Tải bản đầy đủ (.pdf) (205 trang)

Quần thể di tích lịch sử văn hóa phố hiến thị xã hưng yên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.29 MB, 205 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
VIỆN VIỆT NAM HỌC VÀ KHOA HỌC PHÁT TRIỂN
----------***___▼▲▼___***---------

TRẦN THỊ MINH AN

QUẦN THỂ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA
PHỐ HIẾN - THỊ XÃ HƯNG YÊN
Chuyên ngành: Việt Nam học
Mã số: 60 31 60

LUẬN VĂN THẠC SỸ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS. TS. NGUYỄN QUANG NGỌC

HÀ NỘI - 2009


MỤC LỤC
Mục lục
Danh mục các bản đồ, bảng biểu, sơ đồ, bản ảnh
MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài

1

2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề



3

3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

8

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn

9

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

9

6. Đóng góp của luận văn

10

7. Các nguồn tƣ liệu

10

8. Cấu trúc luận văn

11

CHƢƠNG 1: ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÙNG PHỐ HIẾN – HƢNG YÊN

13


Diên cách, vị trí địa lý vùng Phố Hiến – Hƣng Yên

13

Diên cách

13

Vị trí địa lý

15

Đặc điểm tự nhiên vùng Phố Hiến – Hƣng Yên
Đặc điểm phát triển địa hình

18
18

Vùng đất được hình thành do sự bồi đắp của sơng Hồng và tác động của hệ
thống đê sông.

18

Vùng đất chịu tác động mạnh mẽ do sự vận động đổi dòng của sơng Hồng

21

Đặc điểm khí hậu


28

Đặc điểm thuỷ văn

30

Lịch sử phát triển vùng Phố Hiến – Hƣng Yên

34

Đặc điểm cƣ dân – văn hoá

37

Cộng đồng người Việt

37

Hoa Kiều và Nhật kiều

41

Khách thương phương Tây

46

Đặc điểm phát triển kinh tế

48


Tiểu kết

51

CHƢƠNG 2: QUẦN THỂ DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HĨA
PHỐ HIẾN – HƢNG YÊN: LỊCH SỬ VÀ HIỆN TRẠNG

53


2.1. Q trình hình thành quần thể di tích

53

2.2. Phân loại di tích

64

2.2.1. Đền

64

2.2.2. Chùa

68

2.2.3. Đình

70


2.2.4. Hội qn

72

2.2.5. Nhà thờ Thiên chúa giáo

74

2.2.6. Văn miếu

75

2.2.7. Nhà thờ tộc/ Từ đường

76

2.2.8. Nhà cổ

77

2.3. Tính hệ thống và đặc điểm của quần thể di tích

78

2.3.1. Về mật độ và quy mơ

78

2.3.2. Đặc điểm quần thể di tích


81

2.4. Tiểu kết

89

CHƢƠNG 3: LỊCH SỬ PHỐ HIẾN – HƢNG YÊN QUA HỆ THỐNG
CÁC DI TÍCH LỊCH SỬ - VĂN HÓA

91

3.1. Giai đoạn tiền Phố Hiến - Vùng đất có vị trí chiến lƣợc về qn sự

91

3.1.1. Thời kỳ Hai Bà Trưng

91

3.1.2. Thế kỷ X

96

3.1.3. Thời Lý - Trần

106

3.2. Giai đoạn Phố Hiến - Vùng đất có vị trí trọng yếu trong hệ thống giao thƣơng 112
và truyền giáo
3.2.1. Vùng đất có vị trí trọng yếu trong hệ thống giao thương trong nước và quốc tế


112

3.2.2. Vùng đất quan trọng trong hành trình truyền giáo

122

3.3. Giai đoạn hậu Phố Hiến – Đô thị trung tâm hành chính thời Nguyễn

127

3.3.1. Sự suy tàn của thương cảng kinh tế

127

3.3.2. Sự hình thành đơ thị trung tâm hành chính thời Nguyễn

133

3.4. Tiểu kết

136

KẾT LUẬN

139

TÀI LIỆU THAM KHẢO

142


PHỤ LỤC


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Như dòng chảy quanh co bên bồi bên lở của sông Hồng, thương cảng Phố
Hiến xưa - thị xã Hưng Yên ngày nay đã trải qua nhiều giai đoạn thăng trầm
thịnh suy. Một thương cảng sầm uất bậc nhất của Đàng Ngoài thế kỷ XVI đến
nửa đầu thế kỷ XVIII với cảnh đông vui trên bến dưới thuyền, với những khu
phố tấp nập kẻ bán người mua đã bị vùi sâu dưới lớp lớp phù sa. Một Hưng
Thành được xây dựng kiên cố với tư cách lị sở hành chính thế kỷ XIX cũng đã
biến mất chỉ cịn để lại những phế tích và địa danh cổ. Năm tháng đã phủ bụi
mờ lên nhiều trang sử của miền đất này. Nhưng vẫn cịn đó một quần thể di tích
(QTDT) đa dạng về loại hình, đặc sắc về kiến trúc với vẻ đẹp độc đáo của tập
quán tín ngưỡng và lễ hội dân gian tồn tại trên các phố phường.
Theo số liệu thống kê chưa đầy đủ, thị xã Hưng Yên hiện còn trên 130 di
tích phân bố trên địa bàn 12 phường, xã bao gồm các loại hình đình, đền, chùa,
miếu, phủ, hội quán, nhà cổ, nghĩa trang người nước ngoài, văn miếu, võ miếu,
nhà thờ Thiên Chúa giáo, nhà thờ họ, bia đá…Số liệu này cho thấy mật độ đậm
đặc và tính đa dạng của di tích lịch sử văn hóa trong khu vực.
Mỗi di tích đều tồn tại trong mối quan hệ mật thiết với điều kiện địa – văn
hoá, địa – lịch sử của vùng đất nơi nó sinh ra. Nói cách khác, di tích khơng chỉ
đơn thuần là dấu vết của q khứ mà nó cịn là hệ quả, là chứng tích phản ánh
những biến thiên thăng trầm ở mỗi khu vực, mỗi địa phương. Quần thể di tích
lịch sử văn hóa Phố Hiến – Hưng n cũng khơng nằm ngồi quy luật chung
đó.
Sự vận động của các yếu tố tự nhiên, sự biến thiên của lịch sử văn hoá vùng
Phố Hiến – Hưng Yên đã tạo tiền đề cho sự hình thành, tồn tại và phát triển của
hệ thống di tích tại đây. Ngược lại, chính hệ thống di tích lịch sử văn hóa lại là

nguồn sử liệu trực tiếp cung cấp cho ta những thông tin quan trọng để tìm về
quá khứ, làm sáng rõ và gắng kết các mảng vỡ lịch sử văn hóa, giúp ta hình
dung rõ nét hơn diện mạo và tiến trình phát triển của vùng đất này không chỉ
trong giai đoạn thịnh đạt của thương cảng Phố Hiến thế kỷ XVI-XVII.

1


Số lượng, sự phân bố, nét độc đáo trong kiến trúc, mối quan hệ giữa các di
tích và đặc biệt là sự phù hợp, thống nhất giữa truyền thuyết dân gian với điển
tích các nhân vật được thờ tự, địa danh cổ và tập quán, lễ hội dân gian xoay
quanh hệ thống di tích đã hé lộ nhiều điều về lịch sử phát triển của Phố Hiến –
Hưng Yên. Không chỉ nổi danh với tư cách là đô thị “thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì
Phố Hiến”, Hưng n cịn là miền đất cổ có vị trí chiến lược với những đóng
góp lớn trong tiến trình phát triển chung của lịch sử đất nước qua nhiều thời kỳ.
Tuy nhiên, cho đến hiện nay, trọng tâm nghiên cứu về vùng đất này vẫn tập
trung vào giai đoạn thế kỷ XVI - nửa đầu XVIII với sự hình thành, hưng thịnh
và suy tàn của thương cảng Phố Hiến. Ngược lại, sự phát triển của vùng đất này
giai đoạn tiền Phố Hiến và hậu Phố Hiến mới chỉ được hình dung trên đại thể,
nhiều vấn đề lịch sử cịn bỏ ngỏ.
Trong khi đó, trải qua bao mưa nắng thời gian, dưới tác động của khí hậu,
chiến tranh và đặc biệt là bàn tay con người, QTDT Phố Hiến – Hưng Yên nguồn sử liệu trực tiếp để nghiên cứu về tiến trình lịch sử văn hóa của vùng đất
này đang đứng trước nhiều nguy cơ. Nhiều di tích đã bị phá huỷ hồn tồn
khơng cịn dấu vết, nền móng cũng bị vùi lấp trong cát. Những di tích cịn lại
chủ yếu là các cơng trình cơng cộng, trong đó nhiều di tích đang trong tình trạng
xuống cấp nghiêm trọng. Cổ vật bị hư hại, thất lạc và trộm cắp. Một số cơng
trình đang bị sụp đổ từng bộ phận. Một số đã được trùng tu nhưng không đúng
cách dẫn đến kiến trúc cổ bị biến dạng, khơng gian di tích bị trần tục hố. Tính
thiêng cũng như những giá trị tâm linh khác của di tích cũng theo đó mà bị biến
đổi, mất đi bản sắc ban đầu. Điều đó cũng có nghĩa là nguồn tư liệu vô giá đối

với việc nghiên cứu tiến trình lịch sử của vùng đất này đang bị mai một, thậm
chí có nguy cơ biến mất hồn tồn. Thực tế đó đặt ra yêu cầu cần khẩn trương
nghiên cứu chuyên sâu về lịch sử, văn hóa Phố Hiến – Hưng Yên một cách toàn
diện và khoa học ngay từ hôm nay.
Mặt khác, nghiên cứu về lịch sử vùng đất Phố Hiến – Hưng Yên còn cung
cấp những hiểu biết căn bản và tổng thể giúp ích cho chính sự nghiệp bảo tồn,
tôn tạo và phát huy giá trị của QTDT lịch sử - văn hóa tại đây. Trong tình hình
thị xã Hưng n đang đơ thị hóa mạnh mẽ để chuyển mình thành thành phố,
2


vấn đề này càng có ý nghĩa quan trọng. UBND thị xã Hưng Yên đã và đang tiến
hành xây dựng một đề án tổng thể nhằm nâng cấp thị xã thành thành phố tương
lai với những quy hoạch đồng bộ về cơ sở hạ tầng. Diện mạo đô thị đang có
những thay đổi nhanh chóng. Một đơ thị Hưng n hiện đại đang dần hình
thành và phát triển mạnh mẽ bên cạnh một Phố Hiến cổ kính với QTDT lịch sử
văn hóa đặc sắc. Vấn đề mâu thuẫn giữa bảo tồn và phát triển đang đặt ra bức
thiết. Quy hoạch mặt bằng tổng thể phát triển thị xã trong tương lai phải giải
quyết được bài tốn đơ thị hố, phải tạo ra được sự đối thoại uyển chuyển, hài
hoà giữa di sản kiến trúc truyền thống và các cơng trình hiện đại, cao tầng. Thực
tế đó càng đặt ra nhiệm vụ cấp bách cho công cuộc nghiên cứu QTDT. Cần phải
nhanh chóng tiến hành nghiên cứu một cách tổng thể dựa trên những khảo cứu
nghiêm túc, toàn diện và tỉ mỉ, đảm bảo cung cấp những căn cứ khoa học để xây
dựng quy hoạch đô thị mới vừa hiện đại, vừa bảo tồn được QTDT lịch sử văn
hóa truyền thống.
Nghiên cứu về QTDT còn phục vụ đắc lực cho sự phát triển kinh tế địa
phương. Hệ thống di tích lịch sử - văn hóa với nhiều giá trị độc đáo là tiềm năng
lớn để thị xã Hưng Yên phát triển thương mại du lịch, tạo ra sự chuyển đổi
trong cơ cấu kinh tế. Di tích được bảo tồn, du lịch phát triển sẽ đem lại nguồn
lợi lớn cho ngân sách, người dân cũng được hưởng lợi nhiều hơn qua việc tham

gia vào các hoạt động dịch vụ du lịch, các làng nghề truyền thống quanh khu
vực thị xã sẽ có cơ hội phục hồi. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với
sự nghiệp phát triển kinh tế bền vững của thị xã – thành phố tương lai.
Tuy nhiên, để khơi dậy được tiềm năng đó, để thực sự biến di tích thành
nguồn lợi vật chất, phải bảo tồn được nét cổ, vốn cổ của mỗi di tích, phải hiểu
và trả lại cho di tích những giá trị đích thực của nó. Điều đó địi hỏi những nỗ
lực nghiên cứu QTDT lịch sử - văn hoá thật sự nghiêm túc, cơng phu từ phía các
nhà nghiên cứu và quản lý văn hoá.
Xuất phát từ yêu cầu thực tế trên và với tấm lòng tri ân của một người con
q hương, chúng tơi đã chọn “Quần thể di tích lịch sử văn hóa Phố Hiến –
Hƣng Yên” làm đề tài luận văn thạc sỹ Việt Nam học.

3


Với địa bàn mang đậm yếu tố sông nước và những giá trị văn hóa lịch sử
truyền thống lâu đời, Phố Hiến - Hưng Yên có thể coi như một khu vực có tính
đặc thù. Nghiên cứu Phố Hiến - Hưng Yên với tư cách một khu vực đặc thù và
tiếp cận nghiên cứu QTDT lịch sử - văn hóa theo hướng liên ngành sẽ đem đến
hiểu biết tổng thể và sâu sắc cho người nghiên cứu. Hơn nữa, chỉ có đặt QTDT
lịch sử - văn hóa trong mối quan hệ tổng thể của các điều kiện tự nhiên, kinh tế,
xã hội của khu vực mới có thể đề ra được phương án bảo tồn, tôn tạo hợp lý
nhất và tạo tiền đề để phát huy giá trị di tích một cách hiệu quả nhất.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phố Hiến đã từ lâu đi vào lịch sử Việt Nam cũng như tâm thức dân gian với
câu ca quen thuộc “Thứ nhất kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”. Những cơng trình đầu
tiên có ghi chép về Phố Hiến là các bộ sử liệu biên niên được các triều đình
phong kiến biên soạn như Đại Việt sử ký toàn thư, Việt sử Thông giám cương
mục…Tuy nhiên, những ghi chép này rất sơ lược, chủ yếu chỉ phản ánh chính
sách của chính quyền chúa Trịnh đối với thương thuyền nước ngồi, ghi chú về

việc chúa Trịnh cho phép các thương nhân Hoa kiều, Nhật Bản và phương Tây
lưu trú và lập hội quán, thương điếm tại Phố Hiến.
Dưới triều Nguyễn, Phố Hiến được ghi chép chi tiết hơn trong nhiều bộ địa
chí lớn. Phan Huy Chú trong phần Dư địa chí của bộ bách khoa thư Lịch triều
hiến chương loại chí có mơ tả về địa thế của Phố Hiến trong phần ghi chú về
phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam. Mặc dù còn rất sơ lược song Phan Huy Chú đã
cho biết một chi tiết quan trọng là vùng Phố Hiến – bãi Xích Đằng là địa bàn
then khóa, kho lưu trữ của các đời và ghi chú về các sở đánh thuế tuần ty trên
sơng Xích Đằng (đoạn sơng Hồng chảy qua Phố Hiến).
Đại Nam nhất thống chí phần viết về tỉnh Hưng Yên cũng có ghi chép Phố
Hiến là nơi đặt trị sở cũ của trấn Sơn Nam. Các bến đị ngang, đị dọc trên đoạn
sơng Hồng chảy qua Phố Hiến cũng được liệt kê tỉ mỉ cùng với hệ thống chợ tại
Phố Hiến và các khu vực xung quanh. Những chi tiết trên sẽ góp phần giúp
người nghiên cứu hình dung về một Phố Hiến xưa với hoạt động của các sở thu
thuế, hệ thống chợ buôn bán và phương thức vận chuyển hàng hóa. Đồng thời,

4


thơng tin ghi chép trong bộ địa chí này cũng là sử liệu trực tiếp để nghiên cứu và
lịch sử vùng đất Hưng Yên thế kỷ XIX – giai đoạn hậu Phố Hiến.
Thành tỉnh Hưng Yên – Hưng Thành xây dựng đời Minh Mạng cũng được
mô tả trong Đại Nam nhất thống chí cùng với bản liệt kê chợ, phố, cầu, bến,
đường đê, một số di tích tiêu biểu và địa điểm đặt lỵ sở các huyện Kim Động,
Tiên Lữ. Đây là sử liệu quan trọng để hình dung về diện mạo của đơ thị hậu Phố
Hiến, từ đó nhận định về sự suy tàn của thương cảng Phố Hiến, so sánh để thấy
sự chuyển biến của Phố Hiến từ một đơ thị thương cảng sang một đơ thị hành
chính vào thế kỷ XIX.
Cuối XIX, đầu XX, nhiều bộ địa chí chuyên khảo về Hưng Yên đã ra đời.
Đáng kể tới là các bộ địa chí Đồng Khánh ngự lãm địa dư chí lược, phần Hưng

Yên tỉnh (Quốc sử quán triều Nguyễn); Hưng Yên tỉnh nhất thống chí, Tỉnh
Hưng Yên – La Pronvince de Hungyen (Tiếng Pháp, khuyết danh); Hưng Yên
địa chí (Trịnh Như Tấu). Các bộ địa chí này ngồi thơng tin về một số di tích
tiêu biểu của Phố Hiến cịn ghi chép một số cổ tích dân gian có liên quan đến
lịch sử vùng đất này giai đoạn Phố Hiến và giai đoạn hậu Phố Hiến. Thành tỉnh
Hưng n và các phố, phường hành chính của đơ thị Hưng Yên nửa cuối XIX,
đầu XX cũng được liệt kê cùng với hệ thống chợ và bến đò ngang, đị dọc sơng
Hồng.
Tất cả những cơng trình trên mới chỉ dừng lại ở việc ghi chép về Phố Hiến
trên một số mặt với tư cách là những sử liệu quan trọng chứ chưa phải là những
cơng trình nghiên cứu về Phố Hiến.
Cơng trình mang tính chất nghiên cứu đầu tiên về Phố Hiến phải kể đến Les
comptoirs hollandais de Pho Hien ou Pho Khach, pres Hung Yen au XVII
siecle, BHDG 1895 (Thương điếm Hà Lan ở Phố Hiến hoặc Phố Khách vào thế
kỷ XVII) của học giả người Pháp G. Dumoutier. Ơng đã đưa ra quan điểm về
thời điểm hình thành Phố Hiến gắn với sự thành lập thương điếm Hà Lan tại đây
và đã xác định được chính xác vị trí của Phố Hiến trên thực địa. Năm 1906, A.
Shreiner - một học giả phương Tây cũng đề cập đến Phố Hiến trong tác phẩm
Abrégé de l’s histoire d’ Annam (Lược sử An Nam). Năm 1939, học giả Kim
Vĩnh Kiện (Triều Tiên) cũng đã hoàn thành một chuyên khảo về Phố Hiến với
5


tên gọi Về Phố Khách ở Hưng Yên xứ Bắc Kỳ thuộc Đông Pháp (Tokyo 1939).
Khác với G. Dumoutier, Kim Vĩnh Kiện lại cho rằng niên đại hình thành Phố
Hiến liên quan đến chính sách dồn dân Hoa kiều của chúa Trịnh.
Nhìn chung, các tác giả trên đều khơng nhìn Phố Hiến như một đô thị của
người bản địa. Họ đều cho rằng Phố Hiến là một đô thị kinh tế của thương nhân
ngoại quốc, được hình thành và phát triển gắn liền với cộng đồng người Hoa và
sự xuất hiện của thương điếm Hà Lan năm 1637. Ngoài ra, Phố Hiến cũng được

đề cập đến rải rác trong bài viết về quan hệ buôn bán giữa phương Tây và Đàng
Ngoài của các tác giả P.Villai, Ch.Maybon, W.J.Buch. Trong các cơng trình
này, Phố Hiến được gọi bằng các tên gọi khác nhau như Hean, Heen, Hiên Nội,
Hiến Nam hay Vạn Lai Triều. Vị trí, diện mạo của đơ thị này cũng được phác
dựng.
Những thập kỷ cuối thế kỷ XX, Phố Hiến được các học giả quan tâm nghiên
cứu nhiều hơn. Phố Hiến đã được nhắc đến và đánh giá trong những cơng trình
nghiên cứu về ngoại thương Việt Nam như Ngoại thương Việt Nam thế kỷ XVII,
XVIII, đầu XIX (Thành Thế Vỹ, Hà Nội, 1961), Tình hình cơng thương nghiệp
Việt Nam trong thời Lê Mạt (Vương Hoàng Tuyên, Hà Nội, 1959) cũng như các
cơng trình nghiên cứu về đơ thị Việt Nam như Đô thị cổ Việt Nam (Viện sử học,
Hà Nội, 1989).
Bên cạnh những nghiên cứu về Phố Hiến thông qua khảo cứu nguồn thư tịch
và văn bia, nhằm tiến tới hiểu biết toàn diện và sâu sắc hơn nữa về Phố Hiến,
công tác điều tra và khai quật khảo cổ học cũng đã bước đầu được tiến hành.
Năm 1968, trường Đại học Sư phạm I đã hai lần đào thám sát khu thương điếm
ngoại quốc ở Hiến Hạ. Tiếp theo, năm 1989, khai quật khảo cổ học tại khu Văn
Miếu Xích Đằng đã phát hiện phế tích lị gốm và chồng bát kết dính có niên đại
thế kỷ XVII, cho thấy khu vực này là nơi sản xuất gốm thủ công của thương
cảng Phố Hiến khi xưa.
Năm 1992, trước thềm Hội thảo khoa học về Phố Hiến, Sở Văn hóa Thơng
tin Hải Hưng đã đào thám sát và tiến hành khai quật một số hố. Kết quả đã phát
hiện được một số dấu tích lị gốm, nền kiến trúc cổ, gạch ngói, gốm sứ Việt
Nam và nước ngồi có khung niên đại thế kỷ XVII-XVIII. Đặc biệt, kết quả
6


khai quật cịn thu được những di vật có niên đại sớm hơn như mảnh gốm Trần
(thế kỷ XIII-XIV), chân đèn Mạc (thế kỷ XVI)…Những di vật này cho phép
hình dung phần nào về lịch sử của vùng đất này giai đoạn tiền Phố Hiến. Ngoài

ra, cũng trong năm này, Bảo tàng tỉnh Hải Hưng kết hợp với một số nhà khoa
học đã tiến hành đợt điều tra tổng thể di sản văn hoá vật thể khu vực Thị xã
Hưng Yên lần đầu tiên. Kết quả là đã thống kê được 60 di tích trên địa bàn thị
xã, trong đó có 24 đền miếu, 1 hội quán, 17 chùa, 1 nhà thờ thiên chúa giáo, 10
đình, 1 nhà dịng, 2 nhà thờ họ, 1 nghĩa địa người nước ngoài, 1 văn miếu, 1 võ
miếu, 1 chợ [69, 89].
Năm 1990, hội thảo khoa học về đô thị cổ Hội An được tổ chức với sự tham
gia của đông đảo học giả, các nhà nghiên cứu trong nước và quốc tế. Bên cạnh
những nghiên cứu chuyên sâu về Hội An, Phố Hiến cũng được đề cập đến trong
các tham luận nghiên cứu về quan hệ thông thương giữa Hội An với các địa
phương trong nước cũng như vị trí của các cảng thị ven biển Đông Nam Á trong
lịch sử.
Năm 1992, một hội thảo khoa học quy mô về Phố Hiến lần đầu tiên được tổ
chức tại thị xã Hưng Yên. Hội thảo đã quy tụ đông đảo các giáo sư, tiến sĩ, nhà
khoa học thuộc nhiều lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn của các trung tâm
nghiên cứu và giảng dạy trong nước và quốc tế. Sự ra đời của Phố Hiến, cơ sở
kinh tế - xã hội, kết cấu dân cư, đời sống văn hóa cũng như quan hệ thơng
thương của Phố Hiến với trong và ngồi nước, vấn đề sự hưng thịnh, suy tàn của
Phố Hiến và việc bảo tồn, tôn tạo QTDT Phố Hiến…đều được thảo luận. Cho
đến nay, đây vẫn là cơng trình nghiên cứu chi tiết nhất, quy mơ nhất, tồn diện
nhất về lịch sử đô thị Phố Hiến.
Sau hội thảo, năm 1998, nhằm phục vụ cơng tác giới thiệu, quảng bá hình
ảnh Phố Hiến, giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ Hưng n, Sở Văn
hóa Thơng tin Hưng n kết hợp với Hội văn học Nghệ thuật Hưng Yên đã xuất
bản cơng trình Phố Hiến – lịch sử văn hóa. Với bản in màu đẹp, đây là cơng
trình đầu tiên đem đến cho độc giả trực quan sinh động về các di tích tiêu biểu
của Phố Hiến. Di tích và danh thắng tiêu biểu của Phố Hiến một lần nữa được
tập hợp và giới thiệu trong cuốn sách Những danh thắng tiêu biểu của Phố Hiến
7



của tác giả Lâm Hải Ngọc (HY, 2005). Tuy nhiên, các tuyển tập này mới chỉ
dừng lại ở việc giới thiệu những di tích tiêu biểu nhất của Phố Hiến chứ chưa
đem đến cho độc giả cái nhìn tổng quan về toàn bộ QTDT Phố Hiến với những
đặc trưng riêng độc đáo của nó.
Ngồi những cơng trình nghiên cứu, sưu tầm, khảo sát được đề cập đến ở
trên, Phố Hiến còn là chủ đề được quan tâm với nhiều bài viết, chuyên khảo
đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành lịch sử văn hoá. Năm 1968, đề tài Phố
Hiến lần đầu tiên được đề cập đến trên tạp chí đầu ngành của sử học Việt Nam –
Nghiên cứu lịch sử - với bài viết “Bước đầu tìm hiểu về Phố Hiến” của hai tác
giả Trương Hữu Quýnh và Đặng Huyền Chi. Cịn trên tạp chí Xưa và Nay, đáng
chú ý là ba bài viết của các tác giả Tôn Nữ Quỳnh Trân (1996) – “Người Pháp
tại PH”, Hoàng Kim Đáng (1999) – “Phố Hiến qua một tấm bản đồ cổ”,
Nguyễn Văn Chiến (2005) – “Thương điếm Hà Lan ở Phố Hiến”. Các bài viết
trên đã phần nào làm rõ nét hơn về cơ cấu dân cư, vị trí các phường xã, thương
điếm trong cơ cấu đô thị của thương cảng Phố Hiến.
Tạp chí Văn hố Nghệ thuật cũng đăng tải một số chuyên khảo về Phố Hiến.
Đáng chú ý là hai bài viết của tác giả Trần Quốc Vượng (2001) với “Sông Nhị
Hồng với Hưng Yên - một tiếp cận địa văn hoá” và tác giả Nguyễn Quang Ngọc
(2001) với “Sơng Đàng Ngồi với vị thế Phố Hiến xưa”. Trong khi giáo sư
Trần Quốc Vượng làm sáng tỏ phần nào vị thế của vùng đất Phố Hiến – Hưng
Yên dựa trên những nghiên cứu tiếp cận từ khía cạnh địa văn hố thì giáo sư
Nguyễn Quang Ngọc lại đặt Phố Hiến trong mối tương quan với tuyến sơng
Đàng Ngồi. Đây cũng là chuyên khảo đầu tiên chỉ ra mối quan hệ hữu cơ giữa
Phố Hiến với hai cảng thị cũng nằm trên tuyến sông này là Thăng Long và
Domea (thuộc Hải Phòng ngày nay).
Với việc tiếp cận được một số bản đồ cổ được vẽ bởi các nhà du hành
phương Tây đã từng đến Đàng Ngoài trong thế kỷ XVI, XVII và nguồn tư liệu
lưu trữ của công ty Đông Ấn VOC tại Hà Lan, nghiên cứu về thương mại Đàng
Ngoài thế kỷ XVII đã đạt được những thành tựu mới. Liên tục trong ba năm

2005 – 2008, hàng loạt bài viết của nhóm tác giả Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn
Văn Kim, Đỗ Thuỳ Lan, Hoàng Anh Tuấn liên tục xuất hiện trên tạp chí Nghiên
8


cứu lịch sử. Với những chuyên khảo “Vùng cửa sông Đàng Ngồi thế kỷ XVIXVII” (Đỗ Thùy Lan, 2005); “Cơng ty Đơng Ấn Hà Lan ở Đàng Ngồi” (2005),
“Kế hoạch Đông Á và sự thất bại của Công ty Đông Ấn Anh ở Đàng Ngoài thế
kỷ XVII qua tư liệu phương Tây” (2005), “Mậu dịch tơ lụa của công ty Đơng
Ấn Hà Lan với Đàng Ngồi 1637-1670” (2006), “Hải cảng miền Đơng Bắc và
hệ thống thương mại Đàng Ngồi thế kỷ XVII qua các nguồn tư liệu phương
Tây” (2007) của tác giả Hoàng Anh Tuấn và các bài viết “Vị trí của Phố Hiến
và Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVI-XVIII” (Nguyễn
Văn Kim, 2007), “Domea trong hệ thống thương mại Đàng Ngoài thế kỷ XVII,
XVIII” (Nguyễn Quang Ngọc, 2007), bức tranh toàn cảnh về thương mại Đàng
Ngoài được phục dựng khá rõ nét. Hệ thống tuyến giao thương và vị trí của từng
thương cảng cũng như mối quan hệ bn bán giữa Đàng Ngồi với Anh, đặc
biệt là với Hà Lan được các tác giả khảo cứu tỉ mỉ. Trong đó, vị thế của Phố
Hiến được làm sáng tỏ hơn trên từng chức năng tuần ty thu thuế, kiểm soát cũng
như chức năng thương mại của nó. Tuy nhiên, từ những nguồn tư liệu phương
Tây, các tác giả nhận định về vai trò của Phố Hiến với nhiều quan điểm chưa
thống nhất với nhau. Mặc dù vậy, những chuyên khảo này đã góp phần đem đến
những hiểu biết xác đáng, toàn diện và khách quan hơn về vị thế của Phố Hiến
trong toàn cảnh thương mại Đàng Ngồi.
Năm 2004, Phịng Văn hóa Thơng tin Thị xã Hưng Yên đã tiến hành kiểm kê
và biên soạn tập tài liệu QTDT Phố Hiến – Thị xã Hưng Yên. Tuy nhiên đây vẫn
chỉ là một bản thống kê di tích cịn chưa đầy đủ, chưa đem đến nhận thức chung
về vẻ đẹp, tính hệ thống và giá trị của QTDT lịch sử văn hóa trên địa bàn 12
phường của thị xã.
Điểm qua lịch sử nghiên cứu vấn đề, có thể thấy rõ Phố Hiến - Hưng Yên là
một vùng đất trọng tâm được các học giả nghiên cứu từ rất sớm. Tuy nhiên, do

hạn chế về tư liệu, nhiều vấn đề cịn chưa có điều kiện làm sáng tỏ, đặc biệt là
lịch sử vùng đất này giai đoạn tiền và hậu Phố Hiến. Về mặt di tích đã có tổng
kiểm kê di tích song vẫn chưa đầy đủ và chưa làm sáng tỏ tính hệ thống cũng
như giá trị của di tích.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
9


Đề tài tiến hành nghiên cứu trên địa bàn thị xã Hưng Yên bao gồm 12
phường xã, đồng thời mở rộng phạm vi khảo sát thực địa sang bờ hữu ngạn sông
Hồng đối diện với Phố Hiến thuộc đất Duy Tiên (Hà Nam) và vùng ngã ba cửa
Luộc thuộc Lý Nhân (Hà Nam) và Hưng Nhân (Thái Bình). Nhằm tìm mối liên
hệ và làm sáng tỏ vị trí của các bến đị và hệ thống di tích dọc sơng Hồng, sông
Luộc, địa bàn khảo sát thực địa cũng được mở rộng sang các huyện Kim Động
và Tiên Lữ của tỉnh Hưng Yên.
Luận văn được tiến hành dựa trên kết quả tổng kiểm kê di tích và hệ thống
hồ sơ di tích của Bảo tàng tỉnh Hưng n, Phịng Văn hố Thông tin thị xã
Hưng Yên kết hợp với việc kế thừa thành quả nghiên cứu trực tiếp của Hội thảo
khoa học năm 1992. Đặc biệt, nguồn tư liệu đóng vai trị chủ yếu để hình thành
nên các luận điểm khoa học trong luận văn là tư liệu dân gian dựa trên kết quả
tập hợp, thống kê, điều tra điền dã của tác giả qua các đợt khảo sát thực địa
trong năm 2008.
Luận văn mong muốn đem đến cái nhìn tồn diện về QTDT lịch sử văn hóa
Phố Hiến với các loại hình di tích đa dạng, phong cách kiến trúc độc đáo. Trên
cơ sở thống kê, phân loại, luận văn tập trung tìm hiểu và phân tích đặc điểm,
mối quan hệ giữa các di tích. Qua đó, phác dựng diện mạo đô thị Phố Hiến theo
từng thời kỳ lịch sử, làm rõ nét hơn tiến trình lịch sử của vùng đất này không chỉ
trong giai đoạn hưng thịnh của thương cảng Phố Hiến thế kỷ XVII – XVIII mà
còn phác dựng lịch sử giai đoạn tiền Phố Hiến và hậu Phố Hiến.
Đồng thời, chúng tôi cũng mong muốn dựa trên những kết quả nghiên cứu

về bức tranh toàn cảnh của QTDT trong tương quan các điều kiện tự nhiên, xã
hội sẽ cung cấp thêm hiểu biết để các nhà quy hoạch, quản lý văn hoá đề ra các
biện pháp bảo tồn, giữ gìn hệ thống di tích này một cách hiệu quả trong quy
hoạch thành phố tương lai.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Qua nghiên cứu QTDT lịch sử - văn hóa, góp phần phác dựng lại diện mạo
đơ thị Phố Hiến cũng như tiến trình phát triển của Phố Hiến - Hưng Yên trong
lịch sử.

10


Luận văn tiến hành theo phương pháp liên ngành, nghiên cứu QTDT lịch sử
- văn hóa trong mối quan hệ tổng thể với các điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội,
nghiên cứu di tích khơng tách rời khỏi các đặc trưng văn hóa dân gian của vùng.
Từ đó, chúng tôi Hưng Yên vọng đưa ra những giả thiết tổng hợp dựa trên
những luận cứ khoa học về các giai đoạn phát triển của Hưng Yên – Phố Hiến,
đồng thời góp phần đề ra, kiến nghị về phương pháp bảo tồn, phát huy giá trị di
tích trong bối cảnh thị xã Hưng Yên chuyển mình thành thành phố tương lai.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của các ngành khoa học
lịch sử, văn hoá, bảo tồn, bảo tàng: Phương pháp lịch sử, phương pháp logic,
phương pháp phỏng vấn, khảo sát thực địa, phương pháp so sánh, phân tích, đối
chiếu, thống kê, tổng hợp…
Ngoài những phương pháp truyền thống và cơ bản trên, cần thiết phải sử
dụng phương pháp liên ngành, khu vực học trong nghiên cứu đề tài này bởi:
Di tích lịch sử văn hố khơng tồn tại một cách tự thân, tự phát mà nó ra đời,
phát triển và được bảo tồn trên cơ sở tổng hoà các điều kiện tự nhiên, lịch sử, tín
ngưỡng, văn hố trong một thời kỳ nhất định hoặc trong cả một chuỗi các giai
đoạn phát triển của lịch sử đất nước nói chung và địa phương nói riêng. Vì vậy,

để hiểu về bản thân từng di tích, chúng ta phải nghiên cứu theo hướng tiếp cận
tổng thể, tránh tách biệt di tích với tổng thể những điều kiện mà trên đó di tích
đã được hình thành và phát triển.
Nghiên cứu về cả một QTDT lịch sử, càng cần thiết phải tiếp cận theo hướng
tổng thể bởi đây là phương thức tốt nhất và hiệu quả nhất giúp nhà nghiên cứu
có được cái nhìn tồn cảnh, hệ thống để trên cơ sở đó, phân loại và đánh giá
được chính xác giá trị của từng di tích và cụm di tích.
Phương án bảo tồn và phát huy đầy đủ giá trị của di tích lịch sử văn hố chỉ
khả thi khi nó được đề ra trên cơ sở nghiên cứu tổng thể các điều kiện, định
hướng kinh tế xã hội hiện nay của địa bàn – nơi di tích tồn tại, đảm bảo sự
tương quan hài hồ giữa cái cũ và cái mới, giữa vấn đề bảo tồn vốn cổ và định
hướng phát triển. Để bảo tồn di tích, cần thiết phải có sự phối kết hợp chặt chẽ
giữa các nhà nghiên cứu văn hoá, lịch sử, bảo tàng với các nhà kinh tế học, xã
11


hội học, địa lý học…và các cấp chính quyền quản lý và hoạch định chiến lược
phát triển của từng địa phương. Do vậy, trong quá trình làm luận văn, chúng tơi
đã hệ thống hóa tư liệu theo phương thức tổng hợp liên ngành để phân tích các
vấn đề được đặt ra trong luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Tập hợp, hệ thống, loại hình hóa di tích khu vực Phố Hiến – Hưng Yên.
- Bổ sung, làm đầy đặn hơn hệ thống tư liệu về di tích lịch sử văn hóa Phố
Hiến - Hưng Yên.
- Làm rõ sự tương tác giữa điều kiện tự nhiên và lịch sử - xã hội tác động tới
QTDT.
- Tiếp cận nghiên cứu QTDT nhằm khơi phục lại phần nào q trình hình
thành, thay đổi, phát triển của vùng đất Phố Hiến - Hưng Yên qua các thời
kỳ lịch sử.
- Luận văn góp phần tăng thêm cứ liệu cho công tác bảo tồn, tôn tạo di tích

trong giai đoạn thị xã Hưng Yên chuẩn bị trở thành thành phố trực thuộc tỉnh
trong tương lai.
7. Các nguồn tƣ liệu
Nguồn tư liệu ghi chép, khảo sát về Phố Hiến - Hưng Yên không nhiều. Do
vậy, để giải quyết những yêu cầu đặt ra trong luận văn, chúng tôi cố gắng khai
thác tối đa các nguồn sử liệu gốc như thư tịch cổ, ghi chép của các tác giả trong
và ngoài nước, đồng thời sử dụng những tư liệu thống kê, khảo sát, đo vẽ, bản
ảnh di tích đã được các cơ quan văn hóa trên địa bàn thị xã tiến hành tập hợp
trong nhiều năm. Một nguồn tư liệu khác được khai thác và có vai trị quan
trọng để tiến hành nghiên cứu luận văn chính là tư liệu dân gian , tư liệu hồi cố,
bản ảnh di tích…do tác giả luận văn trực tiếp thực hiện qua các đợt khảo sát
thực địa tiến hành trong năm 2008.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, luận văn được chia thành 3
chương chính như sau:
Chƣơng 1: Đặc điểm tự nhiên, xã hội vùng Phố Hiến - Hƣng Yên. (40
trang)
12


Luận văn tập trung phân tích những đặc điểm về diên cách, vị trí địa lý, điều
kiện tự nhiên và những điều kiện lịch sử - cư dân - văn hóa tác động tới sự hình
thành, phát triển của QTDT Phố Hiến – Hưng Yên. Đặc biệt, luận văn tập trung
phân tích, tổng hợp những nguồn tư liệu khai thác trên thực địa để phác dựng lại
sự đổi dòng của sơng Hồng, qua đó phân tích vai trị của dịng sông này đối với
sự tồn tại, phát triển của hệ thống di tích tại Phố Hiến - Hưng Yên.
Qua phân tích những đặc điểm về điều kiện tự nhiên và xã hội, có thể nhận
định rõ nét một vùng Phố Hiến - Hưng Yên với nhiều nét riêng biệt – một khu
vực mang tính “đặc thù”. Trên tổng quan của những yếu tố đó, di tích tại khu
vực này cũng mang nhiều nét riêng biệt.

Chƣơng 2: QTDT lịch sử văn hóa Phố Hiến - Hƣng Yên: Lịch sử và thực
trạng (40 trang)
Trong chương 2, luận văn tập trung tái hiện về quá trình hình thành QTDT
qua các thời kỳ lịch sử. Trên cơ sở đó, làm sáng tỏ đặc điểm phát triển di tích
từng thời kỳ, phân tích mối quan hệ giữa diễn tiến lịch sử vùng đất và quá trình
hình thành di tích.
Một nội dung quan trọng trong chương này là tác giả đã cố gắng loại hình
hóa hệ thống di tích Phố Hiến - Hưng Yên. Khu vực này hiện cịn tới 134 di tích
bao gồm nhiều loại hình đa dạng. Do đó, việc phân loại di tích là vô cùng cần
thiết. Công việc này không chỉ giúp nhận định chính xác hơn về giá trị của từng
di tích, cụm di tích mà cịn làm sáng tỏ diện mạo đời sống văn hóa – tín ngưỡng
của cộng đồng cư dân khu vực này. Hơn nữa, việc loại hình hóa di tích sẽ là cơ
sở quan trọng để tác giả luận văn đánh giá tính hệ thống, mối quan hệ giữa các
di tích cũng như rút ra những nhận xét quan trọng về đặc điểm của QTDT tại
đây. Từ những phân tích trên, một kết luận quan trọng được rút ra đó là 134 di
tích tồn tại trên khu vực Phố Hiến - Hưng Yên không phải là những di tích rời
rạc, riêng lẻ mà chúng thực sự tạo thành một hệ thống, một quần thể với mối
quan hệ, gắn bó mật thiết. Do đó, giá trị chung của toàn bộ QTDT được nâng
cao hơn, là một nhân tố quan trọng để các nhà quy hoạch du lịch căn cứ vào đó
vạch ra những chiến lược phát huy giá trị di tích một cách hợp lý, hiệu quả.

13


Chƣơng 3: Lịch sử Phố Hiến - Hƣng Yên qua hệ thống di tích lịch sử
văn hố (47 trang)
Luận văn phác dựng lại phần nào về diễn tiến lịch sử miền đất Phố Hiến Hưng Yên trên cơ sở tổng hợp các nguồn tư liệu khai thác tại di tích và xung
quanh di tích. Lấy thời kỳ Phố Hiến – giai đoạn phát triển vàng son nhất của
vùng đất này làm mốc phân chia, lịch sử Phố Hiến - Hưng Yên được tác giả chia
làm 3 thời kỳ: tiền Phố Hiến, Phố Hiến, hậu Phố Hiến.

Trong giai đoạn tiền Phố Hiến, vị trí trọng yếu của vùng đất này về quân sự
được thể hiện rõ qua những sự kiện lịch sử quan trọng đã diễn ra tại đây trong
các thời kỳ: khởi nghĩa Hai Bà Trưng, loạn 12 sứ quân và kháng chiến chống
quân Tống xâm lược năm 981, kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên
Mông lần thứ 2.
Giai đoạn phát triển của thương cảng Phố Hiến, vùng đất này nổi bật với vị
thế quan trọng trong hệ thống giao thương của Đàng Ngoài. Những điều kiện
thuận lợi trong và ngoài nước đã đưa Phố Hiến trở thành một thương cảng sầm
uất nhất của Đàng Ngoài trong các thế kỷ XVI – XVII. Trong thời kỳ này, Phố
Hiến còn là địa bàn quan trọng trên hành trình truyền bá đạo Thiên Chúa vào
Đàng Ngồi. Tại đây đã diễn ra “Cơng đồng” đầu tiên của Công giáo Việt Nam
– Công đồng Dinh Hiến - cũng như lễ phong linh mục người Việt đầu tiên.
Sau thời kỳ Phố Hiến, vùng đất này dần bị nơng thơn hóa trở lại. Thế kỷ
XIX, việc triều Nguyễn đặt tỉnh lỵ của toàn tỉnh Hưng Yên tại đây cũng không
thể khôi phục lại được diện mạo đơ thị huy hồng của thương cảng khi trước. Sự
suy tàn của nhân tố kinh tế đã biến Phố Hiến từ một đô thị kinh tế thế kỷ XVI –
nửa đầu XVIII trở thành một đơ thị hành chính – chính trị vào thế kỷ XIX.

14


CHƢƠNG 1
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN, XÃ HỘI VÙNG PHỐ HIẾN – HƢNG YÊN
----------***-----------***----------DIÊN CÁCH, VỊ TRÍ ĐỊA LÝ VÙNG PHỐ HIẾN – HƢNG YÊN
Diên cách
Phố Hiến xưa - Thị xã Hưng Yên ngày nay là tỉnh lỵ của tỉnh Hưng Yên,
nằm cách thủ đô Hà Nội hơn 60 km theo hướng Đơng Bắc, ở vào vị trí gần
trung tâm điểm châu thổ Bắc Bộ.
Cũng như mọi vùng miền khác trên châu thổ Bắc Bộ, vùng Phố Hiến Hưng Yên “là miền đất được giành giật từ biển do sức lao động bồi đắp cần cù
và nhẫn nại của sông Hồng qua hàng triệu năm” [148,111]. Theo kết quả nghiên

cứu mới nhất của các nhà địa chất thì châu thổ Bắc Bộ thực sự hình thành cách
đây khoảng 30.000 năm, “đó là kết quả của các quá trình địa chất cửa sông xảy
ra theo các chu kỳ cơ bản trong một chu kỳ kiến tạo thống nhất từ Pleistoxen
sớm đến Holoxen muộn (cách đây khoảng 3000 năm) [72,43]. Trên diễn trình
thời gian đó, một châu thổ thống nhất có dạng tam giác cân rộng lớn đã được
kiến lập với các thế hệ đồng bằng và châu thổ chồng gối lên nhau: “đồng bằng
Vĩnh Phúc (Pleistoxen muộn) bị đồng bằng – vũng vịnh Hải Hưng tuổi Holoxen
sớm - giữa (cách đây 6000 – 4000 năm) phủ lên hơn một nửa diện tích phía
đơng của đồng bằng. Ranh giới phía Tây có hình cánh cung chạy từ Hà Đơng
qua Bắc Ninh rồi vịng về Quảng Ninh, cả hai đồng bằng này lại bị phủ bởi
đồng bằng Thái Bình bắt đầu từ Holoxen muộn”[73,43]. Như vậy, đồng bằng
Bắc Bộ như một tam giác cân tiến dần ra phía biển, đỉnh thành tạo thứ nhất của
nó chính là Việt Trì (Phú Thọ), ngã ba sơng Hồng – sông Đuống (Dâu Canh) là
đỉnh thứ hai và vùng Phố Hiến - Hưng Yên chính là đỉnh thứ ba [190,480]
Như vậy, có thể thấy rằng Phố Hiến – Hưng Yên là vùng đất rất cổ xưa, nó
đã được hình thành từ trước khi có những cuộc khai phá đồng bằng châu thổ đầu
tiên của người Việt cổ. Vì vậy mà lịch sử vùng đất này cũng được bắt đầu từ rất
sớm.

15


Đời Hùng Vương, Phố Hiến – Hưng Yên thuộc bộ Giao Chỉ. Trong hơn
một nghìn năm Bắc thuộc (179 TCN-938), quận huyện nước ta nhiều lần bị
chính quyền đơ hộ thay đổi. Theo đó, diên cách vùng Phố Hiến - Hưng Yên
cũng có sự thay đổi theo. Thời thuộc Triệu và thuộc Hán, vùng Phố Hiến - Hưng
Yên ở vào đất huyện An Định, quận Giao Chỉ. Sang thời Tam Quốc và Lưỡng
Tấn, nhiều huyện bị cắt đất để lập thêm các huyện mới, huyện An Định thu hẹp
lại, trong khi đó huyện Chu Diên “khơng cịn là đất huyện Chu Diên đời Hán
nữa, tức là nó khơng phải ở lưu vực sông Đáy nữa mà ở về tả ngạn sơng Hồng”

[1,86]. Theo đó, Phố Hiến - Hưng n chuyển từ đất An Định sang thuộc đất
Chu Diên, quận Giao Chỉ. “Từ đời Ngô đến đời Tuỳ, huyện Chu Diên khơng
thay đổi vị trí một lần thứ hai nữa” [1,86]. Sang thế kỷ VII, nhà Đường đổi quận
Giao Chỉ thành An Nam đơ hội phủ, gồm 8 huyện, trong đó có huyện Chu Diên
(hay Diên Châu). “Diên Châu hay huyện Chu Diên đời Đường gồm cả đất Tiên
Lữ ở tả ngạn sơng Hồng, như thế thì cũng khơng khác gì Chu Diên đời Lương”
[1,97]. Như vậy, từ thế kỷ III cho đến khi Ngô Quyền chiến thắng quân Nam
Hán mở đầu kỷ nguyên độc lập tự chủ lâu dài cho dân tộc ta, diên cách miền
Phố Hiến - Hưng Yên không thay đổi, đều lệ thuộc vào đất huyện Chu Diên,
quận Giao Chỉ hay An Nam đô hộ phủ (đời Đường).
Thế kỷ X, miền đất này có tên gọi là Đằng Châu - địa bàn cát cứ của sứ
quân Phạm Bạch Hổ. Năm 1005, vua Lê Long Đĩnh đổi Đằng Châu thành phủ
Thái Bình. Năm 1010, sau khi lên ngơi hoàng đế, vua Lý Thái Tổ chia cả nước
thành 24 lộ, miền Hưng Yên ngày nay thuộc vào lộ Khoái. Song bên cạnh đó,
tên gọi châu Đằng vẫn được nhắc đến với tư cách là khu vực hành chính nhỏ
ngang với địa vị các huyện và vẫn lệ thuộc vào các châu lộ [1,121]. Như vậy,
đời Lý, miền Phố Hiến - Hưng Yên chính là đất châu Đằng thuộc lộ Khoái.
Sang thời Trần, năm 1249, cả nước được chia thành 12 lộ, miền đất này lại
thuộc về huyện Vĩnh Động, lộ Khoái Châu (hay Khoái Lộ). Đầu thế kỷ XV, nhà
Minh xâm lược và đô hộ nước ta. Về địa lý hành chính, nước ta bị đổi đặt làm
quận Giao Chỉ và đặt các châu huyện lệ thuộc vào 15 phủ và 5 châu lớn. Lộ
Khoái Châu và phủ lộ Long Hưng đời Trần gộp lại thành phủ Trấn Man. Theo
đó, Phố Hiến - Hưng Yên lệ thuộc vào phủ Trấn Man, quận Giao Chỉ. Sau khi
16


Lê Lợi đánh đuổi quân Minh xâm lược và khôi phục nền độc lập dân tộc, cả
nước được chia làm 5 đạo. Hưng Yên thuộc về Nam Đạo. Đến năm 1466, Lê
Thánh Tông chia cả nước thành 12 đạo thừa tuyên, Hưng Yên thuộc thừa tuyên
Thiên Trường. Năm 1469 đổi gọi là Sơn Nam. Phố Hiến - Hưng Yên đổi thuộc

vào huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, thừa tuyên Sơn Nam, sau thuộc vào
Sơn Nam Thượng từ năm Cảnh Hưng thứ 2 (1741). Đến năm 1802, Gia Long
lấy hai trấn Sơn Nam Thượng và Sơn Nam Hạ lệ vào Bắc Thành.
Năm 1831, Minh Mệnh chia lại địa giới các trấn, phủ, đặt thành 18 tỉnh.
Tỉnh Hưng Yên được thành lập thống trị 2 phủ với 8 huyện. Vùng Phố Hiến Hưng Yên vẫn thuộc về đất huyện Kim Động, phủ Khoái Châu.
Tháng 8 năm 1946, thị xã Hưng Yên được thành lập. Vùng đất này chính
thức tách khỏi huyện Kim Động về mặt địa giới hành chính. Khi đó, thị xã được
chia thành hai khu phố Đẩu Lĩnh và Đằng Giang. Sau một thời gian sát nhập với
tỉnh Hải Dương thành tỉnh Hải Hưng, năm 1997, tỉnh Hưng Yên được tái lập, thị
xã Hưng Yên trở thành tỉnh lỵ và là một trong 6 đơn vị hành chính cấp huyện,
thị của tỉnh. Hiện nay, thị xã Hưng Yên có tổng diện tích tự nhiên là 46,8 km2,
số dân thường trú là 7,6 vạn dân, bao gồm 12 đơn vị hành chính:
Bảng 1.1: Diện tích, dân số các đơn vị hành chính trực thuộc thị xã Hƣng
Yên
(Nguồn: Bản đồ thị xã Hưng Yên 2004)
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10

Tên đơn vị
hành chính


Diện tích
(ha)

Dân số
(ngƣời)

782,42
322,56
351,56
94,20
44,58

6528
8444
5338
6440
8141

Mật độ
(ngƣời/
km2)
858
2618
1518
6837
18262

223,19
216,61
397,82

514,12
534,00

5411
3252
5892
8913
6676

2424
1501
1431
1734
1250

Phường Lam Sơn
Phường An Tảo
Phường Hiến Nam
Phường Lê Lợi
Phường
Quang
Trung
Phường Minh Khai
Phường Hồng Châu
Xã Bảo Khê
Xã Trung Nghĩa
Xã Liên Phương

17



11
12

Xã Hồng Nam
Xã Quảng Châu
Tồn thị xã

382,00
830,30
4653,36

4034
7540
76408

1114
908
1642

Vị trí địa lý
Hưng Yên là tỉnh nằm giữa đồng bằng châu thổ Bắc Bộ (điểm trung tâm
của châu thổ Bắc Bộ nằm tại thôn Dung, xã Hưng Đạo, huyện Tiên Lữ trên vĩ
tuyến 20043’ và kinh độ 106006’) với cảnh quan sinh thái điển hình là ruộng
đồng bằng phẳng được bao bọc bởi hệ thống đê sông dày đặc và những bãi sông
màu mỡ chạy dọc sơng Hồng và sơng Luộc. Về hình dáng, Hưng Yên giống như
một lá cờ bay trước gió với những nếp nhăn là hệ thống sơng ngịi ngang dọc.
Hay có thể nói Hưng n giống như một hình chữ nhật với các góc gần vng.
Vùng Phố Hiến xưa - Hưng n nay nằm chính trên một góc gần vng đó và ở
về phía tây nam của tỉnh.

Về ranh giới hành chính, vùng đất này nằm sát sơng Hồng về phía Tây, đối
ngạn với huyện Duy Tiên (Hà Nam) bên hữu ngạn. Phía tây bắc và bắc, giáp các
xã Hùng Cường, Hiệp Cường, huyện Kim Động. Phía đơng và đông nam giáp
các xã Nhật Tân, An Viên, Thủ Sỹ, Phương Chiểu, Tân Hưng và Hoàng Hanh
của huyện Tiên Lữ. Tính từ trung tâm thị xã đến ngã ba cửa Luộc – nơi sông
Hồng và sông Luộc giao nước - ước chừng khoảng 4 km theo đường chim bay.
Vùng đất này đã trải qua nhiều thay đổi về diên cách, song về cơ bản đây
vẫn là địa bàn có vị trí đặc biệt quan trọng đối với hệ thống giao thông đường
thuỷ của châu thổ Bắc Bộ. Là đỉnh của “hạ châu thổ”, Phố Hiến - Hưng Yên
nằm sát sông Hồng và được giới hạn bởi sơng Luộc ở phía đông bắc và sông
Châu Giang (hiện nay đã bị lấp) ở phía tây nam. Thuận đường sơng Hồng xi
xuống phía đơng nam có thể tiến ra Vị Hồng (Nam Định ngày nay) và đến các
địa phương khác thuộc Sơn Nam Hạ xưa theo đường sông Châu Giang. Theo
tuyến sông Luộc, từ Phố Hiến - Hưng Yên có thể tới Hải Dương, An Quảng.
Như vậy, theo các tuyến đường sơng chính, Phố Hiến - Hưng Yên có khả năng
kết nối với hầu hết các địa phương ở vùng hạ châu thổ.
Ngoài ra, vị trí của vùng đất này cịn có ý nghĩa chiến lược đối với Thăng
Long Hà Nội – trung tâm chính trị, kinh tế lớn nhất của châu thổ Bắc Bộ từ năm
18


1010. Các địa phương ở hạ châu thổ muốn lên Thăng Long theo đường thuỷ đều
phải đi qua Phố Hiến. Mọi tuyến giao thương liên khu vực từ vịnh Bắc Bộ lên
Thăng Long đều phải qua Phố Hiến. Rõ ràng sự kiện Lý Công Uẩn dời đô về
Thăng Long đã góp phần nâng tầm ý nghĩa chiến lược của vùng Phố Hiến lên
thêm một bước. Giáo sư Nguyễn Quang Ngọc nhận định “Vào đầu thế kỷ XI,
khi Lý Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long thì khu vực Phố
Hiến đã trở thành đầu mối giao thông quan trọng nhất nối liền kinh đô với các
miền đất nước, vì thế đương nhiên nó trở thành cửa ngõ quan trọng hàng đầu
ảnh hưởng trực tiếp đến sự an nguy của quốc gia cả về kinh tế và quốc phịng”.

[116,17]. Đúng vậy, vị trí chiến lược về quốc phòng của vùng đất này đã được
chứng minh qua hàng loạt các sự kiện quân sự diễn ra tại đây trong các thế kỷ I,
thế kỷ X, XIII, XVIII.
Thế kỷ XVI – XVII, vị thế chiến lược về kinh tế của khu vực này được
khẳng định với việc Phố Hiến trở thành thương cảng sầm uất vào bậc nhất của
Đàng Ngoài. Nằm án ngữ cửa ngõ vào Thăng Long, mọi thuyền bn nước
ngồi từ vịnh Bắc Bộ dù đi theo cửa sơng Thái Bình, sơng Hồng (cửa Ba Lạt)
hay cửa sông Đáy (cửa Rokbo) muốn lên kinh thành cũng đều phải qua Phố
Hiến. Điều này được minh chứng rõ rệt qua hệ thống Bản đồ sơng Đàng Ngồi
thế kỷ XVII (BĐ1.4, BĐ1.5) do các thương nhân, nhà hàng hải Hà Lan, Anh
Quốc vẽ khi đến buôn bán ở Bắc Bộ cũng như mô tả trong các tập du ký của nhà
hàng hải William Dampier, JB Tavernier viết vào thế kỷ XVII khi các tác giả
này có cơ hội du hành đến Đàng Ngoài.
Theo các sử liệu này, thương nhân phương Tây đến bn bán ở Đàng
Ngồi đều từ vịnh Bắc Bộ đi vào theo lối cửa sơng Thái Bình đến bng neo tại
Domea (Tiên Lãng, Hải Phịng) và dùng thuyền nhỏ theo đường sông Luộc đến
Phố Hiến rồi vào sông Hồng trước khi lên Thăng Long. Vị trí của Phố Hiến theo
William Dampier mơ tả thì “ở cách nơi chúng tôi để tàu (tức Domea) độ 60 dặm
(96 km) và cách biển chừng 80 dặm (128 km)” [45,35]. Do vậy, đây là vị trí lý
tưởng để thiết lập các trạm tuần tra thu thuế. Có lẽ đây chính là lý do quan trọng
nhất quyết định đến việc chính quyền chúa Trịnh đã đặt Hiến ty của toàn vùng

19


Sơn Nam ở Phố Hiến để kiểm soát và thu thuế của các thương thuyền ngoại
quốc.
Trong tập du ký của William Dampier, nhà hàng hải người Anh cũng ghi
chép rõ điều này: “Quan tổng trấn hoặc viên phó quan cấp giấy thông hành cho
tất cả mọi thuyền bè đi ngược xuôi trên sông. Người ta không cho phép một

thuyền nào đi mà khơng có giấy thơng hành” [45,37]. Vào thế kỷ XIX, Nguyễn
Siêu cũng khẳng định rõ chức năng tuần ty, thu thuế của Phố Hiến trong tác
phẩm Phương Đình địa dư chí: “Trấn Sơn Nam thời Lê Trung Hưng cịn có Đại
An hải khẩu (thuộc tỉnh Nam Định), thuyền bn nước ngồi đến đây có quan
khám xét nhưng kém hơn Cửa Hiến ở huyện Kim Động”. PGS Nguyễn Văn
Kim trong cơng trình nghiên cứu Quan hệ của Nhật Bản và Đông Nam Á thế kỷ
XV – XVI cũng nhận định rõ: “Đối với Đại Việt, thuyền của các thương nhân
ngoại quốc đến bn bán với Đàng Ngồi phải đi theo hệ thống sông Hồng và
thường dừng lại ở khu vực cửa sông hay Phố Hiến để kiếm tra hàng hố và định
mức thuế” [94,171]. Như vậy có thể thấy, không chỉ là đô thị kinh tế, Phố Hiến
trong thế kỷ XVI-XVII cịn là đơ thị hành chính, trung tâm chính trị của tồn
vùng Sơn Nam rộng lớn. “Nhìn dưới góc độ an ninh, Phố Hiến cịn như một
trạm kiểm sốt vịng ngồi bảo vệ kinh đơ Thăng Long, điều tiết các hoạt động
ngoại thương và ở một mức độ nào đó có thể đại diện cho chính quyền Đàng
Ngồi giao dịch với thương nhân ngoại quốc. [94,22]
Vị trí cửa ngõ giao thương đã biến Phố Hiến thành đầu mối gặp gỡ, trung
chuyển của các luồng ngoại thương và nội thương lớn nhất Đàng Ngồi. Hàng
hố của Đàng Trong hay các địa phương khác muốn lên Thăng Long đều qua
Phố Hiến. Ngược lại, hàng hố của Đàng Ngồi muốn vận chuyển ra nước ngoài
hay vào Đàng Trong cũng đều tập kết tại Phố Hiến. Điều này càng được minh
chứng rõ ràng khi các nhà nghiên cứu đã tìm ra được mối quan hệ giữa Phố
Hiến với các thị trường xa thơng qua các thương cảng Hội Triều (Thanh Hố),
Càn Hải, Hội Thống (Nghệ An) [40,210-214] và các phố cảng khác ở Đàng
Trong. [30,188-195].
Với vị trí chiến lược về kinh tế này và các nguyên nhân khách, chủ quan
khác, Phố Hiến đã trở thành thương cảng sầm uất của Đàng Ngoài suốt hơn hai
20


thế kỷ. Vị trí địa lý đặc biệt của khu vực này đã có ảnh hưởng lớn đến sự hình

thành, phát triển của QTDT tại đây. Có thể khái lược trên ba điểm chính:
1> Phố Hiến - Hưng Yên gần như được bao bọc bởi hai mặt sông. Dấu ấn sơng
nước đã in đậm trong tín ngưỡng của người dân vùng này. Điều này lý giải
tại sao số lượng các đền thờ thuỷ thần, thần hàng hải lại chiếm đa số trong
QTDT. Về sự phân bố, phần nhiều di tích cũng nằm ven sơng nước, ven các
dịng chảy cổ và bên các đầm, vực nước lớn.
2> Phố Hiến - Hưng Yên là địa bàn có ý nghĩa chiến lược về quân sự. Dấu ấn
chiến trận đã để lại tại đây một hệ thống đền thờ các nhân vật lịch sử cùng
với hệ thống các truyền thuyết dân gian phong phú, thống nhất về nhiều thời
kỳ khác nhau trong tiến trình lịch sử dân tộc. Rất nhiều di tích trong đó được
xây dựng trên chính nền đại bản doanh của các đội quân từng đóng quân tại
đây hoặc xây dựng để tưởng niệm những chiến công lớn đã xảy ra trên địa
bàn này.
3> Phố Hiến - Hưng Yên là địa bàn có ý nghĩa chiến lược về kinh tế. Sự phát
triển thương mại hàng hoá của vùng đất này, đặc biệt trong giai đoạn thế kỷ
XVI – XVII đã kéo theo hệ quả tất yếu là sự giao lưu về văn hố. Sự đa dạng
về tín ngưỡng, tơn giáo, sự đa dạng về phong cách kiến trúc của QTDT lịch
sử cho thấy dấu ấn đậm nét của quá trình giao lưu văn hoá trên địa bàn này
trong lịch sử.
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN VÙNG PHỐ HIẾN – HƢNG YÊN
Đặc điểm phát triển địa hình
Miền đất được hình thành do sự bồi đắp của sông Hồng và tác
động của hệ thống đê sông.
Phố Hiến - Hưng Yên là đỉnh thành tạo thứ ba của tam giác châu thổ Bắc
Bộ. Miền đất này được bồi đắp hoàn toàn do lượng phù sa lớn của sông Hồng
đổ về từ thượng lưu qua hàng ngàn năm. Khi chưa có hệ thống đê lớn và hồn
chỉnh chạy dọc sông, nước lũ hàng năm của sông Hồng tràn qua bờ sơng chính
và các sơng nhánh. Một phần vật liệu đọng lại ngay ven sông tạo thành các gờ
sông. Cũng như trên toàn bộ đồng bằng châu thổ, gờ sông Hồng tại Phố Hiến Hưng Yên cũng tạo ra “một địa thế tương đối cao so với các vùng bao quanh (từ
21



3-4 m) trong khi các khu vực đất thấp lân cận chỉ vào khoảng 1-2 m” [149,30].
Trên bình độ vùng Phố Hiến - Hưng Yên hiện nay, vẫn thấy độ cao nổi trội của
dải đất gờ sông này kéo dài từ địa phận Nhân Dục xuống đến Nam Hoà, Mậu
Dương. Ngược với dải gờ sông, các khu đất từ gờ sơng trở vào phía trong có độ
cao thấp dần.
Vào mùa lũ, nước sơng tràn ngập hình thành nên nhiều vùng đầm lầy rộng
lớn. Thế kỷ X, diện tích vùng Nễ Châu và Lam Sơn chưa rộng như ngày nay,
phần nhiều vẫn là đầm bãi ven sông thường xuyên úng ngập mọc đầy lau sậy.
Truyền thuyết vùng Nễ Châu còn cho thấy khi Lê Hồn về đây đóng qn, qn
đội của ông phải dùng thuyền độc mộc để tiện việc di chuyển. Nhiều trường
hợp, việc di chuyển giữa vùng đầm lầy rất khó khăn, qn lính phải vừa chèo
thuyền vừa bíu vào cây để đi. Truyền thuyết này còn để lại dấu vết trong tên địa
danh Bãi Bíu - vùng đầm trũng rộng nằm phía cuối làng Nễ Châu hiện nay.
Thế kỷ XIII, nhà Trần bắt đầu sự nghiệp đắp đê để ngăn nước lũ. Đê Quai
Vạc được đắp với quy mô lớn dọc tuyến sông Hồng. Tác giả An Nam chí
ngun đã mơ tả các con đê “quai vạc” này như sau: Hai bên bờ sông Phú
Lương (sông Hồng) đều có đê ngăn nước lụt. Một con đê chạy dài từ sông Đáy
đến sông Hải Triều (sông Luộc)”. Như vậy có nghĩa là đê sơng Hồng đã được
nhà Trần đắp kéo dài từ phân nhánh giữa sông Hồng và sông Đáy xuống đến
phân nhánh giữa sông Hồng và sông Luộc. Điều này có nghĩa là tồn bộ bờ tả
ngạn sơng Hồng trên địa bàn tỉnh Hưng Yên ngày nay, trong đó bao gồm cả
vùng Phố Hiến - Hưng Yên đã có đê bao.
Người ta cịn tìm thấy ở xã Thọ Vinh (Kim Động) một cống gạch lớn gọi là
cống Đỉnh Nhĩ, đặt dưới một con đê cổ xưa đắp vòng vèo hình quai vạc. Thọ
Vinh (Kim Động) hiện nay vẫn nằm giáp sông Hồng và cách Phố Hiến khoảng
15 km theo hướng Tây Bắc. Một sự tích về sự hình thành hồ Bán Nguyệt (Hồng
Châu, Hưng Yên) được ghi lại trong Hưng Yên nhất thống chí soạn vào cuối thế
kỷ XIX cũng cho biết hồ nguyên là một khúc sông Hồng bỏ lại. “Thời xưa bờ

sông ở đây sâu không thể lường được, đến thời Trần Thái Tông khoảng niên
hiệu Thiên Ứng Chính Bình hội qn các lộ đắp đê phịng nước, phía trước đều
sâu khơng đắp được nên đắp theo chỗ nước nơng thành hình bán nguyệt.
22


×