Tải bản đầy đủ (.pdf) (143 trang)

Quán ngữ tình thái trong tác phẩm của ba nhà văn thạch lam vũ bằng tô hoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 143 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHẠM THỊ NHUNG

QUÁN NGỮ TÌNH THÁI TRONG TÁC PHẨM
CỦA BA NHÀ VĂN
THẠCH LAM, VŨ BẰNG, TÔ HỒI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chun ngành: Ngơn ngữ học

Hà Nội - 2016

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

PHẠM THỊ NHUNG

QUÁN NGỮ TÌNH THÁI TRONG TÁC PHẨM
CỦA BA NHÀ VĂN
THẠCH LAM, VŨ BẰNG, TÔ HỒI

Luận văn Thạc sĩ chun ngành: Ngơn ngữ học
Mã số: 60.22.02.40


Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Trịnh Cẩm Lan

Hà Nội - 2016
ii


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu và kết quả nghiên cứu của luận văn là trung thực, chưa từng được ai
cơng bố trong bất cứ cơng trình nào.

Tác giả luận văn

Phạm Thị Nhung

iii


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU TRONG LUẬN VĂN

Bảng 1.1. Bảng phân loại ngữ cố định theo quan điểm của Nguyễn Thiện Giáp.. 15
Bảng 2.1. Bảng phân loại QNTT dựa vào số lượng thành tố cấu tạo.................... 34
Bảng 2.2. Bảng phân loại QNTT dựa vào tổ chức cú pháp................................... .37
Bảng 2.3. Bảng phân loại QNTT dựa vào vị trí phân bố của QNTT trong cấu trúc
câu .......................................................................................................................... 44
Bảng 3.1. Bảng phân loại QNTT theo đặc điểm ngữ nghĩa – chức năng............. .51
Bảng 3.2. Bảng số liệu thống kê, phân loại các QNTT đưa đẩy............................ 52
Bảng 3.3. Bảng tổng hợp một số QNTT đưa đẩy đa giá trị....................................73

Bảng 3.4. Bảng số liệu thống kê, phân loại các QNTT rào đón............................. 74
Bảng 3.5. Bảng tổng hợp một số QNTT rào đón đa giá trị.................................... 87

iv


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài ...............................................................................................1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..................................................................3
3. Ý nghĩa của đề tài…………………………………………………………….4
4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu ...............................................................4
5. Bố cục của luận văn ..........................................................................................5
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN .............................................................................6
1.1. Vấn đề tình thái ..............................................................................................8
1.1.1. Khái niệm tình thái…………………………………………………………6
1.1.1.1. Vấn đề tình thái trong logic học và trong ngơn ngữ học…………......6
1.1.1.2. Vấn đề tình thái trong Việt ngữ học……..…………………………...8
1.2. Quán ngữ tình thái tiếng Việt .....................................................................12
1.2.1. Vài nét về quán ngữ tiếng Việt…………………………………………12
1.2.2. Khái niệm quán ngữ tình thái tiếng Việt ................................................18
1.2.3. Một số đặc điểm của quán ngữ tình thái tiếng Việt ................................19
1.2.3.1. Đặc điểm về hình thức .....................................................................20
1.2.3.2. Đặc điểm về ngữ nghĩa – chức năng ...............................................23
1.3. Tiểu kết Chương 1 .......................................................................................32
CHƯƠNG 2. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC CỦA QUÁN NGỮ TÌNH THÁI
TRONG TÁC PHẨM CỦA BA NHÀ VĂN THẠCH LAM, VŨ BẰNG, TƠ
HỒI ........................................................................................................................33
2.1. Đặc điểm về số lượng thành tố cấu tạo quán ngữ tình thái .....................33
2.1.1. Kết quả thống kê, phân loại ....................................................................33

2.1.2. Phân tích kết quả ....................................................................................34
2.1.2.1. Nhóm qn ngữ tình thái có cấu tạo gồm 2 thành tố (từ) ..............34
2.1.2.2. Nhóm qn ngữ tình thái có cấu tạp gồm 3 thành tố (từ) ...............35
2.1.2.3. Nhóm qn ngữ tình thái có cấu tạo gồm 4 thành tố (từ) ...............36

v


2.1.2.4. Nhóm qn ngữ tình thái có cấu tạo gồm 5 thành tố (từ) ...............36
2.2. Đặc điểm về tổ chức cú pháp của quán ngữ tính thái ..............................37
2.2.1. Kết quả thống kê, phân loại ....................................................................37
2.2.2. Phân tích kết quả ....................................................................................38
2.2.2.1. Nhóm qn ngữ tình thái có cấu tạo là một cụm chính phụ ...........38
2.2.2.2. Nhóm qn ngữ tình thái có hình thức kết cấu khn ....................42
2.2.2.3. Nhóm qn ngữ tình thái có hình thức kết cấu cụm chủ - vị …….. 42
2.3. Đặc điểm về vị trí phân bố của quán ngữ tính thái trong cấu trúc câu ..44
2.3.1. Kết quả thống kê, phân loại ....................................................................44
2.3.2. Phân tích kết quả ....................................................................................44
2.3.2.1. Nhóm qn ngữ tình thái đứng đầu phát ngơn ...............................45
2.3.2.2. Nhóm qn ngữ tình thái có vị trí cố định ở cuối phát ngơn .........46
2.3.2.3. Nhóm qn ngữ tình thái đứng sau chủ ngữ, trước vị ngữ ............47
2.3.2.4. Nhóm qn ngữ tình thái có vị trí xen kẽ .......................................48
2.4. Tiểu kết Chương 2 .......................................................................................50
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA – CHỨC NĂNG CỦA QUÁN NGỮ
TÌNH THÁI TRONG TÁC PHẨM CỦA BA NHÀ VĂN THẠCH LAM, VŨ
BẰNG, TƠ HỒI .....................................................................................................51
3.1. Đặc điểm của các quán ngữ tình thái đưa đẩy trong tác phẩm của ba
nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi ...........................................................52
3.1.1. Kết quả khảo sát, phân loại.....................................................................52
3.1.2. Phân tích kết quả ....................................................................................53

3.1.2.1. Nhóm qn ngữ tình thái đưa đẩy dùng để đánh giá .......................... 53
3.1.2.2. Nhóm quán ngữ tình thái đưa đẩy dùng để phỏng đốn – giả định .... 55
3.1.2.3. Nhóm qn ngữ tình thái đưa đẩy dùng để phủ định - phản bác ........ 61
3.1.2.4. Nhóm quán ngữ tình thái đưa đẩy dùng để hỏi ................................... 64
3.1.2.5. Nhóm qn ngữ tình thái đưa đẩy dùng để tỏ thái độ thừa nhận – chấp
thuận ................................................................................................................. 65
3.1.2.6. Nhóm quán ngữ tình thái đưa đẩy dùng để cảnh báo – nhắc nhở ...... 70

vi


3.1.2.7. Nhóm qn ngữ tình thái đưa đẩy dùng để khơi mào ......................... 71

3.2. Đặc điểm của các quán ngữ tình thái rào đón trong tác phẩm của ba nhà
văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi ..................................................................74
3.2.1. Kết quả khảo sát, phân loại.....................................................................74
3.2.2. Phân tích kết quả ....................................................................................75
3.2.2.1. Nhóm qn ngữ tình thái rào đón liên quan đến phương châm về
lượng ............................................................................................................75
3.2.2.2. Nhóm qn ngữ tình thái rào đón liên quan đến phương châm về
chất ...............................................................................................................77
3.2.2.3. Nhóm qn ngữ tình thái rào đón liên quan đến phương châm
quan hệ .........................................................................................................81
3.2.2.4. Nhóm qn ngữ tình thái rào đón liên quan đến phương châm cách
thức ...............................................................................................................82
3.2.2.5. Nhóm qn ngữ tình thái rào đón liên quan đến điều kiện và hiệu
quả sử dụng hành động ở lời........................................................................83
3.2.2.6. Nhóm qn ngữ tình thái rào đón lịch sự .......................................84
3.3. Tiểu kết Chương 3 .......................................................................................88
KẾT LUẬN ..............................................................................................................90

TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................93
PHỤ LỤC…………………………………………………………………………95

vii


MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong giao tiếp bằng ngơn ngữ, một sự tình có thể phản ánh đúng hoặc
khác thế giới thực tại khách quan, điều này phụ thuộc vào chủ đích của chủ
thể phát ngơn, vào ngơn/ văn cảnh và năng lực tiếp thụ của chủ thể tiếp nhận.
Vấn đề này liên quan đến một số phương tiện ngơn ngữ, trong đó có những
phương tiện biểu thị ý nghĩa tình thái. Đặc biệt trong thời gian gần đây, cùng
với khuynh hướng chú trọng hơn đến nhân tố văn hố, tư duy trong ngơn ngữ
và trong hoạt động ngôn ngữ, giới nghiên cứu Việt ngữ học quan tâm nhiều
đến vấn đề tính tình thái trong ngơn ngữ. Đó cũng là lẽ tất yếu bởi khơng có
một nội dung nhận thức và giao tiếp hiện thực nào lại có thể tách khỏi những
nhân tố như mục đích, nhu cầu, thái độ đánh giá… của người nói đối với điều
được nói ra xét trong mối quan hệ với hiện thực, với đối tượng giao tiếp và
các nhân tố khác của ngữ cảnh giao tiếp.
Như đã biết, một trong những mục đích chính của giao tiếp là trao đổi
thơng tin. Độ phức tạp trong việc xử lí thơng tin và hiệu ứng mà phát ngơn tác
động đến người nghe địi hỏi người nói có những thao tác xử lí nhất định về
mặt ngôn ngữ. Việc sử dụng ngữ điệu hay các phương tiện từ vựng khơng
giống nhau giúp người nói thể hiện các thái độ khác nhau đối với nội dung
phát ngôn. Các thông tin liên nhân được truyền đạt bên cạnh những thông tin
ngôn liệu được gọi là thông tin tình thái nhận thức.
Đặc trưng chung nhất của tình thái là phản ánh những mối quan hệ
khác nhau của nội dung thông tin trong câu với hiện thực và những quan

điểm, thái độ của người nói đối với nội dung miêu tả trong câu xét trong mối
1


quan hệ với người tiếp nhận, với hoàn cảnh giao tiếp. Đặc trưng này được thể
hiện qua nhiều cách định nghĩa tình thái khác nhau, tuy rằng ở mỗi tác giả có
cách thể hiện khái quát hay cụ thể, tường minh hay hàm ẩn.
Quan điểm của Benveniste (1966) xem tình thái là “một phạm trù rộng
lớn, nó gắn với những chờ đợi, mong muốn, đánh giá, thái độ của người nói
đối với nội dung phát ngơn, với người đối thoại, những kiểu mục đích phát
ngơn: hỏi, cầu khiến, trần thuật, v v.”. W. Frawley (1992) quan niệm tình thái
là “liên quan đến các thông tin về trạng thái của sự kiện, phản ánh quan hệ về
tính hiện thực, sự đánh giá và độ tin cậy của nội dung một biểu thức” [17, tr.
84 – 85].
J. Lyons (1977) xem “tình thái là thái độ của người nói đối với nội
dung của mệnh đề mà câu biểu thị hay cái sự tình mà mệnh đề đó miêu tả”.
Theo F. Palmer (1986) cho rằng “tình thái là những thơng tin ngữ nghĩa
có liên quan đến thái độ hay sự đánh giá của người nói về những gì được nói
ra”, sau đó ơng viết thêm “tình thái đạo lý lại liên quan đến tính hợp thức về
đạo lý của hành động do một người nào đó hay do chính người nói thực hiện”.
Trong Việt ngữ, vấn đề tình thái cũng được nhiều tác giả quan tâm
nghiên cứu như: Đỗ Hữu Châu, Cao Xuân Hạo, Lê Đơng, Nguyễn Văn Hiệp,
Hồng Tuệ, Phạm Hùng Việt, v. v.
Chẳng hạn, Hồng Tuệ đã nhận xét “tình thái là một khái niệm trong sự
phân tích theo cách nhìn tìm đến thái độ của người nói trong hoạt động phát
ngơn tức cũng là tìm đến tác động ngữ dụng, tác động mà người nói muốn tạo
ra ở người nghe trong thực tế hoạt động ngôn ngữ” [24, tr. 136].
Cao Xuân Hạo cho rằng tình thái của câu được biểu thị trong cấu trúc
cú pháp cơ bản (mà tác giả gọi là cấu trúc Đề – Thuyết).
2



Như vậy, trong bức tranh nghiên cứu về vấn đề tình thái trong ngơn
ngữ thì cịn có nhiều nét tương đồng và dị biệt giữa các tác giả.
Trong số những đơn vị từ vựng biểu đạt thơng tin tình thái nhận thức,
có một loại ngữ cố định chuyên biểu thị ý nghĩa tình thái, thường được gọi là
quán ngữ tình thái (QNTT). Loại đơn vị này có những nét đặc thù về cấu tạo,
chức năng và ngữ nghĩa. Sự tồn tại của các QNTT với ý nghĩa, vai trò của
chúng trong cơ chế giao tiếp liên nhân đã thôi thúc chúng tơi tìm hiểu, khảo
sát đặc điểm ngữ pháp, ngữ nghĩa – chức năng của loại đơn vị này trong ngữ
cảnh giao tiếp cụ thể với đề tài: Quán ngữ tình thái trong tác phẩm của ba
nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là chỉ ra những đặc điểm cơ bản về
hình thức và ngữ nghĩa – chức năng của QNTT được sử dụng trong các tác
phẩm của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi. Từ đó, góp phần thấy
được nét đặc trưng trong phong cách giao tiếp, nói năng của các nhân vật
trong tác phẩm của ba nhà văn này.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích trên đây, luận văn đặt ra các nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa một số vấn đề về lý thuyết giao tiếp, về tính tình thái
trong ngơn ngữ và QNTT với những vấn đề liên quan đến ngữ nghĩa, ngữ
dụng của chúng trong ngôn ngữ trong giao tiếp.
- Thu thập tư liệu là các QNTT và ngữ cảnh sử dụng chúng trong các
tác phẩm của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi.

3



- Phân tích và mơ tả đặc điểm hình thức và ngữ nghĩa – chức năng của
các QNTT đã thu thập được nhằm chỉ ra một số đặc trưng của chung trong
ngôn ngữ giao tiếp của các nhân vật trong các tác phẩm.
3. Ý nghĩa của đề tài
Về mặt lí luận: luận văn giúp khái quát được những đặc điểm về ngữ
pháp, ngữ nghĩa – chức năng của QNTT trong các tác phẩm của ba nhà văn
Thạch Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi. Thơng qua đó, chúng tơi hi vọng kết quả của
luận văn có thể làm phong phú thêm những nghiên cứu về phong cách sáng
tác của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi.
Về mặt thực tiễn: q trình giải quyết những vấn đề cụ thể về QNTT
trong luận văn giúp cho người người Việt giao tiếp với nhau lịch sự và đạt
được hiệu quả cao hơn.
4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các QNTT được sử dụng trong
ngôn ngữ giao tiếp của các nhân vật trong tác phẩm của ba nhà văn Thạch
Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi.
Trong q trình nghiên cứu, luận văn sử dụng một số thủ pháp và
phương pháp nghiên cứu sau đây:
- Thủ pháp thống kê, phân loại: để khảo sát, thống kê, phân loại các
QNTT trong tác phẩm của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi.
- Phương pháp phân tích và mơ tả ngôn ngữ học: là phương pháp chủ
đạo được sử dụng trong luận văn để phân tích và mơ tả đặc điểm hình thức và
ngữ nghĩa chức năng của các QNTT trong các tác phẩm của ba nhà văn được
lựa chọn.

4


5. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn dự kiến chia làm 3 chương

sau:
Chương 1. Cơ sở lý luận
Trong chương này, dựa trên việc tiếp thu và chọn lọc từ các quan điểm
của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, luận văn đưa ra cách hiểu về khái niệm tình
thái, vấn đề quán ngữ và quán ngữ tình thái. Đồng thời khái lược lại những
đặc điểm về hình thức và ngữ nghĩa chức năng của QNTT. Từ đó có sự phân
loại khái quát nhất về QNTT.
Chương 2. Đặc điểm hình thức của quán ngữ tình thái trong tác phẩm
của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi
Dựa trên những ngữ liệu cụ thể, Chương 2 triển khai khảo sát thống kê,
phân loại các QNTT rồi dùng phương pháp mơ tả, phân tích ngơn ngữ học để
chỉ ra những đặc điểm về hình thức của QNTT trong các tác phẩm của ba nhà
văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi.
Chương 3. Đặc điểm ngữ nghĩa – chức năng của quán ngữ tình thái
trong tác phẩm của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi
Trong chương này, luận văn khảo sát, thống kê, phân tích tác dụng,
chức năng trong sự hoạt động của QNTT. Từ đó rút ra những kết luận khách
quan về đặc trưng sử dụng ngôn ngữ và phong cách khi giao tiếp của các nhân
vật trong tác phẩm của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi.

5


CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN

1.1.

Vấn đề tình thái
1.1.1. Khái niệm tình thái

1.1.1.1. Vấn đề tình thái trong logic học và trong ngơn ngữ học
Tình thái (modality), một vấn đề rất rộng và phức tạp, đã được logic học,

ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu. Logic học đi đầu trong nghiên cứu tình thái.
Ngay từ thời cổ đại, Aristote đã bàn về mệnh đề tình thái, khi đó tình thái gắn với sự
phân loại các phán đoán, các mệnh đề logic dựa trên những đặc trưng cơ bản của
mối liên hệ giữa hai thành phần chủ từ và vị từ, xét ở góc độ phù hợp của phán đốn
với thực tế. Khi đưa tình thái vào câu nói, với tư cách là thành tố định tính cho
mệnh đề, các nhà logic học dựa theo các tiêu chí về tính tất yếu, tính khả năng, tính
hiện thực để phân loại phán đốn. Lúc này, tình thái chỉ được nghiên cứu ở phương
diện logic học.
Đến 1932, việc đưa khái niệm tình thái vào ngôn ngữ mới được thể hiện rõ.
Trong tác phẩm Linguistique gộnộrale et linguistique franỗaise, Ch. Bally ó ch
trng phõn bit trong câu hai yếu tố: nội dung biểu hiện có tính chất cốt lõi về ngữ
nghĩa của câu; thái độ của người nói đối với nội dung ấy. Trong đó, Ch. Bally dùng
thuật ngữ dictum để chỉ nội dung cốt lõi của câu và modus hoặc modalité để chỉ thái
độ của người nói, tức tình thái [24, tr. 734]. Khi bàn về tình thái, nhà ngơn ngữ học
V. V. Vinogradov cho rằng “tình thái thuộc vào số những phạm trù ngôn ngữ học
trung tâm, cơ bản” và tác giả xem tình thái như phạm trù ngữ pháp độc lập, tồn tại
song song với phạm trù vị tính, biểu hiện những mối quan hệ khác nhau của thông
báo với thực tế. Tác giả còn cho rằng: “Mỗi câu đều mang một ý nghĩa tình thái như
dấu hiệu cấu trúc cơ bản, tức chỉ ra quan hệ đối với hiện thực”. Nội dung thơng báo,
có thể được người nói hiểu như là hiện thực hay phi hiện thực, là đã tồn tại trong

6


quá khứ, trong hiện tại, hay là điều sẽ được thực hiện trong tương lai, là điều mà
người nói mong muốn hay địi hỏi đối với ai đó. Cịn theo cách định nghĩa của O. B.
Xirotinina, tình thái lại nằm trong vị tính của câu. Đối lập với các ngơn ngữ biến

hình thì “Thời tính, tình thái tính và ngơi tính nằm trong cấu trúc vị tính và cùng
nhau tạo nên cái gọi là vị tính mà thiếu nó thì khơng thể có thơng báo” (Dẫn theo
Nguyễn Văn Hiệp (2008) [17, tr. 84]). Trong khi đó, tác giả V. N. Bondarenko thì
cho rằng, “tính tình thái là một phạm trù ngôn ngữ chỉ ra đặc điểm của các mối quan
hệ khách quan (tình thái khách quan) được phản ánh trong nội dung của câu và chỉ
ra mức độ của tính xác thực về nội dung của chính câu đó theo quan niệm của người
nói (tình thái chủ quan)”. Một quan điểm rất gần với V. N. Bondarenko là M. V.
Liapon, tác giả xem “tình thái là một phạm trù chức năng ngữ nghĩa thể hiện các
dạng quan hệ khác nhau của phát ngôn đối với thực tế cũng như các dạng đánh giá
chủ quan khác nhau của điều được thông báo”. [24, tr. 31]
Ngoài ra, M. A. K Halliday (1994) cũng có nhiều ý kiến bàn về tính tình thái.
Một mặt, ông chú trọng vào phạm trù thức (mood), một mặt lại đặt ra yêu cầu về
việc cần phải xem xét tính tình thái qua việc sử dụng động từ. Với phạm trù trợ
động từ (auxiliaries), tác giả hy vọng sẽ giải thích được những gì cịn sót lại của tính
tình thái mà nếu chỉ dùng riêng khái niệm vị tính thì chưa giải quyết trọn vẹn.
Thành phần thức gồm hai tiểu thành phần: (i) chủ ngữ (subject) là một cụm danh từ,
(ii) tác tử hữu định (finite) là một phần của cụm động từ. Thành phần hữu định là
một trong số ít những tác tử động từ biểu đạt thì (tense) (ví dụ: is, has) hay tình thái
(ví dụ: can, must). [13, tr. 156]
Đáng chú ý, J. R. Searle đã dùng lý thuyết hành động ngôn từ để thảo luận
những vấn đề về thức và tình thái. J. R. Searle nêu ra năm phạm trù cơ bản của hành
động ở lời như sau: xác quyết, khuyến lệnh, kết ước, tuyên bố và biểu lộ. Cách tiếp
cận vấn đề của J. R. Searle đã cung cấp một khung ngữ nghĩa rộng lớn cho việc thảo
luận tình thái. Bởi với cách tiếp cận này, vai trị của người nói (với tư cách là chủ
thể nhận thức, chủ thể tác động trong quan hệ liên nhân) được đặc biệt nhấn mạnh.

7


Lý thuyết hành động ngôn từ là lý thuyết đặc biệt quan tâm đến quan hệ giữa người

nói với những gì được nói. Vì thế, nó xứng đáng là khung để thảo luận những vấn
đề của tình thái.
J. Lyons (1995) cho rằng tình thái logic được biểu thị qua khái niệm tính khả
năng và tính tất yếu, cịn trong ngơn ngữ, tình thái được nhận thức qua hai phạm trù
cơ bản là tình thái nhận thức (epistemic modality) và tình thái đạo lý (deontic
modality). Tình thái nhận thức phải được thể hiện thơng qua tính tất yếu hoặc khả
năng về tính xác thực của mệnh đề, và có liên quan đến tri thức và niềm tin, cịn
tình thái đạo lý thì có liên quan với chức năng xã hội của phép tắc hay là nghĩa vụ.
Và ơng xem tình thái là “thái độ của người nói đối với nội dung của mệnh đề mà
câu biểu thị hay cái sự tình mà mệnh đề đó miêu tả”.
Những quan niệm về tình thái nêu trên đã cho thấy cách giải quyết ý nghĩa
của tính tình thái có nhiều điểm khác nhau giữa các tác giả.
1.1.1.2. Vấn đề tình thái trong Việt ngữ học
Hiện nay, trong Việt ngữ học, vấn đề tình thái đã được nhiều tác giả quan
tâm nghiên cứu, nhưng chưa có nhiều cơng trình tập trung nghiên cứu tồn diện về
tình thái. Tình hình này có lẽ vì những ngun nhân sau:
- Trong một thời gian rất dài, tình thái được xem thuộc lĩnh vực lời nói
(parole) chứ khơng thuộc ngôn ngữ (langue) theo quan điểm của F. D. Saussure. Vì
tuân thủ sự phân biệt giữa parole và langue nên các nhà nghiên cứu ngữ pháp khơng
đề cập tới nó. [24, tr. 729]
- Cách hiểu về tình thái trong giới Việt ngữ học cịn chưa thống nhất, thậm
chí có sự hiểu lầm. Cao Xuân Hạo có nhận xét xác đáng như sau: “Hai chữ tình thái
nếu có được quan tâm lại thường đi đôi với những định kiến sai lạc. Sự hiểu lầm
phổ biến nhất là nghĩ rằng tình thái tức là những sắc thái tình cảm, cảm xúc của
người nói trong khi phát ngơn”. [6, tr. 66]

8


Khảo cứu tài liệu, chúng tơi thấy có hai nhóm tác giả đề cập đến vấn đề tình

thái, nhóm khơng trực tiếp quan tâm đến tình thái và nhóm trực tiếp quan tâm đến
tình thái. Tình hình nghiên cứu lớp này cụ thể như sau:
- Nhóm khơng trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái:
Đây là nhóm các tác giả khơng trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái nhưng
trong quá trình xử lý những vấn đề khác họ đã nhắc đến tình thái. Tiêu biểu cho
nhóm này là các tác giả: Bùi Đức Tịnh (1952), Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê
(1963), Lê Văn Lý (1968), Nguyễn Kim Thản (1977), Đái Xuân Ninh (1978), Lê
Cận, Phan Thiều (1983), Đinh Văn Đức (1986), Hoàng Phê (1987), Đỗ Hữu Châu
(1993), Lê Biên (1995), Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1998), v. v. Điểm
chung của các nghiên cứu liên quan đến vấn đề tình thái trong nhóm này thể hiện
qua các nội dung sau:
+ Vấn đề tình thái khơng được chính thức nhắc đến trong các nội dung ngữ
pháp, ngữ nghĩa của các cơng trình nghiên cứu. Các tác giả khơng đề cập đến sự đối
lập giữa phạm trù ngôn liệu và phạm trù tình thái mà chỉ sắp xếp từ tiếng Việt vào
hai lớp từ loại lớn là thực từ và hư từ.
+ Khi được xếp vào lớp thực từ hoặc hư từ, những yếu tố tình thái nào được
các tác giả này xem là có nghĩa từ vựng thì xếp vào lớp thực từ (như: nỡ, toan,
định…), còn những yếu tố cịn lại (khơng có nghĩa từ vựng) thì xếp vào lớp hư từ
(như: hả, à, ư, nhỉ…) chứ hồn tồn khơng nói đến tư cách tác tử, có vai trị thể hiện
ý nghĩa tình thái trong câu.
- Nhóm trực tiếp quan tâm đến vấn đề tình thái:
Các tác giả này có chú ý khảo sát vấn đề tình thái ở nhiều phương diện khác
nhau, tiêu biểu là các tác giả: Phan Mạnh Hùng (1982), Hoàng Tuệ (1984, 1988),
Nguyễn Minh Thuyết (1986, 1995), Nguyễn Đức Dân (1987, 1998), Lê Đông
(1991), Hồ Lê (1992), Cao Xuân Hạo (1991, 1999, 2001, 2002), Phạm Hùng Việt
(1994, 1996, 2003), Nguyễn Văn Hiệp (1994, 1998, 2001, 2002, 2008), v. v.. Quan

9



điểm chung của các tác giả này đều phân biệt rạch rịi hai phạm trù: ngơn liệu và
tình thái. Tuy nhiên, khi đi vào từng vấn đề cụ thể, ở mỗi tác giả có những kiến giải
khác nhau, nhiều khi chưa sáng tỏ. Dù rằng có những hạn chế nhất định, nhưng
những kết quả của những cơng trình này mang lại là rất lớn, giúp giới Việt ngữ học
có thái độ quan tâm đến vấn đề tình thái. Trong đó, đáng chú ý nhất là các tác giả
sau đây:
+ Nguyễn Đức Dân (1976) đã bàn đến vấn đề logic – tình thái trong tiếng
Việt. Sau này (1998) ơng đã nêu lên những khái niệm căn bản về tình thái trong
logic học. Tác giả cho thấy mối quan hệ giữa logic tình thái và ngơn ngữ, trong đó
tính tất yếu và tính có thể được coi là nền tảng của vấn đề tình thái trong ngơn ngữ.
+ Từ năm 1979, Cao Xuân Hạo đã có bài đi sâu miêu tả, phân tích những
phương tiện diễn đạt ý nghĩa tình thái qua việc phân tích tiền giả định và hàm ý của
một số vị từ tình thái. Ơng cịn phân biệt rõ tình thái của hành động phát ngơn và
tình thái của lời phát ngơn. Từ đó, ơng cho rằng: “Nội dung của bất kỳ một lời phát
ngôn nào cũng chứa đựng một tình thái (nếu khơng phải là kết hợp nhiều lớp tình
thái)”. [16, tr. 51]
+ Hồng Tuệ (1988) cho người đọc thấy được những nét khái quát về tình
thái khi bàn về thời, thể, tình thái trong tiếng Việt và khái niệm tình thái. Trong đó,
ơng có phân biệt rõ hai yếu tố khác nhau trong câu tiếng Việt đó là ngơn liệu
(dictum) và tình thái (modus).
+ Đỗ Hữu Châu (1993) cho rằng phạm trù tình thái truyền đạt quan hệ giữa
nhận thức của người nói với nội dung của câu và quan hệ của nội dung này với thực
tế ngồi ngơn ngữ. Nội dung câu nói có thể được khẳng định, được phủ định, được
yêu cầu hay bị cấm đoán, được cầu mong hay đề nghị, v. v..
+ Nguyễn Văn Hiệp (2008) đã cho thấy sự đối lập giữa phạm trù tình thái và
phạm trù ngơn liệu. Tác giả viết: “Đối lập cơ bản nhất để hiểu tình thái là đối lập
giữa tình thái và ngơn liệu hay nội dung mệnh đề. Đây là một sự đối lập được thừa

10



nhận rộng rãi, được coi là then chốt trong những nghiên cứu về tình thái. Ngơn liệu
thực chất là thơng tin miêu tả ở dạng tiềm năng, cịn tình thái là phần định tính cho
thơng tin miêu tả ấy”. [17, tr. 85 - 86]
Điểm qua một số quan điểm về tình thái của một số tác giả tiêu biểu, chúng
tơi nhận thấy rằng càng tìm hiểu chi tiết về tình thái thì càng thấy rõ tính phức tạp,
gắn với những quan niệm, cách hiểu khác nhau. Mặc dù, cách diễn đạt của các tác
giả là khác nhau nhưng ở họ đều có điểm chung: thừa nhận tình thái là một phạm
trù ngữ nghĩa – chức năng phản ánh mối quan hệ, thái độ, cách đánh giá của người
nói đối với nội dung của phần còn lại trong câu.
Chắt lọc, khái quát từ những quan điểm nêu trên, chúng tôi hiểu về tình thái
như sau: Tình thái là một phạm trù thể hiện thái độ, cách đánh giá của người nói
đối với nội dung giao tiếp, với người đối thoại hoặc giữa nội dung giao tiếp với mục
đích giao tiếp, với các nhân tố khác có liên quan đến sự tình được nêu ra. Nó là một
trong hai thành phần trọng yếu tạo nên cấu trúc ngữ nghĩa của câu, góp phần thực
tại hoá câu, gắn câu với điều kiện giao tiếp hiện thực.
1.1.2. Các phương tiện biểu thị tình thái trong ngôn ngữ
Cùng với sự phong phú của các ý nghĩa tình thái, các phương tiện biểu hiện
tình thái trong ngôn ngữ tự nhiên rất đa dạng. Xét về đại thể, có thể chia làm ba
nhóm cơ bản: các phương tiện ngôn điệu, các phương tiện ngữ pháp và các phương
tiện từ vựng. Ở những ngơn ngữ có biến đổi hình thái, thức và các hình thái khác
của động từ (như thời, thể) đóng một vai trị quan trọng trong việc biểu hiện tình
thái. Dĩ nhiên, những ngơn ngữ này cũng huy động các phương tiện khác như ngữ
điệu, các phương tiện từ vựng, hoặc phối hợp đồng thời nhiều kiểu phương tiện đó.
Trong tiếng Việt, một ngơn ngữ khơng biến đổi hình thái, ngồi ngữ âm
(dùng ngữ điệu để thể hiện thái độ, tình cảm hoặc để nhấn mạnh vào điểm mà người
nói cho là cần chú ý) thì các phương tiện từ vựng đóng một vai trị rất quan trọng,
có thể kể ra các nhóm chính:

11



- Các phó từ làm thành phần phụ của vị từ: sẽ, đang, từng, vừa, mới,…
- Các vị từ tình thái làm chính tố trong ngữ đoạn vị từ: toan, định, muốn, cố,
đành, được, bị,…
- Các động từ chỉ thái độ mệnh đề trong cấu trúc chỉ thái độ mệnh đề: Tôi e
rằng, tôi nghĩ rằng, tôi sợ rằng,..
- Các động từ ngôn hành trong kiểu câu ngôn hành (với những điều kiện về
ngôi, về chỉ tố thời,…) như: ra lệnh, van, xin, đề nghị, yêu cầu,…
- Các thán từ: ôi, chao ôi, ồ, eo ôi,…
- Các tiểu từ tình thái cuối câu và tổ hợp tương đương: à, ư, nhỉ, nhé, thơi,
chứ, đi, mất, thật, cũng nên, lại cịn, thì chết,…
- Các trợ từ tình thái: đến, những, mỗi, nào, ngay, cả, chính, đích thị, mới,
đã, chỉ,…
- Các kiểu câu điều kiện, giả định: nếu…thì…, giá…thì…, cứ….thì….
Đặc biệt trong đó cũng có các tổ hợp từ kiểu như: nói gì thì nói, nói của đáng
tội, nói khí khơng phải, nói bỏ ngồi tai,… mà ta thường thấy xuất hiện trong giao
tiếp. Đó là những tổ hợp từ, những lối nói đã tạo thành những đơn vị, khối hay
khn cấu trúc tướng đối ổn định được người nói dùng như một cơng cụ chức năng
của những tác tử tình thái tác động vào nội dung mệnh đề theo một kiểu nào đó. Và
chúng tơi tạm gọi những tổ hợp từ trên là quán ngữ tình thái (QNTT) – đối tượng
nghiên cứu của luận văn trên ngữ liệu là ngôn ngữ giao tiếp của các nhân vật trong
các tác phẩm của ba nhà văn Thạch Lam, Vũ Bằng, Tơ Hồi.
1.2. Qn ngữ tình thái tiếng Việt
1.2.1. Vài nét về quán ngữ tiếng Việt
Quán ngữ (QN) là đơn vị ngôn ngữ thuộc phạm vi quan tâm trước hết của
các nhà nghiên cứu từ vựng. Chính vì thế mà đơn vị này thường được thấy trong
cơng trình nghiên cứu về từ vựng hơn là trong các sách ngữ pháp. Bản thân thuật

12



ngữ “QN” được hiểu theo kiểu chiết tự thì “quán” là thói quen. Lý do là lớp từ này
được sử dụng theo “phản xạ” bản ngữ. Với đặc tính “dùng lâu thành quen”, một số
người cũng gọi chung thành ngữ (TN) là QN. Trong tác phẩm Ý nghĩa và cấu trúc
ngôn ngữ dịch từ tiếng Nga, nguyên tác tiếng Anh là Meaning and the Structure of
language của tác giả người Mỹ Wallace L. Chafe, Nguyễn Lai đã dùng từ “QN hoá”
thay cho “TN hoá” ở chương 5 khi dịch thuật ngữ idiomaticization [22].
Nguyễn Văn Tu với cơng trình nghiên cứu về từ tiếng Việt [21] đã dành vài
trang để nói về khái niệm QN. Theo quan niệm của tác giả, QN cũng có tính ổn
định vì các thành tố gắn bó với nhau thơng qua q trình “quen dùng” và đưa ra các
ví dụ minh hoạ cho quan điểm của mình: bạn nối khố, anh hùng rơm, gót sắt, kỷ
luật sắt, mua việc,... Như vậy, đối với Nguyễn Văn Tu, QN là một kiểu ngữ cố định
mà các tác giả khác gọi là ngữ cố định định danh (theo Vũ Đức Nghiệu).
Từ điển tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học định nghĩa QN là: “Tổ hợp từ cố
định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ các nghĩa của các yếu tố hợp
thành”. Từ điển này đưa ra các ví dụ là “lên lớp”, “lên mặt”, “lên tiếng”.
Từ điển tiếng Việt của Trung tâm Ngôn ngữ và Văn hoá thuộc Bộ Giáo dục
và Đào tạo, định nghĩa QN là: “Tổ hợp từ cố định quen dùng mà nghĩa có thể suy ra
từ nghĩa của những yếu tố cấu thành” [23, tr 1364]. Tuy nhiên từ điển này khơng
cho ví dụ minh hoạ.
Trong sự so sánh với TN, từ định nghĩa của hai từ điển và một số nhà nghiên
cứu, chúng tơi có thể rút ra được một kết luận rất có ích cho việc phân biệt QN với
TN, đó là: QN, đứng về mặt từ vựng học, khơng có nghĩa bóng.
Cho đến bây giờ, những định nghĩa mà chúng tơi tìm hiểu được đa phần tập
trung ở địa hạt này. Đỗ Hữu Châu phát biểu: “Quán ngữ là những cách nói, cách
diễn đạt cần thiết để đưa đẩy, để chuyển ý hay dẫn ý, để nhập đề chứ khơng có tác
dụng nêu bật một sắc thái của những cái đã có tên hoặc nêu bật ra các sự vật, hiện

13



tượng, tính chất,...chưa có tên gọi. Ngồi các thí dụ đã nêu, có thể dẫn thêm các
quán ngữ khác như:“ai cũng biết rằng”, “rõ ràng là”, “chắc chắn là”,…”
[5, tr 74].
Dựa vào đó, chúng tơi đưa ra lược đồ sau đây:
Ngữ cố định

Quán ngữ

Thành ngữ

(Gần gũi với cụm từ tự do)
Theo lược đồ, QN là đơn vị phân biệt với TN và qua định nghĩa của tác giả,
phân biệt ở đây khơng chỉ là hình thức của QN mang tính chất của cụm từ tự do cao
mà còn về mặt nghĩa học. Trong khi TN có nghĩa bóng và tính biểu trưng thì QN,
như quan niệm của Đỗ Hữu Châu, là đơn vị “rỗng” nghĩa vì nó chỉ có chức năng
dẫn xuất, đưa đẩy, là đơn vị ngôn ngữ mang tính cơng cụ nhiều hơn. Thật vậy, khi
một người muốn bổ sung giữa cái nói rồi với cái định nói nữa, anh ta sử dụng các
“chỉ xuất” diễn ngôn được làm sẵn hoặc để cho người nghe có thể “dự báo”, có thể
nắm bắt trước tinh thần phát ngơn, chuyển đổi chủ đề, tránh tình trạng đột ngột, tạo
ý khẳng định, phủ định, tạo hành vi tại lời, v.v.
Chia sẻ tinh thần của Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp có cùng ý kiến:
“Quán ngữ là những cụm từ được dùng lặp đi lặp lại trong các loại văn bản để liên
kết, rào đón hoặc nhấn mạnh nội dung cần diễn đạt nào đó. Mỗi phong cách thường
có những quán ngữ riêng, chẳng hạn các quán ngữ “của đáng tội”, “nói khí vơ
phép”, “nói bỏ ngồi tai”, “chẳng nước non gì”, “còn mồ ma”, v.v...thường được
dùng trong phong cách hội thoại” [10, tr. 101].
Từ định nghĩa của Nguyễn Thiện Giáp, chúng tôi phát hiện thêm một đặc
điểm nữa mà sẽ là thiếu sót nếu khơng đưa vào đặc tính của QN, đó là sự sử dụng


14


lặp đi lặp lại thành quen dùng như một cách nói chun dụng. Đặc tính này đã
phần nào phản ánh lý do lớp từ này có tên là “QN”.
Ví dụ:
(1). ...Chúng con đã chả làm cách nào trả ơn bà, ơn mợ được thì chớ, đời nào con
lại dám bê tha điếu thuốc điếu sái để cho cả nhà phải mang tiếng và mợ phải buồn
rầu vì con. (VB. C)
Cụm từ “đời nào” này không chỉ xuất hiện trong phát ngơn trên, của riêng
người nói trên mà hầu như nó là một biểu thức được làm sẵn, được tái hiện nhiều
lần trong các tình huống tạo phát ngơn dùng để phủ định dứt khốt điều mà người
đối thoại có vẻ nửa tin, nửa ngờ và khẳng định là không thể xảy ra được vì vơ lý.
Định nghĩa và sự sắp xếp của Nguyễn Thiện Giáp về ngữ cố định trong đó có QN
được thể hiện qua bảng mà tác giả đề nghị sau đây [10, tr. 101]:

Chức năng biểu
hiện gợi tả

Chức năng định
danh

Có tính nhất thể về

Khơng có tính nhất

nghĩa

thể về nghĩa


Ngữ láy đơn nhất

Ngữ láy mơ hình

Thành ngữ hịa kết

Thành ngữ hợp kết

Cấu tạo bằng
phương thức láy

Ngữ định danh hòa Ngữ định danh hợp
kết

kết

Chức năng đưa

Quán ngữ

Cấu tạo bằng
phương thức ghép

đẩy, rào đón, nhấn
mạnh, liên kết
Bảng 1.1. Phân loại ngữ cố định theo quan điểm của Nguyễn Thiện Giáp
Dễ nhận thấy rằng QN trong bảng trên của Nguyễn Thiện Giáp có ba đặc
điểm nổi bật:


15


- Có chức năng đưa đẩy, rào đón, nhấn mạnh, liên kết chứ khơng có nghĩa
định danh (nét khu biệt lớn nhất với các đơn vị ngữ cố định khác).
- Khơng có tính nhất thể về nghĩa.
- Được cấu tạo bằng phương thức ghép.
Nhưng như thế nào là “phương thức ghép”? Chắc chắn “ghép” đây không
phải theo phương thức cấu tạo của TN, từ ghép hoặc từ láy vì tác giả đã chỉ ra: “Về
ý nghĩa cũng như về hình thức cụm từ trên (tức là quán ngữ - chú thích của người
viết) chẳng khác gì cụm từ tự do nhưng do nội dung của chúng đã trở thành điều
thường xuyên phải cần đến trong sự suy nghĩ và diễn đạt mà chúng được dùng lặp
đi lặp lại như một đơn vị có sẵn” [10, tr.101].
Đặc điểm “khơng khác gì cụm từ tự do” có ý nghĩa rất quan trọng trong việc
quyết định sự khác nhau về hình thái cũng như nội dung của QN với các đơn vị từ
vựng khác.
Vũ Đức Nghiệu cũng quan niệm: “QN là những cụm từ được lặp đi lặp lại
trong các loại diễn từ (discourse) thuộc các phong cách khác nhau. Chức năng của
chúng là đưa đẩy, rào đón, để nhấn mạnh, hoặc để liên kết trong diễn từ”. Ví dụ:
“của đáng tội”, “nói bỏ ngồi tai”, “nói tóm lại”, “kết cục là”, “nói cách khác”,...
[18, tr. 161]. Vũ Đức Nghiệu đã đưa ra một lược đồ để minh họa như sau:
CỤM TỪ CỐ ĐỊNH

Ngữ cố định

Thành ngữ
(Mẹ trịn con vng)

QN NGỮ


Ngữ cố định định danh

(Của đáng tội)

(Mặt trái xoan)

16


Qua lược đồ, chúng ta có thể nhận thấy rằng tác giả dù có ý kiến khác và
thuật ngữ khác trong việc phân chia ngữ/cụm từ cố định những tác giả vẫn thống
nhất đặt QN vào một vị trí trong hệ thống cụm từ cố định.
Hữu Đạt có định nghĩa dựa vào nội hàm của thuật ngữ nên suy ý hơi rộng
nhưng những ví dụ tác giả đã đưa ra hồn tồn phù hợp với lớp QN chúng tơi đang
bàn luận: “Theo nghĩa đen “quán” là “quen”. Vậy QN là một loại ngữ cố định được
người ta quen dùng. Ví dụ: “nói tóm lại”, “kết quả là”, “rốt cuộc”, “nói một cách
khác”, “ nói gọn lại là”, “trước hết”, “đáng chú ý là”, “khơng chóng thì chày”,
“mặt khác thì”...[...]. Như vậy nói khái qt thì QN là loại ngữ cố định được quen
dùng nhưng ít hoặc khơng có tính hình tượng [9, tr. 77].
Ý kiến trên bổ sung cho phần nhận định về QN là chúng có ít hoặc khơng có
tính hình tượng. Thật vậy, với tư cách là đơn vị ngơn ngữ khơng có nghĩa thực mà
chỉ có nghĩa chuyên dụng thì việc đặt ra vấn đề “hình tượng” hoặc “biểu trưng” là
vừa rất khó và cũng khơng thực tế.
Quan niệm này cũng tương đồng với cách giải thích trong các từ điển tiếng
Việt mà chúng tôi đã tổng hợp. Theo đó, khác với TN, QN có ý nghĩa có thể suy ra
từ các thành tố tạo nên nó một cách trực tiếp. Chúng tơi hồn tồn chia sẻ với ý kiến
này.
Ngoài các định nghĩa về thuật ngữ QN mà theo chúng tơi, cịn có chỗ mơ hồ
về các ví dụ minh hoạ, hai cơng trình từ điển tiếng Việt giải thích các QN cụ thể
trong mục từ của mình là “cách dùng khẩu ngữ”, hoặc “dùng ở đầu câu”, hoặc

“dùng làm thành phần phụ câu”. Ví dụ, Từ điển tiếng Việt đã giải thích: “QN (nói)
của đáng tội là khẩu ngữ, dùng làm phần chêm trong câu. Tổ hợp biểu thị sự
chuyển ý để nhằm thanh minh hoặc làm rõ thêm cho điều ít nhiều khơng hay vừa
nói đến ở trên; và các ví dụ là nói cho đúng ra, cho thoả đáng, thực ra thì”.
Nhìn chung, hầu hết các tác giả khi nêu ra quan niệm về quán ngữ thường
quan tâm đến hai vấn đề sau:

17


+ Về hình thức, quán ngữ là tổ hợp từ cố định được dùng lặp đi lặp lại.
+ Về chức năng, quán ngữ dùng để đưa đẩy, liên kết hoặc nhấn mạnh nội
dung cần diễn đạt nào đó.
1.2.2. Khái niệm quán ngữ tình thái tiếng Việt
Như đã nêu ở trên, đối tượng nghiên cứu mà chúng tôi chọn là những tổ hợp
từ, những lối nói đã tạo thành những đơn vị, khối hay khuôn cấu trúc tương đối ổn
định được người nói dùng như một cơng cụ có chức năng của những tác tử tình thái
tác động vào nội dung mệnh đề theo một kiểu nào đó. Sở dĩ chúng tôi gọi những tổ
hợp này là QNTT bởi về cơ bản chúng cũng có những đặc điểm về hình thức và ý
nghĩa của những tổ hợp từ gọi là QN được nhiều người chấp nhận. Song, cũng dễ
nhận thấy, nội hàm khái niệm QNTT về một phương diện nào đó, theo quan niệm
của chúng tôi, là hẹp hơn so với quan niệm của các nhà từ vựng học.
Vì lý do đó, người đọc có thể thấy trong danh sách các QNTT mà chúng tôi
thu thập vắng mặt rất nhiều tổ hợp mà mọi người quen gọi là QN nhưng lại có thể
thêm nhiều tổ hợp, kết cấu trước nay chưa ai bàn đến và cũng khơng loại trừ khả
năng có những tổ hợp đã được nói đến nhưng lại khơng được coi là QN. Chẳng hạn
các tổ hợp từ kiểu: hình như, có lẽ, tất nhiên, đương nhiên, có khi, vả lại,… mà
trước nay các sách ngữ pháp vẫn gọi là phó từ, liên từ. Thiết nghĩ đây cũng là điều
dễ hiểu. Bởi lẽ, việc gọi những tên khác nhau cho cùng một đối tượng hay ngược
lại, những đối tượng khác nhau được xếp vào cùng một khái niệm cũng là điều

thường thấy. Nó phụ thuộc vào góc độ mà người ta chọn để xem xét đối tượng. Ở
đây, xin nhấn mạnh lại là tiêu chí đầu tiên và cũng là quan trọng nhất đối với các tổ
hợp từ được chúng tôi tập hợp để nghiên cứu trong luận văn này là khả năng biểu
đạt các ý nghĩa tình thái. Dùng khái niệm QN của từ vựng học, thực ra chúng tơi
chỉ muốn nhấn mạnh đến tính chất “khối” tương đối ổn định và quen dùng của
chúng mà thôi. Và như vậy, chúng tôi rút ra được một số đặc điểm về bản chất của
QNTT tiếng Việt như sau:

18


×