: tổng thể các tái sản xuất cá biệt trong mối liên hệ với nhau
- Xét về quy mơ, có hai loại tái sản xuất: tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở
rộng.
+ Tái sản xuất giản đơn: là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại với quy mô như
cũ. Tái sản xuất giản đơn có thể diễn ra với từng đơn vị sản xuất kinh doanh và cũng
có thể diễn ra với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Đây là loại hình sản xuất đặc trưng ở
những nước có nền kinh tế lạc hậu, lực lượng sản xuất kém phát triển, dẫn đến năng
suất lao động thấp chỉ đạt mức đủ ni sống con người, chưa có sản phẩm thặng dư
hoặc có một ít sản phẩm thặng dư nhưng lại đem tiêu dùng hết cho cá nhân chứ
không sử dụng để đầu tư mở rộng sản xuất.
+ Tái sản xuất mở rộng: là quá trình sản xuất được lặp đi lặp lại với quy mơ lớn
hơn trước. Loại hình tái sản xuất này phổ biến ở những nước có nền kinh tế phát
triển. Điều kiện để thực hiện tái sản xuất mở rộng là năng suất lao động xã hội phải
đạt đến một trình độ cao nhất định, vượt ngưỡng sản phẩm cần thiết và tạo ra ngày
càng nhiều sản phẩm thặng dư. Thực tiễn cho thấy rằng, quá trình chuyển tái sản xuất
giản đơn sang tái sản xuất mở rộng là một yêu cầu khách quan của cuộc sống. Bởi lẽ,
dân số thường xuyên tăng lên, nhu cầu vật chất và tinh thần của con người cũng
thường xuyên tăng lên.
Có hai loại hình tái sản xuất mở rộng: tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và tái
sản xuất mở rộng theo chiều sâu.

7


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ

Tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng:
- Là sự mở rộng quy mô sản xuất
chủ yếu bằng sự tăng thêm các yếu các
tố đầu vào (như vốn, tài nguyên,
NSLĐ), còn NSLĐ và hiệu quả sử dụng
vốn khơng thay đổi.

- Có nghĩa sản phẩm sẽ tăng lên do tăng
thêm vốn và lao động trong q trình
sản xuất mà khơng có sự thay đổi kỹ
thuật, công nghệ và tổ chức quản lý.
- Khai thác được nhiều yếu tố đầu
vào của sản xuất (đất đai, tài nguyên,
nhiên liệu, sức lao động) dẫn đến nguồn
tài nguyên thiên nhiên nhanh chóng bị
cạn kiệt và gây ơ nhiễm mơi trường

Tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu:
- Là sự mở rộng sản xuất làm cho sản
phẩm tăng lên chủ yếu nhờ tăng NSLĐ
và nâng cao hiệu quả sử dụng các yếu
tố đầu vào cho sản xuất. Còn bản thân
các yếu tố đầu vào có thể: khơng thay
đổi; giảm; tăng nhưng chậm hơn mức
tăng NSLĐ và hiệu quả sử dụng các yếu
tố đầu vào
- Sản phẩm tăng lên do thay đổi, cải
tiến kỹ thuật và công nghệ, tổ chức quản
lý với số vốn và lao động như cũ. Tức là
tăng NSLĐ và hiệu quả sử dụng vốn

nhờ những thành tựu của cuộc cách
mạng KHCN và cải tiến quản lý.
- Nhờ sử dụng những thành tựu
KHCN nên hạn chế việc ô nhiễm mơi
trường và giảm chi phí trong một đơn vị
sản phẩm làm ra.

Như vậy, để xác định hai loại hình tái sản xuất mở rộng cần có những căn cứ
sau: chỉ tiêu năng suất lao động; chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn. Nền kinh tế nước ta
hiện nay đang trên đà phát triển, đời sống người dân ngày được nâng cao về nhu cầu
vật chất và tinh thần. Để đảm bảo những nhu cầu đó, địi hỏi ngành sản xuất vật chất
phải không ngừng sản xuất và tái sản xuất.
* Các khâu của quá trình tái sản xuất xã hội
- Xem xét theo tiến trình vận động khơng ngừng của sản phẩm, mỗi chu kỳ của tái
sản xuất xã hội bao gồm các khâu: sản xuất – phân phối – trao đổi – tiêu dùng.
+ Sản xuất: quá trình kết hợp tư liệu sản xuất và sức lao động để tạo ra sản phẩm,
là điểm xuất phát và có vai trò quyết định đối với các khâu tiếp theo.
+ Phân phối: bao gồm phân phối các yếu tố sản xuất cho các ngành các đơn vị
khác nhau để tạo ra sản phẩm khác nhau, và phân phối cho tiêu dùng dưới hình thức
các nguồn thu nhập của các tầng lớp dân cư.
+ Trao đổi: là một khâu trung gian giữa một bên là sản xuất và phân phối với một
bên là tiêu dùng. Trao đổi được thực hiện trong sản xuất (trao đổi hoạt động và khả
năng lao động) và ngồi sản xuất (trong lưu thơng) tức là trao đổi hàng hoá.
+ Tiêu dùng: là khâu cuối cùng, là điểm kết thúc của q trình tái sản xuất. Có hai
loại: tiêu dùng sản xuất và tiêu dùng cá nhân. Chỉ khi nào sản phẩm đi vào tiêu dùng,
được tiêu dùng thì nó mới hình thành chức năng là sản phẩm.
- Tồn bộ q trình của một chu kỳ tái sản xuất được xem như một hệ thống tái
sản xuất xã hội. Vì thế giữa các khâu có mối quan hệ biện chứng với nhau, mỗi khâu
có một vị trí nhất định và là một bộ phận không thể thiếu được của hệ thống tái sản
xuất xã hội.


8


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
+ Trong các khâu của quá trình tái sản xuất, thì sản xuất là khâu mở đầu trực tiếp
tạo ra sản phẩm cho xã hội, phục cho tiêu dùng và giữ vai trò quyết định đối với các
khâu khác. Quy mô và cơ cấu sản phẩm do sản xuất tạo ra quyết định quy mơ và cơ
cấu tiêu dùng.
+ Tiêu dùng là mục đích của sản xuất, tạo ra nhu cầu cho sản xuất. Vì thế tiêu
dùng là một căn cứ quan trọng để xác định khối lượng, cơ cấu, chất lượng, hình thức
sản phẩm. Theo C. Mác: “ Khơng có sản xuất thì khơng có tiêu dùng nhưng khơng có
tiêu dùng thì cũng khơng có sản xuất vì trong trường hợp đó sản xuất khơng có mục
đích” [3, t12, tr 865]. Trong nền kinh tế thị trường, người tiêu dùng đóng vai trị là
“thượng đế”. Sự phát triển và sự đa dạng về nhu cầu của người tiêu dùng là động lực
quan trọng của sự phát triển tái sản xuất.
+ Tính chất và nguyên tắc của quan hệ phân phối và bản thân của quy luật phân
phối đều do tính chất của nền sản xuất và quan hệ sản xuất về tư liệu sản xuất quyết
định. Song phân phối có thể tác động trở lại đối với sản xuất theo hai hướng: thúc đẩy
sản xuất phát triển nếu quan hệ phân phối tiến bộ, phù hợp; kìm hãm sản xuất và tiêu
dùng khi nó khơng phù hợp.
+ Cịn trao đổi do sản xuất quyết định, cường độ và hình thức trao đổi do trình độ
phát triển và kết cấu của sản xuất quyết định. Song trao đổi cũng có tính độc lập,
cũng tác động trở lại đối với sản xuất và tiêu dùng khi nó phân phối lại, cung cấp sản
phẩm cho sản xuất và tiêu dùng, nó có thể thúc đẩy hoặc cản trở sản xuất và tiêu
dùng.
* Nội dung của tái sản xuất xã hội
- Tái sản xuất của cải vật chất
+ Trong quá trình sản xuất và sinh hoạt xã hội, con người sẽ tiêu dùng tư liệu
sản xuất và tư liệu tiêu dùng. Để đảm bảo sự tồn tại của con người và của hoạt

động sản xuất thì cần phải tái sản xuất ra chúng theo quy mô ngày càng tăng. Do
đó, tái sản xuất mở rộng của cải vật chất là điều kiện cho sự tồn tại và phát triển
của xã hội.
+ Như vậy, tái sản xuất của cải vật chất chính là tái sản xuất ra tư liệu sản xuât
và tư liệu tiêu dùng. Mối quan hệ giữa các yếu tố này được thể hiện qua mô hình
sau:
Quyết
TSX
TLSX

Tái sản xuất của
cải vật chất

TSX
TLTD

định

Quy mơ sản
xuất

Quyết
TSX ra sức
lao động

định

9



HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
+ Chỉ tiêu đánh giá kết quả của tái sản xuất của cải vật chất của xã hội là tổng
sản phẩm xã hội biểu hiện ở tổng sản phẩm quốc dân (GNP) hay tổng sản phẩm
quốc nội (GDP). Những chỉ tiêu này được xem xét trên cả hai mặt hiện vật và giá
trị. Chẳng hạn, đối với tổng sản phẩm xã hội, xét về mặt hiện vật, nó bao gồm tồn
bộ tư liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng; xét về mặt giá trị, nó biểu hiện ở số lượng
tiền tệ
+ Quy mơ và tốc độ tăng của cải vật chất phụ thuộc các yếu tố: tăng quy mô các
nguồn lực, cụ thể tăng số người lao động, thời gian lao động và cường độ lao động;
tăng hiệu quả sử dụng, bằng cách tăng năng suất lao động để tiết kiệm lao động quá
khứ và lao động sống trong một đơn vị sản phẩm. Để thu được nhiều lợi nhuận trên
chi phí bỏ ra ít nhất, nên việc tăng năng suất lao động được xem là vô hạn.
- Tái sản xuất sức lao động
+ Tái sản xuất ra sức lao động là dành một phần tư liệu sinh hoạt để thỏa mãn
nhu cầu của cá nhân và gia đình người lao động nhằm khơi phục sức lao động đã
hao phí và tạo ra sức lao động mới.
+ Tái sản xuất sức lao động ngày càng tăng về số lượng và chất lượng. Tái sản
xuất sức lao động về mặt số lượng chịu sự chi phối của quy luật nhân khẩu. Quy
luật này đòi hỏi phải đảm bảo sự phù hợp giữa nhu cầu và khả năng cung ứng sức
lao động của quá trình tái sản xuất xã hội. Tái sản xuất mở rộng sức lao động về
mặt số lượng chịu sự chi phối của các yếu tố: tốc độ tăng dân số và lao động; xu
hướng thay đổi công nghệ, cơ cấu, số lượng và tính chất của lao động; năng lực
tích luỹ vốn để mở rộng sản xuất. Tái sản xuất mở rộng sức lao động về mặt chất,
thể hiện ở sự tăng lên về thể lực và trí lực của người lao động qua các thời kỳ , vì
vậy nó phụ thuộc vào: mục đích của nền sản xuất của mỗi xã hội; chế độ phân
phối sản phẩm; những đặc trưng mới của lao động do cách mạng khoa học – cơng
nghệ địi hỏi; chính sách giáo dục – đào tạo của mỗi quốc gia.
- Tái sản xuất quan hệ sản xuất
+ Quá trình tái sản xuất ra của cải vật chất và sức lao động gắn liền với tái sản
xuất quan hệ sản xuất. Sản xuất càng phát triển, lực lượng sản xuất ngày càng tiến

bộ địi hỏi phải có quan hệ sản xuất mới phù hợp.
+ Sau mỗi chu kỳ tái sản xuất, các quan hệ sản xuất được củng cố và hoàn
thiện hơn, làm cho quan hệ sản xuất thích ứng với tính chất và trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất. Qua đó, q trình tái sản xuất quan hệ sản xuất làm cho xã
hội ổn định và phát triển.
- Tái sản xuất môi trường sinh thái
+ Q trình sản xuất và tái sản xuất ln gắn với một mơi trường tự nhiên nhất
định. Q trình sản xuất và tái sản xuất là quá trình con người dùng sức lao động
của mình thơng qua cơng cụ lao động tác động vào tự nhiên, khai thác tự nhiên
biến các vật chất tự nhiên thành sản phẩm phục vụ cho mục đích của con người.
Q trình tác động đó dẫn đến các tài nguyên thiên nhiên có nguy cơ cạn kiệt, ô
nhiễm. Mặt khác, do sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp và nhiều nguyên
nhân khác cũng làm cho tài nguyên cạn kiệt, môi trường thiên nhiên bị ơ nhiễm, vì
vậy trong q trình sản xuất và tái sản xuất, việc tái sản xuất ra môi trường sinh
thái là một tất yếu khách quan.
+ Tái sản xuất ra môi trường sinh thái đảm bảo cho nền kinh tế phát triển bền
vững. Khôi phục các nguồn tài nguyên có khả năng tái sinh như độ màu mỡ của

10


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
đất đai, trồng và bảo vệ rừng, bảo vệ môi trường sinh thái bao gồm cả mơi trường
nước, khơng khí, đất...
+ Việc tái sản xuất môi trường sinh thái phải được quy định rõ trong các chính
sách kinh tế, hệ thống pháp luật của từng quốc gia cũng như quốc tế..
Câu 6: Phân biệt xã hội hóa sản xuất với tính xã hội của sản xuất. Vì sao
xã hội hóa sản xuất là q trình kinh tế khách quan. Xã hội hóa sản xuất thực
tế và xã hội hóa sản xuất hình thức khác nhau thế nào ?
Trả lời:

* Khái niệm xã hội hóa sản xuất
Xã hội hóa sản xuất là sự liên kết nhiều quá trình kinh tế riêng biệt thành quá
trình kinh tế - xã hội, tồn tại, hoạt động, phát triển liên tục như một hệ thống hữu
cơ.
* Phân biệt xã hội hóa sản xuất với tính chất xã hội của sản xuất
Sản xuất ln mang tính xã hội, tính xã hội của sản xuất phát triển từ thấp đến
cao gắn liền với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất.
- Trong nền sản xuất nhỏ, kinh tế tự nhiên, tự cấp, tự túc, các hoạt động kinh tế
thường được thực hiện ở các đơn vị kinh tế độc lập với nhau. Nếu có quan hệ với
nhau thì chỉ quan hệ theo số cộng đơn thuần chứ chưa có quan hệ phụ thuộc hữu
cơ với nhau, do đó nền sản xuất có tính xã hội nhưng chưa được xã hội hóa.
- Xã hội hóa sản xuất chỉ ra đời và phát triển dựa trên trình độ phát triển cao
của lực lượng sản xuất, gắn với sự ra đời của và phát triển của nền sản xuất lớn.
Xã hội hóa biểu hiện ở việc liên kết kinh tế giữa các chủ thể, đơn vị, ngành, khu
vực của nền kinh tế quốc dân ngày càng chặt chẽ, phụ thuộc, ràng buộc lẫn nhau
cả các yếu tố "đầu vào" và yếu tố "đầu ra" của sản xuất.
* Xã hội hóa sản xuất là q trình kinh tế khách quan
Xã hội hóa sản xuất là quá trình kinh tế khách quan phù hợp với trình độ phát
triển cao của lực lượng sản xuất, phản ánh xu thế tất yếu mang tính chất xã hội của
sản xuất. Sự vận động và phát triển của xã hội hóa sản xuất được quy định bởi sự
phát triển biện chứng giữa lực lượng sản xuất xã hội và quan hệ sản xuất xã hội,
biểu hiện:
- Xã hội hóa sản xuất được biểu hiện ở trình độ phát triển của sự phân công
lao động và hợp tác lao động. Hình thức phân cơng và hợp tác lao động được phát
triển từ thấp đến cao: hiệp tác giản đơn - cơng trường thủ cơng - đại cơng nghiệp
cơ khí.
- Xã hội hóa sản xuất biểu hiện ở mối quan hệ giữa các ngành, vùng, khu vực
ngày càng cao và chặt chẽ. Các mối quan hệ diễn ra trên tất cả các lĩnh vực với
nhiều hình thức quan hệ đa dạng, phong phú.
- Xã hội hóa sản xuất biểu hiện ở các hình thức sở hữu, các hình thức tổ chức

kinh tế phát triển từ thấp đến cao.
- Xã hội hóa sản xuất biểu hiện ở tính chất xã hội hóa của sản phẩm. Sản phẩm
làm ra là kết quả lao động của nhiều công đoạn, nhiều người .

11


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Như vậy, sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội, của sản xuất hàng hóa
thúc đẩy sự phân cơng và hợp tác lao động phát triển, phá vỡ tính chất khép kín,
biệt lập của các chủ thể kinh tế, các vùng, các địa phương và của các quốc gia mà
khơng ai có thể đứng ngồi xu thế ấy. Xã hội hóa sản xuất thu hút chúng vào quá
trình kinh tế thống nhất, làm cho sự phụ thuộc lẫn nhau của quá trình sản xuất
ngày càng phát triển chặt chẽ - tức xã hội hóa sản xuất phát triển cả chiều rộng và
chiều sâu.
* Sự khác nhau giữa xã hội hóa sản xuất thực tế và xã hội hóa sản xuất
hình thức
- Xã hội hóa sản xuất thể hiện trên ba mặt:
+ Xã hội hóa sản xuất về kinh tế - kỹ thuật (xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật,
phát triển lực lượng sản xuất).
+ Xã hội hóa sản xuất về kinh tế - tổ chức (tổ chức, quản lý nền sản xuất xã
hội cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ở từng thời kỳ).
+ Xã hội hóa sản xuất về kinh tế - xã hội (xác lập quan hệ sản xuất trong đó
quan trọng nhất là quan hệ sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu).
- Xã hội hóa được tiến hành đồng bộ cả ba mặt trên, có sự phù hợp giữa ba
mặt đó tạo nên những tổ chức, quan hệ kinh tế mới đáp ứng yêu cầu của sản xuất
và phản ánh những quá trình kinh tế khách quan là xã hội hóa thực tế. Nếu chỉ
dừng lại ở xã hội hóa sản xuất về tư liệu sản xuất, khơng quan tâm đến xã hội hóa
các mặt khác của quan hệ sản xuất, tạo nên những tổ chức và quan hệ kinh tế mới
khi những quan hệ hiện thực còn chưa tồn tại hoặc mới manh nha gây tổn hại cho

q trình phát triển kinh tế là xã hội hóa hình thức.
Câu 7 : Thế nào là tăng trưởng kinh tế ? Phân tích vai trị và các yếu tố ảnh
hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Trả lời:
* Khái niệm tăng trưởng kinh tế
- Tăng trưởng kinh tế là sự tăng lên về quy mô sản lượng của nền kinh tế trong
một thời kỳ nhất định. Dưới dạng khái quát, tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng của
tổng sản phẩm quốc đân (GNP) hoặc tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong một thời
gian nhất định (thường tính cho một năm).
- Chỉ tiêu chính biểu hiện mức tăng trưởng kinh tế: là tỷ lệ tăng GNP hoặc GDP
của thời kỳ sau so với thời kỳ trước
Công thức:
GNP1
GDP1
x 100 % hoặc:
x 100 %
GNP0
GDP0
Trong đó: + GNP0, GDP0 là tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội
thời kỳ trước
+ GNP1, GDP1 là tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội
thời kỳ sau

12


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Do có sự biến động của giá cả (lạm phát) nên người ta phân định ra GNP, GDP
danh nghĩa và GNP, GDP thực tế. GNP, GDP danh nghĩa là tính theo giá hiện hành,
cịn GNP, GDP thực tế tính theo giá cố định của 1 năm được chọn làm gốc. Vì vậy,

trong thực tế có tăng trưởng kinh tế danh nghĩa và tăng trưởng kinh tế thực tế
Cơng thức tính GNP, GDP thực tế: GNPtt = GNPn (1 - R)
GDPtt = GDPn (1 - R)
Trong đó: + GNPn, GDPn là tổng sản phẩm quốc dân và tổng sản phẩm quốc nội
tính theo giá hiện hành của năm tính tốn
+ R là chỉ số lạm phát tính bằng %
* Vai trị của tăng trưởng kinh tế
- Tăng trưởng kinh tế là điều kiện cần thiết để khắc phục tình trạng đói nghèo, lạc
hậu, vươn tới sự giàu có của mỗi quốc gia.
- Tăng trưởng kinh tế là điều kiện vật chất quan trọng để tạo thêm việc làm, giảm
thất nghiệp, tăng thu nhập và nâng cao mức sống của dân cư.
- Tăng trưởng kinh tế tạo tiền đề vật chất đảm bảo cho việc củng cố an ninh quốc
phòng
- Đối với nước ta, tăng trưởng kinh tế còn là điều kiện tiên quyết cho việc khắc
phục nguy cơ tụt hậu về kinh tế, kỹ thuật so với các nước trong khu vực và thế giới.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế
- Vốn: là toàn bộ của cải vật chất do con người tạo ra được tích lũy lại và những
yếu tố tự nhiên được sử dụng vào quá trình sản xuất. Vốn có thể tồn tại dưới dạng
hiện vật hoặc giá trị, nó là yếu tố đầu vào của sản xuất có vai trị quan trọng để tăng
trưởng kinh tế. Vai trò của nhân tố vốn đối với tăng trưởng kinh tế không chỉ thể hiện
ở mức vốn đầu tư mà còn thể hiện ở hiệu suất sử dụng vốn.
- Con người: là nhân tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Tuy nhiên, đó
phải là con người có sức khỏe, trí tuệ, kỹ năng lao động cao, ý thức tổ chức kỷ luật
tốt, nhiệt tình lao động và được tổ chức hợp lý. Con người là nhân tố cơ bản của tăng
trưởng bền vững, bởi vì, tài nguyên thì chỉ hữu hạn và ngày càng cạn kiệt cịn tài
năng, trí tuệ của con người là vơ tận, vơ hạn. Con người là chủ thể của sự sáng tạo,
các kỹ thuật, công nghệ cao, vốn... để sản xuất đều là sản phẩm trí sáng tạo của con
người. Vì vậy, con người là yếu tố quyết định trong nền kinh tế tri thức.
- Khoa học và công nghệ: là nguồn lực quan trọng để tăng trưởng kinh tế, nó cho
phép tăng trưởng kinh tế và tái sản xuất mở rộng theo chiều sâu. Khoa học và công

nghệ là nhân tố quyết định chất lượng của sự tăng trưởng, tạo ra năng suất lao động
cao, lao động thặng dư lớn cho phép tích lũy đầu tư lớn tạo điều kiện để tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững. Ngày nay, khoa học và công nghệ đã trở thành lực lượng
sản xuất trực tiếp, động lực của sự tăng trưởng kinh tế.
- Cơ cấu kinh tế: là tổng thể các bộ phận hợp thành của nền kinh tế quốc dân. Cơ
cấu kinh tế bao gồm: cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu vùng kinh tế và cơ cấu thành phần
kinh tế. Cơ cấu kinh tế có vai trị quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Cơ cấu kinh
tế hợp lý thể hiện ở việc xác định đúng tỷ trọng, vai trò, thế mạnh của các ngành,
vùng, thành phần kinh tế từ đó phân bố các nguồn lực phù hợp, phát huy được lợi thế
và sức mạnh tổng hợp để tăng trưởng kinh tế nhanh, bền vững.
- Thể chế chính trị và quản lý nhà nước: là nhân tố quan trọng và có quan hệ chặt
chẽ với các nhân tố khác. Thể chế chính trị ổn định và tiến bộ cùng với sự quản lý có

13


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
hiệu quả của nhà nước tạo điều kiện để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc
phục được các khuyết tật của nền kinh tế. Đồng thời, thể chế chính trị và quản lý Nhà
nước có khả năng khai thác, sử dụng và phát triển có hiệu quả các nguồn lực như vốn,
con người, khoa học và công nghệ, tài nguyên thiên nhiên... để tăng trưởng kinh tế có
hiệu quả.
Câu 8: Thế nào là phát triển kinh tế ? Những tiêu chí biểu hiện của phát
triển kinh tế ? Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế.
Trả lời:
* Khái niệm phát triển kinh tế
Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế gắn liền với sự hoàn thiện cơ cấu, thể
chế kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống
* Những tiêu chí biểu hiện của phát triển kinh tế
- Sự tăng lên của GNP, GDP tính theo đầu người, tức là mức tăng trưởng kinh tế

phải lớn hơn mức tăng dân số.
- Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ: tỷ trọng các ngành dịch vụ và
công nghiệp trong tổng GNP, GDP tăng lên, cịn tỷ trọng của ngành nơng nghiệp
giảm xuống
- Chất lượng cuộc sống của đại bộ phận dân cư phải được cải thiện và ngày càng
tăng lên; phân phối thu nhập công bằng, hợp lý.
* Các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế
- Các yếu tố thuộc lực lượng sản xuất:
+ Con người: là yếu tố hàng đầu của phát triển kinh tế, đặc biệt là trong điều kiện
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại. Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của sự phát triển, "đầu tư cho con người là đầu tư cho sự phát triển".
+ Khoa học công nghệ: nếu khoa học công nghệ được lựa chọn phù hợp với tiềm
năng, nguồn lực của đất nước sẽ là động lực mới thúc đẩy nền kinh tế phát triển
nhanh, bền vững. Ngày nay, khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
- Các yếu tố thuộc quan hệ sản xuất:
+ Nếu quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng
sản xuất thì nó tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Ngược lại, khi
nó khơng phù hợp sẽ là nhân tố cản trở, kìm hãm sự phát triển đó.
+ Quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất, tức là có chế độ và các hình thức sở hữu tư liệu sản xuất phù hợp, các hình thức
tổ chức kinh tế năng động, hiệu quả; các hình thức phân phối thu nhập cơng bằng,
hợp lý kích thích tính tích cực, sáng tạo của người lao động làm cho các nguồn lực
của nền kinh tế được khai thác, sử dụng một cách tốt nhất thì quan hệ sản xuất ấy
thúc đẩy kinh tế phát triển.
- Các yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng:
+ Các yếu tố kiến trúc thượng tầng tác động gián tiếp hoặc trực tiếp đến phát triển
kinh tế, trong đó yếu tố chính trị có ảnh hưởng sâu sắc và ngày càng tăng lên cùng
với sự phát triển kinh tế.

14



HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
+ Các yếu tố kiến trúc thượng tầng tác động đến phát triển kinh tế theo hai hướng:
vừa thúc đẩy phát triển kinh tế nếu có chính sách, đường lối đúng, pháp luật nghiêm
minh; vừa kìm hãm sự phát triển kinh tế nếu chính sách, đường lối sai, pháp luật
không nghiêm, đội ngũ cán bộ quản lý nhà nước không trong sạch.
Câu 9: Thế nào là tiến bộ xã hội ? Tiến bộ xã hội được biểu hiện thế nào ?
Phân tích mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội.
Trả lời:
* Khái niệm tiến bộ xã hội
Tiến bộ xã hội là sự phát triển con người một cách toàn diện, phát triển các quan
hệ xã hội công bằng dân chủ.
* Tiêu chí đánh giá tiến bộ xã hội
- Sự tiến bộ xã hội thể hiện ở sự công bằng xã hội, mức sống của con người tăng
lên, sự phân hóa giàu nghèo và sự chênh lệch về trình độ phát triển, về mức sống giữa
các khu vực, các vùng miền ngày càng giảm hoặc loại trừ, các loại phúc lợi xã hội,
trình độ văn hóa, văn minh ...ngày càng cao.
- Ngày nay, Liên hiệp quốc đưa ra tiêu chí về tiến bộ xã hội thông qua chỉ số HDI
(Human Development Issue). Chỉ số HDI xem xét ở ba tiêu chí cơ bản: tuổi thọ bình
qn; thành tựu giáo dục (trình độ học vấn và số năm đi học); mức thu nhập bình
quân đầu người / năm.
* Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội
Phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội có mối quan hệ biện chứng, tác động, thúc đẩy
nhau.
- Phát triển kinh tế là điều kiện cơ sở vật chất để thực hiện tiến bộ xã hội. Tiến bộ
xã hội là kết quả của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế. Mọi sự tăng trưởng và phát
triển kinh tế được coi là tiến bộ trước hết phải là sự phát triển thúc đẩy sự tiến bộ xã
hội.
- Tiến bộ xã hội là mục tiêu, động lực của tăng trưởng và phát triển kinh tế. Một

mặt, tiến bộ xác định những nhu cầu mới của đời sống xã hội, đòi hỏi nền kinh tế
phải đáp ứng. Mặt khác, tiến bộ xã hội thể hiện ở mức sống của con người tăng lên,
trình độ học vấn, dân trí tăng lên, cơng bằng xã hội tốt hơn làm cho xã hội ổn định,
khả năng lao động sáng tạo và nhiệt tình lao động của con người tốt hơn, thúc đẩy
kinh tế phát triển.
- Thực chất quan hệ giữa phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội là mối quan hệ giữa
sự phát triển của lực lượng sản xuất với sự phát triển của quan hệ sản xuất và kiến
trúc thượng tầng, tức là sự phát triển của hình thái kinh tế - xã hội. Mối quan hệ này
thể hiện ở hai mặt vừa có thể thúc đẩy kinh tế phát triển (nếu phù hợp) hoặc kìm hãm
sự phát triển kinh tế (nếu không phù hợp).
- Phát triển kinh tế gắn liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội là một trong
những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng khẳng định: "Tăng trưởng kinh tế gắn
liền với bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước phát triển". Đại
hội X nhấn mạnh thêm: "Thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước

15


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
và từng chính sách phát triển; tăng trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa, y tế,
giáo dục... giải quyết tốt các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con người". Đại hội
XI tiếp tục khẳng định: "Tạo môi trường và điều kiện để mọi người lao động có việc
làm và thu nhập tốt hơn. Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với xóa nghèo bền
vững. Có chính sách tiền lương và chế độ đãi ngộ tạo động lực để phát triển ; có
chính sách điều tiết hợp lý thu nhập trong xã hội; giảm dần tình trạng chênh lệch
giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư", kết hợp chặt chẽ, hợp lý giữa
phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển.


PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG VẤN ĐỀ KINH TẾ CHÍNH TRỊ CỦA PHƯƠNG THỨC SẢN XUẤT
TƯ BẢN CHỦ NGHĨA
CHƯƠNG III
SẢN XUẤT HÀNG HÓA VÀ CÁC QUY LUẬT KINH TẾ CỦA SẢN XUẤT
HÀNG HĨA
Câu 10: Phân tích điều kiện ra đời, tồn tại, đặc trưng và ưu thế của sản xuất
hàng hóa.
Trả lời:
* Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế mà ở đó sản phẩm được sản xuất ra
để trao đổi hoặc mua bán trên thị trường.
Hình thức này xuất hiện đầu tiên trong lịch sử là sản xuất hàng hóa giản đơn. Đó
là kiểu tổ chức sản xuất của những người nông dân, thợ thủ công và tiểu thương cá
thể dựa trên chế độ tư hữu nhỏ về tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân và gia
đình họ. Hình thức phát triển cao của sản xuất hàng hóa là kinh tế hàng hóa phát triển
hay cịn gọi là kinh tế thị trường. Đó là kiểu tổ chức kinh tế mà tồn bộ việc sản xuất,
tái sản xuất và tiêu dùng được diễn ra trên thị trường.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, sự ra đời của sản xuất hàng hóa do hai
điều kiện sau quyết định:
Thứ nhất: Có sự phân cơng lao động xã hội

16


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
- Phân cơng lao động xã hội là sự chun mơn hóa sản xuất, phân chia lao động
xã hội ra các ngành, nghề khác nhau của nền sản xuất xã hội.
Do phân công lao động xã hội nên mỗi người chỉ sản xuất ra một hoặc một số sản
phẩm nhất định. Ví dụ: trong điều kiện sản xuất tự cung, tự cấp, một gia đình vừa

trồng lúa; vừa tạo ra cuốc, xẻng, cày, bừa lại vừa tạo ra vải để mặc... Nhưng khi có sự
phân cơng lao động xã hội thì người nơng dân chuyên trồng lúa, người thợ rèn
chuyên rèn cuốc, xẻng, người thợ dệt chuyên dệt vải.
- Phân công lao động xã hội làm cho việc trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu.
Bởi vì, khi có phân cơng lao động xã hội, mỗi người, mỗi cơ sở sản xuất chỉ sản
xuất ra một hay một số sản phẩm nhất định. Nhưng nhu cầu của cuộc sống địi hỏi họ
phải có nhiều loại sản phẩm với nhau, người nông dân không chỉ cần lúa để ăn mà
cịn phải có cơng cụ để sản xuất, cũng như người thợ rèn không thể sống bằng cuốc
xẻng mà cần có gạo để sinh sống. Điều đó có nghĩa là người nơng dân và người thợ
rèn phải có mối liên hệ trao đổi sản phẩm cho nhau, phụ thuộc vào nhau và quá trình
trao đổi này được diễn ra trên thị trường.
- Ngày nay, lực lượng sản xuất phát triển thì phân cơng lao động xã hội diễn ra
càng sâu sắc, dẫn đến chun mơn hóa càng cao làm cho năng suất lao động tăng lên,
sản phẩm thặng dư càng nhiều và quá trình trao đổi sản phẩm càng phổ biến.
Như vậy, phân công lao động xã hội là cơ sở, là tiền đề của sản xuất hàng hóa.
Phân cơng lao động xã hội càng phát triển, thì sản xuất và trao đổi càng mở rộng hơn,
đa dạng hơn.
Thứ hai: Có sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa những người sản xuất
C. Mác viết: “Chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và không
phụ thuộc nhau mới đối diện nhau như là những hàng hóa”.
- Trong điều kiện này thì những người sản xuất trở thành những chủ thể sản xuất
độc lập với nhau. Vì vậy sản phẩm làm ra thuộc quyền sở hữu hoặc do họ chi phối.
Nguyên nhân dẫn đến có sự độc lập về kinh tế là do:
+ Chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản xuất
+ Có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất.
+ Sự tách rời giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng
- Quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, làm cho
họ tách biệt nhau về mặt kinh tế đó, người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm của
người sản xuất khác thì phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau và sản phẩm của họ
trở thành hàng hóa.

- Khi sản phẩm của người lao động trở thành hàng hóa thì người sản xuất trở
thành người sản xuất hàng hóa, lao động của người sản xuất hàng hố vừa có tính
chất xã hội, vừa có tính chất tư nhân.
+ Tính chất xã hội của lao động sản xuất thể hiện ở chỗ, do phân công lao động
xã hội nên sản phẩm của người này trở nên cần thiết cho người khác, cần cho xã hội.
+ Tính chất tư nhân, cá biệt thể hiện ở chỗ việc sản xuất ra cái gì, sản xuất như thế
nào, phân phối cho ai..., là công việc cá nhân của các chủ sở hữu về tư liệu sản xuất
định đoạt. Điều đó dẫn đến trường hợp là lao động tư nhân có thể phù hợp hoặc
khơng phù hợp với lao động xã hội.

17


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
- Lao động của người sản xuất hàng hóa bao hàm sự thống nhất hai mặt đối lập là
lao động xã hội và lao động tư nhân. Và đây cũng chính là mâu thuẫn cơ bản của sản
xuất hàng hóa. Nó là cơ sở và mầm móng của khủng hoảng sản xuất thừa.
Trên đây là hai điều kiện cần và đủ cho sản xuất hàng hoá ra đời và tồn tại, nếu
thiếu một trong hai điều kiện sẽ khơng có sản xuất và trao đổi hàng hoá
* Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hố
- Đặc trưng của sản xuất hàng hóa
+ Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán.
+ Sản xuất hàng hóa diễn ra trong mơi trường cạnh tranh quyết liệt.
+ Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân vừa mang tính xã
hội
- Ưu thế của sản xuất hàng hóa so với sản xuất tự cung tự cấp
+ Thứ nhất, khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng
người, từng cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương. Sản xuất hàng hóa ra đời,
phát triển dựa trên cơ sở phân công lao động xã hội và chun mơn hóa sản xuất. Do
đó, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã hội, kỹ thuật của từng người, từng

cơ sở cũng như từng vùng, từng địa phương. Đồng thời, sự phát triển của sản xuất
hàng hóa lại thúc đẩy phân cơng lao động xã hội phát triển, làm cho năng suất lao
động xã hội tăng lên nhanh chóng, số lượng và chất lượng sản phẩm làm ra đáp ứng
nhu cầu xã hội tốt hơn.
+ Thứ hai, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật vào sản xuất..., thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Trong nền sản xuất
hàng hóa, quy mơ sản xuất khơng còn bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn lực mang tính
hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, cơ sở, địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên
cơ sở nhu cầu và nguồn lực của xã hội. Điều này lại tạo điều kiện thuận lợi cho việc
ứng dụng những thành tựu khoa học, kỹ thuật, công nghệ vào sản xuất… thúc đẩy sản
xuất phát triển.
+ Thứ ba, buộc những người sản xuất hàng hố phải ln ln năng động, nhạy
bén. Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của các quy luật kinh tế vốn có của nó
như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh… buộc người sản xuất hàng
hóa phải ln năng động, nhạy bén, biết tính tốn, cải tiến kỹ thuật… làm cho chi phí
sản xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
+ Thứ tư, làm cho giao lưu kinh tế văn hóa giữa các địa phương, các ngành ngày
càng phát triển. Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng
và giao lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước… không chỉ làm
cho đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần của người dân cũng được
nâng cao hơn, phong phú và đa dạng hơn.
+ Thứ năm, xóa bỏ tính bảo thủ trì trệ của kinh tế tự nhiên
Sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển làm xuất hiện tiền tệ. Khi tiền tệ ra đời
lại thúc đẩy q trình lưu thơng trao đổi và thị trường được mở rộng. Thương nghiệp
và thị trường mở rộng lại thúc đẩy nhanh quá trình tan rã của kinh tế tự nhiên (sản
xuất tự cấp, tự túc), xóa bỏ tính bảo thủ, khép kín, trì trệ của nó.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu thế trên, sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái
của nó như phân hóa giàu-nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa, nảy sinh

18



HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
những hiện tượng tiêu cực, tiềm ẩn khả năng khủng hoảng, phá hoại môi trường sinh
thái, xã hội…
Câu 11: Phân tích các thuộc tính của hàng hóa, lượng giá trị của hàng hóa
và các yếu tố ảnh hưởng tới nó.
Trả lời:
* Khái niệm hàng hóa
Hàng hóa là sản phẩm của lao động, có thể thỏa mãn được nhu cầu nào đó của
con người và đi vào q trình tiêu dùng thơng qua trao đổi, mua - bán.
- Một vật phẩm muốn trở thành hàng hóa phải là: sản phẩm của lao động; có thể
thoả mãn nhu cầu nào đó của con người; phải được trao đổi, mua bán trên thị trường.
Nếu vật phẩm thiếu một trong ba điều kiện đó thì khơng phải là hàng hóa. Ví dụ:
khơng khí, ánh sáng, nguồn nước tự nhiên rất cần cho cuộc sống chúng ta nhưng nó
khơng phải là hàng hóa, vì khơng phải do người lao động tạo ra.
- Hàng hóa được phân thành hai loại: hàng hóa hữu hình và hàng hóa vơ hình.
+ Hàng hóa hữu hình là những hàng hố mà q trình sản xuất tách rời q trình
sử dụng và có hình dạng cụ thể tồn tại ở dạng vật chất như: lương thực, quần áo, tư
liệu sản xuất...
+ Hàng hóa vơ hình (hàng hóa dịch vụ) là những hàng hố mà quá trình sản xuất
gắn liền với quá trình tiêu dùng như: dịch vụ vận tải, dịch vụ chữa bệnh, công tác
giáo dục...
* Hàng hóa có hai thuộc tính: giá trị sử dụng và giá trị
- Giá trị sử dụng của hàng hóa là cơng dụng (lợi ích) của hàng hóa nhằm thỏa
mãn một nhu cầu nào đó của con người (nhu cầu tiêu dùng cho sản xuất tồn tại ở
dạng tư liệu sản xuất như: máy móc, nhà xưởng...; nhu cầu tiêu dùng cho cá nhân như
nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần). Một hàng hóa có thể có một hoặc nhiều cơng
dụng khác nhau, những cơng dụng của hàng hóa được phát hiện dần dần do tiến bộ
khoa học kỹ thuật và sự phát triển của lực lượng sản xuất nói chung. Xã hội càng tiến
bộ, lực lượng sản xuất càng phát triển thì một hàng hóa càng có nhiều giá trị sử dụng,

chủng loại càng phong phú và chất lượng càng cao. Giá trị sử dụng của hàng hóa là
do những thuộc tính tự nhiên (tính chất vật lý, hóa học, sinh học ...) của thực thể hàng
hóa đó quyết định nên giá trị sử dụng là một phạm trù vĩnh viễn. Ví dụ: thuộc tính tự
nhiên của gạo là tinh bột thì bất cứ xã hội nào gạo vẫn là tinh bột. Giá trị sử dụng của
hàng hóa khơng phải cho bản thân người sản xuất mà là giá trị sử dụng cho người
khác, là giá trị sử dụng cho xã hội thông qua mua bán trao đổi. Điều đó địi hỏi người
sản xuất phải quan tâm đến nhu cầu của xã hội, làm sao để sản phẩm sản xuất ra đáp
ứng nhu cầu của xã hội. Vì vậy trong nền kinh tế hàng hóa, giá trị sử dụng của hàng
hóa đồng thời là vật mang giá trị trao đổi. Nếu một vật trở thành hàng hóa thì đương
nhiên có giá trị sử dụng, nhưng một vật có giá trị sử dụng thì chưa chắc là hàng hóa
(vì cịn xét đến những điều kiện để vật trở thành hàng hóa).
- Giá trị của hàng hóa
Muốn hiểu được giá trị của hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi. Giá trị trao đổi
trước hết là một quan hệ về số lượng, là tỷ lệ theo đó một giá trị sử dụng loại này

19


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác. Ví dụ: 1m vải = 5kg thóc. Tại sao
vải và thóc là hai giá trị sử dụng khác nhau lại có thể trao đổi được với nhau theo tỷ lệ
1: 5 ? Điều đó chứng tỏ rằng giữa vải và thóc có một cơ sở chung nào đó. Cơ sở
chung giữa vải và thóc khơng phải là giá trị sử dụng vì:
+ Vải dùng để mặc, cịn thóc dùng làm lượng thực ni sống con người. Chúng có
giá trị sử dụng hồn tồn khác nhau.
+ Sự khác nhau về giá trị sử dụng của vải và thóc là điều kiện cần thiết của trao
đổi, khơng ai trao đổi những hàng hóa giống hệt nhau về giá trị sử dụng.
Điểm chung của vải và thóc đều là sản phẩm của lao động, đều có kết tinh sự hao
phí lao động xã hội của con người. Nhờ có cơ sở chung đó mà vải và thóc có thể trao
đổi được với nhau. Bởi vì, người ta cho rằng để sản xuất ra 1m vải thì phải hao phí

một lượng sức lao động ví dụ là 2 giờ, và với một lượng hao phí lao động là 2 giờ
như vậy, người nơng dân cũng có thể sản xuất được 5kg thóc. Điều đó chứng tỏ rằng,
hao phí sức lao động để sản xuất vải và thóc là như nhau. Vì thế người thợ dệt và
người nơng dân mới đồng ý trao đổi cho nhau. Thực chất của việc đổi 5kg thóc để lấy
1m vải chẳng qua là trao đổi 2 giờ lao động làm ra vải để đổi lấy 2 giờ lao động làm
ra thóc. Như vậy, việc trao đổi hàng hóa cho nhau chẳng qua là trao đổi lao động ẩn
giấu trong các hàng hóa đó. Chính lao động hao phí để tạo ra hàng hóa là cơ sở
chung của việc trao đổi và nó tạo thành giá trị của hàng hóa.
Từ đây, có thể định nghĩa: giá trị hàng hóa là lao động xã hội của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Để xác định giá trị hàng hóa người ta căn cứ vào
hao phí lao động xã hội kết tinh trong hàng hóa. Nếu một hàng hóa sản xuất ra đã tiêu
hao nhiều cơng sức lao động thì hàng hóa đó có nhiều giá trị. Ví dụ: vàng và kim
cương có giá trị cao bởi vì phải tốn nhiều lao động mới sản xuất được chúng. Và đây
cũng chính là căn cứ để nhà sản xuất tính giá thành cho sản phẩm. Giá trị của hàng
hóa là lao động xã hội của người sản xuất hàng hóa kết tinh trong hàng hóa, cịn giá
trị trao đổi chỉ là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của giá trị. Giá trị là nội dung, là
chất còn giá trị trao đổi là hình thức. Giá trị quy định giá trị trao đổi, là cơ sở của giá
trị trao đổi, tức là giá trị quy định quan hệ tỷ lệ về lượng trong trao đổi. Giá trị biểu
hiện khi hàng hóa được trao đổi thông qua thị trường, thông qua mối quan hệ giữa
những người sản xuất hàng hóa, điều đó chứng tỏ rằng giá trị là một phạm trù lịch sử
vì nó chỉ tồn tại trong nền kinh tế hàng hóa.
- Hai thuộc tính của hàng hóa có quan hệ chặt chẽ với nhau, vừa thống nhất vừa
mâu thuẫn với nhau.
+ Mặt thống nhất thể hiện ở chỗ: cả hai thuộc tính cùng đồng thời tồn tại trong
một hàng hóa. Một vật phẩm phải có đầy đủ hai thuộc tính này mới trở thành hàng
hóa. Nếu thiếu một trong hai thuộc tính đó vật phẩm sẽ khơng phải là hàng hóa.
+ Mặt mâu thuẫn thể hiện ở chỗ: thứ nhất, với tư cách là giá trị sử dụng thì các
hàng hóa khơng đồng nhất về chất; nhưng với tư cách là giá trị thì chúng lại đồng
nhất về chất (đều là sự kết tinh của lao động); thứ hai, quá trình thực hiện giá trị sử
dụng và giá trị thường không đồng thời về không gian và thời gian. Giá trị được thực

hiện trước trong lĩnh vực lưu thơng, cịn giá trị sử dụng được thực hiện sau trong lĩnh
vực tiêu dùng. Do đó, nếu giá trị của hàng hóa khơng được thực hiện sẽ dẫn đến
khủng hoảng sản xuất.
* Tại sao hàng hóa lại có hai thuộc tính là giá trị sử dụng và giá trị ? Ý nghĩa
của việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa ?

20


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Sở dĩ hàng hóa có hai thuộc tính nêu trên vì lao động sản xuất hàng hóa có tính
chất hai mặt: lao động cụ thể và lao động trừu tượng. Trong đó, lao động cụ thể tạo
ra giá trị sử dụng của hàng hóa; còn lao động trừu tượng tạo ra giá trị của hàng hóa.
- Lao động cụ thể là lao động có ích biểu hiện dưới một hình thức cụ thể của
những nghề nghiệp chuyên môn nhất định. Mỗi lao động cụ thể có mục đích, phương
pháp, cơng cụ lao động, đối tượng lao động và kết quả lao động riêng. Chính cái riêng
đó phân biệt các loại lao động cụ thể khác nhau và tạo ra các giá trị sử dụng khác
nhau của hàng hóa. Chẳng hạn, lao động của người thợ may tạo ra quần áo để mặc,
lao động của người thợ mộc tạo ra ghế để ngồi... Lao động cụ thể là phạm trù vĩnh
viễn, là một điều kiện khơng thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào.
Trong xã hội có nhiều loại hàng hóa với những giá trị sử dụng khác nhau là do có
nhiều loại lao động cụ khác nhau. Nếu phân cơng lao động xã hội càng phát triển thì
càng có nhiều loại giá trị sử dụng khác nhau để đáp ứng nhu cầu của xã hội.
- Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa khi đã gạt bỏ
những hình thức cụ thể của nó, hay nói cách khác, đó chính là sự tiêu hao sức lao
động của người sản xuất hàng hóa nói chung. Chỉ có lao động sản xuất hàng hóa mới
có tính chất lao động trừu tượng. Chính lao động trừu tượng của người sản xuất hàng
hóa tạo ra giá trị của hàng hóa. Như vậy, giá trị của hàng hóa là lao động trừu tượng
của người sản xuất kết tinh trong hàng hóa. Đó cũng chính là mặt chất của giá trị
hàng hóa. Lao động trừu tượng là phạm trù lịch sử riêng có của sản xuất hàng hóa.

- Trong nền sản xuất hàng hóa, sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào? là việc riêng
của mỗi người. Họ là người sản xuất độc lập, lao động của họ vì vậy mang tính chất
tư nhân và lao động cụ thể của họ là biểu hiện của lao động tư nhân. Đồng thời, lao
động của họ luôn là một bộ phận của lao động xã hội thống nhất nằm trong hệ thống
phân công lao động xã hội, nên lao động trừu tượng là biểu hiện của lao động xã hội.
Trong nền sản xuất hàng hóa, lao động tư nhân và lao động xã hội là hai mặt đối lập
của một lao động thống nhất. Giữa lao động tư nhân và lao động xã hội có mâu thuẫn
với nhau, là mầm mống của mọi mâu thuẫn trong nền sản xuất hàng hóa, biểu hiện:
+ Sản phẩm do người sản xuất hàng hóa tạo ra có thể khơng ăn khớp hoặc khơng
phù hợp với nhu cầu của xã hội.
+ Mức hao phí lao động cá biệt người sản xuất hàng hóa có thể cao hơn hoặc thấp
hơn mức hao phí lao động mà xã hội có thể chấp nhận.
Chính những mâu thuẫn này mà sản xuất hàng hóa vừa vận động phát triển, vừa
tiềm ẩn khả năng khủng hoảng “sản xuất thừa”.
- Việc phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa có ý nghĩa
to lớn về mặt lý luận; nó đem đến cho lý thuyết giá trị - lao động một cơ sở khoa học
thực sự. Các nhà kinh tế trước Mác cho rằng, lao động tạo ra giá trị, nhưng khơng biết
tính chất nào của lao động tạo ra giá trị. Mác là người đầu tiên phát hiện ra tính chất
hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, và chỉ rõ tính chất trừu tượng của lao động
sản xuất hàng hóa đã tạo ra giá trị của hàng hóa.
+ Nhờ phát hiện ra tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, Mác đã
vạch rõ nguồn gốc của giá trị sử dụng và giá trị của hàng hóa. Với tư cách là lao động
trừu tượng, mọi hàng hóa phải giống nhau, khơng có sự phân biệt. Số lượng giá trị
của hàng hóa được quyết định bởi số lượng lao động trừu tượng của người sản xuất
hàng hóa kết tinh trong hàng hóa. Thực chất của trao đổi hàng hóa là trao đổi các giá
trị sử dụng khác nhau với lượng giá trị bằng nhau.

21



HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
+ Nhờ phát hiện tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, Mác đã chỉ ra
xu hướng vận động ngược chiều nhau giữa khối lượng hàng hóa với lượng giá trị của
nó khi có sự biến đổi về năng suất lao động. Khi năng suất lao động tăng lên thì khối
lượng hàng hóa (lượng giá trị sử dụng) được sản xuất ra tăng lên, nhưng lượng giá trị
của mỗi đơn vị hàng hóa lại giảm xuống.
+ Nhờ phát hiện tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa, Mác đã giải
thích được nguồn gốc thực sự của giá trị thặng dư, phân tích được bản chất tư bản bất
biến và tư bản khả biến… do đó đem lại cơ sở khoa học vững chắc cho học thuyết giá
trị thặng dư, học thuyết tích lũy, học thuyết tái sản xuất…
* Lượng giá trị hàng hóa
Trong nền sản xuất hàng hóa, mỗi chủ thể kinh tế có một lượng hao phí lao động
thực tế nhất định, đó là thời gian lao động cá biệt. Thời gian này xác định giá trị cá
biệt của hàng hóa. Tuy nhiên, trên thị trường khơng thể dựa vào lượng giá trị cá biệt
của hàng hóa, mà phải dựa vào lượng giá trị xã hội (mức hao phí lao động xã hội) của
hàng hóa để trao đổi.
- Lượng giá trị xã hội của hàng hóa được tính bằng thời gian lao động xã hội cần
thiết để sản xuất hàng hóa (có thể tính bằng: ngày, giờ, tháng, năm,...). Thời gian
lao động xã hội cần thiết là thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hóa trong
điều kiện bình thường của xã hội với một trình độ kỹ thuật trung bình, một trình độ
thành thạo trung bình và một cường độ lao động trung bình trong xã hội đó.
- Thơng thường thời gian lao động xã hội cần thiết là thời gian lao động cá biệt
của những người cung cấp đại bộ phận lượng hàng hóa ấy trên thị trường. Thời
gian lao động xã hội cần thiết là một đại lượng khơng cố định. Nó thay đổi theo sự
phát triển của lực lượng sản xuất. Như vậy, lượng giá trị của hàng hóa do lượng
lao động xã hội cần thiết hay thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra
hàng hóa quyết định
* Có ba nhân tố cơ bản ảnh hưởng đến lượng giá trị hàng hóa: năng suất lao
động, cường độ lao động và mức độ phức tạp của lao động.
- Năng suất lao động là năng lực sản xuất của lao động, nó được đo bằng số

lượng sản phẩm sản xuất trong một đơn vị thời gian hoặc số lượng thời gian lao
động hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm. Năng suất lao động tăng lên thì
thời gian lao động để sản xuất ra một đơn vị hàng hóa giảm xuống, do đó giá trị của
một đơn vị hàng hóa giảm xuống và ngược lại. Như vậy, lượng giá trị của hàng hóa tỷ
lệ nghịch với năng suất lao động. Quan hệ tương quan giữa mức tăng năng suất lao
động với lượng giá trị hàng hóa là tương quan tỷ lệ nghịch.
Năng suất lao động lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: trình độ thành thạo trung
bình của người lao động, mức độ phát triển của khoa học - kỹ thuật - công nghệ và
mức độ ứng dụng những thành tựu đó vào sản xuất, trình độ tổ chức quản lý, quy mơ
và hiệu suất của tư liệu sản xuất và các điều kiện tự nhiên. Muốn tăng năng suất lao
động phải hoàn thiện các yếu tố nêu trên.
- Cường độ lao động là khái niệm chỉ mức độ hao phí sức lao động trong một đơn
vị thời gian. Nó cho thấy mức độ khẩn trương, nặng nhọc hay căng thẳng của lao
động. Cường độ lao động được đo bằng sự tiêu hao lao động trong 1 đơn vị thời
gian và thường được tính bằng số calo hao phí trong 1 đơn vị thời gian. Khi cường
độ lao động tăng lên thì số lượng hàng hóa sản xuất ra tăng lên và hao phí sức lao
động cũng tăng lên tương ứng, do đó tổng giá trị hàng hóa tăng lên, nhưng giá trị của

22


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
một đơn vị hàng hóa vẫn khơng đổi. Xét về bản chất, tăng cường độ lao động cũng
giống như kéo dài thời gian lao động. Cường độ lao động phụ thuộc vào các yếu tố:
trình độ tổ chức quản lý, quy mơ và hiệu suất của tư liệu sản xuất, thể chất, tinh
thần của người lao động. Tăng năng suất lao động và tăng cường độ lao động có
những điểm giống nhau và khác nhau:
+ Giống nhau: cả hai đều làm tăng số lượng hàng hóa sản xuất ra trong một
đơn vị thời gian
+ Khác nhau: tăng năng suất lao động làm cho lượng sản phẩm sản xuất ra

tăng lên nhưng giá trị của một đơn vị hàng hóa giảm xuống. Dựa vào những nhân
tố ảnh hưởng đến việc tăng năng suất lao động, cho thấy tăng năng suất lao động
là vơ hạn. Cịn tăng cường độ lao động làm cho số lượng sản phẩm tăng lên trong
một đơn vị thời gian, nhưng giá trị của một đơn vị hàng hóa khơng thay đổi. Căn
cứ vào yếu tố ảnh hưởng đến tăng cường độ lao động, ta thấy tăng cường độ lao
động là có hạn. Như vậy, tăng năng suất lao động là có ý nghĩa tích cực đối với sự
phát triển của kinh tế.
- Mức độ phức tạp của lao động cũng ảnh hưởng nhất định đến lượng giá trị của
hàng hóa. Theo mức độ phức tạp của lao động người ta chia lao động thành lao động
giản đơn và lao động phức tạp. Lao động giản đơn là lao động mà bất kỳ một người
lao động bình thường nào cũng có thể thực hiện được không cần phải trải qua đào tạo.
Lao động phức tạp là lao động đòi hỏi phải được đào tạo, huấn luyện mới có thể thực
hiện được. Trong cùng một thời gian, lao động phức tạp tạo ra nhiều giá trị hơn lao
động giản đơn, với ý nghĩa đó lao động phức tạp thực chất là bội số của lao động giản
đơn. Trong quá trình trao đổi hàng hóa, ta lấy lao động giản đơn làm đơn vị và mọi
lao động phức tạp đều được quy thành lao động giản đơn trung bình. Điều đó được
quy đổi một cách tự phát hình thành những hệ số nhất định trên thị trường. Do đó,
lượng giá trị của hàng hố được đo bằng thời gian lao động xã hội cần thiết, giản
đơn trung bình.
- Cấu thành lượng giá trị của hàng hóa
Để sản xuất hàng hóa cần phải chi phí lao động, bao gồm lao động quá khứ tồn
tại trong các yếu tố tư liệu sản xuất và lao động sống hao phí để chế biến tư liệu sản
xuất thành sản phẩm mới. Lượng giá trị của hàng hoá được cấu thành bởi:
+ Giá trị của những tư liệu sản xuất đã sử dụng để sản xuất hàng hoá, tức là
giá trị cũ, ký hiệu là c.
+ Hao phí lao động sống của người sản xuất trong quá trình tạo ra hàng hoá,
gọi là giá trị mới, ký hiệu là v + m
Giá trị của hàng hoá W =

C


W = Giá trị cũ tái hiện

+
+

(V + m)
Giá trị mới

Câu 12: Nêu nguồn gốc, bản chất của tiền. Phân tích các chức năng
của tiền tệ, quy luật lưu thông tiền tệ và lạm phát.
Trả lời:

23


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
* Nguồn gốc, bản chất của tiền tệ
Tiền tệ là giá trị của hàng hóa, là sản phẩm của q trình sản xuất và trao đổi hàng
hóa. Ứng với mỗi giai đoạn sản xuất và trao đổi hàng hóa có một hình thái giá trị. Giá
trị chỉ bộc lộ thơng qua q trình trao đổi. Vì vậy, chúng ta phải đi từ giá trị trao đổi
để tìm ra vết tích giá trị. Điều đó cũng có nghĩa là để hiểu nguồn gốc và bản chất của
tiền chúng ta phải nghiên cứu quá trình phát triển của hình thái giá trị trao đổi, hay
các hình thức biểu hiện của giá trị.
- Hình thái giản đơn hay ngẫu nhiên của giá trị.
Ví dụ:1 mét vải = 2 kg thóc
Hình thái này xuất hiện khi xã hội công xã nguyên thuỷ tan rã, khi xuất hiện mầm
mống của sự trao đổi của hàng hóa và sản phẩm lao động chỉ biến thành hàng hóa ở
hình thức đơn giản và ngẫu nhiên. Giá trị của hàng hóa A được biểu hiện ở giá trị sử
dụng của hàng hóa B, cịn hàng hóa B dùng làm hình thái biểu hiện giá trị của hàng

hóa A. Hàng hóa B: giá trị sử dụng của nó biểu hiện giá trị của hàng hóa khác (A) thì
ở vào hình thái vật ngang giá. Hàng hóa mà giá trị của nó được biểu hiện ở giá trị sử
dụng của hàng hóa khác gọi là hình thái giá trị tương đối (bởi vì bản thân hàng hóa A
khơng thể hiện giá trị của mình mà phải nhờ hàng hóa B), cịn hàng hóa mà giá trị sử
dụng của nó biểu hiện giá trị của hàng hóa khác gọi là hình thái vật ngang giá. Và
hàng hóa đóng vai trị vật ngang giá là hình thái phôi thai của tiền tệ. Khi lực lượng
sản xuất và phân công lao động phát triển dẫn đến năng suất lao động tăng lên, chủng
loại hàng hóa phong phú và đa dạng, trao đổi hàng hóa trở nên đều đặn và thường
xuyên hơn. Lúc đó một hàng hóa có thể trao đổi với nhiều hàng hóa khác nhau và
xuất hiện hình thái thứ hai
- Hình thái giá trị đầy đủ hay mở rộng
Ví dụ: 20 vng vải = 1 cái áo
= 10 đấu chè
= 40 đấu cà phê
= 0,2 gam vàng
Ở đây giá trị của 1 hàng hóa được biểu hiện ở giá trị sử dụng của nhiều hàng hóa
đóng vai trị vật ngang giá chung. Do vậy, bất kỳ vật nào cũng có thể là vật ngang giá,
dẫn đến giá trị hàng hóa được biểu hiện cịn chưa thống nhất mà nó là một chuỗi vơ
tận. Tỷ lệ trao đổi đã cố định hơn, tuy vậy vẫn là trao đổi trực tiếp hàng lấy hàng. Do
đó khi nhu cầu trao đổi giữa những người chủ hàng hóa khơng phù hợp sẽ làm cho
trao đổi không thực hiện được. Khi lực lượng sản xuất và phân công lao động tiếp tục
phát triển cao hơn, trao đổi trở nên thường xuyên hơn và mở rộng hơn, hình thái trao
đổi trực tiếp hàng lấy hàng khơng cịn thích hợp và gây trở ngại cho việc trao đổi. Do
đó địi hỏi phải có một vật ngang giá chung và hình thái thứ ba ra đời.
- Hình thái chung của giá trị
Ví dụ:
1 cái áo
=
10 đấu chè =
20 m vải

40 đấu cà phê =
0,2 gam vàng =
Ở đây giá trị của mọi hàng hóa đều được biểu hiện ở giá trị sử dụng của một hàng
hóa đóng vai trị làm vật ngang giá chung. Theo hình thái này, các hàng hóa đều đổi

24


HỎI ĐÁP MƠN KINH TẾ CHÍNH TRỊ
lấy vật ngang giá chung trước sau đó mới mang đổi lấy hàng hóa cần dùng, và vật
ngang giá trở thành môi giới, thành phương tiện trao đổi hàng hóa. Bất kỳ vật nào
cũng có thể là vật ngang giá chung, trong những vùng khác nhau có những hàng hóa
khác nhau đóng vai trị làm vật ngang giá chung. Vì vậy vật ngang giá chưa cố định,
địi hỏi phải có một vật ngang giá chung thống nhất cho tất cả mọi khu vực. Khi đó,
hình thái thứ tư ra đời.
- Hình thái tiền tệ
Khi sản xuất và trao đổi hàng hóa phát triển cao hơn, đặc biệt là khi nó được mở
rộng giữa các vùng địi hỏi phải có một vật ngang giá chung thống nhất thì vật ngang
giá chung được cố định ở một hàng hóa đặc biệt, khi đó xuất hiện hình thái tiền.
Ví dụ:
1 cái áo =
10 đấu chè
=
0,2 gam vàng
40 đấu cà phê =
20 vuông vải =
Trong trường hợp này, giá trị của tất cả mọi hàng hoá đều được biểu hiện ở giá trị
sử dụng của một hàng hoá đóng vai trị tiền tệ. Khi bạc và vàng cùng làm chức năng
tiền tệ thì chế độ tiền tệ gọi là chế độ song bản vị. Khi chỉ còn vàng độc chiếm vị trí
tiền tệ thì chế độ tiền tệ được gọi là chế độ bản vị vàng. Tại sao vàng và bạc, đặc biệt

là vàng có được vai trị tiền tệ như vậy? Thứ nhất, nó cũng là một hàng hố, có thể
mang trao đổi với các hàng hố khác. Thứ hai, nó có những ưu thế (từ thuộc tính tự
nhiên) như: thuần nhất, dễ chia nhỏ, bền vững khơng mịn gỉ...
Như vậy, nguồn gốc của tiền là do quá trình phát triển lâu dài của sản xuất và trao
đổi hàng hóa. Về bản chất, tiền là một hàng hóa đặc biệt được tách ra từ trong thế giới
hàng hoá làm vật ngang giá chung cho các hàng hoá đem trao đổi; nó thể hiện lao
động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.
* Chức năng của tiền tệ
- Thứ nhất, thước đo giá trị
Là thước đo giá trị, tiền dùng để đo lường và biểu hiện giá trị các hàng hóa khác
nhau. Để làm thước đo giá trị thì mỗi quốc gia có một đơn vị tiền tệ nhất định. Để
thực hiện được chức năng này có thể chỉ cần một lượng tiền tưởng tượng, khơng cần
thiết phải có tiền mặt. Giá trị hàng hóa biểu hiện bằng một lượng tiền nhất định gọi là
giá cả hàng hóa. Vậy giá cả hàng hóa là hình thức biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng
hóa. Giá cả của hàng hóa thay đổi (tăng lên hay giảm xuống) do các nhân tố: giá trị
hàng hóa; giá trị tiền tệ; quan hệ cung cầu. Giá trị là nội dung, là cơ sở của giá cả
hàng hóa. Giá trị của hàng hóa càng cao thì giá cả của hàng hóa càng tăng và ngược
lại. Giá trị của hàng hóa tỷ lệ nghịch với giá trị của tiền tệ. Giá cả hàng hóa có thể lên
xuống xoay quanh giá trị nhưng tổng số giá cả và giá trị luôn bằng nhau. Đơn vị đo
lường tiền tệ và các phần chia nhỏ của nó gọi là tiêu chuẩn giá cả.

- Thứ hai, phương tiện lưu thông
Với chức năng phương tiện lưu thông, tiền làm môi giới trung gian trong trao đổi
hàng hóa. Khi tiền chưa xuất hiện: trao đổi trực tiếp HH. Khi tiền xuất hiện: quá
trình trao đổi có tiền làm trung gian HTH. Khi thực hiện chức năng này địi hỏi
phải có lượng tiền mặt trên thực tế, tức tiền thật và khi đó trao đổi hàng hóa vận động
theo cơng thức H - T - H. Đây chính là cơng thức lưu thơng hàng hóa giản đơn. Làm

25



×