Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

Biến đổi quan hệ dòng họ của người tày ở xã quang lang huyện chi lăng tỉnh lạng sơn từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.86 MB, 136 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TẠ THỊ ANH

BIẾN ĐỔI QUAN HỆ DÒNG HỌ CỦA NGƢỜI
TÀY Ở XÃ QUANG LANG, HUYỆN CHI LĂNG,
TỈNH LẠNG SƠN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY.

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Nhân học

Hà Nội-2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TẠ THỊ ANH

BIẾN ĐỔI QUAN HỆ DÒNG HỌ CỦA NGƢỜI
TÀY Ở XÃ QUANG LANG, HUYỆN CHI LĂNG,
TỈNH LẠNG SƠN TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY.

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Nhân học
Mã số: 60 31 03 02

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thanh Bình



Hà Nội-2017


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành đề tài:“Biến đổiquan hệ dịng họ của người Tày ở xã
Quang Lang, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn từ năm 1986đến nay”, trong quá
trình đi thu thập tài liệu thực tế, tôi đã nhận được sự giúp đỡ rất nhiệt tình của
Ủy ban nhân dân xã, người dân địa phương và đặc biệt là cộng đồng dân tộc
Tày tại xã Quang Lang, đã cung cấp cho tôi một nguồn tài liệu, thông tin thực
tế vô cùng quý giá.
Tôi xin chân thành cảm ơn, sự giúp đỡ nhiệt tình của q thầy cơ giáo,
các bạn trong Khoa Nhân học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
đặc biệt làTS.Nguyễn Thị Thanh Bình - người trực tiếp hướng dẫn, tận tình
giúp đỡ, chỉ bảo tơi hoàn thành đề tài luận văn thạc sĩ này.
Nhân đây, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành, sâu sắc nhất tới sự giúp
đỡ nhiệt tình, quý báu trên.
Hà Nội, ngày 07 tháng 05 năm 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của tơi. Nếu có gì sai
phạm tơi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Tác giả luận văn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Mục tiêu nghiên cứu.................................................................................... 2

3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu ........................... 3
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu .............................................................. 4
5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................ 5
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn ...................................................... 6
7. Kết cấu của luận văn ................................................................................... 7
Chƣơng 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu ......... 8
1.1. Tổng quan nghiên cứu về dòng họ. ......................................................... 8
1.1.1. Nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ ở Việt Nam ........................ 8
1.1.2. Nghiên cứu vềdòng họ của người Tày. ................................................. 12
1.2. Các khái niệm và cơ sở lý thuyết ............................................................ 14
1.2.1. Các khái niệm ........................................................................................ 14
1.2.2. Cơ sở lý thuyết ....................................................................................... 16
1.3. Khái quát về ngƣời Tày và địa bàn nghiên cứu .................................. 20
1.3.1. Vài nét về người Tày ở Việt Nam .......................................................... 20
1.3.2. Vài nét về người Tày xã Quang Lang ................................................... 22
1.4. Khái quát về điểm nghiên cứu chính .................................................... 30
1.4.1. Thôn Khun Phang, xã Quang Lang. .................................................... 30
1.4.2 . Thôn Làng Đăng, xã Quang Lang. ...................................................... 31
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 33
Chƣơng 2: Dòng họ của ngƣời Tày ở xã Quang Lang............................... 34
2.1. Quan niệm về dòng họ của ngƣời Tày. ............................................... 34
2.2. Cấu trúc dòng họ ................................................................................... 36
2.3. Tổ chức dòng họ ngƣời Tày xã Quang Lang ...................................... 39
2.4. Vai trị của trƣởng họ và những ngƣời có uy tín trong dịng họ ...... 45
Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 49


Chƣơng 3: Biến đổi quan hệ dịng họ trong tín ngƣỡng thờ cúng tổ tiên
và các nghi lễ vòng đời từ năm 1986 đến nay. ............................................ 50
3.1 Biến đổi quan hệ dịng họ của ngƣời Tày trong tín ngƣỡng thờ cúng tổ

tiên ................................................................................................................... 51
3.2. Biến đổi quan hệ dòng họ trong các nghi lễ vòng đời ........................ 58
3.2.1 Biến đổi quan hệ dòng họ trong cưới xin............................................... 58
3.2.2 Biến đổi quan hệ dòng họ trong tang ma ............................................... 72
3.2.3 Biến đổi quan hệ dòng họ trong sinh đẻ ................................................ 83
Tiểu kết chƣơng 3 .......................................................................................... 86
Chƣơng 4: Biến đổi quan hệ dòng họ trong hoạt động kinh tế và đời sống
xã hội từ năm 1986 đến nay .......................................................................... 87
4.1. Biến đổi quan hệ dòng họ trong hoạt động kinh tế. ............................ 87
4.1.1 Biến đổi quan hệ dòng họ trong sở hữu và sử dụng đất đai. ................. 87
4.1.2 Biến đổi quan hệ dịng họ trong sản xuất nơng nghiệp ......................... 93
4.1.3 Biến đổi quan hệ dịng họ trong dịch vụ, bn bán và lao động làm thuê
......................................................................................................................... 98
4.2. Biến đổi quan hệ dòng họ trong đời sống xã hội ............................... 100
4.2.1.Biến đổi quan hệ dòng họ và hoạt động khuyến học ........................... 100
4.2.2. Biến đổi quan hệ dòng họ và chăm sóc trẻ em. .................................. 102
Tiểu kết chƣơng 4 ........................................................................................ 104
KẾT LUẬN .................................................................................................. 106
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 110
PHỤ LỤC ..................................................................................................... 116


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số hộ gia đình thuộc các dòng họ trên địa bàn nghiên cứu ......................40
Bảng 3.1 Hỗ trợ trong đám cưới của gia đình ơng Hồng Văn T năm 2001. ........67
Bảng 3.2 Hỗ trợ trong đám cưới con gái của ông Vi Văn Ph, năm 2014. ................69
Bảng 3.3 Hỗ trợ trong tang ma của gia đình bà Vi Thị H năm 2002 ........................80
Bảng 3.4 Hỗ trợ trong đám tang của gia đình ơng Lơ Quốc Kh năm 2015..............81
Bảng 4.1: Danh sách thống kê số gia đình có trẻ em được anh em họ hàng ni
nấng, chăm sóc con cái giúp ......................................................................................102



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Dòng họ là một thành tố văn hóa của tộc người, yếu tố cơ bản trong cấu
trúc cộng đồng xã hội. Cho đến nay mọi giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội đều in
đậm dấu ấn dịng họ. Vì vậy, dịng họ khơng chỉ đóng vai trị chủ đạo cố kết
các thành viên trong cộng đồng mà cịn góp phần bảo lưu, tái tạo, trao truyền
các giá trị văn hóa tộc người. Quan niệm về dòng họ với những câu đúc kết từ
bao đời nay “một giọt máu đào hơn ao nước lã”, “Đắng cay cũng thể ruột rà,
ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng” không chỉ ăn sâu trong tư tưởng của
người Kinh (Việt) mà ở cả nhiều tộc người sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam.
Hiện nay, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập đang diễn ra mạnh mẽ ở
Việt Nam, cấu trúc, chức năng, vai trò của dòng họ đang có nhiều biến đổi
nhanh chóng. Đặc biệt là hiện tượng phục hưng nhiều các hoạt động có liên
quan đến dòng họ cho thấy giá trị quan trọng của dịng họ trong nhận thức của
cộng đồng. Vì vậy, nghiên cứu về dòng họ và những biến đổi của dòng họgóp
phần định hướng phát triển văn hóa, phát triển xã hội, đảm bảo tính đa dạng
văn hóa và giữ gìn bản sắc dân tộc. Đồng thời, tạo cơ sở khoa học cho việc
hoạch định và xây dựng chính sách phát triển đất nước trong sự nghiệp cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay.
Người Tày là cộng đồng dân tộc có dân số đông nhất trong các dân tộc
thiểu số ở nước ta, với 1.626.392 người (theo Tổng điều tra dân số và nhà
ở năm 2009), phân bố tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn,
Tuyên Quang, Hà Giang, Lào Cai, Thái Nguyên,…Người Tày sớm đã xây
dựng được nền văn hóa phong phú, đa dạng nhưng vẫn mang đậm bản sắc
văn hóa tộc người. Trong đó, dịng họ là vấn đề được người Tày rất coi
trọng.Nó khơng chỉ là yếu tố để duy trì, củng cố mối quan hệ giữa các gia
đình, mà cịn liên quan chặt chẽ tới bản sắc văn hóa và ý thức về “cuội
nguồn” của tộc người.


1


Sau Đổi mới, dưới tác động của bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa
và hội nhập quốc tế, nền kinh tế xã hội của nước ta nói chung và tỉnh Lạng
Sơn nói riêng đã có những chuyển biến nhanh và mạnh. Từ đó thúc đẩy người
Tày hội nhập sâu vào nền kinh tế thị trường, tạo tiền đề cho sự giao lưu, hội
nhập văn hóa với các dân tộc khác ngày càng sâu sắc.Dịng họ của người Tày
cũng khơng nằm ngoài quy luật vận động chung ấy. Hiện nay, vấn đề quan hệ
dòng họ biến đổi như thế nào trong quá trình giao lưu, hội nhập là một mảng
trống lớn trong các nghiên cứu về người Tày. Việc củng cố quan hệ dòng họ
của người Tày qua các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội như thế nào, có hay
khơng sự cố kết dịng họ trong và ngồi cộng đồng vẫn chưa được quan tâm
nghiên cứu.
Nghiên cứu biến đổi dòng họ là một chủ đề quan trọng trong Nhân học
từ trước đến nay. Nghiên cứu về dòng họ của người Tày chính là nghiên cứu
giá trị văn hóa xã hội đặc trưng của tộc nguời, qua đó có đuợc cái nhìn về đời
sống, lịch sử phát triển và sự cố kết trong các mối quan hệ của tộc nguời.
Đồng thời, góp phần bảo lưu những nét đẹp có giá trị văn hóa tộc người, hạn
chế những mặt tiêu cực để xây dựng nền văn hóa vừa tiên tiến vừa đậm đà
bản sắc dân tộc.
Từ những lý do trên, tơi đã chọn đề tài:“Biến đổiquan hệ dịng họ của
người Tày ở xã Quang Lang, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn từ năm 1986
đến nay”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
-Tìm hiểu các dòng họ và quan hệ dòng họ của người Tày ở xã Quang
Lang, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn.
- Xem xét sự biến đổi quan hệ dòng họ từ sau Đổi mới (1986) trong các
khía cạnh đời sống văn hố, tín ngưỡng, hoạt động kinh tế và đời sống xã hội

ở địa phương.
- Xác định các yếu tố tác động đến sự biến đổi của dòng họ và quan hệ
dòng họ cũng như xu hướng biến đổi của các quan hệ đó trong bối cảnh hiện nay.
2


3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là những hoạt động liên quan
đến dòng họ và quan hệ dòng họ của người Tày ở xã Quang Lang, huyện Chi
Lăng, tỉnh Lạng Sơn. Trong khuôn khổ hạn hẹp của một luận văn thạc sĩ và
phụ thuộc vào thực tế nghiên cứu cho thấy những yếu tố nào trong quan hệ
dòng họ của người Tày ở đây có sự biến đổi rõ rệt nhất, đề tài chỉ tập trung
vào quan hệ dòng họ ở một số khía cạnh của đời sống văn hố tín ngưỡng, các
hoạt động kinh tếvà đời sống xã hội.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Khơng gian:
Luận văn tập trung vào mốiquan hệ dịng họ của các dịng họ người
Tày ở hai thơn Khun Phang và làng Đăng, xã Quang Lang, huyện Chi Lăng,
tỉnh Lạng Sơn.
Phạm vi thời gian:
Đề tài nghiên cứu về sự biến đổi trong quan hệ dòng họ của người Tày
từ sau Đổi mới (1986) đến nay. Tuy nhiên, để có thể thấy rõ được sự biến đổi
trong quan hệ dòng họ, nghiên cứu có tìm hiểu, đề cập tới thời kỳ trước đổi
mới trong khuôn khổ tài liệu thứ cấp cho phép.
3.3. Địa bàn nghiên cứu
Đề tài chọn xã Quang Lang, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn làm địa
bàn nghiên cứu. Nằm ở khu vực phía Nam Lạng Sơn, đây là vùng sâu trong
nội địa của tỉnh. Người Tày ở huyện Chi Lăng nói chung ít tham gia các hoạt
động thương mại xuyên biên giới. Nông nghiệp, buôn bán nhỏ và dịch vụ là

nguồn sinh kế chính của đồng bào nơi đây. Gần đây, học viên có cơ hội tham
gia một đề tài nghiên cứu của Viện Dân tộc học về biến đổi kinh tế - xã hội
của người Tày tại xã Quang Lang. Học viên muốn chọn địa bàn này cho
nghiên cứu thực địa của luận văn để có thể kế thừa các tài liệu, hiểu biết
chung về đời sống kinh tế - xã hội của người Tày nơi đây, làm cơ sở để hiểu
3


rõ hơn quan hệ dòng họ của họ từ sau Đổi mới (1986). Tại điểm nghiên cứu,
chúng tôi đã chọn 2 làng người Tày, một làng ven thị trấn và đường quốc lộ
1A, một làng ở trong sâu hơn để so sánh mức độ biến đổi kinh tế - xã hội
cũng như biến đổi trong quan hệ dòng họ nơi đây.
4. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
4.1. Câu hỏi nghiên cứu
Sau năm 1986 đất nước ta bước vào công cuộc Đổi mới, dưới tác động
của nền kinh tế thị trường, đời sống văn hóa của nhân dân cả nước nói chung,
người Tày ở Lạng Sơn nói riêng đã có sự biến đổi mạnh mẽ. Trong đó, mối
quan hệ dịng họ vốn được xem như thành tố cốt lõi tạo nên xã hội người Tày,
nền tảng của thiết chế xã hội truyền thống, giữ vai trò quan trọng chi phối đến
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội tộc người cũng đang dần biến đổi. Để làm rõ
quá trình biến đổi của dòng họ người Tày trong bối cảnh chung của đất nước,
cũng như để giải đáp cho vấn đề nghiên cứu được đặt ra, đề tài đưa ra một vài
câu hỏi cụ thể sau:
-

Cấu trúc dòng họ và quan hệ dòng họ của người Tày tại địa bàn

nghiên cứu đã và đang vận hành như thế nào?
-


Quan hệ dòng họ đóng vai trị như thế nào trong đời sống kinh tế,

văn hóa và xã hội của người Tày từ sau Đổi mới?
-

Đâu là nguyên nhân và xu hướng của biến đổi trong quan hệ

dòng họ của người Tày?
4.2. Giả thuyết nghiên cứu
Nghiên cứu này giải thuyết rằng từ sau Đổi mới (1986), dưới tác động
của bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập nền kinh tế, đời sống
của người Tày ở Lạng Sơn đang dần được cải thiện. Từ đó nảy sinh nhu cầu
phục hồi lại các hình thức tổ chức sinh hoạt trong dịng họ, đồng thời, củng cố
lại cấu trúc dòng họ. Vai trò và vị trí của cá nhân trong dịng họ ngày càng
được tăng cường. Nhờ đó, giá trị cơ bản dịng họ dần được phục sinh sau thời
gian dài bị vùi lấp đi trong thời bao cấp. Dòng họ ngày càng đóng vai trị quan
4


trọng trong đời sống của người Tày. Nó như là chỗ dựa tinh thần, một nguồn
vốn xã hội cho cộng đồng trong nền kinh tế thị trường.
Mối quan hệ trong dòng họ của người Tày ngày càng được củng cố và
chuyển biến theo hướng tích cực. Con người có xu hướng cố kết lại với nhau
để ứng phó với thách thức trong bối cảnh nền kinh tế thị trường và q trình
hiện đại hố. Nhưng những mối quan hệ này lại dễ bị tác động bởi những
quan hệ kinh tế và lợi ích kinh tế mới. Vì vậy, cũng nảy sinh một số mâu
thuẫn giữa các gia đình, dịng họ và các thành viên trong cộng đồng do ảnh
hưởng của lối sống mới du nhập và tệ nạn xã hội trong cộng đồng ngày càng
gia tăng.
Quan hệ dịng họ có vai trị quan trọng trong cả đời sống tín ngưỡng và

đời sống kinh tế. Sự tương trợ, giúp đỡ này có ý nghĩa về cả vật chất lẫn tinh
thần. Quan hệ dòng họ và mạng lưới họ hàng là mạng lưới xã hội, một nguồn
vốn xã hội được xây dựng và sử dụng cho lợi ích từng gia đình. So với mạng
lưới khác như cộng đồng thôn bản, bạn bè, quan hệ dịng họ đóng vai trị quan
trọng hơn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ đạo được sử dụng trong nghiên cứu này là điền dã dân
tộc học.Để thu thập được thơng tin đầy đủ, chính xác và có giá trị khoa học,
mang tính chân thực cao tác giả luận văn đã vận dụng một số kỹ năng sau:
Quan sát: với mục đích hình dung được cảnh quan, mơi trường cư trú,
cách bố trí làng bản, lối sống sinh hoạt và sự giao tiếp của các gia đình, dịng
họ người Tày, giúp tác giả thu thập được những thông tin ban đầu về đối
tượng nghiên cứu, định hướng chính xác cho những vấn đề mục tiêu nghiên
cứu đặt ra.
Quan sát tham dự: đây là phương pháp quan trọng và hữu dụng cho đề
tài nghiên cứu. Với phương châm ba cùng “cùng ăn, cùng ở, cùng làm”, tác
giả thâm nhập và hòa đồng với cộng đồng trong thời gian khoảng 2 tháng tại
địa bàn nghiên cứu. Việc quan sát tham dựđược thực hiện chủ yếu trong việc
5


sinh hoạt, hội họp cộng đồng, dịng họ, gia đình và các tổ chức đoàn thể;
trong các nghi lễ, tập tục của các gia đình, dịng họ và cộng đồng làng
bản.Qua việc tiếp xúc trực tiếp với cộng đồng, phương pháp này giúp tác giả
phản ánh đầy đủ hơn quan điểm của chủ thể về vai trò của dòng họ trong đời
sống tộc người từ sau Đổi mới đến nay.
Phỏng vấn sâu: cùng với việc quan sát tham dự, tác giả kết hợp thực
hiện phương pháp phỏng vấn sâu bán cấu trúc. Đây là kỹ năng cơ bản để tác
giả thu thập thông tin cho luận văn. Tác giảđã tiến hành phỏng vấn60 người,
bao gồm đủ mọi thành phần trong cộng đồng: nam, nữ, người già, trung niên,

thanh niên, học sinh…. Sự đa dạng về giới, độ tuổi như vậy cho phép thu
được nguồn thông tin đa chiều về liên quan đến dòng họ và quan hệ trong
dòng họ của người Tày ở địa bàn nghiên cứu.
Luận văncũng sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, so sánh và
tổng hợp để hệ thống hóa các nguồn tài liệu sơ cấp và thứ cấp thu được trong
quá trình điều tra, nghiên cứu. Phân tích và so sánh để đánh giá thực trạng
biến đổi, vị trí, vai trị của dịng họ và mối quan hệ trong dòng họ của người
Tày sau Đổi mới đến nay.
Ngoài ra, luận văn kế thừa một số kết quả định lượng của đề tài “Biến
đổi kinh tế - xã hội của người Tày ở một xã vùng Đông Bắc” của Viện Dân
tộc học mà học viên đã có cơ hội tham gia năm 2016. Được sự cho phép của
chủ nhiệm đề tài, học viên sử dụng kết quả xử lý 140 phiếu điều tra hộ gia
đình liên quan đến đời sống kinh tế, xã hội của người Tày hai thôn Khun
Phang và Làng Đăng, xã Quang Lang, huyện Chi Lăng, tỉnh Lạng Sơn.
6. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung thêm tư liệu thực tế
về dòng họ và biến đổi quan hệ dòng họ của người Tày ở một địa phương cụ
thể vùng Đông Bắc.
6


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua tìm hiểu, phân tích về mối quan hệ dịng họ của người Tày, đề tài
góp phần làm rõ hơn cấu trúc, tổ chức sinh hoạt, chức năng, vai trị và vị trí
của dịng họ trong đời sống của cộng đồng, qua đó, cho thấy quá trình vận
động và biến đổi trong quan hệ dịng họ của người Tày dưới tác động của quá
trình Đổi mới đất nước hiện nay.Đặc biệt,đề tài luận văn giúp nhìn nhận rõ
hơn về việc dịng họcó phải là yếu tố cốt lõi thúc đẩy sự cố kết bên trong và
sự giao lưu ra bên ngoài của cộng đồng người Tày hiện nay hay khơng; Dịng

họ có phải là thành tố quan trọng giúp duy trì, tái tạo, bảo lưu văn hóa tộc
người, đồng thời là chỗ dựa tinh thần, một nguồn vốn xã hội quan trọng trong
bối cảnh của nền kinh tế thị trường, hội nhập và phát triển mạnh như hiện nay
hay khơng. Từ việc xem xét vai trị, xu hướng biến đổi của dòng họ trong đời
sống xã hội người Tày, đề tài hy vọng góp phần cung cấp thêm cơ sở khoa
học các nhà quản lý, các cấp chính quyền, nhà hoạch định chính sách lưu ý về
vai trò của dòng họ trong đời sống của cộng đồng để quản lý, đưa ra các chính
sách phù hợp trong vấn đề phát triển nông thôn miền núi và xây dựng nông
thôn mới ở nước ta trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội dung
của luận văn được chia thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu
Chương 2: Dòng họ của ngườiTày ở xã Quang Lang
Chương 3: Biến đổi quan hệ dịng họ trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên
và các nghi lễ vòng đời từ năm 1986 đến nay
Chương 4: Biến đổi quan hệ dòng họ trong hoạt động kinh tế và đời
sống xã hội từ năm 1986 đến nay

7


Chƣơng 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu và địa bàn nghiên cứu
1.1

Tổng quan nghiên cứu về dòng họ.

1.1.1 Nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ ở Việt Nam
Nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ ở người Kinh(Việt):
Dòng họ là thành tố văn hóa, thiết chế xã hội quan trọng, góp phần tạo

nên kết cấu làng xã. Dịng họ sớm đã đóng vai trị và chiếm vị trí quan trọng
trong đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng người Việt. Do vậy, từ
lâu dòng họ là đề tài thu hút rất nhiều các nhà nghiên cứu với nhiều lĩnh vực
khác nhau: xã hội học, sử học, văn hóa, dân tộc học… Vấn đề dòng họ được
đề cập trong các bộ chính sử, các cơng trình nghiên cứu về làng xã, các
chuyên khảo về dòng họ trong mối quan hệ với văn hoá, phong tục người
Việt, cấu trúc kinh tế - xã hội Việt Nam truyền thống(Gourou 2004, Trần
Quốc Vượng 1997, Phan Đại Dỗn 1999; 2003, Trần Từ 1984,...). Những
cơng trình này từ chỗ hệ thống, mô tả về phả hệ của các dòng họ hay thống
kê, điều tra về tên các dòng họ ở các làng xã trong thời phong kiến và thuộc
địa đã đi tới tìm hiểu về cấu trúc, nội dung, vai trò và ảnh hưởng của dòng họ
đối với các thành viên, trong đời sống cộng đồng làng xã và trong lịch sử của
dân tộc.
Tiếp nối hướng nghiên cứu trên, trong những năm 2000, đã có nhiều
cơng trình khóa luận, luận văn, luận án nghiên cứu về vấn đề dòng họ của
người Kinh ở vùng đồng bằng Bắc Bộ. Tiêu biểu, luận án Tiến sĩ Lịch sử của
Phan Chí Thành (2006), với nghiên cứu “Dịng họ và đời sống làng xã ở đồng
bằng Bắc Bộ qua tư liệu ở một số xã thuộc huyện Thạch Thất – Hà Tây”;
Luận văn thạc sĩ ngành Văn hóa học của Đỗ Thị Phương Anh (2006) về “Văn
hóa dịng họ Nguyễn Quý làng Đại Mỗ (xã Đại Mỗ, huyện Từ Liêm, thành
phố Hà Nội)”; Khóa luận tốt nghiệp Lịch sử của Lê Minh Anh (2000) về
“Dòng họ và quan hệ dòng họ của người Việt làng Hoành Nha, huyện Giao
Thủy, tỉnh Nam Định”… Mặc dù các cơng trình này cịn nặng về truyền thống
nhưng đã khái quát được thực trạng, xu hướng vận động và một số biến đổi
8


của các dòng họ ở các địa phương khác nhau, qua đó làm rõ vai trị của dịng
họ trong đời sống cộng đồng.
Mới đây nhất, có hai nghiên cứu quan trọng về quan hệ dòng họ của

người Việt đã được thực hiện (Nguyễn Tuấn Anh 2010; Nguyễn Thu Hiền
2015). Luận án Tiến sĩ của Nguyễn Tuấn Anh (2010) “Kinship as Social
Capital: Economic, Social and Cultural Dimensions of Changing Kinship
Relations in a Northern Vietnamese Village”. Đã phân tích về biến đổi trong
quan hệ dòng họ và vai trò của vốn xã hội ở một làng quê Nghệ An. Tác giả
đã phân tích một cách có hệ thống quan hệ dịng họ ở làng được nghiên cứu
từ thời trước Cách mạng Tháng Tám cho đến nay. Tác giả cho rằng trong xã
hội Việt Nam truyền thống trước Cách mạng, nội tộc đóng vai trò chủ đạo
trong quan hệ dòng họ. Trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, do tác động
của cải cách ruộng đất, phong trào tập thể hoá và cuộc vận động về tư tưởng,
diễn ra sự giản tiện hố các nghi lễ thờ cúng của dịng họ, vai trò và chức
năng của dòng họ bị suy giảm ở cả các khía cạnh tín ngưỡng, kinh tế và giáo
dục. Quan hệ tình cảm của các thành viên trong họ cũng bị tổn hại trong thời
kỳ này. Sang thời kỳ Đổi mới, qua sự phục hồi và tăng cường các nghi lễ thờ
cúng, nghi lễ vịng đời, người dân có xu hướng gây dựng vốn xã hội không
chỉ giữa những người trong họ nội mà còn cả với những người trong mạng
lưới họ hàng bên ngoại, họ bên vợ (chồng). Quan hệ dịng họ ở đó khơng chỉ
đóng vai trị quan trọng trong việc trợ giúp tang ma, cưới xin mà còn trở
thành vốn xã hội trong đầu tư giáo dục cho trẻ em, trong các hoạt động kinh
tế và vay vốn tín dụng tư nhân.
Trong khi đó, luận án Tiến sỹ của Nguyễn Thu Hiền (2015) nghiên
cứu về “Quan hệ dòng họ ở làng gốm Bát Tràng (xã Bát Tràng, huyện Gia
Lâm, thành phố Hà Nội) - truyền thống và biến đổi” lại cho thấy kết quả thú
vị khác. Nghiên cứu cho rằng do đặc thù của một làng nghề, quan hệ dịng họ
ở Bát Tràng vừa có nét chung của làng Việt cổ truyền Bắc Bộ, vừa có nét
riêng của làng nghề. Trong giai đoạn hiện nay, ở Bát Tràng có sự biến đổi về
9


tổ chức và tôn ty trật tự trong quan hệ dịng họ. Ngun tắc “đích trưởng”,

Hội đồng gia tộc được thay đổi, điều chỉnh cho phù hợp với tính năng động
của các thành viên trong họ. Giống như Nguyễn Tuấn Anh (2015), tác giả
khẳng định rằng nữ giới ngày nay cũng có thể được tham gia vào việc họ.
Ngồi ra, cịn có sự biến đổi trong tổ chức thờ cúng dịng họ với phong trào
trùng tu, tơn tạo nhà thờ, tổ chức thờ cúng với quy mơ và hình thức lớn hơn.
Trong khi đó, do những thay đổi trong tục lệ tang ma, cưới xin, sự tương trợ
về kinh tế, nhân cơng của dịng họ trong các dịp này lại giảm đi. Vai trò của
quan hệ dòng họ trong lĩnh vực kinh tế cũng không thực sự nổi bật do quan hệ
dòng họ trong hoạt động kinh tế ở làng nghề ở đây vốn đã mờ nhạt.
Điểm lại các công trình nghiên cứu về dịng họ ở người Việt cho thấy
các nghiên cứu cịn nặng về q khứ, ít thảo luận về sự biến đổi của các yếu
tố truyền thống trong xã hội đương đại. Tuy nhiên, kết quả của một số ít các
nghiên cứu đề cập đến biến đổi của quan hệ dòng họ ở làng Việt nêu trên cho
thấy nhiều khía cạnh trong quan hệ dịng họ đã và đang biến đổi. Có cả sự
tương đồng và khác biệt trong xu hướng biến đổi ở các cộng đồng, tuỳ thuộc
vào đặc thù kinh tế, văn hoá, xã hội của mỗi địa phương. Các kết quả đó gợi
mở sự cần thiết phải có những nghiên cứu chuyên sâu hơn về vai trò của dòng
họ, quan hệ dòng họ như là một phần của thiết chế văn hoá, xã hội trong sự
phát triển hiện nay của người Việt và việc áp dụng những hướng nghiên cứu
này ở các tộc người thiểu số ở nước ta trong bối cảnh đổi mới và hội nhập.
Nghiên cứu về dòng họ và quan hệ dòng họ ở các tộc người thiểu số:
Dòng họ và quan hệ dòng họ được đề cập và nghiên cứu trong nhiều
cơng trình Dân tộc học/Nhân học về các tộc người thiểu số ở nước ta. Do điều
kiện hạn hẹp, chúng tôi chỉ xin điểm qua một vài xu hướng nghiên cứu chính
về chủ đề này ở một số tộc người.
Ở khu vực miền núi phía Bắc, các nghiên cứu về dòng họ và quan hệ
dòng họ tập trung nhiều vào các dân tộc có dân số lớn như Thái, Nùng,
Hmơng... Trong đó, có thể nói, nghiên cứu về dịng họ người Hmông thu hút
10



sự quan tâm lớn của các học giả và đem lại nhiều kết quả lý thú. Các nghiên
cứu về dòng họ của người Hmông đều khẳng định rằng thiết chế dịng họ là
điểm cốt lõitrong xã hội người Hmơng, có vai trò cố kết cộng đồng cũng như
trong việc quản lý xã hội (Vương Duy Quang 1987, Phạm Quang Hoan
1994,Hồ Ly Giang 2013)
Vấn đề dòng họ và quan hệ dòng họ của người Thái cũng thu hút nhiều
nhà nghiên cứu. Nghiên cứu của tác giả Cầm Trọng (1977) về “Quan hệ dòng
họ trong các bản của người Thái ở vùng Tây Bắc” phân tích mối quan hệ: ải
nọng, lúng ta, nhính xao. Ba họ này có mối quan hệ mật thiết với nhau trên cả
huyết thống và các mối quan hệ khác quanh nó. Đó là khơng phải anh cũng là
em; chẳng phải họ bên vợ cũng là họ bên mẹ, bên bà; không phải họ bên nội
cũng là họ dâu gia. Tác giả Vi Văn An có bài viết “Đơi nét về dịng họ người
Thái vùng đường 7, tỉnh Nghệ Tĩnh” (1988) chỉ ra sự khác nhau trong quan hệ
dịng họ của ba nhóm: ải nọng, lúng ta, nhính xao. Tác giả cho rằng, mặc dù
dòng họ vẫn tồn tại nhưng có sự thay đổi sâu sắc bên cạnh sự bảo lưu đậm
nhạt khác nhau giữa các nhóm người Thái. Sự khác biệt trong quan niệm, luật
tục liên quan đến dịng họ và mối quan của ba nhóm dịng họ trên trong các
nhóm Thái vùng đường 7 với nhóm Thái Quỳ Châu và Thái Tây Bắc có thể
giải thích bằng sự du cư của người Thái từ những con đường và thời điểm
khác nhau. Do vậy, những tục lệ liên quan đến dịng họ khơng cịn bền vững.
Nghiên cứu của cũng cho rằng mỗi bản người Thái thường có một hoặc hai
họ lớn được coi là họ gốc. Xung quanh họ này có nhiều họ khác có quan hệ
dâu gia với họ lớn. Biểu hiện tập trung nhất trong quan hệ dòng họ của người
Thái là ý thức về ông tổ chung và các nghi lễ tôn giáo chung của dòng họ.
Đối với dòng họ của người Nùng, Luận án Tiến sĩ của Lê Minh Anh
(2014) gần đây nghiên cứu về “Quan hệ dòng họ của người Nùng Phàn Slình
(Nghiên cứu ở huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn)” có thể xem là một cơng trình
chun sâu về chủ đề này. Tác giả phân tích khá chi tiết về dịng họ người
Nùng Phàn Slình ở Cao lộc với những quan niệm, đặc điểm, cấu trúc và vai

11


trò của cá nhân trong dòng họ. Đồng thời tác giả làm rõ mối quan hệ dòng họ
trong đời sống tín ngưỡng, trong hoạt động kinh tế và trong hoạt động của hệ
thống chính trị cơ sở. Kết quả nghiên cứu cho thấy nét đặc trưng của dòng họ
người Nùng Phàn Slình thể hiện ở sự phân biệt các chi họ thông qua số lượng
chén thờ, cách thức cúng, hệ thống tên đệm. Trong các chức năng, quan hệ
dòng họ của người Nùng Phàn Slình, tín ngưỡng dịng họ đóng vai trò quan
trọng trong cố kết cộng đồng. Bên cạnh tín ngưỡng, hoạt động tương trợ cũng
là chức năng lớn của quan hệ dòng họ. Hai chức năng này trong quan hệ dòng
họ đã tạo nên mạng lưới quan hệ của cá nhân và gia đình. Mối quan hệ này
khơng chỉ ở bên nội mà còn ở họ ngoại và họ vợ/chồng; không chỉ ở cộng
đồng thôn bản mà trong nhiều trường hợp cịn vượt ra ngồi phạm vi thơn
bản, thậm chí xun biên giới. Cũng giống ở người Hmơng, quan hệ dịng họ
góp phần củng cố sự cố kết tộc người ở người Nùng Phàn Slình.
Ngồi những cơng trình tiêu biểu trên cịn rất nhiều cơng trình nghiên
cứu khác về dòng họ của các dân tộc thiểu số như: người Mường, người Pa
Cô, người Ê đê, người Hrê, người Tà ôi, người Vân Kiều,…Tổng quan các
nghiên cứu cho thấy dòng họ trong đời sống của bất kỳ dân tộc nào cũng đều
có vị trí quan trọng nhất định kể cả trong truyền thống và hiện đại. Quan hệ
dòng họ đều chi phối đến mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của các
dân tộc. Do vậy, nghiên cứu về dòng họ là việc làm cần thiết để phát huy hết
vai trị của nó trong đời sống cộng đồng và trong xây dựng, giữ gìn, bảo lưu
truyền thống văn hóa tộc người ở nước ta. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên
cứu về dòng họ ở các tộc người thiểu số ở nước ta cho đến nay thường phân
tích các đặc điểm, cấu trúc, chức năng và quan hệ dòng họ ở trạng thái tĩnh,
chưa làm nổi bật được những biến đổi trong quan hệ dòng họ của các tộc
người trong các thời kỳ, đặc biệt là từ Đổi mới (1986) đến nay.
1.1.2 Nghiên cứu vềdòng họ của người Tày.

Người Tày là một tộc người trong nhóm ngơn ngữ Tày-Thái, có vai trị,
vị trí quan trọng trong sự hình thành và phát triển của dân tộc Việt Nam nói
12


chung và trong khu vực Đơng Nam Á nói riêng, từ lâu dân tộc Tày đã được
nhiều giới nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Đến nay, số lượng các nghiên cứu
bao gồm các đầu sách, báo, tạp chí khoa học về người Tày ngày càng nhiều,
với nội dung phong phú và đa dạng. Tuy nhiên, phần đông trong số này là các
tác phẩm văn học, cơng trình sưu tầm, biên dịch, ngôn ngữ, truyện cổ, truyện
dân gian, các bài hát, bài lượn của người Tày. Cịn lại số ít là cơng trình
nghiên cứu đề cập đến đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của tộc người này.
Vấn đề dịng họ và quan hệ dòng họ của người Tày đến nay mới chỉ
được đề cập trong các nghiên cứu nhỏ lẻ, cịn mang tính tổng quan, khái qt
và nặng về mô tả Dân tộc học ở dạng tĩnh (Viện Dân tộc học 1978; 1992,
Hồng Quyết 1995, Lã Văn Lơ, Hà Văn Thư 1984,…).
Trong cơng trình nghiên cứu: “Đến với người Tày và văn hóa Tày” của
La Cơng Ý (2010), tác giả phân tích dịng họ người Tày gồm nhiều tên họ
khác nhau. Thành viên trong họ là những người cùng chung huyết thống và
một ơng tổ. Các dịng họ lớn thường chia thành các chi nhỏ, trong họ người
đứng đầu gọi là trưởng tộc. Dịng họ đóng vai trị quan trọng trong đời sống
kinh tế, văn hóa, xã hội của người Tày.Do cơng trình này nghiên cứu khái
qt về mọi mặt đời sống của người Tày, nên phần dòng họ vẫn cịn mờ nhạt,
chưa chun sâu, chủ yếu mang tính mô tả và nặng về yếu tố truyền thống.
Tuy nhiên, tác giả cũng đã phần nào cung cấp cho bạn đọc cái nhìn tổng quan
về dịng họ của người Tày.
Luận án Tiến sĩNhân học của Bế Văn Hậu(2012): “Nghiên cứu một số
nét biến đổi văn hóa người Tày Lạng Sơn trong q trình đổi mới kinh tế - xã
hội”, có đề cập một phần tới dòng họ và biến đổi trong quan hệ dòng họ của
người Tày Lạng Sơn. Tác giả đã chỉ ra mối quan hệ dòng họ người Tày trong

truyền thống gồm bốn lĩnh vực quan trọng: quan hệ trong cư trú; quan hệ
trong công việc sản xuất, làm ăn kinh tế; quan hệ về mặt tổ chức tơn ti trong
dịng tộc và quan hệ trong văn hóa – tín ngưỡng. Tác giả cho rằng trong bối
cảnh đổi mới của đất nước, các giá trị cơ bản của dòng họ người Tày ở Lạng
13


Sơn đã được phục hồi sau một thời gian dài bị vùi lấp trong thời bao
cấp.Ngồi ra nó cịn được mở rộng về mặt không gian, cũng như được tiếp
thêm nguồn sinh lực mới. Có thể nói đây là một số phát hiện, quan điểm mới
khẳng định về sự biến đổi trong quan hệ của người Tày sau Đổi mới. Tuy
nhiên, trong khuôn khổ hạn hẹp của một luận án phải đề cập đến nhiều khía
cạnh văn hố của người Tày, với 4 trang viết về biến đổi trong quan hệ dòng
họ, tác giả mới chỉ dừng lại ở việc khẳng định một số nét biến đổi cơ bản
trong quan hệ dòng họ của người Tày mà chưa thực sự đi sâu tìm hiểu đầy đủ
các nội hàm của mối quan hệ đó.
Mới đây cuốn “Văn hóa truyền thống dân tộc Tày ở Tuyên Quang” của
Nguyễn Ngọc Thanh (2016) phân tích tổng quan về văn hóa truyền thống dân
tộc Tày ở Tuyên Quang qua các khía cạnh hoạt động sinh kế, tổ chức xã hội,
văn hóa tinh thần và vật chất. Trong đó, tác giả đã trình bày một cách tổng
quan về khái niệm, tổ chức và vai trò của dịng họ Tày ở Tun Quang.
Có thể nói, đến nay các nghiên cứu về người Tày chủ yếu đề cập đến
các vấn đề ở dạng tĩnh, ít biến động. Trên thực tế, chỉ có một số dự án nghiên
cứu, luận án tiến sĩ dân tộc học/nhân học, văn hóa học những năm gần đây đã
đề cập đến những biến đổi trong đời sống kinh tế - xã hội và văn hóa của dân
tộc Tày. Tuy nhiên, vấn đề dịng họ vẫn chủ yếu được nghiên cứu trong bối
cảnh truyền thống, hầu như chưa có cơng trình nào nghiên cứu chun khảo
sâu về sự biến đổi của nó sau bối cảnh đổi mới đất nước (1986). Vì vậy, tơi đã
chọn nghiên cứu chuyên sâu về biến đổi quan hệ dòng họ của người Tày ở
một cộng đồng địa phương từ khi Đổi mới đất nước đến hiện nay.

1.2

Các khái niệm và cơ sở lý thuyết

1.2.1 . Các khái niệm
- Dòng họ:
Theo Đại từ điển tiếng Việt “dòng họ là những người cùng huyết thống
trong các thế hệ kế tiếp nhau nói chung” (Nguyễn Như Ý 1998, tr. 546).Từ
điển Bách khoa Việt Nam (2002, tr.681) định nghĩa “dịng họ là tồn bộ
14


những người cùng huyết thống theo dòng bố hay dòng mẹ, bắt nguồn từ một
tổ tiên chung, không phân biệt theo trực hệ hay bàng hệ, nam hay nữ. Nói
chung theo luật hơn nhân nam nữ cùng dịng họ khơng được lấy nhau. Trong
những xã hội khác nhau, có những người mang tên chung nhưng không cùng
huyết thống, không bắt nguồn từ tổ tiên chung.
Nghiên cứu của Ngô Đức Thịnh (1997, tr. 46) cho rằng “dòng họ là
một thực thể xã hội mang tính phổ qt của lồi người. Nó hình thành trên cơ
sở quan hệ huyết thống của một quần thể nhất định, thể hiện qua ý niệm về
dòng dõi từ một ơng tổ chung. Do vậy, dịng họ là một thực thể vừa mang tính
sinh học vừa mang tính xã hội”.
Giáo sưĐặng Nghiêm Vạn cho rằng, khái niệm họ thường mang ba ý
nghĩa. Thứ nhất, đó là “những người cùng mang một tên họ, mà khơng chắc
gì hay có một chứng cớ gì có chung nguồn gốc cho dù rất xa xưa”. Thứ hai,
khái niệm họ chỉ “những thành viên mang cùng tên họ, được biết chắc chắn
có cùng một nguồn gốc từ một thủy tổ chung”. Ý thứ ba là để chỉ một chi họ
(Đặng Nghiêm Vạn 1998, tr. 7-8).
Như vậy, dịng họ là tồn thể những người có cùng huyết thống. Tính
huyết thống có thể được tính theo bên bố (chế độ phụ hệ), hoặc bên mẹ (chế

độ mẫu hệ). Dòng họ gắn kết các cá nhân với nhau, chịu ràng buộc theo quy
tắc nhất định, chi phối mạnh mẽ đến quan hệ hôn nhân và gia đình. Đối với
trường hợp người Tày trong nghiên cứu này, dịng họ là tồn thể những người
được tính theo huyết thống bên bố.
- Quan hệ dòng họ: là mối quan hệ với những người bên họ bố, họ mẹ
và họ vợ/chồng (của người có vợ/chồng). Theo đó, khi nói tới cấu trúc, chức
năng của quan hệ dòng họ là đề cập tới cấu trúc, chức năng của mối quan hệ
với ba họ nêu trên.
- Truyền thống: là khái niệm đơi khi được sử dụng trong văn hóa với ý
niệm chỉ thời gian trong tương quan so sánh với hiện đại.

15


- Biến đổi: theo Đại từ điển tiếng Việt định nghĩa là thay đổi thành khác
trước (Nguyễn Như ý 1998, tr. 42). Biến đổi là một khái niệm rất rộng, trong
luận văn, chỉ xem xét sự biến đổi của dòng họ người Tày dưới hai góc độ xã
hội và văn hố.
1.2.2. Cơ sở lý thuyết
Dịng họ là một trong các chủ đề kinh điển của Nhân học văn hóa và xã
hội bởi con người ai cũng có dịng họ với tư cách là các cá nhân và có liên hệ
với các cá nhân khác thơng qua đó. Hơn nữa, trong các xã hội bộ tộc, các xã
hội chưa phân hóa giai cấp mà Nhân học thường nghiên cứu trước đây, dịng
họ đóng vai trị như một dạng tổ chức xã hội quan trọng. Chính vì thế, đã có
nhiều lý thuyết về dòng họ, đặc biệt là các trường phái cấu trúc và chức năng
trong nhân học xã hội.
Được lập nên bởi hai nhà nhân học Bronislaw Malinowski (1884-1942)
và Radcliffe Brown (1882-1955), thuyết chức năng về cơ bản cho rằng bất kỳ
sự ổn định nào cũng bao gồm nhiều bộ phận khác nhau tạo thành. Chúng có
mối liên hệ với nhau cùng vận hành để tạo nên sự ổn định của hệ thống đó.

Chỉ có thể xem và hiểu được một bộ phận của hệ thống khi hiểu được cái
cách mà nó đóng góp vào sự vận hành chung của hệ thống đó ra sao. Sự đóng
góp vào vận hành của hệ thống được quy định bởi chức năng và các bộ phận
đều có các chức năng khác nhau trong hệ thống. Trong các xã hội quy mô nhỏ
mà Malinowski và Brown nghiên cứu, dòng họ được xem là sự cấu thành cấu
trúc chính trị và là cơ sở cho sự tiếp nối xã hội do sự thiếu vắng vai trò của
nhà nước và các thể chế nhà nước. Trong các xã hội này, các nhóm dịng họ
thường nắm giữ tài sản và truyền từ một ông tổ chung cho các thành viên
được xác định. Quyền lực của nhóm nằm trong tay của những người lớn tuổi
có vị thế trong dịng họ. Chính trị và tơn giáo khơng thể chia tách với dịng họ
bởi các khía cạnh chính trị và tơn giáo là cơ sở cho sự cố kết của các xã hội
này. Điểm cốt lõi của thuyết chức năng là có xu hướng phân tích hệ thống
dịng họ dựa trên vấn đề trao truyền dịng dõi, sự tính tốn về phả hệ.
16


Tương tự như thuyết chức năng, thuyết cấu trúc của Claude LéviStrauss được đề xuất trong cuốn “The Elementary Structures of Kinship”
(1949, tái bản năm 1969) cũng cho rằng dòng họ đóng vai trị trung tâm trong
sự phát triển của văn hóa nhân loại. Vì cùng có chung ơng tổ với thuyết chức
năng nên thuyết cấu trúc này cũng quan tâm đến các thuật ngữ ám chỉ dòng
họ, người họ hàng và các dạng thức khác nhau trong cùng một hệ thống tổng
thể. Tuy nhiên, khác với thuyết chức năng chủ yếu định nghĩa các thuật
ngữmang tính dịng dõi, trao truyền, thuyết cấu trúc liên hệ chúng với hôn
nhân, đặc biệt là liên minh hôn nhân. Lévi-Strauss xem sự tồn tại của các quy
luật xã hội quyết định ai có thể kết hôn hợp pháp với nhau là cơ sở của văn
hóa nhân loại. Ơng cho rằng, mọi văn hóa đều có các quy định miêu tả các
quan hệ được xem là quá gần cho việc kết hôn. Việc ngăn cấm các kết hơn
như vậy là hiện tượng văn hóa phổ biến và là sự khác biệt giữa thế giới lồi
người và lồi vật. Ơng cho rằng kiêng kỵ cấm loạn luân đánh dấu bước đầu
tiên của sự chuyển đổi từ tự nhiên sang văn hóa. Cơng trình của Lévi-Strauss

có ảnh hưởng lớn tới nghiên cứu về dòng họ với việc chuyển từ mối quan tâm
các quan hệ theo dòng dõi sang các quan hệ của hôn nhân và trao đổi rộng
hơn. Phân tích về sự thiết lập, duy trì các mối quan hệ giữa các nhóm, vai trị
trung tâm của hơn nhân trong dịng họ của ơng mang lại nhiều kết quả khi
nghiên cứu các xã hội phi nhà nước ở châu Phi, châu Đại Dương hay Nam
Mỹ và Đông Nam Á những năm giữa thế kỷ 20 nhưng được xem là không
phù hợp với các xã hội phương Tây nơi dòng họ được xem là tách rời khỏi
đời sống tơn giáo, kinh tế và chính trị (Carsten 2004, tr. 15).
Từ thập niên 1970 chứng kiến sự chuyển hướng trong Nhân học từ
chức năng, cấu trúc xã hội theo kiểu Anh, Pháp sang ý nghĩa văn hóa của
Nhân học Bắc Mỹ. Các nhà nhân học văn hóa mà đại diện tiêu biểu là
Clifford Geertz và David Schneider tập trung nhiều hơn vào các khía cạnh
mang tính biểu tượng của dòng họ chẳng hạn các ý nghĩa gắn với một dạng cụ
thể của họ hàng, các biểu tượng, quan điểm về tính chủ thể, cơ thể và giới ảnh
17


hưởng như thế nào đến tư tưởng và thực hành của dòng họ. Trong tác phẩm
“A Critique of the Study of Kinship”, Schneider (1984) cho rằng tái sinh sản là
một biểu tượng chủ chốt của dòng họ trong một hệ thống được xác định bởi
hai trật tự chính là tự nhiên và quy luật. Sự kết hợp tính dục của hai bạn đời
trong hôn nhân cung cấp sự kết nối biểu tượng giữa những trật tự này. Kết
quả là con cái liên hệ với bố mẹ qua dịng máu, có chung nguồn gen sinh học,
biểu tượng hóa sự cố kết lâu dài. Bằng việc làm rõ vai trò của tự nhiên hay
sinh học trong quan điểm của các nhà Nhân học Mỹ về dòng họ, mối quan hệ
giữa tự nhiên và quy luật, Schneider đã gợi mở nhiều thảo luận lý thú cho các
học giả đi sau về chủ đề này. Strathern (1992) đã chứng minh rằng từ cuối thế
kỷ 20, tự nhiên khơng cịn là điều hiển nhiên, là cơ sở của văn hóa nữa. Dưới
tác động của sự phát triển công nghệ, đặc biệt là công nghệ liên quan đến sinh
sản, con người có nhiều sự lựa chọn về sinh sản, giới tính mà trước đó khơng

hề được áp dụng. Tự nhiên trở nên mất ổn định hơn, bị phụ thuộc vào can
thiệp của xã hội nhiều hơn. Điều này ám chỉ rằng trong xã hội hiện đại có
những dạng thức dịng họ mới, loại hình dịng họ truyền thống chỉ còn thấy
được ở một số khu vực, đặc biệt là khu vực nông thôn ở Châu Phi, Nam Mỹ
hay Đông Nam Á (Carsten 2004, tr. 23). Tuy nhiên, thực tế cho thấy, dòng họ
ở các khu vực này cũng đã trải qua sự biến đổi dưới tác động của q trình
hiện đại hố gần đây. Ngồi ra, Lévi-Strauss và những người theo thuyết cấu
trúc về dòng họ đều bị chỉ trích là nhìn mối quan hệ hơn nhân trong dịng họ
là mối quan hệ giữa các nhóm chứ khơng phải giữa các cá nhân với tính chủ
thể và mong muốn riêng của họ (Oxfeld 2005).
Trong khi cuộc tranh luận trên tạo ra hai trường phái: “chủ nghĩa truyền
thống” và “chủ nghĩa xét lại” trong nghiên cứu về dòng họ của Nhân học,
nhiều nghiên cứu xã hội học và nhân học gần đây có xu hướng cho rằng cái
nhìn về vốn xã hội (social capital) đóng một vai trò quan trọng trong việc
nghiên cứu quan hệ dòng họ, liên quan đến cấu trúc và chức năng của dòng
họ. Khái niệm vốn xã hội được phát triển bởi rất nhiều học giả (Bourdieu,
18


×