Tải bản đầy đủ (.pdf) (126 trang)

Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trên địa bàn thủ đô hà nội trong bối cảnh hội nhập

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 126 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

DƯƠNG THỊ HUẾ

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
TRÊN ĐỊA BÀN THỦ ĐƠ HÀ NỘI TRONG
BỐI CẢNH HỘI NHẬP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------

DƯƠNG THỊ HUẾ

PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
TRÊN ĐỊA BÀN THỦ ĐƠ HÀ NỘI TRONG
BỐI CẢNH HỘI NHẬP

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Mã số: 60 22 03 08

Người hướng dẫn khoa học: TS. Ngô Thị Phượng



Hà Nội - 2014


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Chính trị Quốc Gia

CTQG

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Giáo dục đào tạo

GDĐT

Khoa học công nghệ

KHCN

Kinh tế xã hội

KT-XH


Nhà xuất bản

Nxb

Ủy ban nhân dân

UBND

Xã hội chủ nghĩa

XHCN


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi,
dưới sự hướng dẫn của TS. Ngô Thị Phượng. Các kết quả nghiên
cứu trong luận văn này là hồn tồn trung thực và chưa từng
được cơng bố. Các thơng tin, tài liệu trình bày trong luận văn có
xuất xứ rõ ràng.

Hà Nội, tháng 10 năm 2014
Học viên

Dương Thị Huế


LỜI CẢM ƠN

Hoàn thành luận văn tốt nghiệp này, trước hết em xin chân
thành cảm ơn sự dạy dỗ nhiệt tình của các thầy cơ giáo trong

khoa Triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội trong suốt thời gian em học tập và
nghiên cứu tại khoa, tại trường.
Đặc biệt em xin chân thành cảm ơn TS. Ngô Thị Phượng đã
trực tiếp hướng dẫn tận tình và chu đáo trong quá trình em thực
hiện và hoàn thiện luận văn tốt nghiệp này.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới gia đình, bạn bè và đồng
nghiệp đã luôn quan tâm, động viên và giúp đỡ em trong suốt q
trình hồn thành luận văn tốt nghiệp này.
Hà Nội, tháng 11 năm 2014
Học Viên

Dương Thị Huế


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 2
NỘI DUNG .......................................................................................................... 11
C h ư ơ n g 1 . PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRÊN ĐỊA
BÀN THỦ ĐƠ HÀ NỘI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP: CƠ SỞ LÝ LUẬN
VÀ THỰC TIỄN.................................................................................................. 11
1.1. Quan niệm về trí thức và khái quát về đội ngũ trí thức trên địa bàn thủ đơ
Hà Nội ....................................................................................................11
1.2. Hà Nội trong bối cảnh hội nhập và vai trị của đội ngũ trí thức trên địa bàn
Thủ đô Hà Nội ................................................................................................... 34
1.3. Quan niệm về phát huy vai trị của đội ngũ trí thức và những nội dung cơ bản
trong phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội .................... 48
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .................................................................................... 54
C h ư ơ n g 2 . PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRÊN ĐỊA
BÀN THỦ ĐƠ HÀ NỘI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP: THỰC TRẠNG VÀ

GIẢI PHÁP .......................................................................................................... 55
2.1. Thành tựu trong phát huy vai trị của đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đô Hà
Nội trong bối cảnh hội nhập ............................................................................... 55
2.2. Hạn chế trong phát huy vai trị của đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đô Hà
Nội trong bối cảnh hội nhập ............................................................................... 70
2.3. Giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả của việc phát huy vai trị đội ngũ
trí thức trên địa bàn Thủ đô Hà Nội trong bối cảnh hội nhập .............................. 80
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .................................................................................... 97
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 98
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................... 106
PHỤ LỤC ........................................................................................................... 113

1


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong mọi thời đại, tri thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là lực
lượng nịng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát triển như vũ
bão của cách mạng KHCN hiện đại, các quốc gia, ở những cấp độ khác nhau, đang bước
vào thời kỳ xây dựng, phát triển kinh tế tri thức và xã hội thông tin. Càng ngày giá trị của
tri thức, vai trị của đội ngũ trí thức càng được đề cao như là nguồn lực quan trọng đặc
biệt, phản ánh sức mạnh của mỗi một quốc gia trong cuộc chạy đua, cạnh tranh tồn cầu.
Vì vậy, mọi quốc gia đều ưu tiên cho chính sách phát triển nguồn lực trí tuệ, đội ngũ trí
thức nhằm đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Ở nước ta, không phải chỉ đến những năm đầu thế kỷ XX, vai trò của trí thức mới
được đề cao mà ngay từ thế kỷ XV ông cha ta đã coi: “Hiền tài là ngun khí quốc gia,
ngun khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, ngun khí suy thì thế nước yếu rồi
xuống thấp. Vì thế mà các vị thánh đế và minh vương chẳng ai không lấy việc bồi dưỡng
nhân tài, kén chọn kẻ sỹ, vun trường nguyên khí là việc đầu tiên” [71]. Theo tinh thần đó,

hiếu học đã trở thành truyền thống của người Việt Nam. Chính truyền thống q báu đó,
dân tộc ta trải qua hàng nghìn năm, với bao thăng trầm, nhưng vẫn sản sinh rất nhiều bậc
anh hùng hào kiệt, các trí thức tài năng. Họ đã đóng góp cơng sức và trí tuệ khơng nhỏ
cho sự hưng thịnh của nước nhà.
Đẩy mạnh CNH, HĐH theo định hướng XHCN, tranh thủ những cơ hội lớn
trong bối cảnh hội nhập là vấn đề đang được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm.
Trong điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, nguồn lực tài chính cịn eo hẹp,
việc phát huy vai trị nguồn lực con người, đặc biệt là vai trò của đội ngũ trí thức là
một yêu cầu tất yếu và cấp bách hiện nay.
Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não về chính trị - hành chính quốc gia, đồng
thời là trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa, khoa học giáo dục và giao dịch quốc tế của
cả nước. Sau gần 30 năm đổi mới và hơn 10 năm thực hiện nghị quyết 15-NQ/TW
của Bộ Chính trị Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội trong thời
kỳ 2001 - 2010, Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, toàn diện, tạo sự chuyển

2


biến căn bản trong đời sống xã hội, góp phần quan trọng vào thành tựu chung của cả
nước. Trong quá trình xây dựng và phát triển, Thủ đơ Hà Nội đã vinh dự được
Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “Thủ đô anh hùng”, ba lần được tặng thưởng
Huân chương Sao vàng và được tổ chức UNESCO vinh danh là “thành phố vì hịa
bình”. Trong những thành quả đó, có sự đóng góp khơng nhỏ của đội ngũ trí thức
trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
Nghị quyết số 11-NQ/TW của Bộ Chính trị Về phương hướng, nhiệm vụ phát
triển thủ đô giai đoạn 2011-2020 đã xác định: “Trong 10 năm tới, trên cơ sở vận
dụng sáng tạo Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, chiến lược phát triển kinh tế, xã hội
2011-2020 gắn với thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Đại hội XV Đảng bộ thành
phố, Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội và Quy hoạch chung xây dựng
Thủ đô Hà Nội, huy động tối đa sức mạnh tổng hợp cả về vật chất và tinh thần của

Thủ đô và cả nước xây dựng và phát triển Thủ đơ Hà Nội xứng đáng với vai trị là
trung tâm chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo
dục, kinh tế và giao dịch quốc tế, một động lực phát triển của vùng đồng bằng sơng
Hồng và cả nước; có kinh tế - xã hội phát triển toàn diện, bền vững, đời sống vật
chất, tinh thần của nhân dân ngày càng được nâng cao, chính trị - xã hội ổn định,
quốc phòng, an ninh tiếp tục được củng cố, tăng cường, hệ thống chính trị ngày
càng trong sạch, vững mạnh. Phấn đấu để Hà Nội thực sự là địa phương đi đầu, về
đích sớm 1 - 2 năm sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, góp phần cùng cả
nước thực hiện thắng lợi mục tiêu cơ bản trở thành nước cơng nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020; đóng góp ngày càng quan trọng vào sự nghiệp đổi mới, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc” [9]. Để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cao cả đó, địi hỏi sự
nỗ lực phấn đấu của Đảng bộ và nhân dân Hà Nội, của cả nước, trong đó có vai trị
quan trọng của đội ngũ trí thức trên địa bàn thủ đơ Hà Nội.
Đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội có số lượng đơng đảo, chất
lượng cao và đa dạng về cơ cấu. Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, đội ngũ này
ngày một phát triển, là đại diện cho đỉnh cao trí tuệ của trí thức Việt Nam. Là một
bộ phận đi đầu trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước, đội ngũ trí thức trên

3


địa bàn Thủ đơ Hà Nội đã có những đóng góp to lớn cho Thủ đơ Hà Nội nói riêng
và đất nước nói chung, như: cung cấp luận cứ khoa học cho quá trình hình thành,
phát triển chủ trương đường lối phát triển đất nước trong bối cảnh hội nhập, đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu mới của bối cảnh hội nhập hiện
nay, tham gia phản biện, giám định xã hội về KHCN để giữ vững định hướng
XHCN trong bối cảnh hội nhập. Đặc biệt, đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà
Nội là lực lượng quan trọng nhất trong thực hiện chiến lược xây dựng Thủ đô - Văn
hiến - Anh hùng - Hịa bình - Hữu nghị…
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, thế mạnh với những đóng góp tích cực vào

sự nghiệp phát triển của Thủ đô và đất nước, đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội
cịn có hạn chế, bộc lộ những bất cập trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
đất nước trong bối cảnh hội nhập hiện nay. Vì vậy, làm rõ thực trạng phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ, từ đó có những giải pháp thích hợp để tiếp tục phát
huy vai trị của đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ là một địi hỏi cấp thiết mà thực tiễn
đang đặt ra, một vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng, cần được luận giải
một cách nghiêm túc và khoa học. Để góp phần đáp ứng địi hỏi đó, chúng tơi đã chọn
vấn đề “Phát huy vai trị của đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đô Hà Nội trong bối cảnh
hội nhập” làm đề tài luận văn của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Những năm gần đây, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam
và đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội. Có thể phân chia các cơng trình đó
theo nhóm các vấn đề sau:
Thứ nhất, những cơng trình nghiên cứu về trí thức Việt Nam
- GS Phạm Tất Dong (chủ biên) (2001), Định hướng phát triển đội ngũ trí
thức Việt Nam trong CNH, HĐH, Nxb CTQG, Hà Nội. Cuốn sách trình bày tổng
quát những yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đối với đội ngũ trí thức… Phân tích
tương đối toàn diện cả về mặt lịch sử triển vọng và thực trạng hiện nay của đội ngũ
trí thức… Đề xuất những định hướng, chính sách về xây dựng đội ngũ trí thức Việt
Nam (từ năm 2000 đến năm 2010), về khơng ngừng nâng cao học vấn cho tồn dân,
nhất là việc trí thức hóa cơng nơng theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

4


- Nguyễn Văn Sơn (2001), Cơ cấu và chất lượng trí thức giáo dục đại học ở
nước ta hiện nay, luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội. Trên cơ sở làm rõ những nét cơ
bản về thực trạng cơ cấu và chất lượng đội ngũ trí thức giáo dục đại học, từ đó đề
xuất một số giải pháp lớn nhằm xây dựng đội ngũ này có cơ cấu hợp lý và chất
lượng cao để góp phần xây dựng nền giáo dục đại học Việt Nam hiện nay, đáp ứng

yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay nói riêng cũng như cơng cuộc
xây dựng CNXH ở nước ta nói chung.
- Trịnh Quang Cảnh (2002), Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam
trong công cuộc đổi mới, luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội. Trong luận án này, tác
giả đã làm rõ những đặc điểm của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu số, đi sâu
phân tích thực trạng đội ngũ này ở nước ta hiện nay và đề xuất phương hướng,
những giải pháp chủ yếu để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức người dân tộc thiểu
số (chủ yếu ở vùng dân tộc thiểu số phía bắc) trong cơng cuộc đổi mới ở Việt Nam.
- Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt
Nam, Nxb CTQG, Hà Nội. Trong cơng trình này, trên cơ sở nghiên cứu, phân tích
một cách khá cơng phu về vị trí, vai trị và thực trạng nguồn lực trí tuệ của đất nước,
tác giả đã tập trung xây dựng hệ thống các giải pháp thiết thực, cấp bách nhằm phát
huy có hiệu quả nguồn lực này trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
- Lê Quang Quý (2005), Xây dựng trí thức ngành kiến trúc trong cơng cuộc
đổi mới ở nước ta hiện nay, luận án tiến sĩ khoa học Triết học, Hà Nội. Trong luận
án này, tác giả đã trình bày những đặc điểm, vai trị, thực trạng và dự báo xu hướng
phát triển của đội ngũ trí thức ngành kiến trúc Việt Nam trong công cuộc đổi mới
đất nước, xác định yêu cầu, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm xây dựng đội ngũ
trí thức ngành kiến trúc Việt Nam trong những năm tới.
- Nguyễn Đắc Hưng (2005), Trí thức Việt Nam trước yêu cầu phát triển đất
nước, Nxb CTQG, Hà Nội. Trong cơng trình này, khái niệm trí thức, nguồn gốc
hình thành, vị trí vai trị của đội ngũ trí thức Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
được tác giả nghiên cứu khá kỹ. Tác giả cũng đã trình bày một số vấn đề bức xúc
đang đặt ra cho đội ngũ trí thức nước nhà và đề xuất một số phương hướng xây
dựng, phát triển đội ngũ trí thức.

5


- Ngơ Thị Phượng (2007), Đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt

Nam trong sự nghiệp đổi mới, Nxb CTQG, Hà Nội. Trong cuốn sách này, tác giả đã
phân tích rõ khái niệm trí thức khoa học xã hội và nhân văn và vai trò của họ đối
với sự phát triển của xã hội; phân tích những đặc điểm và xu hướng phát triển của
đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn Việt Nam; xác định những vấn đề đặt
ra đối với đội ngũ này dưới tác động của sự nghiệp đổi mới đất nước; đánh giá
những thành tựu, hạn chế và chỉ ra nguyên nhân cũng như xác định mâu thuẫn nảy
sinh trong việc thực hiện vai trị của đội ngũ trí thức khoa học xã hội và nhân văn
Việt Nam trong những năm vừa qua; đề xuất những quan điểm và giải pháp nhằm
tiếp tục phát huy vai trò của đội ngũ này đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới
hiện nay.
- PGS.TS Phan Thanh Khơi (2008), Đóng góp của đội ngũ trí thức vào chủ
trương, đường lối hội nhập kinh tế quốc tế, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, tr. 17-20.
Trong bài viết này tác giả đã phân tích những đóng góp của đội ngũ trí thức vào
đường lối hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam. Đồng thời đưa ra các giải pháp để
đội ngũ trí thức Việt Nam làm tốt hơn vai trị này.
- Võ Văn Thắng (2013), Phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong thời kỳ
CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Tạp chí Triết học, số 2, tr. 52-58. Tác giả đã bàn
về khái niệm trí thức trong bối cảnh hiện nay; thực trạng về đội ngũ trí thức và đưa
ra các giải pháp cơ bản nhằm phát huy hơn nữa vị trí, vai trị của đội ngũ trí thức
Việt Nam.
Thứ hai, các cơng trình nghiên cứu về trí thức trên địa bàn Thủ đô Hà Nội
- TS Lưu Minh Trị (chủ biên) (1999), Phát huy nguồn lực chất xám phục vụ
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa Thủ đơ, Nxb CTQG, Hà Nội. Cơng trình
đã nêu lên một số vấn đề lý luận và thực tiễn về phát huy nguồn lực chất xám, bài
học từ việc sử dụng trí thức và nhân tài trong lịch sử dân tộc, đánh giá chính sách
phát huy nguồn lực chất xám phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH.
- Nguyễn Xuân Phương (2004), Vai trị của trí thức Thủ đơ Hà Nội trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, luận án tiến sỹ Triết học, Hà Nội.

6



Trên cơ sở trình bày nhiệm vụ CNH, HĐH của đất nước nói chung, Hà Nội nói
riêng, tác giả cho rằng: với tư cách là bộ phận quan trọng nhất của trí thức cả nước,
trí thức Thủ đơ đã và đang giữ một vị trí quan trọng trong sự phát triển của Thủ đơ
nói riêng và đất nước nói chung. Thơng qua việc đánh giá thực trạng của trí thức
Thủ đô, tác giả đề xuất nhiều giải pháp quan trọng nhằm phát huy vai trị của đội
ngũ này vào cơng cuộc CNH, HĐH đất nước hiện nay.
- Nguyễn Duy Tưởng - Chu Thanh Hải (2010), Hào khí Thăng Long - Hà
Nội thời đại Hồ Chí Minh, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. Cuốn sách đã khái quát
lịch sử Thủ đô Hà Nội, tập hợp những sự kiện tiêu biểu nhất trong lịch sử đấu tranh
cách mạng, chống ngoại xâm của Hà Nội từ ngày có Đảng lãnh đạo, từ đó khẳng
định Hà Nội là Thủ đơ của phẩm giá con người, Hà Nội là nơi hội tụ nhân tài nguyên khí của dân tộc.
- GS Trần Quốc Vượng (2010), Danh Nhân Hà Nội, Nxb Quân đội nhân dân,
Hà Nội. Thủ đơ Hà Nội - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa cũng là vùng đất địa
linh nhân kiệt, là nơi hội tụ nhân tài nhân sỹ của cả nước. Tạo nên một Hà Nội tài
hoa thanh lịch giàu truyền thống lịch sử và văn hiến như ngày nay có một phần
khơng nhỏ của những vị hiền tài. Cuốn sách Danh nhân Hà Nội không chỉ đơn
thuần là một cuốn sách kể lại tiểu sử danh nhân càng không phải là cuốn sách nhìn
nhận các nhân vật lịch sử thông qua các con số ghi chép ngày tháng hoạt động bình
thường, chúng ta có thể thấy tác giả tiếp cận những con người này dưới những góc
độ văn hóa, đặt những nhân vật trong bối cảnh lịch sử mà họ đang sống. Có thể thấy
đây khơng phải là cuốn sách kể về danh nhân thông thường mà là cuốn sách nói về
danh nhân, xem xét những con người của lịch sử với thái độ nghiêm túc, tinh thần
khoa học với nhiều tìm tịi, khám phá mới mẻ, hấp dẫn.
- GS Trần Văn Bính (chủ biên) (tái bản và sửa chữa) (2010), Văn hóa Thăng
Long - Hà Nội hội tụ và tỏa sáng, Nxb CTQG, Hà Nội. Ở cuốn sách này, tác giả đã
khẳng định Hội tụ và Tỏa sáng là đặc trưng của văn hóa Thăng Long Hà Nội trong
suốt chiều dài lịch sử. Đặc trưng ấy cần phải được nhìn lại, tìm kiếm, phân tích,
đánh giá và rất cần phải được phát huy trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH Thủ đơ.

Cuốn sách “Văn hóa Thăng Long - Hà Nội hội tụ và tỏa sáng” là một cố gắng bước

7


đầu của các trí thức, các nhà khoa học lịch sử, chính trị, văn hóa, văn học, nghệ
thuật Thủ đơ thiết thực chào mừng Đại lễ 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
- Lương Quang Hiển (2013), Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng
và phát huy vai trị của đội ngũ trí thức từ năm 1997 đến năm 2007, luận án tiến sỹ
Triết học, Hà Nội. Luận án làm rõ quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về đội ngũ trí thức. Nghiên cứu q
trình hình thành và phát triển của đội ngũ trí thức Hà Nội, trên cơ sở đó làm rõ đặc
điểm tiêu biểu của trí thức Thủ đơ Hà Nội. Phân tích thành cơng, hạn chế của q trình
Đảng bộ thành phố Hà Nội lãnh đạo xây dựng đội ngũ trí thức thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH và hội nhập quốc tế, bổ sung hồn thiện chính sách về xây dựng và phát huy vai
trị của đội ngũ trí thức đáp ứng yêu cầu cách mạng trong giai đoạn mới.
v.v…
Nhìn chung các cơng trình trên đây đã đi sâu luận giải và làm sáng tỏ khái
niệm, đặc điểm, vị trí, vai trị của đội ngũ trí thức nước ta nói chung và đội ngũ trí
thức Thủ đơ Hà Nội trong sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập nói riêng. Tuy nhiên,
cho đến nay chưa có cơng trình khoa học nào đi sâu nghiên cứu về vấn đề phát huy
vai trò của đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội trong bối cảnh hội nhập.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích của luận văn:
Luận văn làm rõ vai trò, thành tựu và hạn chế trong việc phát huy vai trị của
của đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đô Hà Nội trong bối cảnh hội nhập, từ đó đề
xuất các giải pháp cơ bản tiếp tục phát huy vai trị của đội ngũ trí thức trên địa bàn
Thủ đô Hà Nội trong bối cảnh hội nhập.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Làm rõ quan niệm về trí thức, khái quát về đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ

đô Hà Nội.
- Nêu những cơ hội và thách thức đối với Thủ đô Hà Nội trong bối cảnh hội nhập.
- Trình bày vai trị của đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đô Hà Nội trong bối
cảnh hội nhập và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội.

8


- Phân tích những thành tựu và hạn chế trong phát huy vai trị của đội ngũ trí
thức trên địa bàn Thủ đô Hà Nội.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm tiếp tục phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội trong bối cảnh hội nhập.
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận và thực tiễn:
- Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và cơng tác trí
thức. Luận văn cũng kế thừa kết quả nghiên cứu của các cơng trình liên quan đến
nội dung luận văn.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là kết quả của những hoạt động, nhằm phát huy
vai trị của đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đô Hà Nội trong bối cảnh hội nhập.
Phương pháp nghiên cứu:
-Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử.
- Kết hợp các phương pháp lịch sử - lôgic, phân tích, tổng hợp, quan sát, thu
thập phân tích so sánh số liệu…
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng mà luận văn tập trung nghiên cứu là việc phát huy vai trị của đội
ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đô Hà Nội trong bối cảnh hội nhập.
Phạm vi nghiên cứu:

Đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội là những trí thức đang sinh
sống, công tác và học tập trên địa bàn Thủ đô Hà Nội, ở các cơ quan, viện nghiên
cứu, trường học của Trung ương và Hà Nội…
Phạm vi thời gian nghiên cứu chủ yếu từ khi thực hiện nghị quyết Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (1996) - Đại hội đánh dấu giai đoạn đất nước
bước vào thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH trong bối cảnh hội nhập.

9


6. Đóng góp mới của luận văn
Luận văn trình bày một cách tương đối hoàn chỉnh về thực trạng phát huy vai
trị của đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội; từ đó đề xuất các giải pháp phát
huy vai trò của đội ngũ này đáp ứng yêu cầu của đất nước trong bối cảnh hội nhập.
7. Ý nghĩa của luận văn
Luận văn cung cấp thêm cơ sở để các cơ quan lãnh đạo, quản lý xây dựng,
hồn thiện chính sách phát huy vai trị của đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà
Nội trong bối cảnh hội nhập.
Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy
và học tập, những vấn đề liên quan đến trí thức trong các khoa học lý luận chính trị
và các chuyên ngành khoa học khác.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 2 chương 6 tiết.

10


NỘI DUNG


Ch ư ơn g 1 . PHÁT HUY VAI TRỊ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC TRÊN
ĐỊA BÀN THỦ ĐƠ HÀ NỘI TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP: CƠ SỞ
LÝ LUẬNVÀ THỰC TIỄN
1.1. Quan niệm về trí thức và khái quát về đội ngũ trí thức trên địa bàn thủ đơ
Hà Nội
1.1.1. Quan niệm về trí thức
Trong đời sống hàng ngày, chúng ta thường hiểu đơn giản và chưa đầy đủ về
trí thức. Thơng thường người có được tấm bằng cao đẳng trở lên thì đều được gọi là
trí thức. Cách hiểu này đã tầm thường hóa khái niệm trí thức và do đó đã tầm
thường hóa giới trí thức. Theo nhiều nhà khoa học “trí” thuộc về hiểu biết, “thức”
thuộc về lương tri. Trí thức là những người biết mình, biết người, hiểu biết xã hội và
phụng sự xã hội, gắn sự nghiệp của mình với sự phát triển xã hội, và do đó, trí thức
phải là người có đức độ. Cho nên, nói đến “chuẩn” của người trí thức, người ta
thường nhấn mạnh đến một lượng kiến thức lớn, nhưng đồng thời lại nói đến tinh
thần sáng tạo và phẩm chất đạo đức.
Thuật ngữ “trí thức” được dùng ở nhiều nước trên thế giới và có nguồn gốc từ
tiếng La tinh: Intelligentia nghĩa là thơng minh, có trí tuệ, hiểu biết, có suy nghĩ. Từ
nửa sau của thế kỷ XIX, khái niệm này trở nên thông dụng, người ta thường dùng nó
để chỉ những người có học vấn cao, chun thực hiện lao động trí óc phức tạp.
Xuất phát từ nhiều cách nhìn và phương pháp tiếp cận khác nhau, cho đến
nay có đến hàng trăm khái niệm hay định nghĩa về trí thức. Sự phong phú về khái
niệm trí thức cho thấy việc xác định chính xác và đầy đủ nội hàm khái niệm trí thức,
quả thật khơng dễ, chính vì vậy khái niệm trí thức và giới trí thức vẫn cịn nhiều ý
kiến khác nhau, mỗi khái niệm đều có sự hợp lý của nó.
Theo từ điển Triết học của Nxb Tiến bộ (năm 1986) định nghĩa: “Trí thức tập đồn xã hội gồm những người làm nghề lao động trí óc. Giới trí thức bao gồm
kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc, luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo và người làm công tác
khoa học, một bộ phận lớn viên chức” [78].

11



Theo V.I.Lênin trí thức: “… bao hàm khơng những chỉ các nhà trước tác mà
thơi, mà cịn bao hàm tất cả mọi người có học thức, các đại biểu của những nghề tự
do nói chung, các đại biểu của lao động trí óc (tức là những người mà người Anh
gọi là brain worker), khác với những đại biểu của lao động chân tay’’ [82, tr. 372].
Khi bàn về khái niệm trí thức, cần đặc biệt lưu ý quan điểm của Chủ tịch Hồ
Chí Minh về trí thức. Trong Sửa đổi lối làm việc, sau khi đánh giá cao vai trò của
những người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí
Minh viết: “Trí thức là gì?”, “Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai thứ
hiểu biết: một là hiểu biết sự tranh đấu sinh sản. Khoa học tự nhiên do đó mà ra. Hai
là hiểu biết tranh đấu dân tộc và tranh đấu xã hội. Khoa học xã hội do đó mà ra.
Ngồi hai cái đó, khơng có trí thức nào khác”, “Một người học xong đại học, có thể
gọi là trí thức. Song y không biết cày ruộng, không biết làm công, không biết đánh
giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm lại: cơng việc thực tế, y khơng biết gì
cả. Thế là y chỉ có tri thức một nửa. Trí thức của y là trí thức học sách, chưa phải trí
thức hồn tồn. Y muốn thành một người trí thức hồn tồn, thì phải đem cái trí
thức đó áp dụng vào thực tế” [48, tr. 13-14].
Tuy định nghĩa trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh khơng theo cách định nghĩa
mang tính chất tu từ của các nhà ngơn ngữ học, nhưng bằng cách diễn đạt dễ hiểu,
Người cho thấy rõ trí thức là ai và ai là người trí thức chân chính hay nói như Người
là trí thức hồn toàn.
Một số người khác lại cho rằng những người hoạt động trí óc trong lĩnh vực
nào thì chỉ được coi là trí thức trong lĩnh vực chun mơn đó, cịn ngồi lĩnh vực
chun mơn của họ đang làm, có nghĩa là ở các lĩnh vực khác thì họ chỉ được coi là
những người bình thường như bao người khác. Nếu quan niệm trong phạm vi hẹp
như vậy thì những người được coi là trí thức sẽ rất hạn chế. Một loại ý kiến lại cho
rằng trí thức là những người sáng tạo những giá trị về vật chất, giá trị tinh thần hoặc
cả hai và mức độ đánh giá về trí thức phụ thuộc vào mức độ sáng tạo, như vậy, cho
phép phân loại trí thức ở những tầng bậc khác nhau. Có những trí thức tầm cỡ thế
giới, có trí thức tầm cỡ khu vực, có trí thức tầm cỡ quốc gia. Một số người lại cho


12


rằng trí thức là người sử dụng trí óc một cách sáng tạo, họ thuộc lớp những người
thông minh nhất trong xã hội, có khả năng phát triển cao độ để hiểu biết và lý giải
những vấn đề nảy sinh trong xã hội. Họ được đào tạo đến trình độ có khả năng hoạt
động trong các lĩnh vực khoa học hay nghệ thuật, hoặc có khả năng hoạt động liên
quan đến tư duy ở mức độ cao hơn những người bình thường hay nói cách khác là
những người chun lao động trí óc…
Hiện nay, thế giới đang trong thời kỳ hội nhập, với sự phát triển mạnh mẽ
của truyền thông và Internet, đòi hỏi ngày càng cao những phẩm chất của người trí
thức. Một mặt, họ phải dũng cảm nói lên ý kiến của mình, đấu tranh vì những giá trị
tiến bộ của nhân loại như tự do, bình đẳng, hạnh phúc, thịnh vượng, công bằng;
phải trung thực, độc lập, sáng tạo, tự chủ, góp sức mình cho sự nghiệp phát triển của
đất nước. Mặt khác, họ phải có trách nhiệm và cân nhắc về những điều mình nói và
mình viết, vì chúng có tác động sâu sắc đến xã hội. Trong số các tính cách của trí
thức thì tính trung thực là quan trọng nhất. Khơng trung thực thì trí thức chỉ có tri
thức giả, đạo đức giả và hậu quả của những sự “giả” ấy sẽ gây ra những thảm họa
cho con người. Người trí thức mang những giá trị tốt đẹp khơng phải tự nhiên mà
có, họ phải được giáo dục, rèn luyện trong một thời gian dài. Tuy nhiên, trong
khoảng thời gian con người sống và hoạt động sẽ chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố
chính trị và KT-XH, nhất là chịu ảnh hưởng bởi sự tác động về chính sách và cách
thức giáo dục từ gia đình đến xã hội làm cho nhân cách của con người cũng có sự
biến đổi.
Qua một số quan niệm, định nghĩa trên, chúng ta có thể thấy rằng dù góc độ
tiếp cận khác nhau, song những quan niệm, định nghĩa này đều dựa vào một số đặc
trưng cơ bản của trí thức.
Thứ nhất, trí thức là người lao động trí óc phức tạp sáng tạo.
Lao động là q trình con người sử dụng cơng cụ lao động của mình tác

động vào tự nhiên, nhằm khai thác và cải tạo tự nhiên theo những phương thức nhất
định, phục vụ cho nhu cầu của mình. Phương thức mà con người sử dụng để tác
động vào tự nhiên trong các thời đại và ngay cả trong một thời đại cũng khác nhau.

13


Họ có thể tác động một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới tự nhiên thông qua lao động
chân tay hoặc lao động trí óc. Nói tới trí thức là nói tới hoạt động lao động sáng tạo
bằng trí óc. Lao động trí óc là một trong những cách thức mà một bộ phận trong xã
hội sử dụng để tác động đến tự nhiên một cách gián tiếp. Lao động trí óc xuất hiện
là kết quả của sự phân cơng lao động trong xã hội và phát triển lực lượng sản xuất.
Sự xuất hiện lao động trí óc dẫn đến sự ra đời một tầng lớp lao động đặc biệt trong
xã hội - tầng lớp trí thức. Tuy nhiên, lao động trí óc là lĩnh vực tương đối rộng, bao
gồm lao động trí óc giản đơn và lao động trí óc phức tạp. Lao động trí óc giản đơn
và phức tạp phân biệt với nhau ở mức độ hao phí năng lượng thần kinh trung ương
trong quá trình làm việc. Lao động trí óc phức tạp cần sự hao phí thần kinh trung
ương cao hơn để thực hiện những hoạt động phức tạp của tư duy như phân tích,
tổng hợp, quy nạp, diễn dịch, khái quát hóa, trừu tượng hóa.. về những sự vật, hiện
tượng trong tự nhiên, xã hội thành lý luận, tri thức khoa học mới, có tính sáng tạo.
Cịn lao động trí óc giản đơn chỉ là những hoạt động lặp đi lặp lại nhiều lần và dần
dần thành thói quen, phản xạ. Lao động trí óc giản đơn thường không tạo ra tri thức
khoa học mới mà chỉ tạo ra những tri thức kinh nghiệm thông thường. Vì vậy,
khơng phải tất cả những người lao động trí óc đều là trí thức, mà chỉ những người
lao động trí óc phức tạp mới có khả năng trở thành người trí thức.
Thứ hai, sản phẩm lao động của trí thức là tri thức khoa học mới.
Tri thức khoa học phản ánh bản chất, quy luật của sự vật, hiện tượng, phản
ánh mối liên hệ của các sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Tri thức khoa
học là kết quả của q trình nhận thức lý tính, bắt nguồn từ thực tiễn và được thực
tiễn kiểm nghiệm thơng qua lao động sáng tạo của đội ngũ trí thức - lao động trí óc

phức tạp. Sản phẩm lao động của trí thức chính là tri thức khoa học, sản phẩm này
có đặc điểm là tồn tại ở dạng tinh thần, có tính kế thừa nhưng khơng lặp lại, có giá
trị xã hội cao. Vì vậy lao động của trí thức là lao động mang tính sáng tạo rõ nét.
Thứ ba, trí thức là người có trình độ học vấn, chuyên môn cao.
Để thực hiện được hoạt động lao động trí óc phức tạp, sáng tạo nhằm tạo ra
những tri thức khoa học, trí thức phải là những người có trình độ học vấn và chun

14


mơn sâu. Tuy nhiên, tiêu chí trình độ học vấn để xác định trí thức mang tính lịch sử,
phụ thuộc vào điều kiện KT-XH, hoàn cảnh cụ thể, mặt bằng dân trí, nội dung giáo
dục của từng quốc gia, dân tộc.
Hiện nay, ở nhiều nước nói chung và Việt Nam nói riêng, trong điều kiện của
nền giáo dục hiện đại, tiêu chí để xác định trí thức là từ trình độ cao đẳng trở lên. Với
trình độ kiến thức ban đầu như vậy, người trí thức mới có khả năng để thực hiện lao
động sáng tạo thực sự. Song, tiêu chí về trình độ học vấn mới chỉ là một dấu hiệu để
xác định trí thức, chứ chưa đủ để trở thành trí thức. Có những người có trình độ đại
học, thậm chí trên đại học, nhưng lao động của họ khơng đảm nhiệm chức năng của
người trí thức - sáng tạo tri thức khoa học, thì cũng chưa phải là trí thức. Ngược lại, có
những người khơng có bằng cấp, chủ yếu là tự học hỏi và từ thực tiễn lại có được
lượng tri thức phong phú, có nhiều sáng tạo tri thức mới vẫn có thể coi là trí thức, thậm
chí cịn là nhà khoa học vĩ đại như Robert Owen, Phridich Ăngghen, Albert Einstein…
Hay ở Việt Nam thời kỳ phong kiến, phụ nữ không được đến trường nhưng lại có
những nữ trí thức điển hình như Hồ Xn Hương, Đồn Thị Điểm… Vì vậy, văn bằng
chỉ là chứng nhận về trình độ học vấn, cịn để được cơng nhận là trí thức phải được xã
hội kiểm định chất lượng thơng qua hoạt động thực tiễn.
Trình độ học vấn là tiêu chí bắt buộc để trở thành người trí thức là điều kiện
cần song chưa đủ, bởi vì, trên thực tế, bằng cấp mới chỉ là tiêu chí ban đầu của kiểu
lao động trí óc, có khi nó chỉ là dấu hiệu bề ngoài nếu bằng cấp của một người

khơng tương xứng với khả năng vốn có của họ. Có những người trình độ học vấn
cao nhưng khơng tham gia công việc lao động sáng tạo khoa học phức tạp của
người trí thức mà tham gia vào hoạt động của các nhóm xã hội khác thì họ cũng
khơng đóng vai trị của người trí thức thực sự. Do đó trình độ học vấn là một điều
kiện cần thiết để xếp vào đội ngũ trí thức, nhưng trình độ phải tương xứng với năng
lực thật sự và còn phải tham gia vào công việc lao động sáng tạo khoa học phức tạp
thì mới là người trí thức thực thụ. Điều đó nói lên rằng, trình độ học vấn là điều
kiện cần thiết để trở thành người trí thức, nhưng đó khơng phải là tiêu chuẩn quyết
định tính chất đặc thù trong lao động sáng tạo của trí thức.

15


Bên cạnh trình độ học vấn, người trí thức cịn phải được trang bị kiến thức
sâu về chuyên ngành, có phương pháp nghiên cứu khoa học. Kiến thức sâu về
chuyên ngành là cơ sở và điều kiện cho lao động sáng tạo khoa học của trí thức. Đó
khơng chỉ là những kiến thức được trang bị trong nhà trường mà cịn là sự tìm tịi,
thể nghiệm, là những kinh nghiệm thực tiễn của bản thân đúc kết lại. Để tham gia
vào quá trình lao động sáng tạo khoa học, người trí thức phải đi sâu nghiên cứu
chun ngành mà mình được đào tạo hoặc tham gia nghiên cứu khoa học. Có kiến
thức sâu về chun ngành thì họ mới có thể sáng tạo ra những sản phẩm khoa học
đích thực đúng với tiềm năng, sở trường của họ.
Thứ tư, trí thức tham gia (trực tiếp hoặc gián tiếp) vào trong tất cả các lĩnh
vực hoạt động của đời sống xã hội.
Trí thức có vai trị rất quan trọng đối với sự phát triển của xã hội. Trí thức
góp phần phát triển những học thuyết, định hướng chính cho sự vận động của một
giai cấp, một chính đảng, một quốc gia. Họ là lực lượng chủ chốt trong nghiên cứu
cơ bản, nghiên cứu ứng dụng và đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất, trí thức đã trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Mặt khác, họ còn là lực lượng chủ yếu duy trì,
phát triển nền văn hóa dân tộc, xây dựng, phát triển con người. Họ thực hiện chức

năng đào tạo trí thức mới cho đất nước, chức năng phê phán xã hội, tích cực tham
gia các hoạt động xã hội. Trí thức cịn có trách nhiệm lớn trong việc giải quyết
những vấn đề toàn cầu của thời đại, qua đó góp phần làm cho xã hội phát triển bền
vững. Ngày nay, trí thức là một chủ thể của cách mạng KHCN hiện đại, đang dần
trở thành một bộ phận đặc biệt quan trọng trong nền kinh tế tri thức.
Hiện nay trong xã hội vẫn tồn tại những quan niệm khác nhau về bản chất xã
hội của trí thức. Do đó, cần phải làm rõ sự khác biệt trong tính chất lao động của trí
thức. Chúng ta khơng nên nhầm lẫn giữa tầng lớp trí thức với những người lao động
trí óc. Tại sao lại hay nhầm lẫn như vậy? Bởi lẽ, trong thời đại ngày nay, khi mà
khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão, đã có sự xích lại gần nhau giữa lao động trí
óc và lao động chân tay. Chính vì thế khi chúng ta phân biệt cần phải biết xác định
rõ sự khác biệt trong tính chất lao động của tầng lớp trí thức.

16


Sự khác biệt giữa những người lao động trí óc như trí thức và những viên
chức hoạt động trong lĩnh vực hành chính, hậu cần, dịch vụ… Lao động của các
viên chức này khơng phải là lao động trí óc phức tạp nên khơng bắt buộc họ phải có
học vấn cao, mặc dù xu hướng nâng cao trình độ học vấn của tầng lớp này là cần
thiết. Trái lại, trí thức là tầng lớp lao động sáng tạo ra các giá trị tinh thần, vật chất
cho xã hội, hoạt động của trí thức là hoạt động trí óc phức tạp nên bắt buộc họ phải
có học vấn cao. Tính chất đặc thù của tầng lớp trí thức chính là hoạt động sáng tạo
ra các tri thức khoa học. Sự phân biệt về lao động của trí thức và viên chức chính là
ở nội dung và tính chất của lao động trí óc và học vấn. Trong đó, viên chức lao
động phức tạp nặng về vận dụng tri thức đã biết, cịn trí thức là người lao động trí
óc phức tạp, sáng tạo dựa trên trình độ học vấn cao.
Khơng nên coi trí thức là một bộ phận cao cấp của cơng nhân, mặc dù thành
phần xuất thân của trí thức hiện nay chủ yếu từ cơng nhân, nơng dân, trí thức phục vụ
nền chun chính cơng nơng và được trang bị bằng tư tưởng của giai cấp công nhân.

Xét một cách tổng thể thì đội ngũ trí thức ngày càng có vai trị to lớn trong khối liên
minh cơng - nông và họ đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp của xã hội.
Trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt và đặc thù. Tầng lớp này khơng thuộc
về một giai cấp nào duy nhất, mà hình thành như một nhóm xã hội theo cách nhìn của
xã hội học, có đặc điểm lao động và phương thức sản xuất riêng để sản xuất và truyền
bá tri thức. Trí thức đến từ nhiều bộ phận khác nhau trong xã hội: từ các giai cấp; lực
lượng; tập đồn; nhóm xã hội… Trí thức khơng trực tiếp tham dự vào sở hữu tư liệu
sản xuất vật chất của xã hội nhưng lại rất nổi trội trong sở hữu trí tuệ. Trí thức khơng
phải là một giai cấp nên họ khơng có hệ tư tưởng độc lập, họ ln có xu hướng chịu
ảnh hưởng trực tiếp từ những yêu cầu lịch sử của thời đại mà họ đang sống, họ phục
vụ cho chế độ và cho giai cấp cầm quyền. Tuy nhiên, trí thức khơng chỉ do giai cấp
thống trị cầm quyền chi phối. Tầng lớp trí thức hình thành và tồn tại trong lịng dân
tộc, trong khn khổ từng quốc gia - dân tộc và trong cộng đồng xã hội. Do đó, tầng
lớp trí thức có mối liên hệ mật thiết với dân tộc và nhân dân.
Chính từ những đặc trưng của trí thức, nên Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan
niệm: “Trí thức là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực

17


chun mơn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri
thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội” [25].
Quan niệm trên của Đảng thể hiện một bước phát triển mới trong nhận thức về vị
trí, vai trị của lực lượng trí thức trong điều kiện hiện nay. Quan niệm này đã bao quát và
phản ánh khá đầy đủ đặc trưng của trí thức nói chung và trí thức Việt Nam nói riêng.
Từ những quan niệm và đặc trưng nêu trên về trí thức, có thể khái qt: Trí
thức là một tầng lớp xã hội đặc thù, bao gồm những người lao động trí óc phức tạp,
có trình độ học vấn và chun mơn cao, có đạo đức, có khả năng sáng tạo tri thức
khoa học mới, đồng thời truyền bá, nhất là ứng dụng tri thức khoa học trong hoạt
động thực tiễn, góp phần to lớn đến sự phát triển mọi mặt của đời sống xã hội và

trình độ văn minh của nhân loại.
1.1.2. Khái quát về đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đô Hà Nội
Hà Nội là một địa danh hình thành rất sớm trong lịch sử dân tộc, với bề dày
truyền thống trên một ngàn năm văn hiến. Mặc dù có nhiều tên gọi tương ứng với
các thời kỳ lịch sử khác nhau như: Thăng Long, Đông Đô, Đông Kinh, v.v., nhưng
Hà Nội luôn được chọn là nơi định đô của nhiều triều đại phong kiến Việt Nam.
Năm 1945, Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam giành được độc lập,
Hà Nội được Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ quyết định là Thủ đơ của
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Từ năm 1976 đến nay, sau khi đất nước thống
nhất, Hà Nội tiếp tục là Thủ đơ của nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trước yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, phát triển Thủ đô, Hà Nội được điều
chỉnh nhiều lần. Chỉ tính từ năm 1961 đến nay Thủ đơ Hà Nội đã có tới bốn lần điều
chỉnh địa giới hành chính: năm 1961 và 1978 điều chỉnh mở rộng, năm 1991 điều
chỉnh thu hẹp. Đặc biệt, để xứng tầm với vị thế Thủ đơ của đất nước có trên 100 triệu
dân trong tương lai và để đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển trong thời kỳ đẩy
mạnh sự nghiệp CNH, HĐH Thủ đô và đất nước, thực hiện Kết luận số 19-KL/TW,
ngày 28-01-2008 của Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Quốc
hội khóa XII ban hành Nghị quyết số 15/2008/QH12, ngày 29-05-2008 về việc điều
chỉnh, mở rộng địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh có liên quan,

18


bao gồm: Hợp nhất tồn bộ diện tích tự nhiên và dân số của tỉnh Hà Tây vào thành
phố Hà Nội; chuyển tồn bộ diện tích tự nhiên và dân số của huyện Mê Linh (tỉnh
Vĩnh Phúc) và của 4 xã Đơng Xn, Tiến Xn, n Bình, n Trung (huyện Lương
Sơn, tỉnh Hịa Bình) về thành phố Hà Nội. Thủ đô Hà Nội được mở rộng đã tạo ra thế
và lực mới, thời cơ và triển vọng to lớn, đồng thời là tiền đề, và động lực quan trọng
để Hà Nội phát triển nhanh, tồn diện và bền vững.
Thủ đơ Hà Nội được biết đến như là trái tim của cả nước, đầu não chính trị hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục. Là nơi đặt trụ sở

các cơ quan Trung ương của Đảng, Quốc hội và Chính phủ, các tổ chức chính trị - xã
hội, các cơ quan đại diện ngoại giao, tổ chức quốc tế và là nơi diễn ra các hoạt động đối
nội, đối ngoại quan trọng nhất cả nước. Là trung tâm lớn về văn hóa, nơi hội tụ, kết tinh
và lan tỏa truyền thống văn hóa và những giá trị, nét đẹp văn hóa đặc sắc, tiêu biểu của
cả nước. Là địa danh tiêu biểu cho truyền thống “Văn hiến - Anh hùng - Hịa bình Hữu nghị” của dân tộc Việt Nam. Đặc biệt Thủ đô Hà Nội là trung tâm lớn về KHCN,
GDĐT, y tế, xã hội của cả nước và có uy tín trong khu vực; là nơi tập trung nhiều cơ
sở, trung tâm nghiên cứu, đi đầu trong lĩnh vực nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng, phát
triển KHCN của đất nước, là nơi tập trung nhiều nhất các học viện, trường đại học, cao
đẳng, dạy nghề và những cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Trong thời gian qua, với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và thành phố Hà Nội,
đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội có điều kiện phát triển nhanh, phong phú
và đa dạng, là một bộ phận tiêu biểu và đại diện cho trí thức Việt Nam. Có thể khái
qt về đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội qua những đặc điểm tiêu biểu sau :
Thứ nhất, đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội có số lượng đông đảo,
chiếm tỷ lệ cao trong lực lượng trí thức của Việt Nam
Xuất phát từ khái niệm trí thức, thực tiễn phát triển Thủ đô Hà Nội, chúng tơi
quan niệm đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội là những người lao động trí óc,
được đào tạo cơ bản, có trình độ học vấn từ cao đẳng, đại học trở lên, có khả năng sáng
tạo khoa học, hoạt động trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,
KHCN… đang sinh sống và làm việc trên địa bàn Thủ đô Hà Nội. Tuy nhiên, hiện nay

19


chưa có sự nhất quán trong điều tra, thống kê về đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ
Hà Nội, nên chúng tơi chưa có được con số chính xác về đội ngũ này. Mặc dù vậy,
thông qua một số nguồn tư liệu, chúng tơi có thể khẳng định, đội ngũ trí thức trên địa
bàn Thủ đơ Hà Nội chiếm tỷ lệ khơng nhỏ trong lực lượng trí thức ở Việt Nam.
Theo số liệu cuộc Tổng điều tra dân số và nhà ở của Cục Thống kê Hà Nội,
tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2009, trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội có khoảng gần 40 vạn

người có trình độ tốt nghiệp cao đẳng, đại học trở lên. Còn theo Liên hiệp các Hội
Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội, tính đến thời điểm hiện nay đội ngũ trí thức trên địa
bàn Thủ đơ Hà Nội theo đã tăng lên gần 50 vạn người, chiếm gần 30% tổng số người
có trình độ cao đẳng, đại học trên cả nước. Qua số liệu trên có thể thấy trí thức trên
địa bàn Thủ đô Hà Nội là một lực lượng đông đảo và đang phát triển nhanh. Nếu năm
1999 trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội có 253.287 người có trình độ từ cao đẳng, đại học
trở lên [54], thì đến nay con số đã tăng lên gần 50 vạn, tăng gấp 2,5 lần.
Là một trong hai trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội lớn nhất của cả nước,
Hà Nội là nơi tập trung số lượng lớn các trường đại học, cao đẳng và học viện trên
cả nước. Đó là cái “nơi” đào tạo đội ngũ trí thức cũng như nguồn nhân lực chất
lượng cao của Việt Nam. Theo Bộ Giáo dục và Đào tạo, năm 2010 số trường đại
học, cao đẳng và học viện trên địa bàn Thủ đô Hà Nội là 103 trường chiếm 24,2 %
so với cả nước; năm 2011 là 102 trường chiếm 23,4 % so với cả nước; năm 2012 là
102 trường chiếm 23,2% so với cả nước; năm 2013 là 105 trường chiếm 23,5 % với
cả nước và đến năm 2014 là 110 trường, chiếm 23,9 % so với của cả nước (xem Phụ
lục 1). Căn cứ vào đây, thì số lượng trí thức trong các trường đại học, cao đẳng và
học viện trên địa bàn Thủ đô Hà Nội chiếm khoảng ¼ số lượng trí thức trong các
trường đại học, cao đẳng và học viện của cả nước.
Sự phát triển về số lượng đội ngũ trí thức trên địa bàn Thủ đơ Hà Nội cịn thể
hiện rõ ở một số cơ sở đào tạo và nghiên cứu khoa học lớn như: Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam; Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam; Đại học
Bách khoa Hà Nội; Đại học Quốc gia Hà Nội; Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ
thuật Hà Nội…

20


×