Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

NHỮNG GIÁ TRỊ về bản THỂ LUẬN và PHÉP BIỆN CHỨNG của TRIẾT học DUY vật THỜI kỳ HY lạp cổ đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.53 KB, 17 trang )

1

Những giá trị về bản thể luận và phép biện chøng
cđa triÕt häc duy vËt thêi kú hy l¹p cỉ đại

Hy lạp cổ đại là một trong những cái nôi của văn minh
nhân loại, với những thành tựu khoa học tự nhiên, văn học
nghệ thuật và một nền triết học phát triển rực rỡ bao gồm
những hệ thống, những trờng phái triết học khác nhau gắn
liền với tên tuổi của những nhà triết học lớn, khởi đầu cho sự
ra đời và phát triển của triết học phơng Tây; góp phần vào
quá trình phát triển lịch sử triết học nhân loại. Có đợc sự
phát triển rực rỡ đó phải nói đến nền tảng của phơng thức
sản xuất và sự phát triển của kinh tế-xà hội ở Hy lạp cổ đại.
Vào thế kỷ VI tr. CN nền sản xuất chiếm hữu nô lệ ở Hy
lạp cực kỳ phát triển, đó là thời kỳ nhân loại chuyển từ thời
đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt. Với việc xuất hiện các
quan hệ tiền hàng đà làm cho thơng mại và trao đổi hàng
hoá thông thơng, phát triển. Thời kỳ này ngời Hy lạp đà đóng
đợc thuyền lớn để vợt Địa Trung Hải tìm đến những vùng
đất mới, mở rộng lÃnh thổ , tăng cờng giao lu văn hoá với các
dân tộc ở các vùng lân cận. Phơng thức sản xuất phát triển
dần dần các quan hệ xà hội cũng thay đổi và đà xuất hiện
những t tởng t hữu về của cải. điều đó buộc mỗi ngời cần ý
thức và suy nghĩ về lập trờng sống riêng cho phù hợp với hoàn
cảnh mới. Nhu cầu đó đòi hỏi sự ra đời của triết học, giúp
cho con ngời xây dựng một nền tảng thế giới quan để xem
xét nhìn nhận về tự nhiên và vai trò con ngời trong chinh
phục thế giới.



2

Sự phân công lao động trí óc và lao động chân tay
phát triển, sự phân chia lao động đà tạo điều kiện xuất
hiện các tri thức triết học và khoa học, phá vỡ ý thức hệ thần
thoại, tôn giáo. Cho nên triết học mang tính giai cấp sâu
sắc, là thế giới quan của giai cấp chủ nô và tri thức triết học
dần dần trở thành t tởng thống trị trong xà hội nô lệ; sự phát
triển đó đà làm xuất hiện hai trung tâm kinh tế- chính trị
điển hình là thành bang Aten và thành bang Spác. XÃ hội Hy
Lạp lúc này có hai tầng lớp cơ bản đó là: tầng lớp chủ nô dân
chủ ở thành bang Aten và tầng lớp chủ nô quý tộc ở thành
bang Spác. Tơng ứng với hai trung tâm kinh tế- chính trị này
là hai thể chế nhà nớc khác nhau về hình thức đó là nhà nớc
chủ nô dân chủ Aten và nhà nớc chủ nô quân chủ Spác. Sự
khác nhau đó đà gây ra cuộc nội chiến tơng tàn và cuối
cùng chiến thắng đà thuộc về thành bang Spác.
Từ những nét đặc thù về kinh tế- chính trị, xà hội và
những tiền ®Ị vỊ khoa häc Êy, triÕt häc Hy L¹p cỉ đại có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, sự phân chia và đối lập giữa các trờng phái triết
học, duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần
và hữu thần là nét nổi bật của quá trình phát sinh, phát
triển triết học; trong đó điển hình là cuộc đấu tranh giữa
hai đờng lối triết học: đờng lối duy vật của Đêmôcrít và đờng lối duy tâm của Platôn. Triết học Hy lạp ngay từ đầu đÃ
mang tính giai cấp sâu sắc đó là thế giới quan, ý thức hệ
của giai cấp chủ nô thống trị.


3


Thứ hai, các hệ thống triết học Hy lạp cổ đại nói chung
đều có xu hớng đi sâu giải quyết các vấn đề về bản thể
luận và nhận thức luận, là những vấn đề của mối quan hệ
giữa vật chất và ý thức. Trên cơ sở đó giúp cho các nhà triết
học có cơ sở chống lại những quan điểm mê tín, dị đoan và
những điều vô lý trong thần thoại.
Thứ ba, nền triết học Hy Lạp cổ đại nói chung còn ở trình
độ trực quan, chất phác, mộc mạc, sơ khai.
Thứ t, triết học Hy Lạp cổ đại luôn gắn với khoa học tự
nhiên, nhìn nhận tự nhiên với bức tranh tổng thể để xem
xét, giải đáp về tự nhiên một cách thuyết phục
Những nét đặc trng này không chỉ là cái phân biệt
giữa hai nền triết học Đông- Tây cổ đại mà còn nói lên vị
trí và vai trò của triết học Hy Lạp cổ đại đối với lịch sử triết
học thế giới, nó đặt nền tảng cho sự phát triển triết học Tây
Âu sau này.
Do nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất xà hội nên lực lợng
sản xuất từng bớc phát triển đó cũng là sự quan tâm của
nhiều ngành khoa học. Chính sự phát triển các ngành khoa
học ấy nó lại tạo ra điều kiện để phát triển lực lợng sản xuất.
Vì lực lợng sản xuất thời kỳ này ở Hy Lạp cổ đại yêu cầu
ngày càng cao đối với khoa học và t tởng tiên tiến. T tởng Hy
Lạp cổ đại cũng đan xen hình thành phát triển với các khoa
học khác do yêu cầu sản xuất vật chất phát triển. Những tri
thức này tuy ở hình thái sơ khai nhng đều đợc trình bày
trong hệ thống triết học tự nhiên của các nhà triết học cổ
đại. Khoa học lúc đó cha phân ngành, các nhà triết học



4

đồng thời là nhà khoa học nh: toán học, vật lý học, thiên văn
học... Nh vậy, triết học Hy Lạp cổ đại ngay từ khi mới ra đời
đà gắn với nhu cầu thực tiễn và gắn liền với khoa học. Sự
hình thành và phát triển t tởng triết học Hy Lạp cổ đại liên
tục gắn liền với cuộc đấu tranh giữa các lực lợng xà hội đối
lập, đó là lực lợng đại diện cho chủ nô dân chủ và chủ nô
quý tộc bảo thủ muốn duy trì xà hội chiếm hữu nô lệ. Chính
đó là cuộc đấu tranh gay gắt giữa nô lệ và chủ nô. Đấu
tranh gay gắt giữa khoa học và tôn giáo, giữa t tởng duy vật
với t tởng thần thánh.
Những nhà triết học tiêu biểu ở thời kỳ Hy Lạp cổ đại là:
TaLét (626- 547 tr.CN), Anaximanđrơ (610- 546 tr.CN),
Anaximen (585- 525 tr.CN), Hêraclít (520- 460 tr.CN), Pitago
(571- 479 tr.CN), Lơxíp (500- 440 tr.CN), Đêmôcrít (460- 370
tr.CN), Platôn (472- 347 tr.CN), Arixtốt (384- 322 tr.CN)...
những quan điểm triết học gắn liền với t tởng chính trị của
họ là cơ sở lý luận cho sự hoạt động tiến bộ của tầng lớp tiên
tiến trong giai cấp chủ nô. Sự nảy nở rực rỡ của các trào lu t tởng triết học Hy Lạp cổ đại có liên hệ mật thiết và chịu ảnh
hởng của triết học phơng Đông cổ đại. Vào thời kỳ khoa học
phát sinh ở Hy Lạp, thì ở phơng Đông đà tích luỹ đợc những
tri thức đáng kể về thiên văn học, hình học, đại số, y học...
các nhà bác học lớn của Hy Lạp cổ đại phần nhiều đà tới Ai
Cập, Babilon nghiên cứu và học tập. Những mầm móng về
quan niệm duy vật và vô thần của các nhà triết học Ai Cập
và Bibalon có ảnh hởng tích cực đến sự phát triển của triết
học ở Hy Lạp cổ đại. Nhìn chung, triết học Hy Lạp cổ đại
mang tính chất duy vật tự phát và biện chứng sơ khai. Nhng



5

đời sống chính trị ở Hy Lạp bấy giờ sôi động, những quan
hệ thơng mại với nhiều nớc khác nhau trên Địa Trung Hải, sự
tiếp xúc với điều kiện sinh hoạt và những tri thức muôn vẻ
của nhân dân các nớc ấy, sự quan sát các hiện tợng tự nhiên
một cách trực tiếp nh một khối duy nhất và lòng mong muốn
giải thích chúng một cách khoa học đà góp phần qui định
và làm phát triển thế giới quan duy vật tự phát và biện chứng
sơ khai của Hy Lạp cổ đại. Mặc dù xuất hiện trong điều kiện
các tri thức khoa học sơ khai, triết học Hy Lạp cổ đại đà đề
cập tới những vấn đề cơ bản của thế giới quan theo nghĩa
hiện đại tuy còn ở trạng thái mầm móng. Triết học Hy Lạp cổ
đại tuy thô sơ, mộc mạc tự phát nhng về cơ bản nó đà phản
ánh đúng thế giới trong sự vận động và phát triển thế giới.
Nên những giá trị và những t tëng triÕt häc tÝch cùc cđa nã
cịng cã ý nghÜa rất to lớn trong đấu tranh chống lại chủ
nghĩa duy tâm, t tởng thần thoại tạo cơ sở cho khoa học và
triết học phát triển.
Ngay từ khi mới ra đời triết học duy vật Hy Lạp cổ đại
cũng thể hiện rõ tính biện chứng sơ khai của nó. Mặc dù
ngay thời kỳ này sự phân chia khuynh hớng triết học đà khá
rõ rệt nhng nhìn chung nó mang tính duy vật tự phát. Ngay
từ khi mới ra đời, nó đà tìm cách giải thích thế giới nh một
chỉnh thể thống nhất trong đó các sự vật vận động và biến
đổi không ngừng. Ngoài ra triết học Hy Lạp cổ đại còn thể
hiện ở chỗ nó là thế giới quan và ý thức hệ của giai cấp chủ
nô thống trị trong xà hội Hy Lạp và La Mà lúc bấy giờ. Nh vậy,
ngay từ đầu nó mang tính giai cấp sâu s¾c. TÝnh giai cÊp

cđa mét häc thut triÕt häc, theo các nhà nghiên cứu, không


6

chỉ thể hiện ở chỗ học thuyết đó biểu hiện lập trờng của
một giai cấp hay một đảng phái nào đó, mà còn thể hiện t tởng của một khuynh hớng, trào lu triết học nhất định. Những
mâu thuẫn trong xà hội cổ đại đợc thể hiện trong cuộc đấu
tranh về t tởng của các nhà triết học cổ Hy Lạp, tiêu biểu
nhất là cuộc đấu tranh giữa hai đờng lối triết học Đêmôcrít
và đờng lối triết học Platôn. Đây cũng là cuộc xung đột của
hai thế giới quan xuất hiện đầu tiên trong triết học. Nó liên
quan đến thế giới quan, phơng pháp luận trong triết học
trong giải quyết tính đảng, tính chính trị, tính xu hớng. Từ
những điều kiện kinh tế, xà hội và những đặc điểm của
triết học Hy Lạp cổ đại có thể khái quát những giá trị của
triết học duy vật Hy Lạp cổ đại trên các mặt sau:.
Về bản thể luận
Trớc tiên phải kể đến trờng phái triết học Milê, trờng phái
triết học này cũng xuất hiện ở cái nôi triết học đầu tiên của
Hy Lạp cổ đại là Iônia. Điểm tiến bộ của các nhà triết học duy
vật này đều xuất phát từ các tầng lớp tiến bộ trong giai cấp
chủ nô, họ có nhiều t tởng khác với các quan niệm thần thoại
và tôn giáo nguyên thuỷ thống trị hồi đó. Chủ yếu lý giải các
vấn đề bản chất và khởi nguyên của thế giới dựa trên một số
các tri thức khoa học sơ khai có đợc thời đó, coi toàn bộ thÕ
giíi chóng ta nh mét chØnh thĨ thèng nhÊt, sinh ra từ một
khởi nguyên duy nhất nh: nớc, lửa, không khí... để giải thích
thế giới, có thể có nhìn nhận khác nhau, nhng cái chung là
nghiên cứu sự tồn tại trong tự nhiên vốn có của sự vật. Chẳng

hạn, nh Talét thành tựu nổi bật của ông là giải thích tù nhiªn


7

không phải bằng tín điều tôn giáo, mà bằng nghiên cøu hiƯn
thùc, xt ph¸t tõ viƯc quan s¸t trùc tiÕp sự vật, ông cho rằng
nớc giữ vai trò trực tiếp quan trọng trong tự nhiên cũng nh
trong đời sống con ngời, cũng nh mọi thức ăn, mọi sự vật
đều ẩm ớt, hạt giống của mọi sự vật đều ẩm ớt... nguồn gốc
ẩm ớt của vật thể chính là nớc, không có nớc là không có gì
cả. Vì thế, Talét cho rằng nớc là yếu tố đầu tiên, là bản
nguyên của mọi vật, tất cả bắt đầu từ nớc, rồi trở lại về với
yếu tố cuối cùng là nớc.
Nhà triết học Anaximăngđrơ cho rằng cơ sở của mọi vật
trong vũ trụ là một dạng vật chất đơn nhất, vô định, vô hạn
và tồn tại vĩnh viễn là chất Apâyrôn, theo Anaximăngđrơ,
Apâyrôn luôn ở trạng thái vận động không ngừng, từ đó tạo
ra những mặt đối lập nh nóng và lạnh, khô và ớt, sinh ra và
chết đi Qúa trình vận động và chuyễn hoá của những
mặt đối lập là nguồn gốc của mọi sự vật: cái lạnh và ớt kết lại
thành đất, cái nóng và khô toả ra xung quanh tạo nên các
thiên thể mặt trời, mặt trăng và các vì sao vận động xung
quanh trái đất. Nhng so với quan niệm của Talét thì quan
niệm về vật chất của Anaximăngđrơ có bớc phát triển mới.
Bởi vì, ông coi vật chất khởi nguyên không phải là một dạng
vật chất cụ thể nh nớc, cũng không phải là một vật thể có
kích thớc có khối lợng. Apâyrôn là một yếu tố vật chất khởi
nguyên, khó nhận thức bằng giác quan, phản ánh ở mức độ
trừu tợng hơn Talét. Với quan niệm nh vậy, lần đầu tiên trong

lịch sử triết học duy vật Hy Lạp cổ đại vật chất không bị
đồng nhất với một vật thể cụ thể. Mặc dù còn mang nặng
tính chất ngây thơ, chất phác, nhng quan niệm nh vậy ®· lµ


8

một bớc tiến mới rất tích cực trong quá trình nhận thức vật
chất, bớc nhảy vọt mới về trình độ t duy trừu tợng của ngời
Hy Lạp cổ đại.
Còn Anaximen cho không khí là căn nguyên của mọi vật.
Không khí theo ông là một loại vật chất ẩm và nóng không có
hình dạng nhất định và mờ tối. Không khí sinh ra mọi vật
bằng sự tản ra hay tụ lại của nó; không khí gặp nóng sẽ tản
ra thành lửa, gặp lạnh sẽ ngng tụ lại thành nớc, thành đất,
thành đá. Điểm tiến bộ tích cực của ông cống hiến cho triết
học duy vật là dành nhiều công sức để nghiên cứu nguồn
gốc vũ trụ trên quan điểm vô thần. Ông bác bỏ những
chuyện hoang đờng về thần thánh và khẳng định rằng mọi
nguyên nhân của sự vật đều quy về không khí vô hạn. Ông
là ngời đầu tiên phát hiện ra ánh sáng của mặt trăng là sự
phản chiếu của ánh sáng mặt trời; ma đá là do nớc trong
không khí ngng đọng lại và cầu vồng là sự phản chiếu của
ánh sáng mặt trời.
Nói đến giá trị đỉnh cao của triết học duy vật Hy Lạp
cổ đại là phải liên hệ chứng minh các đại biểu của trờng phái
nguyên tử luận, đại biểu sáng giá nhất là Đêmôcrít, đồng
quan điểm với thầy mình là Lơxíp để phát triển thuyết
nguyên tử luận lên một trình độ mới. Ông cho rằng, nguyên tử
là cơ sở cấu tạo nên vạn vật, nguyên tử là hạt vật chất cực

nhỏ, không nhìn thấy đợc, không phân chia đợc, không mùi
vị, không âm thanh, không màu sắc, không khác nhau về
chất mà chỉ khác nhau về hình thức, trật tự và t thế. Dới con
mắt của Đêmôcrít, mọi sự vật trong thế giới chúng ta ®Ịu ®-


9

ợc tái tạo từ các nguyên tử và khoảng không; nguyên tử vô hạn
về số lợng và hình thức nhng mỗi nguyên tử lại có hình thức
xác định. Theo ông các sự vật hiện tợng đều do nguyên tử
cấu tạo nên, các nguyên tử kết hợp với nhau theo một trật tự
xác định, sự liên kết khác nhau đà quy định bản chất khác
nhau của sự vật. Sự xuất hiện hay mất đi của sự vật này hay
sự vật khác là kết quả việc kết hợp hay phân tán của các
nguyên tử trong quá trình vận động trong khoảng không và
tuân theo những quy luật tự nhiên. Mọi biến đổi của sự vật
thực chất là sự thay đổi trình tự sắp xếp của các nguyên tử
tạo nên chúng. Còn bản thân mỗi nguyên tử thì không thay
đổi gì cả.
Theo ông động lực vận động vĩnh viễn của nguyên tử là
động lùc tù th©n nã. Quan niƯm Êy cã ý nghÜa rất lớn đối với
việc nghiên cứu vận động trên quan điểm duy vật, ông cho
rằng vận động của nguyên tử là vĩnh viễn, nguyên nhân
vận động là tự bản thân nó, nguồn gốc của sự vận động
của các nguyên tử là do sự va chạm.
Với thành tựu triết học rực rỡ của Đêmôcrít đà đa chủ
nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại lên một đỉnh cao mới. Mặc dù
chủ nghĩa duy vật của ông cha thoát khỏi tính chất thô sơ,
chất phác, còn mang tính chất máy móc siêu hình nhng so

víi triÕt häc duy vËt cđa c¸c trêng ph¸i trớc đó, đà thể hiện
đợc tính trừu tợng và tính khái quát cao trong định nghĩa
vật chất; đà có những quan niệm đúng đắn về mối liên hệ
không thể tách rời giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý
tính. Ông cũng là ngời đầu tiên đặt cơ sở lý luËn cho chñ


10

nghĩa vô thần. Công lao lịch sử của ông đợc thể hiện rõ
trong cuộc đấu tranh bền bỉ để bảo vệ, truyền bá chủ
nghĩa duy vật, chống lại một cách quyết liệt chủ nghĩa duy
tâm và thần học ở Hy Lạp cổ đại.
Tóm lại, dới góc độ bản thể luận và vũ trụ quan sơ khai
giá trị cống hiến của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại là phản
ánh thế giới đúng đắn, có tác dụng thúc đẩy tiến bộ xà hội,
sản xuất, văn hoá, khoa học trong xà hội chiếm hữu nô lệ nói
riêng và cho nhân loại nãi chung. NÐt nỉi bËt cđa triÕt häc
duy vËt Hy Lạp cổ đại là tính chất mộc mạc thô sơ của nó.
Nó giải thích tự nhiên trên quan điểm duy vật thuần phác,
theo Ăngghen, đó là quan niệm về thế giới một cách nguyên
thuỷ, ngây thơ, nhng căn bản là đúng1. Các nhà triết học
duy vật Hy Lạp cổ đại khẳng định thế giới vật chất tồn tại
khách quan. Thế giới đó không do thần thánh hoặc do một
lực lợng siêu nhiên nào tạo nên. Quan niệm duy vật thô sơ của
các nhà triết học Hy lạp cổ đại đà ®ãng gãp vµo trong cc
®Êu tranh chèng chđ nghÜa duy tâm, chống tôn giáo, chống
thần học cổ đại.
Về phép biện chứng
Hêraclít là ngời có công đóng góp những giá trị to lớn về

phép biện chứng Hy lạp cổ đại. Ông là đại biểu điển hình
nhất của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong giai
đoạn đầu của triết học. Cống hiến lớn nhất và nổi tiếng của
ông là triết häc duy vËt víi rÊt nhiỊu u tè biƯn chøng có giá
trị, tuy ông cha trình bày dới dạng một hệ thống các luận
1

Ăng ghen, chống Đuy- rinh, Nxb, ST, HN, 1984, tr 32.


11

điểm khoa học nh sau này, mặc dù là biện chứng sơ khai
nhng đà chứa đựng những t tởng có giá trị về sự vận động
và phát triển không ngừng cđa thÕ giíi vËt chÊt, vỊ sù tån t¹i
phỉ biÕn của mâu thuẩn, về sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập. Những giá trị to lớn đó đợc các nhà
triết học cổ điển Đức sau này kế thừa và các nhà triết học
Mác xít đánh giá cao.
Ông cho rằng lửa chẳng những là nguyên nhân sinh ra
mọi vật mà còn là nguồn gốc của mọi vận động, ông nói cái
chết của lửa là sự ra đời của không khí, cái chết của không
khí là sự ra đời của nớc, từ cái chết của nớc sinh ra không
khí, từ cái chết của không khí- lửa và ngợc lại2. Ông đà căn cứ
vào những kinh nghiệm cảm tính khái quát một kết luận nổi
tiếng về vật chất vận động mọi vật đều trôi đi, chảy đi,
không có cái gì đứng nguyên tại chỗ. T tởng về sự vận
động và phát triển không ngừng của thế giới đợc Hêraclít
diễn đạt một cách giản dị mà sâu sắc: Chúng ta không
thể tắm hai lần trên cùng một dòng sông, vì nớc sông không

ngừng chảy3. Phép biện chứng của ông là phép biện chứng
tự phát, ngây thơ, xuất phát từ tự nhiên chứ không phải từ
thần thánh để giải thích tự nhiên.
Theo ông, thế giới vật chất luôn vận động và phát triển
không ngừng, quan niệm thế giới nh một dòng chảy không
ngừng, bất tận trong đó mọi sự vật hiện tợng đều trong trạng
thái biến đổi và chuyễn hoá lẫn nhau, thay thế nhau. Khi
xem xét sự vật hiện tợng ông có cái nhìn hoàn toàn mới mẽ:
2
3

Lịch sử triết học, Nxb CTQG, Hà Nội. 1998.tr156.
Lịch sử triết học, Nxb CTQG, Hµ Néi. 1994. TËp 2. tr105.


12

sự vật vừa là nó, vừa không phải là nó. Nớc biển vừa sạch lại
vừa không sạch, cùng một sự vËt võa tèt l¹i võa xÊu. T tëng
biƯn chøng cđa ông đà đợc Ăngghen đánh giá rất cao Cái
thế giới quan ban đầu, ngây thơ, nhng xét về thực chất thì
đúng đó là thế giới quan của các nhà triết học Hy lạp thời cổ
và lần đầu tiên đà đợc Hêraclít trình bày một cách rõ ràng:
mọi vật đều tồn tại, vì mọi vật đang trôi qua, mọi vật đều
không ngừng biến hoá, mọi vật đều không ngừng phát sinh
và tiêu vong3.
Phép biện chứng của Hêraclít có một giá trị quan trọng
đó là t tởng về sự tồn tại phổ biến của mâu thuẩn trong các
sự vật và hiện tợng đợc hiểu nh là sự thống nhất và đấu
tranh giữa các mặt đối lập. Theo ông, trong cuộc sống tồn tại

phổ biến các mặt đối lập nh tốt xấu, ngày đêm, trong con
ngời cũng có cả sự sống và chết, tỉnh và mê, trẻ và già
Những mặt đối lập đó không tồn tại tách rời nhau mà na tựa
vào nhau, bỉ sung cho nhau, thèng nhÊt víi nhau trong cïng
mét sự vật. Sự vật hiện tợng vận động và chuyễn hoá lẫn
nhau nh cái lạnh chuyễn sang nóng, cái nóng trở nên lạnh và
cái khô cái ớt chuyễn đổi cho nhau
Hêracrít quan niệm về linh hồn con ngời đợc thể hiện rất
rõ. Ông cho rằng trong con ngời ngoài lửa ra còn có cả những
chỗ ẩm ớt cho nên mới sinh ra ngêi tèt, ngêi xÊu. Linh hån con
ngêi lµ sự thống nhất của hai mặt đối lập- cái ẩm ớt và lửa.
T tởng biện chứng của Hêraclít mặt dù còn chất phác,
thô sơ nhng căn bản là đúng đắn, phù hợp với quy luật khách
3

C. Mác-Ph. Ăngghen, toàn tập, tËp 5 tr 34


13

quan. Ông đà đa triết học duy vật Hy lạp cổ đại phát triển
lên một bớc mới, góp phần đấu tranh chống các quan điểm
duy tâm, siêu hình của các nhà duy tâm thời kỳ cổ đại.
Dới góc độ phép biện chứng nhìn chung những giá trị
triết học Hy lạp thời kỳ cổ đại có ý nghĩa rất to lớn, trong đó
phải nói đến Hêraclít, triết học của ông rất nhiều yếu tố
biện chứng có giá trị đợc các nhà triết học Mácxít đánh giá
cao. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại nghiên cứu phép biện
chứng chỉ cốt nâng cao nghệ thuật tranh luận, nghệ thuật
hùng biện để bảo vệ những luận điểm triết học của mình

và để tìm ra chân lý. Kết quả của quá trình nghiên cứu này
nhiều nhà triết học đà nhận thức đợc và phát hiƯn ra nhiỊu
u tè cđa phÐp biƯn chøng nh mèi liên hệ giữa các hiện tợng và sự vật, sự vËn ®éng vÜnh viƠn cđa vËt chÊt; tÝnh
thèng nhÊt cđa những mặt đối lập của sự vật, tính nhân
quả của sù ph¸t sinh, ph¸t triĨn diƯt vong cđa sù vËt. Những
yếu tố biện chứng đó chính là sự phỏng đoán thiên tài về
những nguyên lý và quy luật của phép biện chứng mà Mác,
Ănghen gọi là phép biện chứng tự phát, ngây thơ.
Các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đà giải quyết
đúng đắn mặt thứ hai của vấn đề cơ bản của triết học.
Họ cho rằng con ngời có khả năng nhận thức đợc thế giới,
nhận thức đợc chân lý khách quan. Đối tợng của nhận thức
theo họ không phải là thế giới ý niệm mà là thế giới vật chất,
là giới tự nhiên. Họ là những ngời đầu tiên nêu lên cảm giác
luận duy vật và cho rằng cảm giác có ý nghĩa quan trọng
trong quá trình nhận thức. Nhận thức lý tính không tách rời


14

nhận thức cảm tính, theo họ, đó là hai giai đoạn của quá
trình nhận thức. Họ đà đứng trên quan ®iĨm nhËn thøc ln
duy vËt ®Ĩ chèng chđ nghÜa duy lý duy tâm. Chẳng hạn, cả
Hêraclít và Đêmôcrít đều có quan niệm về nhận thức một
cách đúng đắn, mặc dù cũng còn có mặt hạn chế. Nếu nh
các nhà triết học trờng phái Milê chủ yếu bàn về bản thể
luận, sự vận động thế giới thì Hêraclít và Đêmôcrít bên cạnh
đó hai ông còn phân tích nhiều vấn đề về nhận thức luận.
Hêraclít một mặt ông đánh giá cao vai trò của các giác quan
trong nhận thức các sự vật đơn lẻ, cho rằng chúng đem lại

cho ta những hiểu biết xác thực và sinh động về sự vật;
mặt khác «ng cho r»ng mơc ®Ých tèi cao cđa chóng ta lµ
nhËn thøc logos, nhËn thøc sù thèng nhÊt cđa vị trụ là sự
thông thái tối cao. Tuy nhiên, đây là việc đầy phức tạp, cho
nên mặc dù logos tồn tại vĩnh viễn và trong cuộc sống của
mình, con ngời thờng xuyên tiếp xúc với nó, nhng ít ngời
hiểu đợc, chỉ có một số nhà thông thái hiểu đợc logos, nhng
cần nhấn mạnh rằng ngời hiểu biết nhiều cha hẳn đà là
thông thái, đó cũng là hạn chế của ông.
Còn đối với Đêmôcrít ngời có công lớn trong việc đa lý
luận nhận thức duy vật tiến lên một bớc mới, khác với các nhà
triết học trớc, Đêmôcrít cho rằng đối tợng nhận thức là giới tự
nhiên; mục tiêu nhận thức là bản chất sự vật. Ông không phủ
định vai trò của nhận thức cảm tính và cũng không tuyệt
đối hoá vai trò nhận thức lý tính. Ông cho rằng, nhận thức
đều bắt nguồn từ cảm giác tiến lên t duy. Ông chia nhận
thức thành hai dạng:


15

- Dạng nhận thức mờ tối: là dạng nhận thức thông qua
cảm giác, do các giác quan đem lại.
- Dạng nhận thức chân lý: là dạng nhận thức thông qua
những phán đoán lôgic, dạng này đem lại những kết quả
đáng tin cậy. Đó là dạng nhận thức đợc nguyên tử và chân
không, tức là nhận thức đợc bản chất của sự vật.
Hai dạng này có liên hệ chặt chẽ với nhau; mỗi loại đều có
vai trò quan trọng riêng, chúng liên hệ chặt chẽ và bổ sung
cho nhau, nhng theo Đêmôcrít đáng tin cậy hơn cả là nhận

thức chân lý.
Các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đều quan tâm
đến xà hội, các hiện tợng xà hội, hiện tợng chính trị trong đời
sống xà hội. Điểm tiến bộ của họ là ủng hộ dân chủ, tự do,
đứng trên lập trờng của tầng lớp dân chủ chủ nô. Đấu tranh
bảo vệ nền dân chủ Aten, về vấn đề nhà nớc, đạo đức có
rất nhiều điểm tiến bộ. Chẳng hạn nh Đêmôcrít cho rằng
con ngời và linh hồn con ngời đều do nguyên tử và khoảng
không tạo nên; con ngời là động vật có khả năng học, có cảm
giác và năng động, linh hồn con ngời là tổng thể các nguyên
tử, là cơ sở của mọi hoạt động cũng nh søc sèng cña con ngêi, linh hån con ngêi mÊt đi cùng với khi thể xác mất đi. Ông
đứng trên lập trờng dân chủ chủ nô, bảo vệ nền dân chủ
nhà nớc Aten.
Các nhà triết học cho rằng đối tợng của đạo đức là lơng
tâm là cuộc sống, hành vi, số phận mỗi con ngời, chống lại sự
giàu có quá đáng, lợi nhuận bất lơng; ca ngợi lợi ích chung bảo
vệ quyền lợi công dân tự do và cho rằng: cần phải a thích


16

cái nghèo trong một nhà nớc dân chủ hơn so với cái gọi là cuộc
sống hạnh phúc trong chế độ chuyên chế, tựa nh tự do tốt
hơn so với nô lệ4. Phơng châm t tởng của các ông đó là thà
nghèo còn hơn là giàu có nhng mất dân chủ tù do. Mơc tiªu
cđa con ngêi híng tíi tù do và hạnh phúc, nhng hạnh phúc
không chỉ là sự giàu có; chỉ có ngời nào biết bằng lòng với
cái hiện tại đang có thì mới có đợc hạnh phúc. Hạnh phúc là ở
sự thanh thản tâm hồn, tự do thoả mái.
Nghiên cứu lịch sử phát sinh phát triển của triết häc nãi

chung, cđa triÕt häc duy vËt Hy L¹p cỉ đại nói riêng một lần
nữa giúp chúng ta nhìn nhận rõ ràng đợc sự kế tục, kế thừa
của văn minh nhân loại và triết học. Trên cơ sở đó cho ta
thấy đợc những giá trị cống hiến của các nhà triết học duy
vật cổ đại, đặt nền tảng phơng pháp ln cho sù ph¸t triĨn
triÕt häc duy vËt biƯn chøng sau này, là tiền đề cơ sở lý
luận cho sự phát triển của khoa học tự nhiên, liên kết chặt
chẽ giữa triết học và các khoa học tự nhiên, đề ra nhiệm vụ
cho khoa học hiện đại.
Qua nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại giúp ta nắm đợc
điều kiện kinh tế- xà hội và văn hoá của xà hội Hy Lạp cổ đại,
hiểu đợc cội nguồn lịch sử văn hoá và các vấn đề hiện đại
của xà hội phơng Tây. Thấy đợc mầm mống, là một trong
những cái nôi của mọi dạng thế giới quan sau này. Trong công
tác nghiên cứu khoa học, học tập và giảng dạy giúp cho chúng
ta thấy đợc những mặt tích cực và hiểu biết sâu thêm về
giá trị lịch sử văn hoá phơng Tây, để phát huy củng cố
niềm tin duy vật triệt để, vào triết học Mác xít. Vận dụng
4

Lịch sử triết häc, Nxb CTQG, Hµ Néi. 1998.tr176.


17

nó vào các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và các
lĩnh vực hoạt động thực tiễn của đời sống xà hội, đồng thời
kiên quyết phê phán các trào lu t tởng lợi dụng chủ nghĩa duy
tâm để tuyên truyền xuyên tạc chống lại Đảng, Nhà nớc và
nhân dân ta hiƯn nay. Víi tinh thÇn kÕ thõa tinh hoa t tởng

văn hoá nhân loại chúng ta phải biết kế thừa có chọn lọc
những yếu tố tích cực hợp lý của t tởng duy vật. Phải có quan
điểm khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và thái độ đúng
đắn với t tởng duy vật mặc dù nó còn thô sơ mộc mạc và
phép biện chứng còn sơ khai, coi đó nh là nền văn hoá văn
minh nhân loại.



×