Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Giải thưởng Nobel Hòa bình - ngày 10/12

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.67 KB, 14 trang )

Giải Nobel Hòa bình
Huy chương Giải Nobel
* Giải Nobel
Giải thưởng Nobel, hay giải Nobel, là một giải thưởng quốc tế được tổ
chức hằng năm kể từ năm 1901 cho những cá nhân đạt thành tựu trong lĩnh
vực vật lý, hoá học, y học, văn học và hoà bình; đặc biệt là giải hoà bình có
thể được trao cho tổ chức hay cho cá nhân. Vào năm 1968, Ngân hàng Thụy
Điển đưa thêm vào một giải về lĩnh vực khoa học kinh tế để tưởng nhớ nhà
khoa học Alfred Nobel, người đã sáng lập ra giải Nobel. Kết quả đoạt giải
được công bố hằng năm vào tháng 10 và được trao (bao gồm tiền thưởng,
một huy chương vàng và một giấy chứng nhận) vào ngày 10 tháng 12, ngày
kỷ niệm ngày mất của Nobel. Giải Nobel được thừa nhận rộng rãi như là giải
thưởng danh giá nhất một người có thể nhận được trong lĩnh vực được trao.
Các giải Nobel không bắt buộc phải được trao hàng năm, nhưng ít nhất phải
được trao một lần cho mỗi 5 năm. Một giải khi đã trao thì không bao giờ bị
tước. Giải Nobel được trao cho tối đa 3 người mỗi năm.
Nguyện vọng của Nobel
Giải Nobel lập nên theo nguyện vọng cuối cùng của Alfred Nobel, một nhà
hóa học, nhà công nghiệp học và người phát minh ra thuốc nổ của Thụy
Điển. Alfred Nobel đã viết nhiều bản di chúc trong cuộc đời của mình. Bản
cuối cùng viết vào ngày 27 tháng 11 năm 1895, một năm trước khi ông mất.
Ông kí tên trong một quán bar ở Paris. Ông đã thấy tổn thương vì phát minh
thuốc nổ của ông được sử dụng cho mục đích dã man và ông muốn giải
thưởng của ông phục vụ cho nhân loại. Có giả thuyết cho rằng động lực thúc
đẩy là do ông đọc cáo phó về sự chết non của chính ông, do một nhà báo
Pháp viết, là người đã nhầm Alfred với Ludvid, người anh của Alfred, khi
Ludvid mất, và như thế bài báo đã chê trách Alfred là "thần chết". Vì thế
trong bản di chúc, Alfred đã dành 94% trị giá tài sản (khoảng 2 000 000
bảng Anh) và lấy lãi hàng năm để lập nên 5 giải Nobel (vật lý, hóa học, hay
y học, văn học, và hòa bình) cho "những ai, trong những năm trước khi giải
được trao đó, đã đưa đến những lợi ích nhất cho con người.". Ông tuyên bố:


Tất cả tài sản còn lại của tôi được thực hiện như sau đây:
Số tiền vốn sẽ được người thực hiện di chúc đầu tư vào các nguồn an
toàn và lập nên quỹ, và lợi nhuận nói trên được chia thành các giải
thưởng cho những ai trong những năm trước khi nhận giải đã phục vụ
tốt cho nhân loại. Lợi nhuận nói trên được chia ra làm 5 giải thưởng
bằng nhau, chia ra như sau: một phần cho người có phát hiện hay phát
minh quan trọng nhất trong lĩnh vực vật lý, một phần cho người có
phát hiện và phát triển quan trọng nhất trong hóa học; một phần cho
người có phát hiện quan trọng nhất trong lĩnh vực sinh lý học hay y
học; một phần cho người đã sáng tạo ra trong lĩnh vực văn chương tác
phẩm nổi bật nhất với khuynh hướng lý tưởng hóa; và một phần cho
người đã đóng góp nhiều nhất hay tốt nhất nhất cho tình anh em giữa
các dân tộc, cho sự xóa bỏ hay giảm thiểu quân đội thường trực và cho
sự giữ gìn và tăng tình hữu nghị giữa các nước.
Giải thưởng cho vật lý và hóa học sẽ do viện Hàn lâm Thụy Điển trao
tặng; cho sinh lý học hay y học do viện Caroline ở Stockholm; cho văn
chương do viện Hàn lâm Stockholm; và cho người đóng góp vì hòa
bình do ủy ban 5 người được Quốc Hội Na Uy bầu. Trong di chúc của
tôi có nói rõ ràng rằng giải được trao không phân biệt quốc gia của
người nhận, vì thế người xứng đáng nhận giải nhất sẽ nhận giải, dù
cho người đó có là người Scandinavi hay không.
Do chưa hoàn tất và vì các trở ngại khác, phải đến 5 năm sau khi ông mất,
Quỹ tài trợ Nobel mới ra đời và giải Nobel đầu tiên được trao năm 1901.
*Giải Nobel Hòa bình
(tiếng Thụy Điển và tiếng Na Uy: Nobels fredspris)
Là một trong năm nhóm giải thưởng ban đầu của Giải Nobel. Theo nguyện
vọng ghi trong di chúc của Alfred Nobel, Giải Nobel hòa bình nên được trao
"cho người đã có đóng góp to lớn trong việc đẩy mạnh tình đoàn kết giữa
các quốc gia, trong việc giải trừ hoặc hạn chế các lực lượng vũ trang và
trong việc tổ chức hay xúc tiến các hội nghị hòa bình". Có nhiều người cho

rằng Nobel đã lập ra giải thưởng này trong di chúc như một cách đền bù cho
các chất nổ phát minh của ông vốn được sử dụng rộng rãi trong chiến tranh
như dynamit hay ballistite. Thực tế thì ngoại trừ ballistite, không một loại
chất nổ nào của Nobel được sử dụng trong chiến tranh khi ông còn sống
[1]
.
Giải Nobel Hòa bình được trao hàng năm vào ngày 10 tháng 12, ngày mất
của Alfred Nobel tại thủ đô Oslo của Na Uy. Trong khi phần lớn các giải
Nobel khác được trao tại Thụy Điển và do một ủy ban của Thụy Điển quyết
định, thì người hoặc tổ chức được xét trao giải Nobel Hòa bình sẽ được
quyết định bởi Ủy ban Giải Nobel Na Uy do Quốc hội Na Uy lập ra. Chủ
tịch hiện tại của ủy ban này, tiến sĩ Ole Danbolt Mjøs cũng là một người
từng được trao Giải Nobel Hòa bình. Sở dĩ có sự khác biệt này là vì vào thời
điểm Alfred Nobel viết di chúc, Thụy Điển và Na Uy gần như là một liên
bang trong đó Chính phủ Thụy Điển chịu trách nhiệm lĩnh vực đối ngoại còn
Quốc hội Na Uy chịu trách nhiệm lĩnh vực đối nội. Alfred Nobel chưa bao
giờ giải thích lý do tại sao ông lại chọn Na Uy là nước chịu trách nhiệm xét
giải Nobel Hòa bình chứ không phải Thụy Điển
[2]
, nhiều người cho rằng có
lẽ Nobel muốn loại trừ việc các chính phủ nước ngoài có thể thao túng Giải
Nobel Hòa bình, vì vậy ông đã chọn Quốc hội Na Uy, vốn không chịu trách
nhiệm về quan hệ đối ngoại.
Quá trình xét giải
Hàng năm Ủy ban Giải Nobel Na Uy tiếp nhận các đề cử cho Giải Nobel
Hòa bình từ các cá nhân đủ tiêu chuẩn, những người từng được nhận giải,
thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ, giáo sư đại học (của một số chuyên ngành nhất
định), các thẩm phán quốc tế và cuối cùng là các cố vấn đặc biệt của Ủy ban.
Có năm số lượng đề cử từ các nguồn này lên tới khoảng 199 cá nhân hoặc tổ
chức. Những cá nhân và tổ chức được đề cử cho Giải Nobel Hòa bình có thể

được biết về việc mình được đề cử, tuy nhiên điều này không được quy ước
cụ thể
[2]
. Hiện nay dữ liệu về các đề cử cho Giải Nobel Hòa bình từ năm
1901 đến năm 1951 đã được công khai. Nhờ đó người ta mới được biết rằng
Adolf Hitler cũng từng được đề cử giải thưởng về hòa bình này năm 1939,
trong số những người được đề cử còn có cả Benito Mussolini.
Tranh cãi
Giải Nobel Hòa bình là hạng mục gây nhiều tranh cãi nhất trong hệ thống
Giải Nobel. Ngay chính Quốc hội Na Uy, cơ quan có nhiệm vụ cử ra Ủy ban
Giải Nobel cũng từng bị chỉ trích vì đã thông qua việc Na Uy trở thành thành
viên của NATO năm 1949, vì đồng ý cho phép quân đội NATO đóng trên
đất Na Uy, và chấp nhận cho các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo của Hoa
Kỳ neo đậu ở các hải cảng Na Uy năm 1983. Tuy nhiên cần biết rằng Quốc
hội Na Uy không được phép can thiệp vào việc lựa chọn cá nhân hoặc tổ
chức để trao Giải Nobel Hòa bình, thành viên của Ủy ban Giải Nobel Na Uy
không thể đồng thời là nghị sĩ quốc hội, họ thường là các cựu nghị sĩ từ
nhiều đảng phái khác nhau, trong đó có cả những đảng phái phản đối việc
Na Uy trở thành thành viên NATO.
Nhược điểm lớn nhất của việc xét trao Giải Nobel Hòa bình có lẽ là việc
đánh giá tiêu chuẩn của các ứng cử viên. Nếu như ở các giải Nobel khác như
Giải Nobel Văn học hay các giải Nobel về khoa học, các ứng cử viên thường
chỉ được xét giải sau hai hoặc ba thập kỉ những đóng góp của họ ra đời, thì
đóng góp của các ứng cử viên cho Giải Nobel Hòa bình thường chỉ xét ngay
trong năm đó hoặc trong khoảng thời gian ngắn xung quanh thời gian xét
giải, phụ thuộc vào những diễn biến chính trị của đóng góp. Vì vậy đã có
nhiều trường hợp sau khi được trao Giải Nobel Hòa bình, cá nhân hoặc tổ
chức nhận giải lại tham gia vào việc phát động các cuộc chiến tranh hoặc
chạy đua vũ trang, đi ngược lại với tiêu chí giải thưởng. Đó là trường hợp
của Theodore Roosevelt, tổng thống Mỹ, được trao giải năm 1906, sau khi

được trao giải đã mở rộng không ngừng lực lượng Hải quân Hoa Kỳ và dùng
vũ lực đàn áp đẫm máu các cuộc nổi dậy của người dân Philippines chống
lại quân đội chiếm đóng Mỹ. Một trường hợp khác là Shimon Peres, được
trao giải năm 1994, lại được coi là một trong những nhân vật "diều hâu" nhất
của chính trường Israel
[3]
và là người ủng hộ tích cực việc sử dụng vũ lực
đàn áp người Palestine.
Ủy ban Giải Nobel Na Uy còn bị chỉ trích vì đã bỏ qua nhiều nhân vật chính
trị nổi tiếng đã có những đóng góp lớn cho hòa bình thế giới, đó là Mahatma
Gandhi, Steve Biko hay César Chávez. Trong đó trường hợp của lãnh tụ Ấn
Độ Gandhi đã gây tranh cãi không chỉ trong dư luận mà còn trong chính nội
bộ Ủy ban
[4][5]
. Mặc dù đã được đề cử rất nhiều lần vào các năm 1937, 1938,
1939, 1947 và chỉ vài tháng trước khi ông bị ám sát năm 1948, Mahatma
Gandhi đã không bao giờ được trao giải. Ủy ban Giải Nobel sau này đã rất
lấy làm tiếc vì sự bỏ qua này, và khi Đăng-châu Gia-mục-thố được trao Giải
Nobel Hòa bình năm 1989, chủ tịch Ủy ban đã nói rằng một trong những lí
do trao giải cho vị Đạt-lại Lạt-ma là để tưởng nhớ tới Mahatma Gandhi
Danh sách người đoạt giải Nobel Hòa bình
Thập niên 2000
Năm Tên Lí do
2010
Lưu Hiểu Ba (Trung
Quốc)
vì cuộc đấu tranh trường kỳ và bất bạo động
nhằm đòi nhân quyền cở bản ở Trung Quốc
2009
Barack Obama (Hoa

Kì)
vì nỗ lực phi thường để tăng cường đối ngoại
quốc tế và hợp tác giữa các dân tộc
2008
Martti Oiva Kalevi
Ahtisaari
Viipuri (Phần Lan)
vì những nỗ lực đặc biệt của ông ở nhiều châu
lục và hơn 3 thập kỷ để giải quyết các xung
đột quốc tế để giải quyết một cuộc xung đột
kéo dài lâu năm ở Kosovo
2007
Ủy ban Liên chính
phủ về Thay đổi Khí
hậu
Al Gore (Hoa Kỳ)
Hoạt động cảnh báo về thay đổi khí hậu
2006
Mohammad Yunus
(Bangladesh)
Ngân hàng Grameen
Tham gia chống đói nghèo
2005
Cơ quan Năng lượng
Nguyên tử Quốc tế
(IAEA)
Mohamed ElBaradei
(Ai Cập)
Vì những nỗ lực ngăn chặn sử dụng hạt nhân
vào mục đích quân sự

2004
Wangari Muta
Maathai (Kenya)
Nhà hoạt động môi trường, phát triển bền
vững và quyền con người
2003 Shirin Ebadi (Iran)
Nhà đấu tranh vì quyền lợi của phụ nữ và trẻ
em
2002 Jimmy Carter (Hoa Hoạt động vì quyền con người và giải quyết

×