Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Quan điểm cơ bản của hêghen về lôgíc học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (821.78 KB, 117 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------

LÊ THANH TÂM

QUAN ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HÊGHEN
VỀ LƠGÍC HỌC
Luận văn Thạc sĩ chun ngành Triết học
Mã số: 60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Anh Tuấn

HÀ NỘI - 2010


LỜI CẢM ƠN!
Luận văn này là kết quả mà em đã đạt được sau 3 năm học tập và
rèn luyện tại Khoa triết học, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân
văn. Trong quá trình thực hiện luận văn em đã nhận được sự giúp đỡ to
lớn của các thầy cơ giáo, các anh chị khố trước và các bạn trong tập thể
lớp. Em xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới thầy cô và các bạn, đặc
biệt là thầy giáo PGS. TS. Nguyễn Anh Tuấn, Người đã trực tiếp hướng
dẫn và tận tình chỉ bảo cho em hoàn thành tốt luận văn này.
Chắc chắn rằng những hạn chế và thiếu sót trong luận văn này là khơng
thể tránh khỏi, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cơ cùng
tồn thể các bạn để đề tài của em được bổ sung, phát triển và hoàn thiện hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN


Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi được thực
hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Anh Tuấn.
Các kết quả của luận văn chưa được cơng bố trong các cơng trình nào
khác.
Các số liệu, tài liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, khách
quan và có nguồn gốc rõ ràng.
Tơi hoàn toàn chịu trách nhiệm về nội dung của đề tài.
Hà nội, Ngày 25 tháng 11 năm 2010
Tác giả luận văn

Lê Thanh Tâm


MỤC LỤC
MỤC LỤC ....................................................................................................... 1
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 3
1. Lý do chọn đề tài ...................................................................................... 3
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ............................................................ 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................ 10
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 10
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .......................................... 10
6. Đóng góp của luận văn........................................................................... 11
7. Ý nghĩa của luận văn ............................................................................. 11
8. Kết cấu của luận văn .............................................................................. 11
CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TRIẾT HỌC HÊGHEN VÀ
NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TIỂU LƠGÍC .. …………………………..12
1.1. Điều kiện hình thành và các tiền đề lý luận của triết học Hêghen . 12
1.1.1. Bối cảnh văn hoá - xã hội Tây Âu và nước Đức thời Cận đại và sự
tác động của nó đến triết học ................................................................... 12
1.1.2. Tiền đề lý luận của lơgíc học Hêghen..………………………….18

1.2. Cuộc đời và sự nghiệp triết học của Hêghen .................................... 29
1.2.1. Sơ lược về tiểu sử và tác phẩm chủ yếu ......................................... 29
1.2.2. Hệ thống triết học Hêghen…………………………………….…31
1.2.3. Vị trí của lơgíc học trong hệ thống Hêghen ................................... 35
1.3. Cấu trúc và nội dung cơ bản của “Tiểu lơgíc” ................................. 41
1.3.1. Sự vận động của tư duy trong Tiểu Lơgíc: từ tồn tại đến bản chất
và khái niệm ............................................................................................. 41
1.3.2. Những quy luật cơ bản của tư duy biện chứng .............................. 57
CHƯƠNG 2. MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRIẾT HỌC CƠ BẢN CỦA LƠGÍC HỌC
HÊGHEN ......................................................................................................... 67

1


2.1. Đồng nhất lơgíc học với hệ thống khoa học và siêu hình học ......... 67
1.2.1. Tư duy với tính cách là đối tượng của triết học lơgíc: khái niệm và
kết cấu (loại hình) .................................................................................... 67
2.1.2. Mối tương quan lơgíc học và siêu hình học ................................ 72
2.2. Lơgíc học và con đường tìm kiếm chân lý đi đến tự do ................... 77
2.2.1. Quan niệm về chân lý trong Lơgíc học Hêghen............................. 77
2.2.2. Lơgíc học với sự phát triển tinh thần tự do.................................... 87
2.3. Lơgíc học Hêghen dưới góc nhìn Mácxit .......................................... 93
2.3.1. Tính chất duy tâm tuyệt đối của Lơgíc học (phép biện chứng)
Hêghen ..................................................................................................... 93
2.3.2. Đánh giá của một số triết gia Mácxít về lơgíc học của Hêghen 96
KẾT LUẬN ................................................................................................... 107
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... 110

2



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Lơgíc học là một môn khoa học xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, đặc
biệt là ở Phương Tây, từ thế kỷ thứ III TCN với lơgíc học hình thức của
Arixtốt, và cho đến ngày nay nó vẫn khơng ngừng được nghiên cứu, phát
triển. Với mục đích tìm ra hình thức và quy luật vận động của tư duy, như là
“khoa học về các hình thức và các quy luật của tư duy đúng đắn dẫn đến
chân lý” [64, 12]1, lơgíc học đã góp phần lý giải rất nhiều bí ẩn thế giới xung
quanh con người. Vậy tư duy con người là gì và nó vận động theo quy luật nào
để đạt được chân lý, làm cơ sở cho hoạt động thực tiễn của con người. Để giải
quyết vấn đề này, trong lịch sử triết học G.V.P. Hêghen là người có cơng lớn
nghiên cứu một cách hệ thống, sâu sắc những vấn đề lơgíc học. Ơng đã đưa tư
tưởng lơgíc học đến đỉnh cao khoa học, coi chính nó là học thuyết về sự phát
triển toàn diện của mọi sự vật, hiện tượng trong thế giới tuân theo các quy luật
của phép biện chứng. Sự phát triển đó bắt nguồn từ mâu thuẫn nội tại, đi lên theo
các thang bậc lơgíc, có sự chuyển hoá về chất làm cho cái mới ra đời phủ định
sự tồn tại hiện có song vẫn giữ lại những gì tích cực từ q khứ.
Hêghen xây dựng và sử dụng lơgíc biện chứng như là cơng cụ để con
người nghiên cứu các quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, tìm đến chân lý,
và khi tư duy, hành động thực tiễn của con người được giải phóng khỏi những
tín điều siêu hình, con người sẽ có tự do. Khơng thể có một thực tiễn tự do
nếu khơng có tư duy tự do cũng như khơng có một tư duy tự do nào lại không
mang lại hiệu quả thực tiễn. Như vậy, tư duy vươn xa đến đâu, tự do của con
người cũng vươn xa đến đấy.

Từ đây và tiếp theo số thứ nhất và thứ hai trong ngoặc vuông lần lượt biểu thị số thứ tự của tài liệu trong
danh mục, số trang của tài liệu. Như trên là tài liệu số 64, trang 12.
1


3


Hêghen đã đưa ra một hệ thống quan điểm đồ sộ và tồn diện về lơgíc
học, qua đó đưa phép biện chứng thành trung tâm, thành hạt nhân đích thực
của toàn bộ hệ vấn đề triết học Hêghen. Phép biện chứng được ông lý giải là
phương pháp đúng đắn đề nhận thức các vấn đề triết học. Phương pháp tư
duy biện chứng được ông nghiên cứu một cách đầy đủ có căn cứ vững chắc
nhất, là phương pháp chưa từng thấy trong lịch sử triết học trước Mác.
Lơgíc học biện chứng của Hêghen là nền tảng phương pháp luận quan
trọng để sau này Mác xây dựng nên học thuyết của mình. Chính vì vậy, với
những người nghiên cứu triết học trong giai đoạn hiện nay, muốn phân
tích, hiểu sâu sắc về chủ nghĩa Mác đồng thời bảo vệ chủ nghĩa Mác trước
sự tấn cơng, xun tạc của kẻ thù địi hỏi chúng ta cần phải quay trở lại với
những tư tưởng lơgíc học của Hêghen, như Lênin đã từng nhận xét:
“Khơng thể hồn tồn hiểu được “Tư bản” của Mác và đặc biệt là chương I
của sách đó, nếu chưa nghiên cứu kỹ và chưa hiểu tồn bộ lơgíc của
Hêghen” [36, 190].
Mặt khác, từ trước tới này đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu khoa
học đề cập đến những vấn đề mà Hêghen đã đưa ra, điều khá đặc biệt là
những người nghiên cứu về ông bao gồm cả những nhà duy tâm và duy vật,
người theo chủ nghĩa duy lý và phi duy lý như trong giai đoạn hiện nay hiện
nay là cả những trào lưu triết học hiện đại như chủ nghĩa hiện sinh, chủ nghĩa
nhân cách triết học, phân tích thần học biện chứng v.v...Vậy thì điều gì ở
trong học thuyết Hêghen đã và đang có sức cuốn hút các nhà tư tưởng đến
như vậy? Trong một thời gian dài, chúng ta ln có thái độ phê phán kịch liệt
phần chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, tiêu biểu là khơng khí chống Hêghen từ
nửa sau thế kỷ XX ở Châu Âu và Châu Mỹ mà chưa đánh giá hết phần giá trị
trong triết học của ông đó là lơgíc biện chứng. Đến nay, trước những biến đổi
của hiện thực, lơgíc học lại trở thành trung tâm của việc nghiên cứu về


4


Hêghen. Trong các cuộc thảo luận triết học đi sâu vào vấn đề ngôn ngữ và tư
duy ta nhận ra rằng cách đặt vấn đề của Hêghen không phải không hợp lý:
những phạm trù trong tư duy và lời nói của ta ln tn theo một tính lơgíc
nội tại, khơng phụ thuộc vào các yếu tố văn hóa và lịch sử chăng? Vấn đề
lơgíc học tưởng như đã cũ nay vẫn cịn tính thời sự. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra
đối với người nghiên cứu triết học là cần phải nghiên cứu thật kỹ lơgíc biện
chứng của Hêghen, chắt lọc những gì tinh tuý nhất để minh chứng và tiếp tục
phát triển thêm nữa những đóng góp của Hêghen cho lịch sử tư tưởng.
Trong triết học Hêghen, phép biện chứng biểu hiện ra là lý luận nhận
thức và là hình thức cao nhất của lơgíc học, của tư duy lơgíc. Đồng thời nó
cũng chế định một thế giới quan đặc biệt cần đặt trên niềm tin vào tính tất yếu
của sự tiến bộ, của sự hợp quy luật. Thực tiễn phát triển của nhận thức khoa
học và của xã hội hiện đại ngày càng chứng minh vai trò của phép biện
chứng. Trong sự phát triển của mình, khoa học tự nhiên hiện đại gặp phải
khơng ít các vấn đề biện chứng của chính sự phát triển. Càng đi sâu nghiên
cứu mọi cấp độ cấu trúc vật chất, từ vi mô đến vĩ mơ thì con người càng nhận
ra rằng giới tự nhiên tiến hố khơng ngừng tn theo quy luật của nó. Ta có
thể lấy ví dụ như sự tiến bộ và những thành công tuyệt vời của khoa học kỹ
thuật như công nghệ sinh học những năm gần đây đánh dấu bước ngoặt mới
của sự xâm nhập ngày càng sâu hơn vào các bí mật trong cấu trúc và trong sự
phát triển của thế giới vật chất sống. Điều nổi bật nhất về mặt này chính là ở
chỗ sinh học phân tử ngày càng quay trở lại mạnh hơn với tư tưởng về sự phát
triển và sự tự phát triển.
Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật và công nghệ hiện đại đã làm bộc lộ
những mâu thuẫn của sự tiến bộ. Trước đây chúng ta cho rằng khoa học kỹ
thuật và công nghệ là công cụ để con người thống trị giới tự nhiên. Nhưng

trên thực tế nó lại có tác động ngược lại, sự thống trị đó khơng chỉ đem lại

5


những cái hay, những điều tốt mà còn gây nên cả những tổn thất khơng nhỏ
cho chính con người lẫn cho giới tự nhiên một khi con người không kiểm sốt
được nó và giới tự nhiên cũng đang tác động gây hại ngược trở lại đối với con
người. Như vậy, việc áp dụng hợp lý các thành tựu khoa học và công nghệ
mới nhằm bảo vệ giới tự nhiên, phát triển bản thân con người, thúc đẩy sự
phát triển xã hội trên nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo chỉ có thể thực hiện
được một khi đặt chúng trong mối quan hệ biện chứng. Nguyên tắc phát triển
thực sự đã trở thành nguyên tắc phổ biến trong nghiên cứu khoa học.
Do tính hạn chế của các điều kiện lịch sử nên Hêghen đã có những kết
luận mâu thuẫn và khơng nhất quán, trái với các nguyên tắc xuất phát của
mình, và do vậy lơgíc học Hêghen vẫn cịn những hạn chế, song khơng vì đó
mà nó mất đi ý nghĩa tiến bộ với các nguyên tắc biện chứng xuất phát là
phương pháp khoa học để nhận thức giúp con người đạt tới chân lý và từ đó
có tự do - một tiêu chuẩn quan trọng của chủ nghĩa nhân đạo nhằm giải phóng
con người, đạt tới cơng bằng xã hội. Với ý nghĩa thiết thực trên những người
nghiên cứu bắt buộc phải quay trở lại với lơgíc học của Hêghen.
Chính yêu cầu lý luận và thực tiễn cần nhận thức đúng đắn và sâu sắc
hơn nữa về lơgíc học của Hêghen để qua đó thấy được những giá trị về con
đường tìm kiếm chân lý để đi đến tự do thông qua phương pháp biện chứng
và nhân tác phẩm đầu tiên của Hêghen - Tiểu lơgíc - được xuất bản (2008)
bằng tiếng Việt, cung cấp thêm những tư liệu gốc giúp nghiên cứu triết học
của ông mà tôi đã quyết định chọn: “Quan điểm cơ bản của Hêghen về lơgíc
học” làm đề tài luận văn Thạc sỹ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Vấn đề lơgíc học của Hêghen được đề cập đến trong rất nhiều cơng trình,

nhưng chưa có một tác phẩm nào của các tác giả trong nước hay nước ngồi đã
được dịch sang tiếng Việt trình bày một cách hệ thống lơgíc học của Hêghen.

6


Gần với đề tài này có một số cơng trình như sau:
* Các tác giả Việt Nam
Phần giới thiệu và chú giải của Bùi Văn Nam Sơn trong cuốn sách
Bách khoa thư các khoa học triết học I, Khoa học lơgíc của G. W. F. Hêghen,
do chính ơng dịch [14]. Trong cơng trình này Bùi Văn Nam Sơn chủ yếu tập
trung diễn giải một cách chi tiết về các vấn đề trọng tâm và khó hiểu trong
sách của Hêghen. Qua đó tác giả đưa ra những quan điểm đánh giá khá sâu
sắc đối với từng nội dung của các học thuyết về tồn tại, về bản chất và về khái
niệm. Tuy nhiên, chưa thể gọi phần viết của dịch giả đi kèm với bản dịch là
một cơng trình nghiên cứu độc lập về lơgíc học của Hêghen.
Cuốn sách Vấn đề tư duy trong triết học Hêghen của Nguyễn Trọng
Chuẩn và Đỗ Minh Hợp [5] là tài liệu tham khảo hết sức quý báu cho học
viên thực hiện luận văn này. Các tác giả cuốn sách theo lập trường Mácxít đã
phân tích sâu sắc cách thức Hêghen đã đặt ra và giải quyết vấn đề tư duy, giúp
người đọc phân biệt rõ các thuật ngữ “ý niệm lơgíc”, “tư duy” và “tinh thần
tuyệt đối” trong học thuyết Hêghen, từ đó cũng chỉ ra những đóng góp của
Hêghen trong việc phát triển cách hiểu về tư duy trong lịch sử triết học.
Bài báo V.I. Lênin bàn về lơgíc học của Hêghen của Nguyễn Anh Tuấn
[60], và bài giới thiệu cùng tác giả này về “Bút ký triết học” (trong cuốn sách
Giới thiệu tác phẩm kinh điển triết học Mác – Lênin [33], phần nào đã giúp
giảm bớt khó khăn khi đọc Hêghen thông qua Lênin trong tác phẩm Bút ký
triết học. Các bài đó đều đã phân tích sâu đánh giá của Lênin về lơgíc học
Hêghen, phổ thơng hố nhận thức lơgíc học dưới góc nhìn duy vật và nêu bật
vai trị của nó đối với việc xây dựng học thuyết Mácxít về tư duy.

Khơng thể khơng kể đến cuốn giáo trình Lịch sử triết học cổ điển Đức
do tập thể các giảng viên khoa Triết học, Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn Hà nội biên soạn và nghiệm thu năm 2010 [12]. Đây là một cuốn

7


giáo trình mang tính nghiên cứu đầy đủ nhất cho đến nay ở Việt Nam về tất cả
các nhà triết học Cổ điển Đức và học thuyết của họ. Đáng chú ý là chương 6
(do Nguyễn Quang Hưng biên soạn) đã dành hẳn một tiết viết về hệ thống
lơgíc của Hêghen, giúp học viên hình dung rõ ràng hơn về các lớp của lơgíc
học Hêghen. Luận văn đã đặc biệt sử dụng được những đoạn trích tác phẩm
Khoa học lơgíc (Đại lơgíc) của Hêghen vốn chưa được dịch ra tiếng Việt.
Cuối cùng phải kể đến cuốn sách Lịch sử triết học do Nguyễn Hữu Vui
chủ biên [68]. Giáo trình đã giới thiệu về Hêghen với những tư tưởng của ông
trên các mặt, ở các tác phẩm như Hiện tượng học tinh thần, quan điểm của ông
về lịch sử triết học, lơgíc học, triết học tự nhiên, thẩm mỹ học. Chính vì trình
bày đa dạng nên giáo trình chưa đi sâu được nội dung cơ bản về lơgíc học của
Hêghen.
* Các tác giả nước ngồi
Trong Bút kí triết học [36], Lênin đã đưa ra những nhận xét, đánh giá
của mình sau khi đọc tồn bộ cuốn Tiểu lơgíc và Đại lơgíc của Hêghen. Tác
phẩm này của Lênin có nhiều điểm mới bên cạnh việc dạy ta cách đọc
Hêghen một cách duy vật, cịn chỉ rõ những đóng góp, hạn chế của Hêghen
trong lơgíc học, qua đó Lênin nêu cách hiểu của mình về lơgíc học và nhiều
vấn đề của nó. Đã có một thời gian chưa xa, khi các tác phẩm của Hêghen
chưa được dịch sang tiếng Việt, những người nghiên cứu triết học ở Việt Nam
đều đã từng gián tiếp trích dẫn Hêghen qua Bút ký triết học của Lênin. Tuy
nhiên những gì được Lênin ghi chép lại từ Hêghen, hay những đánh giá, nhận
xét của ông liên quan đến lơgíc học thường là rất khó hiểu đối với người đọc.

Cuốn sách Lịch sử phép biện chứng tập 3 - Phép biện chứng cổ điển
Đức của Viện hàn lâm khoa học Liên Xô phát hành [66] đã cung cấp một bức
tranh chi tiết về phép biện chứng trong lịch sử nhận thức nhân loại, trong đó
có tư tưởng của Hêghen về phép biện chứng.

8


E.V. Ilencôv là tác giả đã dành sự quan tâm đặc biệt và có cơng lớn
trong việc triển khai cách hiểu của Hêghen về lơgíc học. Trong cuốn Lơgic
học biện chứng [30] ơng đã trình bày hệ vấn đề lơgíc biện chứng, khảo sát
lịch sử phát triển các quan niệm về đối tượng của lơgíc học lơgíc trong suốt
tiến trình tư tưởng nhân loại thông qua những nhà triết học tiêu biểu, trong
đó phần dung lượng đáng kể được dành cho nghiên cứu vấn đề đối tượng
của lơgíc học ở Hêghen - vấn đề “tư duy”, như là cơ sở để tiếp cận các vấn
đề khác của lơgíc học nói chung và ở Hêghen nói riêng. Theo Ilencơv:
“chính trên con đường phát triển của lơgíc học nổi lên vấn đề bản chất của
tư duy con người” [30, 324 - 325]. Tác giả đã đưa ra những nhận định
chung, có tính gợi mở vấn đề nhưng vô cùng sâu sắc về bản chất, nguồn
gốc, sự vận động và phát triển của “tư duy” trong đời sống người trên cơ sở
tiếp thu có phê phán quan niệm của Hêghen về tư duy, trên cơ sở nghiên
cứu, ứng dụng “Lơgíc học” viết hoa - “Tư bản” của C. Mác, và do đó, đã
đề xuất những quan niệm mang tính cách mạng về “tư duy”. Về bản chất
“Cái tư tưởng trực tiếp tồn tại chỉ như hình thức (phương thức, hình tượng)
hoạt động của con người xã hội (…) hướng lên thế giới bên ngoài” [30,
330] nhưng về mặt tồn tại “trong trực quan nó thể hiện chính như hình thức
của các sự vật được tạo nên bởi con người (…) như hình thức của ý chí
hướng đích bị tha hố vào chất liệu bên ngồi” [30, 329]. Trong cuốn sách
của Ilencơv cịn có các đoạn phân tích một cách sâu sắc và đầy phê phán
quan điểm của Hêghen về nội dung khách quan của tư duy, được coi là nền

tảng của chủ nghĩa duy tâm thơng minh của Hêghen, trong đó lơgíc học
phải giải quyết sâu sắc và nghiêm túc hơn vấn đề khái niệm và tư duy trong
khái niệm, từ đó ơng nêu những kết luận khoa học về lơgíc học, chỉ ra
những đóng góp của Hêghen trong dịng chảy lơgíc biện chứng.

9


Như vậy, từ trước đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống nội dung lơgíc học của Hêghen và trùng với luận văn cả về tên gọi và tính
chất khoa học. Và đó cũng là thêm một lý do nữa để học viên chọn đề tài nghiên
cứu này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận văn phân tích những nội dung cơ bản của lơgíc học Hêghen
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích đã đề ra, luận văn phải thực hiện những nhiệm
vụ cơ bản sau:
- Trình bày những điều kiện và tiền đề lý luận cho sự hình thành
lơgíc học Hêghen.
- Phân tích được nội dung lơgíc học Hêghen thể hiện qua tác phẩm
Bách khoa thư các khoa học triết học - Khoa học lơgíc (hay cịn gọi là Tiểu
Lơgíc).
- Phân tích được một số vấn đề triết học cơ bản của lơgíc học Hêghen.
- Chỉ ra được đánh giá của một số triết gia Mácxít về lơgíc học của
Hêghen.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Lơgíc học Hêghen
* Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn sự khảo sát ở giai đoạn lịch
sử triết học Cổ điển Đức và chỉ đi sâu nghiên cứu nội dung lơgíc học thể hiện

trong tác phẩm Bách khoa thư các khoa học triết học I - Khoa học lơgíc của
Hêghen (hay cịn gọi là tiểu Lơgíc).
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận: Quan điểm của triết học Mác - Lênin về mối quan hệ
giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về tiến trình lịch sử tư tưởng, về tư duy
lơgíc và nhận thức luận.

10


* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn đã sử dụng các phương pháp của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử bao gồm phân tích
và tổng hợp, quy nạp và diễn dịch, thống nhất lơgíc - lịch sử, phương pháp so
sánh, tổng hợp và các phương pháp khác.
6. Đóng góp của luận văn
Luận văn lần đầu tiên đã phân tích khá đầy đủ những nội dung lơgíc
học của Hêghen trong tác phẩm Bách khoa thư các khoa học triết học - Khoa
học lơgíc, những đóng góp to lớn của Hêghen trong việc xây dựng lơgíc học
như một hệ thống khoa học, xác lập tiêu chuẩn của chân lý, con đường đi tới
tự do và quan trọng hơn cả là phương pháp tư duy biện chứng mà sau này
Mác kế thừa xây dựng học thuyết cách mạng của giai cấp công nhân.
7. Ý nghĩa của luận văn
* Ý nghĩa lý luận: Luận văn cung cấp thêm một cơ sở khoa học cho
việc tìm hiểu về lơgíc học của Hêghen.
* Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo, giảng dạy,
nghiên cứu những nội dung có liên quan đến vấn đề lơgíc học và phép biện
chứng.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
có 2 chương, 6 tiết.


11


CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ TRIẾT HỌC HÊGHEN
VÀ NỘI DUNG CHỦ YẾU CỦA TIỂU LƠGÍC
1.1. Điều kiện hình thành và các tiền đề lý luận của triết học Hêghen
1.1.1. Bối cảnh văn hoá - xã hội Tây Âu và nước Đức thời Cận đại và
sự tác động của nó đến triết học
Đặc điểm quan trọng nhất của văn hoá châu Âu cận đại chính là ở chủ
nghĩa duy lý. Đến thời kỳ này các nhà tư tưởng rất đề cao lý tính mà trước hết
là ở niềm tin vào khả năng vô hạn của khoa học. Cơ sở cho quan niệm này là
sự tin tưởng vào tính hợp lý của mọi cái thực tồn trong thế giới, bởi nó có
những nguyên tắc chung bất biến nằm trong bản chất của lý tính, lý tính thiếu
ngun tắc thì khơng cịn là lý tính nữa. Sự tin tưởng vào tính hợp lý của thế
giới đã mở ra con đường luận chứng cho khoa học về mặt phương pháp luận.
Thời kỳ này, khoa học đã có những bước tiến to lớn, nhưng vấn đề ở
đây là làm thế nào xác định được tính đúng đắn của tri thức, vì lý tính được
giả định là công cụ nhận thức chủ yếu về hiện thực, xét về bản chất là hợp
lý, cho nên tính đúng đắn của tri thức được xác định ở trong lý tính “Tơi tư
duy, vậy tơi tồn tại”. Chủ nghĩa duy lý trong văn hoá Tây Âu đã lý giải sự
vận động, phát triển của xã hội trên cơ sở tác động của tư tưởng, của niềm
tin con người.
Văn hoá Tây Âu Cận đại còn một nét đặc thù nữa là quan niệm về
chính văn hố, theo đó, văn hố là giới tự nhiên thứ hai, mới, do con người
tạo ra, nhưng cũng quan trọng như giới tự nhiên thứ nhất. Nguyên tắc sáng tạo
của văn hoá thể hiện ở chỗ nó thường xuyên định hướng vào cái mới, vào
việc tích luỹ những sản phẩm vật chất và tinh thần, vào đổi mới cơng nghệ
nhằm mục đích cải tạo tự nhiên, xây dựng thế giới mới. Từ đó, nó nhấn mạnh
vai trò của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới. Văn hóa Tây Âu


12


Cận đại với những đặc điểm trên đã tạo nên những tiền đề tư tưởng cho triết
học, đó là những quan niệm biện chứng về xã hội và tư duy.
Thêm vào đó, những tiến bộ đáng kể của khoa học, nhất là các ngành
khoa học tự nhiên ngày càng chứng tỏ sự hạn chế của phương pháp tư duy
siêu hình thống trị trong tư tưởng Tây Âu suốt thế kỷ XVII - XVIII. Việc phát
minh ra điện và cách sử dụng điện năng góp phần tạo ra bước nhảy vọt trong
sự phát triển của sản xuất từ công trường thủ cơng tới cơng nghiệp cơ khí,
đồng thời chứng thực những tư tưởng phát triển đầu tiên của khoa học về sự
bảo tồn và chuyển hố năng lượng và vật chất của vũ trụ. Những cơng trình
nghiên cứu của Lamác, Linnơ, việc phát hiện ra tế bào của Lơvenhúc… đòi
hỏi phải có cách lý giải mới về bản chất của sự sống, nó chứng tỏ rằng thế
giới tự nhiên ln ln vận động và phát triển.
Cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, phương thức sản xuất tư bản chủ
nghĩa đã được thiết lập ở một số nước Tây Âu như Anh, Pháp, Italia… với
nền sản xuất phát triển chưa từng có trong lịch sử, thay thế cho phương thức
sản xuất phong kiến đã trở nên lỗi thời. Phương thức sản xuất mới tỏ ra ưu
việt hơn hẳn so với các phương thức sản xuất đã có. Lực lượng sản xuất phát
triển nhanh, công cụ lao động ngày càng hiện đại tạo ra một khối lượng hàng
hoá khổng lồ, phục vụ nhu cầu ngày càng cao của con người. Đặc biệt, cách
mạng công nghiệp ở Anh, cách mạng tư sản Pháp càng khẳng định sức mạnh
của con người trong nhận thức và cải tạo thế giới, đánh dấu sự mở đầu của
nền văn minh công nghiệp trong lịch sử nhân loại.
Trong khi các nước Tây Âu có những bước chuyển biến nhảy vọt như
vậy thì nước Đức lúc này vẫn là một quốc gia phong kiến lạc hậu, Liên bang
Đức chỉ tồn tại về mặt hình thức, cịn trên thực tế đất nước vẫn phân tán thành
nhiều tiểu vương quốc tách biệt nhau, tình trạng cát cứ vẫn cịn tồn tại. Cùng

với đó kinh tế kém phát triển, manh mún, khơng đủ sức mạnh, năm 1822 cả

13


nước Đức mới chỉ có 2 máy hơi nước, nơng nghiệp đình đốn. Về chính trị,
triều đình vua Phổ Phriđrích Vinhem vẫn ngoan cố tăng cường quyền lực và
duy trì chế độ quân chủ phong kiến thối nát, cản trở đất nước phát triển theo
con đường tư bản chủ nghĩa. Chính sự phân tán của nước Đức làm cho giai
cấp tư sản Đức không đủ sức mạnh và bản lĩnh để lật đổ chế độ phong kiến
Phổ, ngược lại còn thoả hiệp với chế độ đó để cai trị đất nước. Mâu thuẫn
giữa lực lượng sản xuất phát triển nhanh và quan hệ sản xuất đã lỗi thời ngày
càng bộc lộ gay gắt và được thể hiện ngay trong những tác phẩm của các đại
biểu triết học cổ điển Đức. Họ là những người thể hiện thế giới quan và ý thức
hệ của giai cấp tư sản Đức cuối thế kỷ XVII - nửa đầu thế kỷ XIX. Nhận thấy
sự trì trệ của xã hội Đức phong kiến thời đó, được sự cổ vũ của giai cấp tư sản
nhiều nước, họ biểu thị nguyện vọng tiến bộ của giai cấp tư sản đấu tranh vì
một trật tự xã hội mới ở Đức, nhằm đem lại sự thịnh vượng, phồn vinh và
thống nhất đất nước. Nhưng khác với giai cấp tư sản ở các nước Tư bản phát
triển, giai cấp tư sản Đức đã từng thoả hiệp với tầng lớp quý tộc Phổ, giữ lập
trường cải lương trong quá trình phát triển đất nước. Điều đó thể hiện tính
chất yếu kém, mâu thuẫn của giai cấp tư sản Đức, chính vì vậy những tư
tưởng trong triết học cổ điển Đức mang tính trừu tượng, khó hiểu và mâu
thuẫn, mặc dù thành công của cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794) đã thức
tỉnh giai cấp tư sản Đức đấu tranh dũng cảm hơn, nhưng chưa đạt được tính
kiên quyết và triệt để.
Tuy lạc hậu về kinh tế và chính trị nhưng nước Đức thời kỳ này lại đạt
được sự phát triển rực rỡ về triết học, văn hoá và nghệ thuật. Đây là quê
hương của nhiều nhà tư tưởng, nhà văn, nhà thơ nổi tiếng thế giới như Gớt,
Sinlơ, Hécđơ, Vônphơ, Lessing,… Một mặt họ tiếp thu những di sản tư tưởng

và văn hoá Đức truyền thống, kế thừa các quan điểm của Nicơlai Kuzan,
Lépnít… mặt khác, kết hợp với tư tưởng Khai sáng và văn hoá Pháp thế kỷ

14


XVIII, từ đó tạo nên những nét đặc trưng cơ bản của văn hoá Tây Âu thời kỳ
Cận đại.
Bối cảnh lịch sử đó ở Tây Âu và nước Đức đặt trước các nhà triết học
nhiều vấn đề cần giải quyết, tư tưởng siêu hình học thế kỷ XVII (với các đại
biểu chính như Đềcáctơ, Xpinơza, Lépnít…) từng đóng vai trị to lớn trong
việc phát triển tư duy lý luận và hệ thống hố tri thức con người đã khơng cịn
đáp ứng được nhu cầu phát triển của thực tiễn và tư tưởng Tây Âu thế kỷ
XVIII nữa, khi mà hàng loạt các khoa học đã đủ sức phát triển tách ra khỏi cái
nơi triết học của mình, trở thành những lĩnh vực nghiên cứu độc lập. Ngay từ
cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, đã xuất hiện những xu hướng xét lại siêu
hình học và các giá trị tư tưởng truyền thống. Tuy nhiên, triết học Tây Âu
Phục hưng và Cận đại (ngay cả triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII) tuy
từng là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản tiến hành các cuộc cách mạng xã
hội, phát triển phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, nhưng về cơ bản vẫn
chưa thoát khỏi quan niệm cơ học về thế giới, tư duy siêu hình thống trị trong
thời kỳ này khơng cịn khả năng lý giải bản chất của thực tiễn xã hội đang
diễn ra cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX.
Thực tiễn trên đặt ra một yêu cầu cấp bách là phải có cách nhìn mới về
các hiện tượng tự nhiên và tiến trình lịch sử nhân loại, cần có quan điểm mới
về khả năng và hoạt động của con người. Và triết học cổ điển Đức với các đại
biểu I. Cantơ, Phichtơ, Senlinh, Hêghen, Phoiơbắc ra đời nhằm đáp ứng
những sứ mệnh lịch sử đó của khơng chỉ riêng nước Đức, mà cả phương Tây
nói chung. Triết học của họ được xem như những cơ cấu tinh thần thống nhất,
với việc đề cao vai trị của triết học trong lịch sử lồi người, trong phát triển

văn hố của thế giới. Triết học có sứ mệnh tinh thần cao cả là thực hiện một
sự phản tư sâu rộng và tràn đầy tinh thần phê phán đối với hoạt động sống của
con người. Hêghen từng coi triết học là thời đại đương thời của nó được tư

15


duy nhận thức, ơng đề cao triết học vì nó là một khoa học chặt chẽ và có hệ
thống, triết học được củng cố bởi khoa học để quay trở lại cung cấp những
định hướng nhân văn và phương pháp luận cho khoa học.
Họ cũng đặc biệt đề cao vai trị tích cực của hoạt động con người, thực
hiện bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng phương Tây từ chỗ chủ yếu bàn về
những vấn đề bản thể luận, nhận thức luận… đến chỗ coi con người như một
chủ thể hoạt động là nền tảng và điểm xuất phát của mọi vấn đề triết học. Các
nhà triết học cố gắng suy luận về con người nhờ nghiên cứu những hình thức
hoạt động khác nhau của con người, kể cả hoạt động xã hội, bàn luận về xã
hội, con người xã hội trong khuôn khổ của triết học như triết học pháp quyền,
triết học đạo đức, triết học lịch sử toàn cầu, triết học nghệ thuật và triết học
tôn giáo. Với Hêghen, ông khẳng định con người là sản phẩm của một thời
đại lịch sử nhất định nên mang bản chất xã hội. Ơng đề cao sức mạnh trí tuệ
và hoạt động của con người đến mức cực đoan, thần thánh hoá con người, coi
con người là chúa tể của tự nhiên, bản thân tự nhiên cũng chỉ là kết quả hoạt
động của con người.
Triết học cổ điển Đức dựa trên một cách nhìn biện chứng về thế giới
hiện thực mà hạt nhân của nó là quan điểm chỉnh thể, phát triển về thế giới.
Quan điểm phát triển được áp dụng vào nghiên cứu tất cả mọi lĩnh vực sinh
hoạt của con người: tự nhiên, xã hội, con người, nhận thức, khoa học. Với
việc phát hiện ra những quy luật và các phạm trù cơ bản của phép biện chứng,
Hêghen đã xây dựng nó trở thành một khoa học về sự phát triển của tất thảy
mọi sự vật và tư tưởng. Ý nghĩa thực sự cách mạng và khoa học của triết học

Hêghen ở chỗ nó đã vĩnh viễn kết liễu tính tối hậu của những kết quả của tư
tưởng và hành động con người. Theo Hêghen, chân lý mà triết học có nhiệm
vụ phải nhận thức, khơng cịn là một tập hợp những nguyên lý giáo điều,
những kết luận có sẵn mà chân lý nằm trong chính q trình nhận thức, trong

16


sự phát triển lịch sử lâu dài của khoa học. Để nhận thức được chân lý thì
ngun tắc chung chính là tơn trọng và đi theo con đường lý tính vạch ra.
Không thể xem xét sự phát triển của lịch sử nhờ tiên tri, trực giác mà cần phải
nghiên cứu nó trên cơ sở khoa học lý luận.
Với cách nhìn biện chứng bao quát toàn bộ hiện thực, triết học cổ điển
Đức tập trung soi tỏ nguyên tắc tự do và những giá trị nhân văn khác. Nó
cũng tiến hành hệ thống hố tồn bộ những tri thức và thành tựu mà nhân loại
đạt được từ trước tới giờ. Hêghen có ý đồ xây dựng một hệ thống triết học
vạn năng làm nền tảng cho toàn bộ thế giới quan con người, khôi phục quan
niệm coi triết học là khoa học của các khoa học.
Thực tiễn nước Đức đã tạo ra những yêu cầu buộc triết học phải chuyển
mình mạnh mẽ, địi hỏi các nhà tư tưởng phải có một cái nhìn mới, phản ánh
đúng hiện thực cũng như vạch ra con đường để đưa nước Đức thốt khỏi tình
trạng kém phát triển về kinh tế, chính trị so với các nước khác. Và các nhà
triết học cổ điển Đức đã làm được nhiều cho dân tộc mình và cho nhân loại.
Có thể khái quát thành một số điểm nổi bật sau:
Thứ nhất, thành tựu triết học cơ bản của thời đại này là phép biện
chứng, mặc dù còn trên cơ sở duy tâm nhưng nó đã mở ra một hướng đi mới
cho tư duy con người. Những nguyên tắc lịch sử, lơgíc đã ăn sâu vào tư duy
triết học hình thành tư tưởng lơgíc học biện chứng mới.
Thứ hai, mối quan hệ giữa chủ thể nhận thức và khách thể nhận thức
được xem xét trong sự tác động qua lại hai chiều, đặc biệt nhấn mạnh tính tích

cực của ý thức, sự thâm nhập của chủ thể vào khách thể và sự tương tác liên
tục giữa chúng.
Thứ ba, lĩnh vực tinh thần được nghiên cứu trên quy mô rộng hơn,
nó bao gồm cả những q trình hữu thức, vơ thức chưa kiểm sốt được.
Tính có hệ thống của tư duy cịn bao gồm cả tính tự sinh, hoạt động vô

17


thức của con người hiện diện cả trong hành vi sáng tạo là nơi vai trị quyết
định thuộc về trí tưởng tác tạo.
Thứ tư, xã hội được xem xét trong tính quy luật của nó trải qua các giai
đoạn phát triển hợp quy luật trong lịch sử.
Thứ năm, triết học cổ điển Đức đi sâu nghiên cứu nhiều vấn đề thẩm
mỹ học, đạo đức học và chủ nghĩa nhân bản, những vấn đề cốt lõi liên quan
đến con người cũng như các hình thái ý thức của xã hội lồi người.
Triết học cổ điển Đức thực sự là một thành tựu to lớn của lịch sử tư
tưởng bởi những ý nghĩa chung nhân loại, nó đã cố gắng trả lời cho những
vấn đề mà loài người đã tự đặt cho mình ngay từ khi triết học xuất hiện, và
cho đến nay câu trả lời ấy vẫn còn ý nghĩa bởi nó đã đề cập đến những thành
tố căn bản của tự thân tồn tại người. Có lẽ vì những lý do đó mà chúng ta
khơng thể khơng quay lại với những tư tưởng cơ bản của triết học cổ điển
Đức giúp giải phóng tư duy khỏi những khn mẫu hình thức, sáo mòn đưa
nhận thức của con người đến với chân lý, làm cơ sở cho hành động thực tiễn.
Nằm trong bối cảnh văn hoá - tinh thần chung của Tây Âu và nước Đức
cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, triết học Hêghen không thể không chịu
ảnh hưởng của nó và khơng thể khơng mang những đặc điểm chung như đã
nêu của triết học thời kỳ đó. Nhưng triết học Hêghen cũng còn chịu sự ảnh
hưởng của nhiều tư tưởng triết học khác đã có trong lịch sử, là điều làm nên
phép biện chứng và đặc thù của chủ nghĩa duy tâm khách quan đặc sệt màu

sắc Hêghen. Tại đây luận văn chuyển sang khảo sát một số tiền đề lý luận
quan trọng nhất trong lịch sử và trong chính khn khổ triết học Cổ điển Đức
cho sự hình thành quan niệm của Hêghen về lơgíc học.
1.1.2. Tiền đề lý luận của lơgíc học Hêghen
* Triết học Hy Lạp cổ đại (Học thuyết “logos” của Heraclit và “ý
niệm” của Platôn)

18


Heraclit (khoảng 544 - 483 tr.Cn) là nhà biện chứng ngây thơ nổi tiếng ở
Hy Lạp cổ đại, ông xuất thân từ tầng lớp chủ nô quý tộc nhưng bản thân lại sống
nghèo khổ. Dưới con mắt của Heraclit, mọi sự vật trong thế giới đều thay đổi, vận
động, phát triển không ngừng: “Chúng ta không thể tắm hai lần trên cùng một
dịng sơng” [trích theo: 68, 157 - 158], tức mọi cái chỉ xảy ra một lần, không lặp
lại mặc dù giữa các sự vật có thể có sự kế thừa nhất định. Hêghen nhận xét: “Khi
Heraclit nói: “Tất cả đều trơi chảy” thì đấy chính là “trở thành” được phát biểu
như là quy định nền tảng của tất cả những gì đang tồn tại” [14, 316]. Như vậy
Heraclit coi sinh thành là phạm trù cơ bản của mọi tồn tại. Ông cũng thừa nhận sự
tồn tại và thống nhất của các mặt đối lập nhưng trong các mối quan hệ khác nhau.
Chẳng hạn đối với lồi cá thì nước là rất cần thiết cho sự sống, nhưng đối với con
người thì khơng thể sống trong nước được, cũng như một con khỉ dù đẹp đến đâu
thì vẫn xấu nếu đem so với con người. Bản thân logos là sự thống nhất của các
mặt đối lập. Vũ trụ là một thể thống nhất, nhưng trong lịng nó ln ln diễn ra
các cuộc đấu tranh giữa các sự vật, lực lượng đối lập nhau, nhờ các cuộc đấu tranh
đó mà mới có hiện tượng sự vật này chết đi, sự vật khác ra đời. Điều đó làm cho
vũ trụ thường xun phát triển và trẻ mãi khơng ngừng. Vì thế đấu tranh là quy
luật phát triển của vũ trụ. Bản thân đấu tranh ln diễn ra trong sự hài hồ nhất
định, dựa trên sự quy định của logos.
Platôn (khoảng 427 - 347 tr.Cn) là một trong những nhà tư tưởng kiệt

xuất nhất thời kỳ cổ đại mà Hêghen đánh giá có ảnh hưởng to lớn đến tiến
trình phát triển tư tưởng, văn hoá tinh thần của nhân loại. Trong quan điểm
bản thể luận của mình, Platơn cho rằng mọi sự vật trong thế giới đều chỉ tồn
tại dưới dạng đơn lẻ, nhất thời, do đó các tri thức mang tính chất chung và bao
quát là thuộc về lĩnh vực tinh thần thuần tuý, chứ không phải là tri thức thuộc
về các vật tự nó. Như vậy là tri thức của con người không phải là sự phản ánh
các sự vật, mà trái lại, là bản chất của chúng. Các ý niệm, theo cách hiểu

19


của Platơn đó là các khái niệm, tri thức đã được khách quan hoá. Chúng bị
rút ra khỏi ý thức của con người, hòa trộn vào thế giới tư tưởng được coi là
tổng thể các ý niệm tương tự. Các ý niệm được coi là tồn tại nói chung,
bất biến và vĩnh viễn. Chúng không phải được sinh ra từ cái gì đó hay mất
đi, mà tồn tại mãi mãi như thế từ xưa đến nay. Vì vậy, những ý niệm
chung, những tri thức mang tính khái qt cao đó cần phải tách biệt khỏi
thế giới các sự vật cảm tính đang sinh thành và biến đổi khơng ngừng. Coi
các ý niệm là tồn tại nói chung, là tồn tại thực sự, Platôn vẫn khẳng định
rằng cái không - tồn tại cũng có thực. Cái khơng - tồn tại chẳng phải là
một cái gì đó hồn tồn đối lập với tồn tại, mà nó cũng là một khía cạnh
của tồn tại. Bản thân cái tồn tại cũng bao hàm cả “cái khác” với nó, tức
cái khơng - tồn tại.
Platơn nêu ra tư tưởng về “cái hữu thể đang tồn tại” theo nghĩa cái đang
tồn tại (sự hiện hữu) hoàn toàn tương ứng với khái niệm của nó (là cái gì phải
tồn tại), chỉ có cái gì “tồn tại một cách tồn tại” là ý niệm mới tồn tại theo
nghĩa đích thực, nó loại trừ sự khơng tồn tại, sự tồn tại khác, sự ra đời và tiêu
vong ra khỏi nó, nên bản thân nó khơng tiêu vong và là vĩnh hằng. Đây là nền
tảng mà sau này Hêghen đưa ra quan niệm về “tính hữu tận” để luận chứng
cho chân lý. Platơn nói: “Thượng đế tạo nên thế giới từ bản tính tự nhiên của

cái Một và cái khác” [14, 332], điều này đã nói lên bản tính chung của cái
hữu hạn là cái gì đó khơng đứng thờ ơ đối lập với cái khác mà về mặt tự mình
là cái khác của chính mình và do đó, tự biến đổi.
Trong nhận thức luận, Platơn chỉ thừa nhận những gì mà trực giác, suy
diễn trí tuệ đem lại thì mới là tri thức thực sự. Mọi tri thức đều phải mang tính
khái quát cao, khoa học là một hệ thống tri thức về các ý niệm, kiểu như đối
tượng của tốn học, cịn sản phẩm của kinh nghiệm, nhận thức cảm tính đều
chỉ là những kiến giải tưởng tượng về các sự vật đơn nhất. Các tri thức đem

20


lại cho ta những chân lý tuyệt đối, là cơ sở của khoa học, cịn các dạng nhận
thức cảm tính thì chỉ thích dụng với ý thức thơng thường. Xuất phát từ quan
điểm cho rằng linh hồn con người đã chứa đựng dưới dạng tiềm tàng mọi tri
thức, mọi điều mà con người có thể biết và nhận thức, Platơn cho nhận thức là
sự hồi tưởng, là sự liên hệ các chân lý được hồi tưởng lại.
Cái chủ yếu nhất trong phương pháp hồi tưởng là nghệ thuật suy diễn
lơgíc, đàm thoại triết học hay còn gọi là nghệ thuật biện chứng. Thời đó chưa
có thuật ngữ lơgíc, Platơn thường sử dụng thuật ngữ “biện chứng”, ông đặc
biệt coi trọng và phát triển quan niệm của Xôcrát về phép biện chứng như một
nghệ thuật tranh luận, Platơn hiểu nó theo hai khía cạnh: Thứ nhất, là kỹ
năng đặt câu hỏi và giải đáp; thứ hai, là khả năng sử dụng và tiếp cận các
khái niệm, tổng hợp các quan điểm khác nhau trong tranh luận để đi đến ý
tưởng thống nhất. Sau này Hêghen đã đánh giá rằng phép biện chứng ở
Platôn không phải là thứ biện chứng mà trước đây chúng ta tìm thấy ở các
nhà ngụy biện, những người nói chung đã lầm lẫn các quan niệm… mà là
phép biện chứng vận động trong các khái niệm thuần túy, đó là vận động
lơgíc tư biện. Như vậy là Platơn đã có những đóng góp trong việc cố gắng
vạch ra sự khác nhau giữa phép biện chứng chủ quan, ngụy biện và phép

biện chứng khách quan.
Trong triết học, khi Platôn bảo rằng ta nhớ lại những Ý niệm (đã
được chiêm ngưỡng trước khi sinh ra đời) thì điều này có nghĩa là những
Ý niệm đã tồn tại tự mình (mặc nhiên) trong tâm hồn con người chứ
không phải là cái gì xa lạ đến với tâm hồn con người từ bên ngồi, nó
chính là ý niệm bẩm sinh nơi con người. Như vậy Platôn đã lý giải nhận
thức như là sự hồi tưởng lại, nhưng nó khơng loại trừ sự phát triển của
những gì tự mình ở trong tâm hồn con người.

21


Có thể nói Hêghen đã kế thừa và phát triển có hiệu quả tư tưởng biện
chứng của Heraclit và học thuyết ý niệm cũng như nhận thức luận của Platôn
và để xây dựng nên học thuyết lý giải bản chất thế giới của mình.
* Triết học Xpinơza
Bêkênit Xpinơza (1632 - 1677) là nhà triết học lỗi lạc người Hà Lan.
Ông xuất phát từ thế giới để giải thích con người, lấy cơ sở và nền tảng thế
giới quan của mình là học thuyết về giới tự nhiên như một thực thể duy nhất,
tồn tại như là causa sui (nguyên nhân tự nó). Thực thể này khơng phải do
Thượng đế sinh ra, mà trái lại, Thượng đế cũng chính là thực thể giới tự
nhiên, chứ không phải đứng trên thế giới tự nhiên như một lực lượng siêu
nhiên thần bí nào khác. Nhưng khi tìm hiểu vào những đặc tính của thực thể,
Xpinôza đã rơi vào mâu thuẫn: một mặt, ông coi thực thể gắn liền với sự tồn
tại cụ thể của nó; mặt khác, ơng lại kết luận “thực thể, về bản chất có trước
các trạng thái (tức là hình thái tồn tại) của nó. Ơng thừa nhận tồn tại vơ vàn
các thuộc tính của thực thể, nhưng Xpinơza khẳng định con người chỉ biết
được hai thuộc tính trong số chúng là tư duy và quảng tính. Tư duy chính là
tồn bộ thực thể được biểu hiện dưới các hình thức tư tưởng, ý niệm.
Xpinôza phân biệt hai loại tư duy: thứ nhất, là tư duy với tư cách là thuộc

tính của thực thể là tư duy vơ hạn, tồn tại vĩnh viễn cùng thực thể. Từ góc
độ này, Xpinơza ví tồn bộ giới tự nhiên tự thân như một lý tính vơ hạn,
trong khi đó, dưới góc độ quảng tính thì giới tự nhiên thể hiện như một thế
giới vật chất. Tuy nhiên, tư duy cũng là một thuộc tính của thực thể cho
nên khơng thể đồng nhất với Thượng đế. Tư duy chính là thuộc tính nhờ đó
giới tự nhiên nhận thức chính bản thân mình. Vì vậy, khơng chỉ con người,
mà mọi vật đều có tư duy. Thứ hai, tư duy con người là biểu hiện bậc cao
của dạng tư duy trên, do vậy hữu hạn và có thể bị huỷ diệt khi con người

22


×