Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ tri thức và sự vận dụng trong thời kỳ đổi mới

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (762.99 KB, 117 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






HOÀNG THỊ THUẬN








TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG,
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI





LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC













Hà Nội - 2011


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






HOÀNG THỊ THUẬN






TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG,
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC
VÀ SỰ VẬN DỤNG TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI




Chuyên ngành: Hồ Chí Minh học
Mã số : 60 31 27



LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
TS. Lại Quốc Khánh







Hà Nội - 2011

LỜI CAM ĐOAN



Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Nội dung và
các trích dẫn trong luận văn là trung thực, có xuất xứ rõ ràng.



Tác giả luận văn



Hoàng Thị Thuận








1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử nhân loại hàng nghìn năm qua đã chứng minh rằng, bất cứ quốc gia,
dân tộc nào cũng không thể tồn tại và phát triển nếu không có nguồn lực trí tuệ
hùng hậu, không xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở trình độ cao.
Trong thời đại ngày nay, cuộc cách mạng khoa học công nghệ đã bước
vào giai đoạn phát triển mới với tốc độ đổi mới công nghệ nhanh đến chóng mặt,
thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế tri thức, trong đó sức cạnh tranh
của mỗi sản phẩm nói riêng, của toàn bộ nền kinh tế nói chung được quyết định
bởi hàm lượng và chất lượng chất xám kết tinh trong các sản phẩm và quá trình
lao động. Quá trình toàn cầu hóa đi vào chiều sâu, phát tán những thành tựu của
cách mạng khoa học công nghệ, những thách thức của nền kinh tế tri thức ra
khắp toàn cầu. Hơn lúc nào hết, chân lý: “kẻ nào có sức mạnh trí tuệ, kẻ đó tồn
tại và phát triển” đang được chứng thực một cách vô cùng rõ ràng. Trong bối

cảnh như thế, việc phát triển nhanh chóng và bền vững năng lực trí tuệ của từng
cá nhân cũng như của cả cộng đồng phải được coi là nhiệm vụ ưu tiên đặc biệt
của tất cả các quốc gia trong chiến lược phát triển thế kỷ XXI. Điều đó đồng
nghĩa với việc vai trò của trí thức cũng ngày càng trở nên quan trọng.
Nhìn lại lịch sử, chúng ta có thể khẳng định rằng, Việt Nam là một dân
tộc có truyền thống hiếu học, trọng dụng trí thức, trọng dụng hiền tài. Kế thừa
truyền thống tốt đẹp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị anh hùng giải phóng dân tộc,
nhà văn hóa lớn, luôn quan tâm sâu sắc tới việc xây dựng và phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức trong sự nghiệp giải phóng dân tộc cũng như trong sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đối với Hồ Chí Minh, cách mạng muốn thành công
phải dựa trên lực lượng cách mạng được giác ngộ sâu sắc và được tổ chức chặt
chẽ, trong đó trí thức là một trong những lực lượng “nòng cốt của cách mạng”.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh cho tư tưởng sáng suốt và đúng
đắn đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định rằng, tư tưởng Hồ Chí
2

Minh về trí thức nói chung, về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức
nói riêng là một bộ phận cấu thành quan trọng trong toàn bộ hệ thống tư tưởng
Hồ Chí Minh, là một di sản tinh thần quý báu mà chúng ta cần phải kế thừa và
phát triển trong giai đoạn hiện nay.
Việt Nam đang đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, trong đó công
nghiệp hoá, hiện đại hóa gắn với phát triển nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc
tế là một nội dung quan trọng. Vấn đề xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ
trí thức có ý nghĩa cấp thiết và to lớn. Nhìn chung, Đảng và Nhà nước ta đã luôn
quan tâm tới công tác xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức. Tuy
nhiên, cũng cần phải thấy rằng, có lúc, có nơi, chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước đối với trí thức vẫn chưa thật sự đúng đắn, chưa thật sự thỏa đáng;
vẫn còn có những cán bộ lãnh đạo, quản lý chưa thực sự tôn trọng, trọng dụng
trí thức. Đại đa số trí thức hiện nay có phẩm chất đạo đức cách mạng, năng lực
chuyên môn ngày càng được nâng cao và đã có nhiều đóng góp quan trọng đối

với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, … Tuy nhiên, trước những thời
cơ và thách thức mà thời đại đặt ra đối với dân tộc, đội ngũ trí thức dù đang
không ngừng phát triển vẫn đang thiếu và yếu. Chính vì thế, hơn lúc nào hết,
Đảng và Nhà nước ta cần tiếp tục đẩy mạnh xây dựng đội ngũ trí thức, tạo điều
kiện tốt hơn nữa để phát huy cao độ vai trò của họ. Đó là một trong những
nhiệm vụ có tầm quan trọng hàng đầu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất
nước hiện nay.
Để thực hiện thành công nhiệm vụ to lớn đó, đường lối và chính sách của
Đảng và Nhà nước cũng như nỗ lực của bản thân đội ngũ trí thức cần được xây
dựng trên nền tảng vững chắc, trong đó, tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận
cấu thành quan trọng.
Xuất phát từ nhận thức trên, tôi quyết định lựa chọn vấn đề “Tư tưởng
Hồ Chí Minh về xây dựng, phát huy vai trò của đội ngũ trí thức và sự vận
dụng trong thời kỳ Đổi mới” làm đề tài luận văn thạc sĩ chuyên ngành Hồ Chí
Minh học.
3

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hệ thống tư liệu và tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu tư tưởng Hồ
Chí Minh về trí thức nói chung, về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức nói riêng là rất phong phú, đa dạng, và có thể được phân loại như sau:
Trước hết là hệ thống tư liệu phản ánh tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức
đã được tập hợp khá đầy đủ. Trong đó, đặc biệt có giá trị là bộ Hồ Chí Minh
toàn tập gồm 12 tập (xuất bản lần thứ hai), và bộ Hồ Chí Minh toàn tập gồm 15
tập (xuất bản lần thứ 3), bộ Hồ Chí Minh biên niên tiểu sử 10 tập, đĩa CD Room
Hồ Chí Minh toàn tập bao gồm công cụ tra cứu và hệ thống trích dẫn theo
chuyên đề, trong đó có chuyên đề tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức. Ngoài ra
còn một số tư liệu khác đã được xuất bản dưới hình thức văn bản, chẳng hạn
cuốn “Về vấn đề trí thức và cách mạng - Hồ Chí Minh (Nxb. Sự thật, 1976),
v.v

Một loại tư liệu khác rất có ý nghĩa đối với việc tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí
Minh về trí thức, thái độ ứng xử của Hồ Chí Minh đối với trí thức, đó là hồi ký
của các nhà trí thức về Hồ Chí Minh, chẳng hạn, “Người trí thức quê hương” (2
tập, Hàm Châu, Nxb. Giáo dục, 2005), “Những người được Bác Hồ đặt tên”
(Trần Đương, Nxb. Công an nhân dân, 2005), “Bác Hồ với nhân sĩ, trí thức”
(Trần Đương, Nxb. Thông tấn, 2005), v.v
Trực tiếp liên quan đến đề tài là các công trình nghiên cứu dưới hình thức
bài báo khoa học công bố trên các tạp chí, các bài tham luận tham dự hội thảo
khoa học và các sách chuyên khảo đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức được tiếp cận nghiên cứu trong các chủ đề: tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
và đoàn kết quốc tế, tư tưởng Hồ Chí Minh về lực lượng trong cách mạng giải
phóng dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân, xây dựng chủ nghĩa xã hội,
v.v Có thể nêu ra ở đây một số công trình như: “Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự
nghiệp giải phóng dân tộc và chấn hưng đất nước” (Vũ Đình Hòe, Võ Nguyên
Giáp, Nguyễn Đức Bình, , Nxb. Lao động, 2006); “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
4

con đường cách mạng Việt Nam” (Võ Nguyên Giáp – chủ biên, Nxb. Chính trị
quốc gia, 2000); “Về vấn đề giáo dục – đào tạo”, (Phạm Văn Đồng, Nxb. Chính
trị quốc gia, 1999), “ Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội” (Lê Mậu Hãn, Đặng Xuân Kỳ, , Nxb. Chính trị Quốc gia, 2003), “Chiến
lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh” (Phùng Hữu Phú – chủ biên, Nxb. Chính trị
quốc gia, 2005), “Hồ Chí Minh với văn nghệ trí thức” (Nguyên Vũ, Nguyễn
Thái Anh – Tuyển chọn, Nxb. Thanh niên, 2007), “Biện chứng của Tư tưởng Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Lại Quốc Khánh, Nxb. Chính trị
Quốc gia, 2009),
Trong mấy năm trở lại đây, một trong những vấn đề lớn thu hút sự quan
tâm của giới khoa học là vấn đề xây dựng và phát huy nguồn lực trí tuệ Việt
Nam. Trong nhiều bài báo, sách chuyên khảo, đề tài nghiên cứu về vấn đề này

cũng ít nhiều đề cập đến tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát huy vai trò
của đội ngũ trí thức, chẳng hạn như các bài báo khoa học: “Hồ Chí Minh với trí
thức” (Nguyễn Văn Khánh, Vũ Quang Hiển, Tạp chí khoa học: Khoa học xã hội,
Đại học Quốc gia Hà Nội, 1992, số 3+4, tr. 48-53) “Vai trò của trí thức Việt
Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” (Ngô Thị
Phương, Tạp chí khoa học: Khoa học xã hội, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000, số
4), “Đảng Cộng sản Việt Nam với tầng lớp trí thức” (Hoàng Xuân Phúc, Kỷ yếu
hội thảo khoa học kỷ niệm 55 năm cách mạng tháng Tám và quốc khánh 2- 9
(1945-2000), 2001, tr.396-402), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh công –
nông – trí thức trong cách mạng Việt Nam” (Phạm Ngọc Anh, Tạp chí Lịch sử
Đảng, 2003, số 7, tháng 7, tr.28-34), “Tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức và nhân
tài” (Nguyễn Đắc Hưng, Báo Nhân dân, 2004, tr.3),
Trong lĩnh vực đào tạo, cũng đã có một số luận văn cao học, luận án tiến
sĩ với các đề tài có liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát
huy vai trò của đội ngũ trí thức đã được bảo vệ thành công, chẳng hạn như: “Vị
trí, vai trò của tầng lớp trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam” (LAPTS Triết học, Phan Viết Dũng, 1988), “Phát huy nguồn lực trí tuệ
5

trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay” (LATS Triết học, Bùi Thị Ngọc
Lan, 2000),
Nhìn tổng thể, các công trình nghiên cứu nói trên đã góp phần làm rõ
nhiều vấn đề lý luận liên quan đến tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức. Tuy nhiên,
để đi sâu làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, phát hiện ra những giá trị tư
tưởng có sức sống vượt thời gian, vận dụng vào thực tiễn cách mạng hiện nay
còn nhiều vấn đề vẫn tiếp tục cần được làm rõ, chẳng hạn:
Thứ nhất, Hồ Chí Minh quan niệm như thế nào về người trí thức cách
mạng, qua đó có thể xác định được những phẩm chất của người trí thức trong
giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, những biện pháp của Hồ Chí Minh trong xây dựng và cải tạo trí

thức đáp ứng yêu cầu của cách mạng.
Thứ ba, những chính sách mà Hồ Chí Minh đã sử dụng để tập hợp và phát
huy vai trò của trí thức.
v.v
Lựa chọn nghiên cứu đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát
huy vai trò của đội ngũ trí thức và sự vận dụng trong thời kỳ Đổi mới”, tôi mong
muốn được tham gia giải quyết một vài khía cạnh trong những vấn đề nói trên.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Góp phần làm rõ những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng
và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, khẳng định giá trị của tư tưởng, trên cơ
sở đó đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và
phát huy vai trò của đội ngũ trí thức.
- Khái quát thực trạng xây dựng và phát huy vai trò đội ngũ trí thức Việt
Nam từ 1986 đến nay.
6

- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh, đề xuất một số kiến nghị nhằm tiếp tục
xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức ở Việt Nam trong thời gian tới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức, thực trạng và những vấn đề đặt ra trong xây dựng và phát huy vai trò của
đội ngũ trí thức thời kỳ Đổi mới.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức được xác định là hệ thống các quan điểm cơ bản thể hiện qua những luận

điểm trong các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh, qua những ứng xử thực tiễn
của Người đối với đội ngũ trí thức trong cách mạng giải phóng dân tộc và xây
dựng chế độ xã hội mới.
- Phạm vi thời gian khảo sát thực trạng xây dựng và phát huy vai trò đội
ngũ trí thức ở Việt Nam là từ 1986 đến thời điểm thực hiện luận văn (2010).
- Tư liệu phục vụ nghiên cứu là các xuất bản phẩm trong nước có liên
quan đến đề tài luận văn.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Đảng Cộng sản Việt Nam về trí
thức, vai trò của trí thức trong sự nghiệp cách mạng theo con đường cách mạng
vô sản.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp kết hợp lịch sử với lôgic, phương pháp phân tích, phương
pháp tổng hợp, phương pháp hệ thống - cấu trúc, phương pháp so sánh, phương
pháp nghiên cứu văn bản học
6. Đóng góp của luận văn
- Hệ thống hoá được những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây
dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức.
7

- Khái quát được thực trạng xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí
thức ở Việt Nam thời kỳ từ 1986 đến nay.
- Đề xuất được một số giải pháp nhằm tiếp tục xây dựng và phát huy vai
trò đội ngũ trí thức thời gian tới trên cơ sở vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phần nội
dung của luận văn bao gồm 2 chương và 4 tiết.











8

CHƢƠNG I
CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
XÂY DỰNG, PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC

1.1. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát
huy vai trò của đội ngũ trí thức
1.1.1. Giá trị tư tưởng, truyền thống văn hóa của dân tộc
Qua chiều dài lịch sử, cùng với quá trình từng bước chinh phục tự nhiên
và đấu tranh chống kẻ thù, dân tộc Việt Nam đã tạo dựng nên một hệ các giá trị
truyền thống tốt đẹp. Trong đó, nổi bật nhất là truyền thống yêu nước, tinh thần
đoàn kết, hiếu học, trọng dụng trí thức và trọng dụng nhân tài,
Có thể khẳng định rằng, yêu nước là một truyền thống quý báu của dân
tộc Việt Nam, được lưu truyền từ đời này qua đời khác, thấm sâu vào tâm hồn
của mỗi người. Nó có ảnh hưởng sâu sắc, chi phối và bao trùm mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội từ tư tưởng, tình cảm, tâm lý, suy nghĩ và hành động. Do đó, kẻ
thù của dân tộc ta từ bọn phong kiến ngoại tộc, cho đến chủ nghĩa thực dân cũng
đã bao phen kinh hồn, khiếp vía trước sức mạnh của chủ nghĩa yêu .
Hồ Chí Minh, trong quá trình tiếp nhận các giá trị truyền thống của dân
tộc đã khẳng định: “Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền
thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thì tinh

thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt
qua mọi sự nguy hiểm khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước”
(48, tr.171). Người đã nhận thức sâu sắc vai trò của chủ nghĩa yêu nước đối với
quá trình hình thành và phát triển của dân tộc. Người coi đó như một nguồn sức
mạnh to lớn giúp dân tộc đứng vững và trường tồn cùng với thời gian. Để chứng
minh cho sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, Hồ Chí Minh thường nhắc tới
những tấm gương yêu nước sáng ngời của ông cha ta, những người “tiêu biểu
cho một dân tộc anh hùng”. Đó là những người yêu nước, thương dân, sẵn sàng
hy sinh vì dân, vì nước như Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Nguyễn Huệ,
9

Cách tư duy đó cho thấy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước
không phải là cái gì đó trừu tượng, mà là một hiện thực sống động, sống động
trong những con người hiện thực, trong hành động hiện thực của những con
người yêu nước. Chủ nghĩa yêu nước là động lực quan trọng để tài năng, trí tuệ
của những người yêu nước phát huy và phát triển. Bởi với sự suy tư, trăn trở,
tìm tòi, sáng tạo để nhận thức và giải quyết những vấn đề lớn lao của dân tộc,
của cộng đồng, và của nhân dân đã làm nên những tài năng lớn, những trí tuệ
lớn. Mặt khác, chính chủ nghĩa yêu nước lại làm cho tài năng, trí tuệ trở thành
giá trị, làm cho những tài năng lớn, trí tuệ lớn trở thành những nhân cách lớn -
những người được dân tộc, được nhân dân đời đời ghi nhớ. Do đó, tiếp thu và
cải biến chủ nghĩa yêu nước truyền thống, Hồ Chí Minh đã có được cơ sở cực
kỳ quan trọng để tập hợp, phát huy vai trò của các lực lượng cách mạng, không
phân biệt giai cấp và tầng lớp, trong đó có trí thức.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Nghệ An giàu truyền thống yêu nước, đã
khắc ghi tên tuổi của nhiều nhà trí thức nặng lòng vì Tổ quốc, Hồ Chí Minh
cũng có điều kiện tiếp xúc với các trí thức yêu nước. Đó là những sĩ phu trí thức
yêu nước cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX như Phan Bội Châu, Đặng Thái Thân,
Đặng Nguyên Cẩn, họ luôn trăn trở với nỗi đau của dân tộc, mong muốn tìm
ra một con đường cứu nước, cứu dân thoát khỏi ách lầm than nô lệ. Những sĩ

phu trí thức này chính là tiền thân cho trí thức Việt Nam giai đoạn sau. Điều đó
chứng tỏ, Hồ Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa yêu nước truyền thống của dân tộc
từ chính gia đình và quê hương của mình. Người đã sớm cảm nhận, hấp thụ
được tư tưởng vì nước vì dân của cha, từ những người thầy giáo. Vì thế, chủ
nghĩa yêu nước truyền thống đã trở thành một trong những tiền đề vững chắc
hình thành nên tư tưởng của Người trước khi ra đi tìm đường giải phóng dân tộc.
Và cũng chính chủ nghĩa yêu nước truyền thống đã trở thành nền tảng để Người
đến, tiếp nhận, vận dụng đúng đắn chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh cụ thể
của dân tộc: “Lúc đầu, chính chủ nghĩa yêu nước, chứ chưa phải chủ nghĩa cộng
sản đã đưa tôi tin theo Lênin, tin theo Quốc tế thứ ba” (52, tr.128). Như vậy, Hồ
10

Chí Minh đã tiếp thu chủ nghĩa yêu nước trước hết từ những nhà trí thức lớn của
dân tộc, và từ những tấm gương yêu nước cháy bỏng. Điều đó cho thấy, những
nhà trí thức chân chính luôn là những người yêu nước, sẵn sàng hy sinh vì dân
tộc, vì nhân dân.
Tiếp nối truyền thống của cha ông “Bầu ơi thương lấy bí cùng”,
“Nhường cơm sẻ áo”, bên cạnh lòng yêu nước, trong quá trình hình thành và
xây dựng tư tưởng, quan điểm của mình về trí thức, Hồ Chí Minh cũng nhận
thức sâu sắc về truyền thống đoàn kết của dân tộc. Bởi thông qua tinh thần đoàn
kết, nhân dân Việt Nam đã xây dựng nên một “Vạn lý trường thành” của chủ
nghĩa yêu nước, tạo nên một sức mạnh khổng lồ, làm thất bại mọi âm mưu của
kẻ thù. Điều đó được chứng minh bằng những thắng lợi vẻ vang của khởi nghĩa
hai Bà Trưng, cuộc chiến tranh vệ quốc của Lý Thường Kiệt, cuộc kháng chiến
của quân dân nhà Trần, cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi, cuộc kháng chiến của
Nguyễn Huệ, và cũng chính đoàn kết đã tạo nên lực lượng vật chất để thực
hiện chủ nghĩa yêu nước. Với tư duy sắc bén, vốn kiến thức sâu rộng, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã sớm nhận thức được vai trò của tinh thần đoàn kết đối với cách
mạng và coi đoàn kết là vấn đề có vị trí chiến lược. Người nhấn mạnh: “Lòng
yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai

thắng nổi” (48, tr.281). Vì vậy, “nếu chủ nghĩa yêu nước là mục đích tôn chỉ của
mọi suy nghĩ, hành động của dân tộc Việt Nam thì trong hoàn cảnh đất hẹp,
người ít, lại phải đương đầu với những sức mạnh tàn phá ghê gớm của tự nhiên
và xã hội, phương thức duy nhất để thực hiện mục đích, tôn chỉ ấy là đoàn kết”
(34, tr.45). Chủ nghĩa yêu nước trở thành mẫu số chung để đoàn kết tất cả mọi
giai cấp và tầng lớp trong xã hội.
Đoàn kết đã trở thành điều kiện tất yếu để tồn tại, là tình cảm tự nhiên để
gắn bó mọi người Việt Nam, trên cơ sở lòng yêu nước. Đoàn kết, cũng là cơ sở
để thực hiện lòng khoan dung, độ lượng, hướng tới cái thiện. Bởi vậy, Hồ Chí
Minh đã coi đoàn kết là mục tiêu, là động lực của cách mạng. Trong đấu tranh,
Người đã đưa ra khẩu hiệu: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết; Thành công,
11

thành công, đại thành công”, để tập hợp tất cả các giai cấp và tầng lớp trong xã
hội, thực hiện mục tiêu chung là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước. Chính
sách đoàn kết dân tộc mà Hồ Chí Minh kế thừa trong tinh hoa truyền thống dân
tộc và triển khai rộng rãi trong thực tiễn cách mạng là một cơ sở quan trọng để
tập hợp, phát huy vai trò không phải của một vài nhà trí thức, mà của cả một đội
ngũ trí thức đông đảo, tổng hợp sức mạnh của đội ngũ trí thức với sức mạnh của
các giai cấp, tầng lớp khác tạo thành một nguồn sức mạnh to lớn chiến thắng
mọi kẻ thù. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã khẳng định, với việc xây dựng
Mặt trận dân tộc thống nhất, Hồ Chí Minh đã làm cho đội ngũ trí thức trở thành
một lực lượng quan trọng của cách mạng giải phóng dân tộc, một bộ phận “nòng
cốt” trong xây dựng chủ nghĩa xã hội. Có thể thấy rằng, đoàn kết những người
trí thức để hình thành nên đội ngũ trí thức, đoàn kết đội ngũ trí thức với giai cấp
công nhân, giai cấp nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác là một tư
tưởng lớn của Hồ Chí Minh, mà tư tưởng lớn ấy có một cội nguồn quan trọng là
truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Cùng với truyền thống yêu nước và đoàn kết, Hồ Chí Minh cũng đã tiếp
biến trong truyền thống hiếu học, trọng dụng trí thức, trọng dụng nhân tài

những giá trị tích cực làm nền tảng để xây dựng các quan điểm cụ thể trong xây
dựng và phát huy vai trò của trí thức. Bởi những thông điệp về nhân tài, trí thức,
trước hết được thể hiện ở những quan niệm dân gian của nhân dân ta. Trong kho
tàng văn học dân gian Việt Nam, có rất nhiều câu ca dao, tục ngữ bàn về truyền
thống hiếu học của dân tộc, như : “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”,
“Học thầy không tày học bạn”, Truyền thống đó, còn được lưu truyền cho các
thế hệ sau thông qua các bản hương ước của làng, như một minh chứng cho tinh
thần hiếu học của dân tộc Việt Nam. Các hương ước lúc đầu thường được truyền
miệng, sau được ghi chép thành văn bản cụ thể. Tinh thần hiếu học đã được các
làng xã cực kỳ coi trọng và coi đó là một trong những tiêu chí của văn hóa làng.
Chẳng hạn, Hương ước làng Phúc Xá (tổng Phúc Lâm, huyện Hoàng Long, tỉnh
Hà Đông) soạn năm 1923, điều thứ năm ghi mục học chính: “Nhà nào có con từ
12

6, 7 tuổi trở lên bất cứ hạng nào cũng phải cho con ra trường học. Những nhà
túng quá, cho con đi học mà không thể lấy tiền đâu được, thời tường (trình) với
tộc biểu học mình đã làm giấy nhận thực trình Hội đồng, tòa Hội đồng xét được
thực thì sẽ cấp giấy bút cho 3 năm. Học trò nào học hết 3 năm rồi phải thi, xem
hễ có tư cách thông minh có thể ra trường tỉnh học được, thì bố mẹ đứa ấy phải
cho đi học, không được bắt con bỏ học mà làm việc khác …” (72, tr.51). Hay ở
một số làng còn có phong tục: “Các làng mộ văn học, cứ mỗi năm, mộ hết học
trò trong làng khảo một kỳ, gọi là khảo tiến ích. Dân làng bầu cử một vài ông
khoa mục xem xét ai học giỏi, ai học kém, hễ ai giỏi thì dân có thưởng. Lại có
nơi, tuần phủ đi tuần trong làng, hễ ai có con đi học mà không nghe tiếng học
đêm thì dân làng bắt phạt. Các cách ấy đều có ý cổ vũ cho người ta chăm học”
(72, tr.51). Như vậy, các làng xã Việt Nam luôn coi trọng việc học tập, tuy cách
thức khuyến khích còn đơn giản, nhưng một điều không thể phủ nhận là nhân
dân ta đã có ý thức đề cao tinh thần hiếu học trong việc đào tạo nhân tài, trí thức
cho đất nước.
Truyền thống hiếu học luôn gắn liền với truyền thống trọng dụng nhân tài

trong việc xây dựng và vun đắp “nguyên khí” cho đất nước. Nếu về phía nhân dân,
đó là truyền thống hiếu học, thì về phía nhà nước, đó là truyền thống trọng dụng
nhân tài. Nhưng tất cả đều xoay quanh một nhu cầu khách quan của hiện thực xã
hội: Những thách thức mà dân tộc Việt Nam phải đối mặt, dù là thách thức từ phía
tự nhiên (thiên tai), hay thách thức từ phía xã hội (địch họa), luôn là những thách
thức vô cùng to lớn. Và trong bối cảnh các nguồn lực vật chất còn vô cùng hạn hẹp
thì nguồn lực con người, nguồn lực trí tuệ trở thành nguồn lực vô cùng quan trọng,
giúp dân tộc Việt Nam vượt qua những thách thức ấy. Đây chính là một trong
những kinh nghiệm quý báu mà cha ông ta để lại cho các thế hệ sau, và nó được
lưu truyền trong dân gian hay trong các văn bản được ghi chép lại.
Gắn với việc đề cao tinh thần hiếu học, các hương ước cũng có những
khoản, điều quy định rõ ràng về trọng dụng nhân tài. Hương ước làng Nhật Tân
(huyện Hoàn Long, tỉnh Hà Đông), soạn năm 1921, điều 103 quy định: “Thường
13

năm dân trích tiền công chi tiêu tiền công và trả lương thầy giáo. Hay khoán ước
làng Quỳnh Đôi (Nghệ An) quy định ở khoản 5: “Khi làng khảo hạch, nếu ai
làm bài đạt hạng ưu thì được trừ công dịch 1 năm, hạng bình được trừ nửa năm,
hạng thứ trừ 3 tháng. Còn những người chưa đến tuổi việc quan mà đậu thì tùy
theo hạng mà thưởng giấy bút cho” (72, tr.51). Như vậy, để phát huy hết vai trò
và trí tuệ của người tài, nhân dân ta đã có những đãi ngộ hợp lý cả về vật chất và
tinh thần.
Các truyền thuyết dân gian, thường phản ánh ước mơ, nguyện vọng của
nhân dân, đồng thời cũng thể hiện những truyền thống quý báu của dân tộc,
trong đó có truyền thống trọng dụng nhân tài, trí thức. Mỗi truyền thuyết ẩn
chứa trong đó các giá trị khác nhau, phán ánh những mức độ khác nhau của tinh
thần hiếu học, tinh thần cầu người tài đức. Trước hết, để đối mặt với các thế lực
ngoại xâm hùng mạnh, thì nhu cầu tìm người tài đức, luôn được các vị vua đặt
lên hàng đầu. Và trong kho tàng văn học Việt Nam, truyền thuyết Thánh Dóng
đã phản ánh nguyện vọng cầu người tài ra giúp nước của vua Hùng để chống

giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi nước nhà. Tuy mang tính chất hư cấu về hình
ảnh của Thánh Dóng, nhưng nó cho thấy cầu hiền là một trong những hình thức
phát hiện và lựa chọn nhân tài của dân tộc được sử dụng từ rất sớm trong thời kỳ
đầu dựng nước và giữ nước. Truyền thuyết cũng phản ánh tinh thần chung sức
đào tạo nhân tài cho dân tộc thông qua chi tiết các làng, chạ góp cơm cà nuôi
Dóng lớn. Cùng nguyện vọng chống giặc ngoại xâm, truyền thuyết thành Cổ
Loa đã gửi tới thế hệ sau thông điệp về cầu thị, trọng dụng nhân tài của An
Dương Vương. Hình ảnh Cao Lỗ là biểu tượng của người tài trong công việc
phòng thủ đất nước và chống ngoại xâm, nhờ vậy đất nước được bình yên, ngày
càng cường thịnh. Nhưng sau đó, An Dương Vương lại có thái độ bạc đãi với
Cao Lỗ, làm cho Cao Lỗ chán chường phải bỏ đi, đất nước rơi vào tay kẻ thù.
Qua đây, nhân dân ta cũng nhận thức được vai trò của những người đứng đâu
đất nước trong việc trọng dụng hay bạc đãi nhân tài. Bởi điều đó sẽ ảnh hưởng
14

trực tiếp tới chính sách phát huy nguồn lực trí tuệ làm cho đất nước hưng thịnh
hoặc suy vong.
Bên cạnh nhu cầu chống giặc ngoại xâm, dân tộc Việt Nam cũng luôn
phải đối mặt với sự khắc nghiệt của thiên nhiên. Vì vậy, nhân dân ta đã gửi gắm
qua truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh nguyện vọng trị thủy. Trong truyền
thuyết, chi tiết vua Hùng kén rể chính là một hình thức để tuyển chọn nhân tài.
Tuy nhiên, qua truyền thuyết này, nhận thức của nhân dân ta về nhân tài cũng đã
có bước phát triển, đó là sự ý thức đầy đủ về hai loại người tài trong xã hội. Cả
Sơn Tinh và Thủy Tinh đều là những người tài, nhưng cái tài đó lại được sử
dụng với mục đích khác nhau. Nếu Thủy Tinh là biểu tượng cho cái tài của
người ác, thì Sơn Tinh là biểu tượng cho người tài hướng thiện. Do đó, việc
nhân dân ta tôn vinh Sơn Tinh chính là tôn vinh những người có tài thực sự,
luôn đứng về phía nhân dân, cùng nhân dân chống thiên tai. Vậy là, nhân dân ta
đã có quan niệm rất rõ rệt về phẩm chất của nhân tài, hiền tài của dân tộc.
Khi đất nước được yên bình, không còn phải đối mặt với thiên tai, địch

họa nữa thì xây dựng đất nước cũng đòi hỏi phải tìm kiếm, tuyển chọn được
những người tài. Trong truyện Mai An Tiêm, vua Hùng đã bỏ qua hạn chế về
nguồn gốc xuất thân, về dân tộc để cân nhắc, nâng đỡ và trọng dụng người có
thực tài. Đây là một quan niệm mới, có tính đột phá, có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc
đến ngày nay. Đồng thời, nhân dân ta cũng đề cập tới hình thức thử thách người
tài, phá vỡ tư tưởng đố kỵ, kìm hãm sự phát triển của họ, nhằm mục đích phát
huy sức sáng tạo của họ trong công cuộc xây dựng đất nước thịnh trị.
Từ những phân tích trên, qua kho tàng văn học Việt Nam và những khảo
cứu về hương ước làng xã có thể khẳng định rằng: Dân tộc Việt Nam sớm có
truyền thống hiếu học và trọng dụng nhân tài. Những truyền thống này bắt
nguồn từ nhu cầu chống thiên tai, địch họa, phát triển đất nước. Ngoài ra, do đức
tính cần cù, thông minh, với vị trí địa lý thuận lợi, là sự giao lưu giữa các nền
văn minh lớn, nên Việt Nam cũng đã phát huy tinh thần hiếu học, trọng dụng
nhân tài để làm giàu vốn tri thức văn hóa của dân tộc mình. Vì vậy, ngày nay,
15

chúng ta thường thấy ở những làng, xã thường có những nơi thờ cúng Thành
hoàng làng hoặc Thánh. Điều đó thể hiện sư tôn trọng, biết ơn của nhân dân đối
với những người có công đối với dân tộc. Hồ Chí Minh đã tiếp thu các giá trị
tích cực trong truyền thống của dân tộc làm tiền đề cho việc đề ra tư tưởng, quan
điểm về tìm kiếm, tuyển chọn, sử dụng và đãi ngộ trí thức trong cách mạng.
Kế thừa truyền thống hiếu học, trọng dụng nhân tài của dân tộc từ thời kỳ
dựng nước, các triều đại phong kiến Việt Nam đã luôn coi trọng và phát huy vai
trò của giáo dục để phát hiện, đào tạo, tuyển dụng, bồi dưỡng và sử dụng nhân
tài. Muốn phát huy vai trò của nhân tài, đòi hỏi phải có những vị vua sáng, biết
nhìn người, có thái độ chiêu hiền, đãi sĩ, trọng dụng nhân tài. Chẳng hạn, trong
cuộc kháng chiến chống quân Minh, Lê Lợi đã thể hiện được tấm lòng chiêu
hiền, đãi sĩ của mình đối với Nguyễn Trãi.Vì vậy, có được Nguyễn Trãi, Lê Lợi
coi đó là phúc lớn; còn gặp được Lê Lợi, Nguyễn Trãi như tìm được vị cứu tinh
của dân tộc để gửi gắm niềm tin, bộc lộ tài năng của mình. Lê Lợi đã tạo mọi

điều kiện cho Nguyễn Trãi nghiên cứu, tìm tòi ra những cách đánh hay nhất làm
thất bại âm mưu của kẻ thù. Do đó, cuộc kháng chiến của dân tộc ta đi đến thắng
lợi hoàn toàn, mở ra một triều đại mới. Đây là kết quả của chính sách trọng dụng
người tài trong cảnh đất nước có chiến tranh. Còn khi đất nước đã thái bình, thì
việc tìm kiếm người tài lại càng được các vị vua chúa coi trọng, họ đã đề ra
những chính sách thiết thực đáp ứng yêu cầu và nguyện vọng của người tài đức.
Một trong những vị vua điển hình đó là Quang Trung – Nguyễn Huệ, năm 1788,
sau khi lên ngôi, ổn định đất nước thì công việc đầu tiên mà vị vua này thực hiện
là mong muốn xây dựng một nguồn lực trí tuệ hùng mạnh cho đất nước. Để làm
được điều đó, Quang Trung thực hiện chủ trương phát triển giáo dục nhằm đào
tạo nhân tài. Trong “Chiếu lập học”, Quang Trung nhấn mạnh: Xây dựng đất
nước phải lấy việc dạy học làm đầu, tìm lẽ trị bình, lấy tuyển nhân tài làm gốc.
Giáo dục chính là con đường cơ bản nhất để đào tạo người tài và cũng là con
đường có hiệu quả nhất. Song song với phát triển giáo dục, Quang Trung cũng
chú trọng tới việc phát huy vai trò của những nhân tài đang ở ẩn, hoặc đang làm
16

quan cho triều đình phong kiến trước đó. Chính sách thu phục nhân tài của
Quang Trung được thể hiện rõ nhất trong “Chiếu dụ các quan văn võ triều cũ”
trực tiếp viết và “Chiếu cầu hiền” ủy quyền cho Ngô Thì Nhậm viết. Quang
Trung chỉ rõ: Trẫm một lòng yêu quý nhân tài không lúc nào quên Phàm
những kẻ đang bị giam giữ đều tha ra hết, những kẻ chạy trốn không truy nã nữa
để làm rõ đức khoan dung (Chiếu dụ). Như vậy, để thu phục nhân tài, trí thức,
Quang Trung đã thực hiện chính sách khoan dung, đãi ngộ của mình đối với họ.
Một điểm đặc biệt, thể hiện sự thông minh, uyên bác của vị vua này đó là sự am
hiểu sâu sắc về nhân tài, tri thức. Quang Trung đã thấy vai trò của người tài, và
việc sử dụng họ sao cho phù hợp với tài năng. Trong “Chiếu cầu hiền”, Quang
Trung khẳng định: Trẫm đang để ý lắng nghe, thức ngủ mong mỏi tại sao những
người tài cao học rộng chưa thấy đến, hay là trẫm ít đức không đáng để phò tá
chăng ? Trẫm nơm nớp lo nghĩ, dù một ngày, hai ngày cũng có đến hàng vạn

sự việc nảy sinh. Ngẫm cho kỹ: Cái nhà to lớn, sức một cây cột không thể chống
đỡ, sự nghiệp thái bình sức một người không thể đảm đang. Quang Trung đã
nhận thức sâu sắc sức mạnh của người tài nói chung và nhân tài nói riêng trong
việc giữ nền độc lập và xây dựng đất nước.Vì vậy, Quang Trung đã rất thành
công trong việc thu phục các nhân tài dưới triều đại của mình như: Ngô Thì
Nhậm, Nguyễn Thiếp, Phan Huy Ích, Bùi Dương Lịch, và họ đã làm rạng
danh đất nước. So với các triều đại trước, Quang Trung đã có những quan điểm
tiến bộ trong việc sử dụng người tài, giao đúng việc, yêu cầu các quan tiến cử
người tài, đối với những người có tài chưa có điều kiện để phát triển thì có thể tự
tiến cử để phát huy tài năng.
Một điểm nữa mà Hồ Chí Minh kế thừa trong tư tưởng chính trị của các
triều đại phong kiến đó là việc tuyển chọn nhân tài bình đẳng không căn cứ vào
nguồn gôc xuất thân. Nhân tài trong chế độ phong kiến ở nước ta có nguồn gốc
khác nhau, có người thuộc dòng dõi quý tộc (Ngô Quyền, Trần Quốc Tuấn, ),
nhưng có người lại thuộc tầng lớp thứ dân (Đinh Bộ Lĩnh, Lý Thường Kiệt,
Phạm Ngũ Lão, ). Môi trường đào tạo cũng đa dạng: đào tạo tại chùa Phật
17

giáo, tại gia hay qua con đường khoa cử. Các triều đại phong kiến tiến bộ của
Việt Nam đã có những chính sách đúng đắn trong việc phát huy vai trò của nhân
tài. Thông qua các con đường khác nhau nhân tài được tuyển dụng và đãi ngộ
xứng đáng. Chính họ đã có đóng góp to lớn cho đất nước như: Chu Văn An,
Trương Hán Siêu, Ngô Sĩ Liên, Nguyễn Trãi, Lê Quý Đôn, Nguyễn Bỉnh
Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Phạm Ngũ Lão, Đồng thời, họ được
hưởng các chính sách đãi ngộ của triều đình về vật chất và tinh thần theo chức
vụ bổ nhiệm.
Từ những nét khái quát trên, chúng ta có thể thấy rắng, ở bất cứ giai đoạn
nào của lịch sử, việc xây dựng và phát huy vai trò của người tài nói chung và
nhân tài nói riêng luôn là vấn đề cốt lõi trong chính sách cai trị của người nắm
thực quyền. Hiếu học, trọng dụng nhân tài đã trở thành truyền thống quý báu

được các triều đại phong kiến Việt Nam, tiếp thu và phát triển phù hợp với tình
hình thực tiễn, nhằm phát huy hết vai trò của người tài đức. Do đó, Phan Huy
Chú đã khẳng định: “Nước Việt ta phong khí đã mở mang, khí tinh hoa đều hợp
lại. Trong khoảnh khắc đó, vua hiền chúa sáng kế tiếp nổi lên, danh khanh,
lương tá thường xuất hiện ra” (6, tr.153).
Quê hương Nam Đàn tỉnh Nghệ An của Người, cũng là mảnh đất nổi
tiếng “địa linh sinh nhân kiệt”, có nhiều người học giỏi, đỗ cao. Sử sách đã ghi:
trong 96 kỳ thi hương từ năm 1635 đến năm 1890, riêng làng Kim Liên có 53 vị
khoa bảng và riêng làng Hoàng Trù có 29. Đó là kết quả của cả một quá trình
khổ học thành tài, ham học hỏi để có thể thực hiện được ước nguyện giúp nước,
giúp dân, thỏa chí của người “quân tử”. Hiếu học trở thành nét chung, là một
đức tính cao quý của những người con xứ Nghệ. Hồ Chí Minh đã thấy tấm
gương hiếu học từ chính người cha của mình – cụ Nguyễn Sinh Sắc với tinh
thần học tập hăng say. Sau khi đỗ cử nhân, một mặt Cụ mở lớp dạy học để đào
tạo thế hệ trẻ, mặt khác Cụ vẫn tiếp tục dùi mài kinh sử, trau dồi kiến thức. Cùng
với cha, thân mẫu của Người cũng là một người phụ nữ ham học, am hiểu, hết
18

lòng phục vụ chồng con trong quá trình học tập. Những người thầy của Người
cũng là những tấm gương sáng về hiếu học.
Bên cạnh truyền thống hiếu học, Nghệ An cũng nổi tiếng là vùng đất
trọng đãi người tài đức, nhân tài. Ở xã Chung Cự, trong đó có làng Sen và làng
Chùa, bản Hương ước của xã quy định rõ việc cấp ruộng học điền cho những
người trong làng đỗ đạt cao. Chính cụ Nguyễn Sinh Sắc cũng đã được cấp theo
tục lệ trên vào năm 1894, khi Cụ vừa đỗ cử nhân. Đồng thời, những người đỗ
đạt, không chỉ được phong chức vụ do triều đình giao cho, mà khi về quê còn
được nhân dân đón tiếp rất trang trọng ở lễ vinh quy bái tổ. Như vậy, đất thì sỏi
đá, nhưng con người thì trí tuệ, thông minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiếp thu
truyền thống trọng dụng nhân tài của cha ông và bổ sung, vận dụng nó trong
hoàn cảnh mới để đáp ứng yêu cầu của lịch sử.

Như vậy, sinh ra trong một gia đình nhà nho giàu truyền thống yêu nước,
Hồ Chí Minh đã sớm được hấp thu tinh thần hiếu học từ tấm gương của cha mẹ,
của quê hương mình. Qua quá tình tiếp xúc với những trí thức đầu tiên của dân
tộc, Người đã từng bước nhận thức ra đặc điểm của trí thức là ham học hỏi, luôn
muốn chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức để vận dụng vào giải quyết các vấn đề thực
tiễn. Năm 1947, khi viết tác phẩm “Đời sống mới”, Người nhấn mạnh: “Biết
ham học. Trước hết là học chữ, học làm tính Ngoài ra, còn biết bao nhiêu điều
cần học. Việc thế giới rất nhiều, học không bao giờ hết. Người có học mới tiến
bộ. Càng học càng tiến bộ” (46, tr.97). Người khuyến khích tinh thần tự nguyện
học tập nâng cao trình độ của nhân dân nói chung và trí thức nói riêng.
Tóm lại, Hồ Chi Minh đã kế thừa một cách sáng tạo các truyền thống quý
báu của dân tộc, quê hương, gia đình. Và cùng với thái độ ứng xử, hành động
đối với trí thức, Hồ Chí Minh đã đề ra hệ thống tư tưởng, quan điểm về trí thức
nói chung, xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức nói riêng.
1.1.2. Giá trị tư tưởng, văn hoá nhân loại
Hồ Chí Minh là hiện thân của sự kết hợp giữa văn hóa phương Đông và
phương Tây. Tư tưởng của Người về trí thức, một mặt là sự chắt lọc những
19

truyền thống tốt đẹp của dân tộc, mặt khác, nó là sự tiếp thu các giá trị tinh hoa
văn hóa nhân loại, trong đó quan trọng nhất là chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nói đến phương Đông, người ta không thể không nhắc tới những nền văn
hóa - văn minh nổi tiếng như Ai Cập, Lưỡng Hà, Ấn Độ, Trung Hoa, và cũng
không thể không nhắc đến Nho giáo, Hồi giáo, Phật giáo, Hindu giáo và các tín
ngưỡng bản địa mang màu sắc phương Đông. Là người thông minh, hiếu học,
Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sớm tiếp nhận các giá trị văn hóa phương
Đông, để làm giàu vốn tri thức của mình, nổi bật là ảnh hưởng của Nho giáo.
Sinh ra trong một gia đình nhà Nho, nên ngay từ nhỏ, Người đã tiếp xúc với
các quan điểm của Nho giáo. Hồ Chí Minh nhận thức được rằng, Nho giáo đề cao
tinh thần hiếu học, đề cao tri thức, đề cao trí tuệ. Đây là những phẩm chất cần thiết

của mỗi con người, vì nếu không ham học thì: … Muốn Nhân lại hóa ra ngu.
Muốn Trí lại hóa phóng đãng. Muốn Tín lại hóa ra cố chấp, bị tổn hại. Muốn ngay
thẳng lại hóa ra gắt gao, mất lòng người. Muốn Dũng lại hóa ra phản loạn. Muốn
Cương thường lại hóa ra cuồng bạo (Luận Ngữ, Dương Hóa, 8). Còn đối với quốc
gia thì, nếu: trên không giữ lễ, dưới không có học, thì giặc cướp nổi lên, diệt vong
không biết lúc nào đây (Mạnh Tử, Ly Lâu - Thượng, 1). Như vậy, Nho giáo đòi hỏi
mọi người phải học cho rộng, hỏi cho cùng. Bản thân Khổng Tử cũng là người nổi
tiếng ham học. Ông học nhiều, biết rộng, có vốn kiến thức uyên thâm về nhiều lĩnh
vực. Khổng Tử cũng là người đầu tiên mở trường dạy học, thu nhận học trò từ
nhiều nơi để đào tạo họ. Sau này, các học trò của ông, trừ những người làm quan,
còn lại đã tiếp tục sự nghiệp của thầy: học không biết chán, dạy không biết mỏi góp
phần vào xây dựng xã hội.
Trong tư tưởng xây dựng đội ngũ trí thức, Hồ Chí Minh đã kế thừa quan
điểm tiến bộ của Nho giáo về các phẩm chất của người quân tử: Nhân, Trí, Dũng.
Từ đó, Người vận dụng vào việc giáo dục đạo đức cho trí thức, để họ thực sự trở
thành người trí thức chân chính của dân tộc. Cùng với mô hình đào tạo người quân
tử, Nho giáo cũng đề cao tư tưởng trọng dụng nhân tài, mục đích giúp họ phát huy
hết tài năng của mình. Trong đó, nổi bật lên mấy điểm cơ bản sau:
20

Thứ nhất, đối với nhân tài, cần phải tôn trọng, có thái độ cầu hiền, giữ lễ.
Mạnh Tử nói: “Vua hiền thì giữ mình khiêm cung, ăn tiêu tiết kiệm, có lễ độ với
bề tôi” (Đằng văn Công – Thượng, 3) hay “Muốn gặp người hiền mà chẳng nói
theo đạo lý, thì có khác gì mời khách vào nhà nhưng lại đóng chặt cửa” (37, tr.
74). Thái độ cầu hiền đó cần chân thành thì mới giữ được nhân tài. Muốn vậy,
cần cảm hóa nhân tài, lấy được lòng tin của họ, để họ tự nguyện giúp mình trong
việc cai trị và xây dựng xã hội.
Thứ hai, theo Nho giáo, để phát hiện, tìm kiếm, đề bạt người tài và nhân
tài cần phải thông qua con đường thi cử, giáo dục. Đương thời, Khổng Tử cũng
là người đầu tiên mở trường tư dạy học, đào tạo nên hàng ngàn học trò, trong đó

có nhiều người được lưu danh sử sách, mở đầu cho truyền thống tự học vốn có
vai trò cực kỳ quan trọng trong việc đào tạo nhân tài, trí thức trong xã hội truyền
thống. Mục tiêu giáo dục của Khổng Tử là đào tạo, bồi dưỡng người hiền tài. Do
đó, ông chủ trương “Học nhi ưu tắc chi” (Học mà giỏi tất sẽ được sử dụng). Về
phương pháp giáo dục, Khổng Tử thực hiện “Nhân tài thi giáo”, tùy theo khả
năng của mỗi người mà thực hành giáo dục, để họ có thể phát huy hết năng lực
và sở trường. Bên cạnh con đường giáo dục và khoa cử, Nho giáo cũng rất chú
trọng tới hình thức tiến cử và tự tiến cử người tài ra phò vua giúp nước.
Thứ ba, theo Nho giáo cần có chính sách đãi ngộ nhân tài như thưởng
phạt công minh, quan tâm đến cuộc sống của họ. Thưởng phạt không được căn
cứ vào tình cảm cá nhân, mà phải dựa vào kết quả công việc của nhân tài.
Nhìn chung, tư tưởng cơ bản của Nho giáo trong việc trọng dụng nhân tài
là phải biết xét người, nhìn nhận đúng người, giao đúng công việc và không
ngừng bồi dưỡng, đào tạo giúp họ làm tốt việc với sự thưởng phạt công minh.
Đây cũng chính là những điểm tiến bộ mà Hồ Chí Minh kế thừa và phát triển
trong xây dựng tư tưởng về trí thức.
Bên cạnh mặt giá trị, trong tư tưởng Nho giáo về giáo dục cũng có những
hạn chế, trong đó nổi bật nhất là quá đề cao tri thức xã hội, tri thức nhân văn, mà
coi nhẹ tri thức tự nhiên, tri thức kỹ thuật. Nếu chỉ dừng lại ở mục tiêu đào tạo
21

những người làm chính trị, quản lý, ở mục tiêu giáo dục đạo đức, văn hoá, thì
mặt hạn chế của Nho giáo không thể hiện rõ, nhưng khi đứng trước nhu cầu đào
tạo đội ngũ trí thức, đội ngũ những người lao động trí tuệ phục vụ một cách toàn
diện các nhu cầu của xã hội thì hạn chế nói trên sẽ bộc lộ rõ. Hồ Chí Minh thấu
hiểu sâu sắc cả ưu điểm và hạn chế của Nho giáo, chính vì thế, Người đặc biệt
coi trọng tri thức khoa học xã hội, tri thức khoa học nhân văn, nhưng đồng thời
cũng không hề coi nhẹ tri thức khoa học tự nhiên, tri thức khoa học kỹ thuật.
Đây chính là biểu hiện của việc Hồ Chí Minh vừa kế thừa, vừa vượt bỏ Nho
giáo truyền thống.

Trong hành trình tìm đường cứu nước, Hồ Chí Minh từng bước tìm hiểu
và nghiên cứu các giá trị văn hóa phương Tây. Người đã tìm ra những điểm tích
cực, tiến bộ của văn hóa phương Tây để làm giàu vốn tri thức của mình. Tự do,
bình đẳng và bác ái là khẩu hiệu mà thực dân Pháp tuyên truyền ở nước ta đã
nhanh chóng chiếm được cảm tình của Hồ Chí Minh. Nhưng giá trị thực sự của
khẩu hiệu đó chỉ được cảm nhận một cách đúng đắn nhất khi sang phương Tây.
Người nhận thức sâu sắc, dân chủ và tự do là một trong những điều kiện để trí
thức có thể phát huy hết khả năng của mình. Vì vậy, trong quá trình kháng chiến
và xây dựng chế độ mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo quan điểm
này trong xây dựng cũng như sử dụng đội ngũ trí thức.
Khi đến với chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh coi đó là “cẩm nang
thần kỳ”, nếu vận dụng sáng tạo vào thực tiễn sẽ giải quyết thành công mọi việc.
Trong di sản tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin, Người đã tiếp thu quan điểm
tiến bộ về xây dựng đội ngũ trí thức và chính sách sử dụng trí thức. Chủ nghĩa
Mác - Lênin khẳng định: cách mạng là sự nghiệp vĩ đại của quần chúng nhân
dân và nhân dân chính là người làm ra lịch sử. Tuy đề cao vai trò của quần
chúng nhân dân nói chung, các nhà kinh điển cũng nhấn mạnh tới vai trò của các
vĩ nhân, của bộ phận “tinh hoa”, bởi: mỗi xã hội, mỗi thời đại cần có những vĩ
nhân của mình, nếu không có những vĩ nhân như vậy thì nó sẽ phải tạo ra. Đó
chính là những nhân tài có hiểu biết sâu rộng, có năng lực chuyên môn, khả
22

năng dự báo và hoạt động thực tiễn phong phú. Do đó, một mặt chủ nghĩa Mác –
Lênin khẳng định vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân với tư cách là
lực lượng tiên phong, đại diện cho phương thức sản xuất mới; mặt khác luôn
khẳng định sức mạnh của khối liên minh công nhân, nông dân và trí thức, coi trí
thức là một bộ phận quan trọng của cách mạng. Vì vậy, cần phải khai thác hết
tiềm năng trí tuệ, sức sáng tạo của trí thức để đưa cách mạng đến thắng lợi.
C. Mác đã đưa ra quan niệm của mình về trí thức: Trí thức là những người
có đủ tri thức để quan tâm và có chính kiến riêng đối với các vấn đề của xã hội,

nên họ phải là những người phê bình không nhân nhượng những gì đang hiện
hữu, không nhân nhượng với nghĩa rằng họ không lùi bước trước kết luận của
chính quyền hoặc trước xung đột với chính quyền, bất cứ chính quyền nào. Theo
C. Mác, trí thức trước hết phải là người có trình độ chuyên môn, có kiến thức
sâu sắc, và có vai trò phản biện đối với những vấn đề đang nảy sinh trong lòng
xã hội đương thời.
Lịch sử nhân loại đã ghi nhận những cống hiến to lớn của trí thức đối với
thời đại. Chủ nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ ra vai trò quan trọng của trí thức trong
sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa. Bởi đó là một cuộc cách mạng triệt để
diễn ra trên mọi mặt của đời sống nhằm xây dựng một xã hội tốt đẹp. Xã hội đó
phát triển dựa trên những thành tựu và tri thức khoa học hiện đại, nên nhất thiết
phải có đội ngũ trí thức khoa học. Là lãnh tụ của phong trào cách mạng thế giới,
Lênin đã nhận thức sâu sắc về vai trò của trí thức, và là người giải quyết thành
công mối quan hệ giữa trí thức với các giai cấp khác trong xã hội. Lênin đã chỉ
rõ: yếu tố quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội đối với chủ nghĩa tư bản
đó là năng suất lao động. Vì vậy, cần phải ứng dụng và phát minh những thành
tựu khoa học kĩ thuật đưa vào quá trình sản xuất. Do đó, Lênin đề cao vai trò
của các nhà khoa học, chuyên gia giỏi: “Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia
am hiểu các lĩnh vực khoa học, kĩ thuật và có kinh nghiệm, thì không thể chuyển
lên chủ nghĩa xã hội được, vì chủ nghĩa xã hội đòi hỏi một bước tiến có ý thức
và có tính quần chúng để đi tới một năng suất lao động cao hơn năng suất lao

×