Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Phong cách thơ vương trọng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (935.06 KB, 101 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG DUNG

PHONG CÁCH
THƠ VƯƠNG TRỌNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Hà Nội - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

NGUYỄN THỊ PHƯƠNG DUNG

PHONG CÁCH
THƠ VƯƠNG TRỌNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số : 602234
Hướng dẫn khoa học: GS.TS Mã Giang Lân

Hà Nội - 2010

1



LỜI CẢM ƠN
Luận văn này được hoàn thành, ngoài sự cố gắng nỗ lực của bản thân ,
tôi đã nhận được sự tận tình dạy dỗ, chỉ bảo của các thầy cô giáo Trường Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc Gia Hà Nội, đặc biệt là
các thầy cơ trong khoa Văn học suốt q trình học tập tại trường. Vì vậy, tơi
xin phép gửi tới quý thầy cô lời cảm ơn chân thành.
Tôi xin gửi tới Giáo sư – Tiến sĩ Lê Văn Lân, người trực tiếp hướng
dẫn nghiên cứu khoa học, người đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ tơi hồn thành
luận văn này lòng biết ơn sâu sắc nhất. Xin cảm ơn tác giả, nhà thơ Vương
Trọng đã cung cấp những tư liệu q báu và những lời góp ý chân tình để
luận văn thêm hồn thiện. Tơi cũng xin gửi lời cảm ơn tới người thân, bạn bè,
đồng nghiệp đã động viên, tạo điều kiện tốt nhất giúp tơi hồn thành luận văn
này. Xin trân trọng cảm ơn tất cả những tình cảm và sự giúp đỡ quý báu đó.
Dù bản thân tôi đã rất cố gắng nhưng luận văn chắc chắn khơng tránh
khỏi những thiếu sót. Vì vây, tơi kính mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của
các thầy cơ, bạn bè và đồng nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn!

Hà Nội, tháng 01 năm 2010

Nguyễn Thị Phương Dung

2


MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU


1

1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề .............................................................................................. 10
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .............................................................. 13
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 14
5. Cấu trúc luận văn ......................................................................................... 15
PHẦN NỘI DUNG ............................................................................................. 16
Chương 1: Vương Trọng - nhà thơ trận mạc, nhà thơ công dân .................. 16
1.1.

Thơ ca chống Mỹ và những đóng góp của

nhà thơ Vương Trọng ........................................................................................ 16
1.2.

Cảm hứng về con người trong chiến tranh và thời kỳ

hậu chiến ........................................................................................................... 18
1.2.1. Hình ảnh người lính ........................................................................... 18
1.2.2. Cảm hứng về người vợ, người mẹ ...................................................... 35
Chương 2: Vương Trọng – nhà thơ thế sự ...................................................... 46
2.1. Chuyển biến trong thơ Vương Trọng thời kỳ đổi mới .............................. 46
2.2. Kiếp người nhỏ bé vô danh và những triết lý về số phận con người ……

47

2.3. Hình ảnh người thân và bạn bè ................................................................. 54
Chương 3: Ngôn ngữ - nét đặc sắc nổi bật trong nghệ thuật thơ
Vương Trọng ................................................................................ 64

3.1. Ngơn ngữ thơ giàu tính gợi cảm ............................................................... 65
3.2. Ngơn ngữ thơ giàu tính biểu tượng .......................................................... 73
3.3. Ngơn ngữ thơ giàu tính triết lý .................................................................. 79
3.4. Ngơn ngữ định danh ................................................................................. 88
PHẦN KẾT LUẬN ............................................................................................ 93
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 95

3


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nhà thơ Vương Trọng tên khai sinh là Vương Đình Trọng, ơng sinh
ngày 1-8-1943 tại làng Đơng Bích, xã Trung Sơn, huyện Đơ Lương, tỉnh
Nghệ An - mảnh đất cỗi cằn, khắc nghiệt nhưng con người thì hiếu học, giàu
ý chí, nghị lực với truyền thống văn hóa lâu đời, đặc biệt là lòng yêu say văn
chương như đã trở thành máu thịt truyền từ thế hệ này đến thế hệ khác.
Ngày nhỏ, Vương Trọng học giỏi cả văn lẫn tốn. Ơng kể: "Thời cịn
học ở trường làng, mình đã mê thơ, đặc biệt là Truyện Kiều. Năm học lớp 6
mình đã thuộc toàn bộ Truyện Kiều. Tuy chưa phải "thần đồng thơ" nhưng
năng khiếu thơ ca đã sớm nảy nở ở tâm hồn Vương Trọng, nhất là ông lại
sống cạnh người anh trai Vương Đình Trâm - một giáo viên dạy văn thích làm
thơ và mê Kiều. Hồi kháng chiến chống Pháp, làng Đơng Bích lại được chọn
làm nơi đặt trụ sở của Hội Văn nghệ cứu quốc liên khu IV. Vương Trọng có
may mắn khơng chỉ được biết mặt, biết tên nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng của đất
nước như: Thanh Tịnh, Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Lưu Trọng Lư... mà còn
được các nhà thơ truyền cảm hứng thưởng thức và sáng tạo văn chương.
Những áng thơ văn của các văn nghệ sĩ ấy đã ngân rung, thấm nhuần và trở
thành mạch nguồn nuôi dưỡng hồn thơ Vương Trọng.
Học phổ thông, được cử đi thi học sinh giỏi tồn quốc mơn Văn nhưng

Vương Trọng lại lựa chọn thi vào Tổng hợp Toán. Dẫu vậy, cái nợ văn
chương vẫn đeo đẳng nhà thơ. Những năm tháng ngồi trên giảng đường Đại
học là những năm tháng mà cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra vô cùng
ác liệt. Theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc, năm 1964, Vương Trọng rời
giảng đường Đại học để bước vào cuộc chiến đấu hào hùng của dân tộc. Từ
một sinh viên, Vương Trọng đã sống cuộc đời của một người lính. Lăn lộn
trên khắp các chiến trường từ núi rừng Trường Sơn đến Trường Sa, Côn Đảo,
từ biên cương, hải đảo đến các vùng đất địa đầu Tổ quốc, từ Nam ra Bắc, từ

4


đất mũi Cà Mau đến Cao Bằng, Bắc Cạn, Hà Giang… khơng đâu khơng có
dấu chân hăm hở, nhiệt tình của người lính - nhà thơ. Đi nhiều, thấy nhiều,
vốn sống của nhà thơ ngày thêm phong phú. Giai đoạn cống hiến nhiều nhất
sức trẻ cho kháng chiến cũng là giai đoạn mà hồn thơ tài hoa Vương Trọng đã
thực sự khẳng định được tên tuổi của mình với chùm 3 bài thơ đoạt giải: "Bài
thơ nằm võng", "Hội vật quê tôi", "Hoa trẩu".
Sau chiến tranh, trở về là một giáo viên dạy Tốn của Trường Văn hóa
Bộ Quốc phịng, Vương Trọng được cử đi học lớp sáng tác của Hội Nhà văn
Việt Nam. Đến tháng 4-1974, Vương Trọng được điều đi B sáng tác, sau đó
ơng được chuyển về Tạp chí "Văn nghệ Quân đội" và trở thành nhà văn
chuyên nghiệp từ đó. Hiện nay, dẫu đã gần đến cái tuổi "xưa nay hiếm" nhưng
ngòi bút nhà thơ còn rất sung sức, nói như nhà thơ Trần Đăng Khoa: "người
ta chỉ đẹp rực rỡ ở lứa tuổi trẻ trung và từng trải lịch lãm khi về già. Vương
Trọng lại rực rỡ ở cái tuổi sắp thành "trưởng lão" (37)
Vương Trọng là một thi sĩ có tài trong nền thi ca Việt Nam hiện đại.
Gần 40 năm chung thủy với văn chương, ông đã để lại nhiều tác phẩm thực sự
có giá trị. Vương Trọng sáng tác ở nhiều thể loại: truyện ngắn , bút ký, truyện
cười nhưng ông nổi tiếng với danh hiệu nhà thơ.

Tác phẩm thơ: 12 tập
1. Thơ người ra trận (in chung)

1972

2. Khoảng trời quê hương

1979

3. Cánh chim Phai khắt (truyện thơ)

1983

4. Những ngày xa

1986

5. Về thơi nàng Vọng Phu

1991

6. Đảo chìm (trường ca)

1994

7. Tặng người trong mơ

1996

5



8. Mèo đi câu

1996

9. Lời trái đất

1999

10.Ngoảnh lại (tuyển tập)

2001

11.Thơ với tuổi thơ

2001

12.Về thôi nàng Vọng Phu (tái bản)

2002

13.Năm ngắn, ngày dài

2005

Tác phẩm đoạt giải
1. "Bài thơ nằm võng", "Hoa trẩu", "Hội vật quê tôi": giải 3 Báo Văn
nghệ (1969 - 1970).
2. "Về thôi nàng Vọng Phu": giải thưởng Hội Nhà văn (1991).

3. "Đảo chìm": giải thưởng Bộ Quốc phịng (1994)
4. "Mèo đi câu": giải thưởng Văn học thiếu nhi Hội Nhà văn (1996).
Vương Trọng là một nhà thơ đa cảm, có trái tim nhân hậu, bao dung.
Giữa dịng văn học nhiều ngả rẽ, ơng đã lựa chọn cho mình một lối đi riêng.
Bên cạnh những trang thơ sôi nổi viết về người lính, Vương Trọng lầm lũi trở
về với cuộc sống thường nhật, với những mảnh đời bất hạnh, những số phận
éo le, những tâm trạng bộn bề với nhiều nỗi đau nhân tình thế thái. Ở mảng
thơ thế sự, thơ Vương Trọng đằm thắm lạ lùng. Ông tâm sự: "Tôi yêu Đỗ Phủ
hơn Lý Bạch, yêu Nguyễn Du hơn Hồ Xuân Hương, bởi Đỗ Phủ, Nguyễn Du
ngoài tài thơ ra cịn có trái tim lớn đau nỗi đau của những cuộc đời bất hạnh.
Thơ sinh ra không phải để người đời chơi chữ, mà cốt để chuyển tải nỗi lịng.
Bài thơ hay nhiều khi khơng thấy thơ đâu mà chỉ thấy cuộc đời, tâm trạng và
số phận"(37). Lời bộc bạch chân thành và tâm huyết cô đúc hành trình gần
trọn đời thơ Vương Trọng - đó là thơ của những "cuộc đời bất hạnh", mảng
thơ thế sự đã trở thành một "mỏ quặng đích thực" của thơ ơng. Ở mảng thơ
này, có rất nhiều bài thơ có sức lan tỏa và sức sống thực sự bền lâu trong trái

6


tim người đọc bởi nó đã đi vào từng góc khuất tâm hồn để viết lên những suy
nghĩ đâu dễ sẻ chia.
Thực tế hiện nay, thơ văn đương đại Việt Nam đã và đang xuất hiện
nhiều xu hướng "cách tân quyết liệt". Nhiều nhà thơ, nhất là các nhà thơ trẻ
ln khát khao một sự tìm tịi đổi mới về cả nội dung, hình thức thì Vương
Trọng vẫn trung thành với quan niệm sáng tác của mình và với thơ ca truyền
thống bởi theo ơng đó là tinh hoa đã được chắt lọc và khẳng định từ ngàn
năm. Điều đặc biệt, những trang thơ ra đời từ cái tạng thơ phương Đơng ấy
vẫn chiếm được cảm tình của số đơng độc giả .Điều này khẳng định độ chín
với những bản sắc riêng trong thơ Vương Trọng.

Vì những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “ phong cách
thơ Vương Trọng” , cố gắng khảo sát , tìm hiểu để tìm ra những nét đặc sắc
nổi bật trong thơ Vương Trọng trên phương diện nội dung cũng như nghệ
thuật của thơ ông.
Ở đây,chúng tôi cũng cố gắng khảo sát và đưa ra những quan điểm
khác nhau khi tìm hiểu về phong cách với mong muốn tìm hiểu và đánh giá
chính xác nhất về phong cách thơ Vương Trọng.“Phong cách ngang ngửa
bộn bề. Từ phong cách không nằm trong từ vựng chun biệt. Ngồi ra, nó
khơng chỉ dành cho văn học, cũng không của riêng ngôn ngữ”(30). Bàn về
phong cách là một vấn đề khó, nhất là trong văn học. Tuy vậy phong cách là
thuật ngữ để gọi “cái” mà người ta có thể cảm nhận được trong văn học,
trong cuộc sống hay trong các lĩnh vực khác ( lịch sử nghệ thuật, nhân học,
thời trang, hội họa…). Vậy thực chất phong cách là gì? Trong phạm vi lĩnh
vực này người viết cố gắng khảo sát những ý kiến khác nhau xung quanh
thuật ngữ này nhằm tìm đến một quan điểm đạt đến sự thống nhất khoa học.
Trước hết là vấn đề thuật ngữ.
Thuật ngữ “phong cách”, theo viện sĩ Timophiep, bắt nguồn từ mẫu tự
Latinh. Trước đây người Hy Lạp dùng từ Stylos để chỉ cái que một đầu nhọn,
một đầu tù. Người La Mã cũng dùng từ Stylus, cũng chỉ cái que đó nhưng đầu

7


nhọn dùng để viết, đầu tù dùng để xóa, các chữ viết trên một tấm bảng như có
thoa sáp. Về sau người Pháp dùng từ Style, ban đầu với ý nghĩa nét chữ, về
sau, nó dùng để chỉ bút pháp với những đặc điểm ngôn ngữ của văn học về
ngôn ngữ. Khái niệm “phong cách” mới được sử dụng như cách hiểu hiện
nay.
Khái niệm phong cách có ngoại diên rộng, được chia làm nhiều cấp độ
khác nhau. Mỹ học tư sản theo chủ nghĩa hình thức có lúc đồng nhất nó với

phương pháp nghệ thuật, có khi thu hẹp nó trong thủ pháp sáng tác của người
nghệ sĩ. Đ.Likhaep trong Thi pháp của văn học cổ lại nhấn mạnh mối quan
hệ giữa phương pháp với thế giới quan. Ar. Grigorian trong Vấn đề phong
cách nghệ thuật thì khẳng định “ phong cách không thể vô can với phương
pháp, với thế giới quan, với bút pháp, với cá nhân người nghệ sĩ về thời đại,
với vẻ đặc thù dân tộc trong sáng tác của anh ta… Phong cách là sự thống
nhất cao nhất của tất cả những phạm trù đó”.Turbin thì lí giải phong cách
theo kiểu ngơn ngữ học, xem phong cách như một hình tượng chủ yếu, thậm
chí hồn tồn có tính chất ngơn ngữ. Ơng viết: “Phong cách- đó là ngơn ngữ
được xét trong mối quan hệ của nó với hình tượng , đó là tác động qua lại,
thường xuyên giữa những khái niệm và những ý tưởng nảy sinh trong ngôn từ
vốn đặt vào một văn cảnh nghệ thuật”.Khác Turbin, V.Đnepvov nhấn mạnh
sự thống nhất giữa các yếu tố nội dung và hình thức của phong cách. Ơng cho
rằng hình tượng phong cách là sự tổng hợp, là hệ thống các phương tiện miêu
tả và biểu đạt, hay nói một cách khác, phong cách được coi như là một hình
thức tồn vẹn có tính chất nội dung, “phong cách là mối liên hệ của những
hình thức mối liên hệ đó và bộc lộ sự thống nhất của nội dung nghệ thuật”.Ya
Elxberg phát biểu: “ phong cách biểu hiện sự tồn vẹn của hình thức có nội
dung được hình thành trong sự phát triển, trong sự tác động qua lại và trong
sự tổng hợp các yếu tố của hình thức nghệ thuật dưới ảnh hưởng của đối

8


tượng và nội dung tác phẩm, của thế giới quan nhà văn và phương pháp của
anh ta vốn thống nhất với thế giới quan…Phong cách - đó là sự thống trị của
hình thức nghệ thuật, là sức mạnh tổ chức của nó”. Như vậy phong cách của
nhà văn là khái niệm cơ bản của thi pháp.
Ở Việt Nam, vấn đề phong cách nghệ thuật cũng được rất nhiều người
quan tâm. Nhà nghiên cứu Phan Ngọc cho rằng: “Phong cách là một cấu trúc

hữu cơ có tất cả các kiểu lựa chọn tiêu biểu, hình thành một cách lịch sử và
chứa đựng một giá trị lịch sử, có thể cho phép ta nhận diện một thời đại, một
thể loại, một tác phẩm hay một tác giả”. Nhà thơ Hồng Trung Thơng thì
khẳng định: “Phong cách và cá tính của nhà văn khơng phải một cái gì khó
hiểu. Đó là biểu hiện khác nhau của mỗi nhà văn trong khi xây dựng chủ đề
nhân vật, trong khi vận dụng hình tượng nghệ thuật và ngôn ngữ văn học.
Mỗi nhà văn trong quá trình sáng tạo nghệ thuật phải tự tạo cho mình một
phong cách riêng, một điệu cảm xúc riêng . Còn các tác giả trong cuốn “Lí
luận văn học” (25) thì khẳng định: “Phong cách là chỗ độc đáo về tư tưởng
cũng như nghệ thuật có phong cách thẩm mỹ thể hiện trong sáng tác của
những nhà văn ưu tú. Nó đòi hỏi trước hết nhà văn phải đem lại tiếng nói mới
cho văn học”. “Từ điển thuật ngữ văn học” (10) thì cho rằng: “Phong cách
là quy luật thống nhất của các yếu tố của chính thể nghệ thuật, là một biểu
hiện của tính nghệ thuật”.
Như vậy, định nghĩa về phong cách có nhiều quan điểm, phong phú đa
dạng khác nhau, khó đưa ra một định nghĩa đạt được sự nhất trí của mọi
người. Tuy thế , hầu hết quan điểm đều thống nhất ở chỗ cho rằng: Phong
cách biểu hiện những đặc điểm trong cá tính sáng tạo của nhà văn, là nhận
thức của nhà văn về cuộc sống, là cái nhìn và sự cảm thụ thẩm mỹ của nhà
văn đối với thế giới, là sự tổng hợp các hình tượng nghệ thuật trong sự thống
nhất với nội dung

9


Tuy nhiên, thực tế phát triển của văn học nghệ thuật trong nước và trên
thế giới đều đã chứng minh rằng khơng phải nhà văn nào cũng tạo cho mình
một phong cách riêng. Cần phải xem phong cách là phẩm chất sáng tạo cao
nhất của người nghệ sĩ trong quá trình đồng hóa nghệ thuật bằng thẩm mỹ.
Nghệ thuật đạt tới đỉnh cao chính là nhờ sản phẩm của những nhà văn có khả

năng in dấu ấn của riêng mình vào việc cảm thụ và lý giải những hiện tượng
phức tạp của đời sống con người. Nói như M. Goorki: “Bạn hãy giữ lấy cái gì
là của riêng mình, làm cho nó phát triển tự do. Lúc một người khơng có cái gì
là của riêng mình thì phải thấy ở người đó chẳng có gì hết”. Phong cách của
nhà văn, đó là cái riêng, độc đáo, dị biệt và có tính bền vững. Nếu thiếu tính
bền vững, cái riêng độc đáo đó chỉ là hiện tượng ngẫu nhiên, nhất thời. Tuy
nhiên độc đáo thơi chưa đủ, vì như nhà thơ Vương Trọng phát biểu, người ta
có thể nổi tiếng vì xây đền nhưng người ta cũng có thể nổi tiếng vì đốt đền.
Trong văn học cũng vậy, có nhiều cái dở đến “ độc đáo” , gàn dở thì độc đáo
ấy gọi là “quái gở”, chứ không thể gọi là phong cách. Vì thế phong cách phải
mang tính thẩm mỹ. Phẩm chất thẩm mỹ ở đây không chỉ đơn thuần mang
tính kĩ xảo hình thức mà phải có sự thống nhất giữa nội dung và hình thức,
giữa cái phản ánh và cái được phản ánh . “Phong cách tuyệt nhiên khơng phải
là kỹ xảo, khơng phải là chiếc áo khốc. Nếu ví con người là nghệ thuật thì
phong cách là da trên cơ thể con người”.
Vậy chúng ta sẽ tìm hiểu phong cách của một nhà văn từ đâu? Sách
“Từ điển thuật ngữ văn học”(10): “Không phải bất cứ nhà văn nào cũng có
phong cách. Chỉ những nhà văn có tài năng, có bản lĩnh mới có được phong
cách riêng độc đáo. Cái nét riêng ấy được thể hiện ở các tác phẩm và được
lặp đi lặp lại ở các tác phẩm của nhà văn, làm cho ta có thể nhận ra sự khác
nhau… Trong chỉnh thể “nhà văn”, cái riêng tạo nên sự thống nhất lặp lại ấy
biểu hiện tập trung ở cách cảm nhận độc đáo về thế giới và ở hệ thống bút

10


pháp nghệ thuật phù hợp với cách cảm nhận ấy”. Vậy là thực chất, phong
cách biểu hiện trong suốt quá trình họat động sáng tạo của nhà văn. Yếu tố
“lặp đi lặp lại” được coi như một cá tính, sở thích, nhu cầu, và cao hơn là
nguyên tắc tổ chức hình thức của tác phẩm. Nói đến phong cách của nhà văn

trước hết phải nói đến hệ thống hình tượng nhân vật mà nhà văn đó xây dựng
nên. Bởi vì thực chất của phong cách một phần cơ bản chính là ở chỗ nhà văn
sáng tạo ra được hệ thống hình tượng, kể cả hình tượng ngơn ngữ của riêng
mình, nghĩa là nhà văn phải sáng tạo ra kiểu cảm thụ và phản ánh nghệ thuật
của riêng mình. Phong cách tốt lên từ hệ thống nghệ thuật tồn vẹn nghĩa là
đặc trưng của phong cách không phải ở yếu tố riêng lẻ này hay yếu tố riêng lẻ
khác, do đó, việc tìm hiểu phong cách chỉ có thể đạt được kết quả khả quan
khi chúng ta đặt các yếu tố cấu thành phong cách trong mối tương tác để tạo
thành một chỉnh thể thống nhất. Tư tưởng, chủ đề, hình tượng, ngôn ngữ, thể
loại, môtip… và cuối cùng là cá tính nhà văn đã có tác dụng quyết định tới sự
hình thành của phong cách: “Mỗi nhà văn có một tâm hồn riêng cũng như
mỗi con người có một nét mặt, một tính nết. Có nhà thơ là tiếng kèn xung
trận, có nhà thơ là tiếng sáo véo von, có nhà thơ là dịng suối thầm thì, có nhà
thơ là dịng thác dữ xơ đẩy” (Nguyễn Đình Thi). Buffer nói: “Văn học là
người.”
Vương Trọng là một nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống
Mỹ của dân tộc. Suốt 40 năm , trải qua biết bao biến thiên của cuộc sống, bao
đổi thay của lịch sử, đất nước đang “thay da đổi thịt” từng ngày, Vương
Trọng vẫn gắn bó với cơng việc của một “phu chữ”, chắt chiu, gom góp
những mảnh ghép cuộc đời để tạo nên thơ. Càng ngày Vương Trọng càng tỏ
ra sung sức với một phong cách ó nh hỡnh v c khng nh. Đó cũng
chính là quan điểm sáng tác của thơ ông. Không đao to búa lớn, không cầu kỳ
hoa mỹ, thơ V-ơng Trọng là thứ thơ chiếm lĩnh trái tim độc giả bằng chính sự
giản dị chân tình và thành thực của trái tim thi sĩ, "trái tim lớn đau nỗi đau của

11


những cuộc đời bất hạnh". Tuy mÃi đến sau này nhà thơ mới bộc bạch những
suy nghĩ về thơ mình nh-ng quan điểm ấy t-ơng đối nhất quán trong suốt cả

đời thơ ông ngay từ những vần thơ đầu tay ra đời trong đạn lửa chiến tranh.
Bởi với V-ơng Trọng cái quan trọng nhất không phải là hình thức thơ đ-ợc
viết nh- thế nào, biểu hiện ra sao mà một bài thơ muốn có sức sống lâu bền,
"đ-ợc nhiều ng-ời yêu thích" cốt lõi là ở chỗ nhà thơ viết cái gì, viết để làm
gì ? Tiếng thơ V-ơng Trọng là thơ đ-ợc "chắt từ máu" của một trái tim giàu
nhân ái.
V-ơng Trọng là một nhà thơ quân đội. Sau khi rời giảng đ-ờng Đại
học, ông nhập ngũ. Những vần thơ đầu tiên của ông cũng là những vần thơ
viết về ng-ời lính và cuộc chiến hào hùng của dân tộc. Trở về Hà Nội, làm
công việc của một biên tập viên cho Tạp chí Văn nghệ Quân đội, điều đó
khiến nhiều ng-ời hiểu lầm mảng thơ sở tr-ờng của Đại tá quân đội V-ơng
Trọng là mảng thơ về ng-ời lính. Thực tế, ngòi bút V-ơng Trọng khá đa dạng.
Hăm hở và lăn lộn trên khắp các nẻo đ-ờng Tổ quốc, đến đâu, V-ơng Trọng
cũng tìm thấy nguồn mạch dồi dào, phong phú cho thơ mình. "Đi, đọc, viết là
ba khâu đ-ợc anh phối hợp khá nhịp nhàng. Trong anh, sôi nổi và thâm trầm
một nhà thơ, mẫn cán và cần cù nhà báo". Chất liệu thực tế đ-ợc chắt chiu từ
cuộc sống nhuần nhuyễn trong tâm hồn nhạy cảm của nhà thơ đà tạo nên một
V-ơng Trọng đa thanh. Tuy vậy "cuộc đời, con ng-ời, số phận" trong thơ ông
theo sự chuyển mình của thời đại cũng đà có sự vận động và biến đổi. Trên cơ
sở những cố gắng tìm tôi, đổi mới của đề tài thơ V-ơng Trọng, chúng tôi mạnh
dạn tìm hiểu thơ ông ở hai mảng chủ đạo: mảng thơ trận mạc và mảng thơ thế
sự để có đ-ợc cái nhìn toàn diện và sự đánh giá chính xác nhất về thơ ông.

12


2. Lịch sử vấn đề
Vương Trọng là một nhà thơ mặc áo lính. Ơng nổi tiếng trước hết với
những vần thơ trận mạc: Lạc quan, tin tưởng vào chiến thắng là giọng điệu
chung của thơ ca chống Mỹ. Đương thời, Xn Diệu, Hồi Thanh rất thích bài

thơ này – Bài thơ nằm võng, đặc biệt hai câu thơ:
"Nằm võng thấy cây rừng chao động
Tán lá như sàng các vì sao".
(Bài thơ nằm võng)
Cái nhìn ngộ nghĩnh, thú vị và rất mơ mộng, lãng mạn của chàng lính
trẻ trong khói bom lửa đạn đã tạo nên sức sống cho bài thơ và tên tuổi Vương
Trọng.
Tuy nhiên, phải đến sau này, khi nhà thơ phát hiện ra "mỏ quặng đích
thực của thơ mình" là mảng thơ thế sự thì sự nổi tiếng và sức lan thấm của
những vần thơ ấy mới tạo được chú ý của các nhà phê bình và báo giới.
Trong bài viết Ngoảnh lại, một tuyển tập thơ có chất lượng (34), tác
giả Nguyễn Bùi Vợi cho rằng: "đây là một tập thơ của cả một đời người...
những gì tinh túy nhất của Vương Trọng đều có ở đây”. Khái qt tồn bộ
hành trình thơ Vương Trọng qua tập "Ngoảnh lại", nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi
đã nhìn thấy gương mặt tâm hồn của Vương Trọng, đó là con người có cái
"sơi nổi thâm trầm một nhà thơ, mẫn cán và cần cù của một nhà báo”(34).
Hơn nữa, Nguyễn Bùi Vợi thấy được sự thơng minh hóm hỉnh của một tư duy
tốn học, nhưng cũng rất đa cảm, đa tình của một thi nhân. Thơ Vương Trọng
là những vần thơ "vừa nỗi niềm, vừa tài hoa".
Trần Đăng Khoa trong Đọc tuyển tập thơ Vương Trọng (38) đã tìm
thấy ở nhà thơ cái chất "thơng minh" của một "thi sĩ có tài". Theo Trần Đăng
Khoa, đóng góp lớn nhất của Vương Trọng cho nền thơ ca hiện đại chính là ở

13


mảng thơ thế sự. Đây là một nhận định rất có giá trị đã đánh giá một cách
chính xác những thành công của Vương Trọng , nhất là giai đoạn hậu chiến.
Võ Văn Trực khảo sát khá kỹ mảng thơ thế sự và tìm thấy ở trong thơ
Vương Trọng "những trái tim đồng vọng" .

Vũ Quần Phương viết về Vương Trọng: "Vương Trọng tìm chất thơ
trong đời thường khi vui hóm, khi bâng khng cả tâm trí nhưng bao giờ cũng
thành thật. Nó là chất thơ vốn có trong đời, không đắp điếm, không ngụy tạo,
càng không điệu bộ ngôn từ. Thơ ấy ít tạo những dư luận bùng nổ nhưng lại
có sức thấm, cứ lặng lẽ xuống lịng người "(34).
Tiến sĩ Nguyễn Thanh Tú đã có nhìn nhận, đánh giá rất sắc sảo về
mảng thơ thế sự của Vương Trọng. Tác giả đặc biệt chú ý đến những nghịch
cảnh thế sự và khẳng định thơ Vương Trọng là thơ về những nghịch cảnh thế
sự. Những bài thơ hay nhất của Vương Trọng, theo tác giả, là những bài thơ
viết về nghịch cảnh những số phận, những cảnh đời. Vì thế mà mỗi bài thơ
lại mang dáng dấp một câu chuyện có tình tiết, có nhân vật. Thơ của ơng là
thứ thơ gợi nhiều hơn cả. Bài thơ đọc xong khơng trơn tuột mà để lại những
dư âm trong lịng, thường là nỗi day dứt hay sự băn khoăn về một câu
chuyện trái ngang nào đó. Từ đó, Ts Nguyễn Thanh Tú khẳng định: "Hình
như với anh, khơng có một trường phái, một chủ nghĩa nào. Thơ anh là thơ
dành cho số đông bạn đọc đang cầm súng, cầm cày, cầm búa...".
Bên cạnh những bài viết có giá trị ghi nhận những đóng góp to lớn của
thơ Vương Trọng với nền thơ ca Việt Nam hiện đại, cịn có rất nhiều các bài
phỏng vấn, nói chuyện của nhà thơ Vương Trọng được đăng tải trên các
phương tiện thông tin đại chúng. Qua các cuộc trò chuyện chân thành và cởi
mở của Vương Trọng, Văn Châu thấy ở Vương Trọng sự "hóm hỉnh, dí dỏm
của người lính, sự sâu sắc, thâm trầm đậm chất triết lý của ơng đồ Nghệ",
cịn Nguyễn Xuân Hải thấy ở Vương Trọng "dáng vẻ thầy đồ" và thơ Vương
Trọng là thứ thơ "tải đạo giúp đời"...

14


Như vậy, tuy chưa có một cơng trình nào thực sự lớn viết về thơ Vương
Trọng, nhưng qua những bài nằm rải rác trên các mặt báo, các tác giả đã có sự

ghi nhận với những đóng góp to lớn của nhà thơ trên nhiều phương diện đối
với thơ ca hiện đại Việt Nam. Trên cơ sở đó, đã có một số sinh viên mạnh dạn
lựa chọn thơ Vương Trọng làm đề tài nghiên cứu khoa học hay khóa luận tốt
nghiệp của mình.
Đề tài nghiên cứu đầu tiên về thơ Vương Trọng là của sinh viên
Nguyễn Thị Thanh Nhung , Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn với tiêu
đề: "Vương Trọng - một hồn thơ nhân ái". Ở đề tài này, tác giả Nguyễn
Thị Thanh Nhung đã tiếp cận thơ Vương Trọng và bước đầu nhận thấy giá trị
nhân đạo trong tư tưởng nghệ thuật của nhà thơ.
Công trình nghiên cứu lớn hơn là khóa luận tốt nghiệp: "Số phận con
người thời hậu chiến trong thơ Vương Trọng" của sinh viên Dương Thị
Hường, Đại học Khoa học xã hội - Nhân văn.Ở khóa luận này, Dương Thị
Hường tập trung khai thác xoáy sâu vào số phận, cuộc đời, tâm sự của những
con người thời hậu chiến trong thơ Vương Trọng như hình ảnh người mẹ chờ
con, người vợ chờ chồng, hay những mảnh đời éo le, bất hạnh của "hai chị
em" có bố mẹ ly hơn, tâm sự của người mẹ "với đứa con ngoài giá thú"... Tác
giả đã so sánh tương quan những con người thời hậu chiến với một số nhân
vật trữ tình trong thơ Vương Trọng thời kỳ kháng chiến, từ đó phát hiện ra
"tấm lịng nhân ái" qua "cách nhìn mới" về số phận con người của nhà thơ
Vương Trọng.
Một khóa luận được viết khá cơng phu và chất lượng - đó là khóa
luận: "Những tìm tịi đổi mới của thơ Vương Trọng sau 1975" của tác giả
Trần Thị Thu Hương, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn. Ở khóa luận
của mình, tác giả Trần Thị Thu Hương đã cho thấy một q trình lao động
miệt mài, nỗ lực tìm tịi đổi mới của thơ Vương Trọng sau 1975, chứng tỏ
"quá trình vận động thơ Vương Trọng từ chủ đề, đề tài, tư tưởng, chủ yếu là

15



sự thay đổi trong quan niệm con người, tư tưởng nhân văn, nhân ái của nhà
thơ trước cuộc sống "(36). Tác giả đã chỉ ra nét nổi bật trong thơ Vương
Trọng sau 1975 cả về mặt nội dung và hình thức nghệ thuật, đặc biệt là
những đổi mới về ngôn ngữ thơ.
Cơng trình gần đây nhất là khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Tạ Thị
Thu Hằng, Đại học Đà Lạt: "Về tuyển tập thơ "Ngoảnh lại" của Vương
Trọng" . Tập trung khảo sát một tuyển tập thơ của nhà thơ Vương Trọng, Tạ
Thị Thu Hằng đã cố gắng khái quát hành trình thơ Vương Trọng hơn 30 năm
và nhận thấy "Ngoảnh lại - một tuyển tập thơ hay", "phong phú, sâu sắc về
nội dung trữ tình và nhuần nhuyễn ở nghệ thuật thể hiện", "thơ Vương Trọng
thấm đượm tình yêu quê hương, đất nước, tình đồng đội, tình yêu đơi lứa và
tình cảm gia đình"(37). Cuối cùng tác giả khẳng định: "Vương Trọng đã
hướng thơ mình đến mục đích cao cả, phục vụ đơng đảo cơng chúng"(37). Đó
là điều đáng trân trọng nhất ở thơ của ơng.
Những cơng trình nghiên cứu của sinh viên, những bài viết của các nhà
phê bình, nhà báo đã phát hiện ra ở thơ Vương Trọng những nét đặc sắc, độc
đáo có tính chất khu biệt, định danh nhưng mới chỉ dừng lại ở từng mảng đề
tài, hay ở bài thơ, tập thơ. Với lòng yêu mến, đồng cảm tiếng thơ Vương
Trọng, người viết bài này mong muốn đi suốt đời thơ Vương Trọng để khái
quát lên một "phong cách thơ Vương Trọng", giúp người đọc nhận diện một
gương mặt "thi sĩ có tài trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại"(38.)
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Thơ Vương Trọng
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Các tập thơ của Vương Trọng
4. Phương pháp nghiên cứu

16



Ở luận văn này, chúng tôi sử dụng một số phương pháp cơ bản sau:
4.1. Phương pháp hệ thống
Sáng tạo thơ ca là một hình thức lao động "khổ hạnh". Nhà thơ là "phu
chữ". Mỗi bài thơ, tập thơ ra đời, đánh dấu sự hồn tất một q trình miệt mài
lao động và sự trưởng thành của từng ngòi bút. Đặt trong một hệ thống sẽ
giúp chúng ta có được một cái nhìn tồn diện, đầy đủ, chính xác từ đó có
được những nhận định thỏa đáng khi đánh giá một phong cách thơ.
4.2. Phương pháp thống kê
Phương pháp này giúp chúng ta có thể tìm tịi, phát hiện ra những dấu
hiệu đặc trưng của nhà thơ, đặc biệt trên phương diện nghệ thuật (ngơn ngữ,
hình ảnh, biểu tượng...) từ đó, góp phần phát hiện ra những sở trường, thế
mạnh của nhà thơ.
4.3. Phương pháp lịch sử
Văn học là sự phản ánh con người và thời đại một cách chân thực nhất.
Sử dụng phương pháp này, chúng tơi có thể thấy được sự tìm tịi, đổi mới, sự
trưởng thành của nhà thơ Vương Trọng qua từng chặng đường sáng tác của
riêng ông trong tương quan với các chặng thơ của thơ ca đương thời.
4.4. Phương pháp so sánh
So sánh các tập thơ, các giai đoạn trong suốt hành trình thơ của nhà thơ
với nhau để tìm ra sự vận động trong thơ Vương Trọng; so sánh phong cách
thơ Vương Trọng với thơ ca đương thời, với phong cách thơ của các nhà thơ
khác để thấy được sự đóng góp của nhà thơ với nền thơ cơ Việt Nam, đồng
thời khẳng định vai trị, vị trí của thơ Vương Trọng trong đời sống và trong
văn học.
4.5. Các phương pháp khác
Ngoài các phương pháp trên, chúng tơi cịn sử dụng các phương pháp
khác khi viết luận văn này: phương pháp phân tích, bình giảng, v.v..

17



5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Vương Trọng - nhà thơ trận mạc, nhà thơ công dân.
Chương 2: Vương Trọng - nhà thơ thế sự.
Chương 3: Ngôn ngữ - nét đặc sắc trong nghệ thuật thơ Vương Trọng.

18


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: VƯƠNG TRỌNG - NHÀ THƠ TRẬN MẠC, NHÀ THƠ
CÔNG DÂN.
1.1. Thơ ca chống Mỹ và những đóng góp của nhà thơ Vương Trọng.
“Thơ là sự phản ánh con người và thời đại một cách cao đẹp”(11).
Qua thơ văn, độc giả không chỉ chiêm ngưỡng vẻ đẹp tâm hồn, chiều sâu tư
tưởng, thế giới quan, nhân sinh quan của cá nhân tác giả, qua thơ, người đọc
còn thấy hừng hực hơi thở cuộc sống, hơn hết là tinh thần của cả một dân tộc
trong từng thời đại. Cịn đó, sang sảng thơ thần lời hùng thiêng sơng núi của
Lý Thường Kiệt bên bờ sơng Như Nguyệt; cịn đó áng “Thiên cổ hùng văn”
của nhà quân sự, nhà văn hóa, người anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi thay mặt
Lê Lợi bố cáo với muôn dân trong thiên hạ về một thời đại huy hồng; cịn đó
niềm căm phẫn xót đau, lịng u nước cuộn trào trong khao khát chiến thắng
của vị Quốc Cơng Trần Quốc Tuấn; cịn đó, những vần thơ thấm lệ của đại thi
hào Nguyễn Du xót thương kiếp người lưu loạn… Văn thơ là vậy, nhà văn
nhà thơ đâu phải chỉ là ngừời “thư kí trung thành” của thời đại, ghi lại tường
tận từng sự kiện, biến cố, mà quan trọng hơn, qua từng sự kiện biến cố đó,
nhà văn làm sống dậy tinh thần, linh hồn sức sống của cả một dân tộc . Thơ

văn chống Mỹ cũng đã đảm trách nhiệm vụ, chức năng đó một cách đầy xuất
sắc.
Nói đến thơ văn chống Mỹ cứu nước, chúng ta phải thấy được sự hiện
diện của ba thế hệ nhà văn nối tiếp trưởng thành. Thế hệ các nhà thơ thành
danh từ giai đoạn trước cách mạng, kinh qua giai đoạn chống Pháp và tiếp
tục cống hiến trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Ở thế hệ các nhà thơ

19


này, chúng ta thấy được những nỗ lực không mệt mỏi của nhiều nhà thơ lớn
mà tên tuổi của họ gắn liền với phong trào Thơ Mới. Xuân Diệu – “ơng hồng
của thơ tình” với niềm khao khát giao cảm với đời đã nỗ lực bắt mạch vào
cuộc sống và nguồn sáng của cách mạng một cách nhanh chóng tuy có khi
cịn nhiều đau đớn và chưa theo kịp với sự đổi mới, sự chuyển mình của cuộc
sống. Tuy vậy, trong hành trình trở về với “cha tơi là nhân dân, mẹ tôi là Tổ
quốc”, Xuân Diệu đã tạo nên một phong cách mới và cũng thành công không
kém ở kháng chiến chống Mỹ. Vượt qua thung lũng đau thương đến với cách
đồng vui”, Chế Lan Viên với chất trí tuệ sắc sảo đem đến cho thơ chống Mỹ
một phong cách chính luận độc đáo với Hoa ngày thường & Chim báo bão.
Huy Cận - người đi “lượm lặt những chút buồn rơi rác để rồi sáng tạo nên
những vần thơ ảo não” giai đoạn trước cách mạng, thời kì này ơng đóng góp
cho thơ chống Mỹ liên tục nhiều tập thơ có giá trị : Đất nở hoa , Bài thơ
cuộc đời, Hai bàn tay em,…
Bên cạnh các nhà thơ “lão thành” là các nhà thơ trưởng thành từ giai
đoạn kháng chiến chống Pháp, trong những năm hịa bình, xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc như Chính Hữu, Nguyễn Đình Thi, Nơng Quốc
Chấn, Hồng Trung Thơng, … Và đặc biệt, thơ ca chống Mỹ “tươi trẻ”, khỏe
khoắn hơn với sự xuất hiện ngoạn mục của thế hệ các nhà thơ trẻ với nhiều
tên tuổi: Phạm Tiến Duật, Nguyễn Đức Mậu, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa

Điềm, Dương Hương Ly, Thanh Thảo.... So với đội ngũ nhà thơ chống Pháp
thì các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ đã tạo ra cho thế hệ mình một phong cách
riêng: trẻ trung, năng nổ, xông xáo, nhiệt huyết và luôn phơi phới niềm hân
hoan và niềm tin tất thắng.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ là cuộc chiến tranh toàn dân, chiến tranh
vệ quốc vĩ đại của dân tộc. Đáp ứng nhiệm vụ xây dựng pháo đài tâm hồn dân
tộc, làm sáng tỏ mục đích cao cả của cuộc chiến đấu, tác động vào tình cảm,

20


nâng cao năng lực và ý chí chiến đấu bất khuất giành chiến thắng, thơ ca thời
kỳ này biểu hiện sâu sắc lòng yêu nước, lòng tự hào về truyền thống, về thắng
lợi hiện tại và niềm tin vào tương lai. Chủ nghĩa anh hùng cách mạng là nội
dung chủ yếu , là cảm hứng chủ đạo được thơ khai thác và biểu hiện với nhiều
sắc thái khác nhau. Thơ ca thời kỳ này xoáy sâu vào đề tài Tổ Quốc, vào cuộc
chiến đấu xây dựng và bảo vệ đất nước. Nằm chung trong mạch nguồn sôi nổi
ấy, tiếng thơ Vương Trọng thời kỳ này đã hòa vào dàn đồng ca chung ngợi ca
đất nước , bộc lộ niềm tin tưởng , lạc quan vào chiến đấu và chiến thắng của
dân tộc, thể hiện sức mạnh của tuổi trẻ, chất lính trẻ trung, tếu táo của một
nhà thơ mặc áo lính.
1.2. Cảm hứng về con người trong chiến tranh và thời kỳ hậu chiến
1.2.1. Hình ảnh người lính
Khi viết “Đơi lời giữa cuộc thi thơ”, nhà thơ Vương Trọng khẳng
định: “Đề tài chiến tranh, quân đội là một vùng đất màu mỡ và có nhiều vấn
đề làm trái tim người đọc rung động mạnh”(18). Đó là nhận định của một nhà
thơ quân đội nhiều trải nghiệm cả đã thành danh trên mảng đề tài vốn đã có
nhiều người khai thác. Hình ảnh người lính trên các chiến trường đối mặt với
gian nguy và thầm lặng hy sinh vì sự bình n của Tổ quốc ln ln ám ảnh
nhà thơ. Ơng đã viết về họ bằng một trái tim đồng cảm, xót đau nhưng rất đỗi

tự hào.
Trong thơ, hình ảnh người lính đã thu hút nhiều bút lực. Anh giải
phóng qn mang theo nhiều vẻ đẹp qua thơ Lê Anh Xuân, Nguyễn Khoa
Điềm, Dương Hương Ly...Người chiến sĩ trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ
xuất hiện ở một tư thế đẹp, tài hoa, dũng cảm và có trình độ. Có một dấu nối
rất đẹp giữa người chiến sĩ hôm qua với người chiến sĩ hôm nay, người chiến
sĩ chống Pháp với người chiến sĩ thời chống Mỹ cứu nước. Nhưng, như Giáo

21


sư Mã Giang Lân nhận xét “người chiến sỹ hôm nay có thêm chiều cao, tầm
vóc chưa từng thấy”
“Anh đi xi ngược tung hồnh
Bước dài như gió lay thành chuyển non
Mái chèo một chiếc xuồng con
Mà sơng núi dậy sóng cồn đại dương”
(Tố Hữu- Tiếng hát sang xuân)
Cái bản chất, cái mục đích là một, nhưng tư thế, suy nghĩ, hành động đã màu
sắc, đã lung linh hơn” (16). Trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ của
dân tộc, những vần thơ Vương Trọng ra đời trong bom đạn chiến tranh, trong
cái khơng khí chung của một thời đại anh hùng. Hình ảnh người lính trong thơ
ơng cũng mang trong mình vẻ đẹp lãng mạn, nhiều mộng mơ:
“Nằm võng khơng có gối vẫn êm
Khơng trở mình suốt đêm khơng mỏi
Nằm ngồi trời mà nắng sương khơng tới
Bởi cây rừng biết chiều ý ta”
(Bài thơ nằm võng)
“Bài thơ nằm võng” là một trong những tác phẩm đầu tay của Vương
Trọng, đó là bài thơ đạt giải báo Văn nghệ năm 1969 – 1970. Bài thơ ra đời

năm 1969, năm khốc liệt nhất, khó khăn nhất của của cuộc kháng chiến chống
Mỹ. Cả nước hừng hực khí thế “tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng”.
Trên khắp nẻo đường Tổ quốc, từ nông thôn đến thành thị, từ miền xuôi đến
miền ngược, từ Nam ra Bắc đâu đâu cũng một tinh thần “xẻ dọc Trường Sơn
đi cứu nước, mà lòng phơi phới dậy tương lai”( Tố Hữu) . Nằm trong mạch
nguồn ấy, “Bài thơ nằm võng” là khúc hát mê say, lạc quan, tin tưởng. Ở đó
hình ảnh người lính hiện lên thật thi vị, lãng mạn. Sau những trận đánh hay

22


lúc hành quân mệt mỏi, tạm dừng chân trú quân trong rừng rậm, cánh võng
trở thành nơi lý tưởng nhất để ngả lưng.
“Nằm võng thấy cây rừng chao động
Tán lá như sàng các vì sao”
Bầu trời nhìn qua cánh rừng trong đơi mắt người lính thật lấp lánh: “Tán lá
như sàng các vì sao”. Sự liên tưởng, tưởng tượng phong phú, thú vị có lẽ chỉ
bắt gặp trong tâm hồn mơ mộng, lãng mạn của những chàng lính trẻ yêu đời,
hồn nhiên, trong trẻo. Tuy nhiên, “Bài thơ nằm võng” không chỉ đẹp bởi tâm
hồn trẻ trung, mộng mơ của người lính, bài thơ đẹp cịn bởi ở đó, người đọc
bắt gặp lý tưởng sống, lý tưởng cách mạng cao cả của họ. Nằm võng suốt
đêm, khơng có gối, khơng trở mình sao mà khơng mỏi, nằm võng ngồi trời
sao mà nắng sương không tới, không thấm vào da thịt? Đó khơng chỉ là cách
nói mà cịn là cách sống, là lý tưởng sống của họ. Phải ở nơi tận cùng của khó
khăn, nguy hiểm, phải đứng ở ranh giới của sự sống và cái chết, phải chứng
kiến sự ra đi của những người đồng đội hơm qua cịn sát cánh bên mình, hơm
nay đã về với đất mẹ thì mới thấy được niềm lạc quan, tin tưởng, thái độ ung
dung, thảnh thơi đó cần thiết, đáng quý biết bao. Khơng khí của thời đại thúc
giục con người phải sống mạnh mẽ, yêu đời hơn. Sống, chiến đấu, và chiến
thắng là nghĩa vụ cao cả, thiêng liêng của cả dân tộc, và cả thế hệ mỗi cá

nhân. Vương Trọng là một người lính. Ơng hiểu hơn ai hết trách nhiệm, nghĩa
vụ của người lính Trường Sơn. Ơng hịa mình trong dòng thác mãnh liệt của
thời đại, sống và tận hiến cho cuộc sống, lý tưởng mà mình đã lựa chọn. Vì
thế, thơ ơng rất thực, rất đời. Khơng cầu kì hoa mỹ mà vẫn tốt lên cái khí thế
của cả một thời kỳ lịch sử. Những người lính Trường Sơn là vậy, họ sống
bằng niềm lạc quan và niềm tin chiến thắng: “Một hàng quân bước, hai hàng
người vui”(Ngọc Tấn); “Mỗi trang thơ đều rộn tiếng ta cười”(Chế Lan Viên).
Trong đôi mắt họ “ra chiến trường như trẩy hội mùa xuân”(Xuân Thiêm).

23


Trong đơi mắt Vương Trọng người lính, vì thế mà mỗi chuyến xe chở hàng ra
mặt trân cũng đều hiện lên rất chân thực mà nên thơ. Bài thơ “Chiến hào ra
trận” đã khắc họa những khoảnh khắc kiên hùng và lãng mạn đó của người
lính lái xe:
“Xe chạy nhanh
Bỏ lại sau lưng nhiều vết đạn
Xe dừng đột ngột
Ném ra phía trước một hố bom
Xe rung trong tiếng rít gầm
Người lái xe nhơ đầu ngồi buồng số
Bám từng chiếc máy bay
Và cứ thế, xe khi dừng khi chạy
Như thách thức quân thù.”
( Chiến hào ra trận)
Khác “bài thơ nằm võng” là những khoảnh khắc yên tĩnh bình lặng
hiếm hoi và vẻ đẹp tâm hồn lãng mạn, mộng mơ; “Chiến hào ra trận” ầm
ầm bom nổ, tiếng súng đạn rít gầm. Cả bài thơ là một cuộc rượt đuổi nguy
hiểm thách thức, một trận tàn sát giữa trên đầu là máy bay địch lồng lộn quần

đảo, phía dưới là những đồn xe vật lộn kiên cường tải hàng ra trận. Cái chết
rình rập, hiện hình từ phía kẻ thù bất cứ lúc nào. Tuyến đường ra trận đầy
hiểm họa
“Bom nổ gần nổ xa
Đạn cày ngang cày dọc
Đất tung lên bám vào đầu vào mặt
Đất tung lên lấp đầy mui xe.”
( Chiến hào ra trận)

24


×