Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Thơ trẻ việt nam từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (994.41 KB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

PHAN THỊ THANH PHONG

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

HÀ NỘI, 2008


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

MỤC LỤC
Mục lục ......................................................................................................... 1
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... 2
1. Lý do chọn đề tài ............................................................................... 2
2. Lịch sử vấn đề .................................................................................... 3
3. Đối tượng và mục đích nghiên cứu .................................................... 6
4. Phương pháp nghiên cứu .................................................................... 7
5. Đóng góp của luận văn ...................................................................... 7
6. Kết cấu của luận văn .......................................................................... 7
NỘI DUNG ................................................................................................... 8
Chƣơng 1: Đóng góp của thơ trẻ Việt Nam qua những chặng đƣờng ...... 8
1.1. Khái niệm thơ trẻ .................................................................................... 8
1.2. Thơ trẻ Việt Nam qua các thời kỳ ......................................................... 11
1.2.1. Thời kỳ chống Pháp ................................................................... 11
1.2.2. Thời kỳ chống Mỹ ...................................................................... 13


1.2.3. Thời kỳ 1975- 1986 .................................................................... 15
1.2.4. Thời kỳ 1986 đến nay ................................................................ 17
Chƣơng 2: Nội dung thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay .................. 23
2.1. Sự đổi mới xã hội dẫn đến sự đổi mới văn học ..................................... 23
2.1.1. Bối cảnh văn hoá- xã hội ............................................................ 23
2.1.2. Bối cảnh văn học ......................................................................... 24
2.2. Những vấn đề thơ trẻ hướng tới và thể hiện .......................................... 27
2.2.1. Đề cao cái tơi cá nhân riêng biệt ................................................. 27
2.2.2. Tìm kiếm và khao khát tình yêu ................................................. 34
2.2.3. Khám phá con người bản năng .................................................. 38
2.2.4. Cái tôi nhiễm cảm xúc bi quan ................................................... 44
2.2.5. Khám phá thế giới vô thức và tâm linh ....................................... 50
2.2.6. Những suy tư về nhân sinh thế sự .............................................. 58
Chƣơng 3: Một số đặc điểm nghệ thuật thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986
đến nay ........................................................................................................ 62
3.1. Giọng điệu thơ ....................................................................................... 62
3.2. Ngôn ngữ thơ ....................................................................................... 68
3.3. Hình ảnh thơ ......................................................................................... 75
3.4. Thể loại thơ .......................................................................................... 84
3.5. Cấu trúc thơ .......................................................................................... 90
KẾT LUẬN ................................................................................................. 96
THƢ MỤC THAM KHẢO ..................................................................... 102
Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

1


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong


PHẦN MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Nhìn nhận, đánh giá một giai đoạn phát triển văn học thường nhà
nghiên cứu phải kết hợp vừa tiếp nhận những ý kiến phê bình vừa cần có
thời gian khi sự việc đã kết thúc và lắng lại.
Hoài Thanh- Hoài Chân khi viết “Thi nhân Việt Nam”, nhìn lại “Một
thời đại thi ca” đồng nghĩa với ơng đang tổng kết lại một cả trào lưu của
một giai đoạn sống động nhất của văn học Việt Nam cận đại – giai đoạn
đổi mới cách tân. Thi nhân Việt Nam được viết khi phong trào Thơ mới vẫn
đương trong giai đoạn cách tân sơi nổi nhất, khi mà nhóm Xn thu nhã tập
đương tìm tịi sáng tạo và trước khi Tuyên ngôn Dạ đài được viết ra với
những khát vọng khẳng định mình của một thế hệ thanh niên nặng lòng với
văn học nước nhà. Vậy mà mãi sau này không một ai phủ định được giá trị
của Thi nhân Việt Nam.
Cố nhiên, để có được một cuốn Thi nhân Việt Nam, có được vài chục
trang tổng kết Một thời đại thi ca thì bản thân Hồi Thanh- Hồi Chân cũng
phải khẳng định đã đọc hàng ngàn bài thơ.
Thời kỳ đổi mới văn học đã trải qua hai thập kỷ, với những thành tựu
bước đầu và tiếp tục tìm tòi phát triển, thơ ca cũng mạnh dạn cách tân đổi
mới với những thành tựu cần được ghi nhận. Công lao ấy thuộc về nhiều
thế hệ nhưng trước hết thuộc về lớp trẻ
Thơ trẻ trong thời kỳ văn học đổi mới là một hiện tượng lý thú chứa
trong nó những nội hàm sâu sắc để có thể hiểu được một đội ngũ sáng tác
mới và cũ trong một thời kỳ cởi mở cho văn học, những tâm sự, đòi hỏi cá
nhân được tôn trọng và đưa lên trang giấy, phổ biến rộng rãi và được công
nhận. Một thời kỳ mà sự sáng tạo được giải phóng tạo nên sự đa dạng cả về
hình thức lẫn nội dung.
Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay


2


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

Chọn lựa đề tài mang tên: Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay
chúng tơi mong tìm được thêm những kiến giải mới giúp ích trong q
trình nghiên cứu văn học sau này.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ

Cho đến thời điểm này chưa có một tổng kết nào đầy đủ, hệ thống và
tổng quát về Thơ trẻ Việt Nam từ 1986 đến nay. Một phần vì sự xuất hiện
của họ trên văn đàn cịn khá mới mẻ, phần nữa, một thế kỷ thi ca Việt Nam
với nhiều chặng đường đã qua, các nhà nghiên cứu phê bình hầu như chú
trọng đến những thành tựu thơ của các thời kỳ vang bóng trước đó như thời
kỳ chống Pháp, chống Mỹ. Vì thế thơ của thế hệ mới từ năm 1986 đến nay
chưa được sự quan tâm thích đáng để có một cách nhìn hệ thống ngồi
những bài viết, những đánh giá nhận xét mang tính cá nhân hoặc một số bài
phê bình các tập thơ cụ thể...
Năm 1993- 1994, những tranh luận quanh các hiện tượng có dấu hiệu
phá cách, có hơi hướng của chủ nghĩa hiện đại trở nên hết sức ồn ào, căng
thẳng với sự ra đời của hàng loạt thi phẩm: Bóng chữ (Lê Đạt), Người đi
tìm mặt (Hồng Hưng), Ơ mai (Đặng Đình Hưng), Sự mất ngủ của lửa
(Nguyễn Quang Thiều)… Những cuộc thảo luận mà các tác giả- tác phẩm
kể trên là tiêu điểm kéo dài đến đầu năm 1995, tạm lấy mốc kết thúc là bài
tổng kết của Ban lý luận và phê bình văn học trên báo Văn nghệ số 13 năm
1995

Sau đó một thời gian dài, diễn đàn thơ ca Việt Nam trở nên tĩnh lặng, ít
có những hiện tượng gây dư luận mạnh mẽ. Tình hình sôi động trở lại bắt
đầu từ năm 2001, khởi phát là những cuộc trao đổi xung quanh tập thơ
“Linh” của Vi Thuỳ Linh là một hiện tượng gây dư luận mạnh mẽ. Từ đó,
trên các báo, tạp chí, diễn đàn trực tuyến thường xuyên đăng tải các bài phê
bình, tranh luận về những nhà thơ trẻ có ý hướng vượt rào, phá cách táo
bạo như Phan Huyền Thư, Văn Cầm Hải, Nguyễn Hữu Hồng Minh… Trao
Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

3


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

đổi về thơ và thơ trẻ trở thành chủ điểm của cuộc hội thảo “Những chuyển
động trong thơ hôm nay” do Hội nhà văn Hà Nội tổ chức tháng 9- 2002.
Qua khảo sát chúng tơi thấy có hai dạng bài viết chính sau đây:
- Loại viết riêng về tác giả: Hoàng Hưng: Lời bàn tập thơ Giọng nói mơ
hồ của Nguyễn Hữu Hồng Minh ( NXB Trẻ T.P Hồ Chí Minh-1999),
Nguyễn Thụy Kha, Phan Huyền Thư- Nằm nghiêng về cách tân ( Báo Sinh
viên Việt Nam 28-7-2002), Phạm Xuân Nguyên: Thơ Linh ( tạp chí Sơng
Hương số 4-2001), Quỳnh Nhi: Nguyễn Quang Thiều nơi những con sóng
trăng vật vã ( Báo Tin tức Văn hóa số 23, 21-3-1998), Nguyễn Đăng Điệp:
Nguyễn Quang Thiều: Nước, lửa, những cánh đồng và dịng sơng ( Tạp chí
Nhà văn số 1-2003), Đào Duy Hiệp: Lao động và nỗi buồn trong Nằm
nghiêng của Phan Huyền Thư ( Phụ bản Thơ- Báo Văn nghệ, số 6 tháng
12-2003), Đọc lại Vi Thùy Linh ( Trần Đăng Khoa), Vi Thùy Linh, nhục
cảm sáng tạo ( Thụy Khuê), Nói chuyện với Lynh Bacardi ( Thụy Khuê),

Ly và Lô Lô ( Nguyễn Vĩnh Nguyên, Báo Sài Gịn tiếp thị), Ngày nhàn đọc
Lơ Lơ ( Phạm Tiến Duật), Lơ Lơ của Ly Hồng Ly: Những ấn tượng ráp và
sắp đặt trên hai màu đen trắng ( Nguyễn Thụy Kha)...
- Loại bài khảo sát và đánh giá thơ trẻ nói chung: Nguyễn Trọng Tạo:
Ngộ nhận trong phán xét văn trẻ ( Tạp chí Tia sáng 7-2002), Thanh Thảo:
Vài ý nghĩ về thơ trẻ hôm nay ( Báo Tuổi trẻ 11-3-2001), Hoàng Xuân
Tuyền: Hiện tượng thơ mới, thơ trẻ thứ thiệt ( báo Người Hà Nội, số 82001), Đỗ Minh Tuấn : Thơ hiện đại- cảm hứng và thi pháp ( Ngày Văn
học lên ngôi-NXB Văn học 1996), Nguyễn Trọng Tạo: Thơ trẻ không an
bài với thành tựu ( Văn chương cảm và luận trang, NXB Văn hóa Thơng
tin 1998), Ngoảnh lại 15 năm...Nhìn lại “cái khác lạ” trong thơ Việt Nam
sau “đổi mới” ( Hoàng Hưng), Thơ thế hệ thứ 4 của Nguyễn Hữu Hồng
Minh, Thơ mới và cũ của Uông Thái Biểu, Đồng thuận và dị biệt- dư âm
Hội nghị toàn quốc những người viết văn trẻ lần thứ 7 của Nguyễn Khắc

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

4


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

Phê, Thơ và thơ trẻ ( Nguyễn Trọng Tạo), Thơ trẻ, quậy phá và bế tắc của
Tuấn Phong; Thơ trẻ một năm nhìn lại (Trịnh Thanh Sơn)...
Ở cả hai dạng bài viết nêu trên đều cơng nhân sự hiện diện và có những
đóng góp của thơ trẻ nói chung. Ở dạng bài viết riêng về từng tác giả chủ
yếu bình giá về nội dung và nghệ thuật của từng tập thơ, bài thơ riêng, chưa
có bài nào rút ra và nâng lên khái quát một số đặc điểm về nội dung và
nghệ thuật của thơ trẻ nói chung.Ở dạng bài viết thứ hai tập trung nói đến

những cách tân về nội dung và hình thức của thơ trẻ. Nguyễn Trọng tạo nói
đến tính đa nghĩa trong một số cây bút trẻ. Nguyễn Quang Thiều nói đến vẻ
đẹp của hình ảnh thơ trẻ. Vi Thùy Linh bàn về thể thơ. Thanh Thảo và
Hồng Hưng nói lên những ý nghĩ của mình về thơ trẻ nói chung...
Bên cạnh khẳng định những đóng góp của thơ trẻ thì một số bài viết
trong hại dạng bài trên cũng đã chỉ ra những hạn chế của thơ trẻ. Nguyễn
Trọng Tạo cho rằng các cây bút trẻ thường mê mải chạy theo cảm hứng bất
chợt mà ít lưu ý đến tứ thơ, nội dung thơ. Chu Thị Thơm lên án gay gắt về
khuynh hướng thiên về tình dục của thơ trẻ. Nguyễn Huy Thông cho rằng
một số cây bút trẻ quá đi sâu vào nhục dục thô tục mà quên thuần phong
mỹ tục, khiến thơ của họ gây phản cảm, phản thẩm mỹ. Nguyễn Đăng Điệp
lo ngại về sự cường điệu cảm xúc thái quá trong thơ trẻ: “Đau một cũng
bảo đau ngàn năm. Nhiều người tài năng bình thường nhưng ngôn ngữ
xủng xoẻng cốt để nổi tiếng”...
Nhận thấy, các bài viết chủ yếu nói về thơ trẻ nói chung, tuy nhiên chưa
có bài nào viết một cách cơng phu, có cái nhìn tổng qt, có hệ thống và
chi tiết. Tiếng nói của thơ trẻ chủ yếu thơng qua diễn đàn báo chí, mạng
internet, chủ yếu họ trả lời phỏng vấn báo chí, những trao đổi tự bạch, hoặc
đánh giá về thế hệ mình thơng qua tham luận đọc tại hội nghị, hội thảo, hội
nghị về văn học.

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

5


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong


Ở luận văn này chúng tôi nghiên cứu Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến
nay, trong thời kỳ đổi mới, góp phần làm rõ hơn đặc trưng nội dung và nghệ
thuật của thơ trẻ trong giai đoạn này thông qua những gương mặt tiêu biểu. Từ
đó thấy được hướng phát triển của thơ trẻ Việt Nam trong nền thơ đương đại.
3. ĐỐI TƢỢNG VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Đối tượng nghiên cứu của đề tài Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến
nay là thơ của những tác giả có tuổi đời cịn trẻ, tức là những người sinh
trong khoảng thời gian từ năm 1970 cho đến 1990 của thế kỷ 21. Trong đó
tập trung một số tác giả tiêu biểu như:Vi Thùy Linh, Phan Huyền Thư, Ly
Hoàng Ly, Trương Quế Chi, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Tuyết Nga, Chu Thị
Thơm…và những cây bút khác cùng thế hệ. Những tác giả phải có những
tác phẩm mang nội dung tư tưởng nghệ thuật, bản thân họ đã và đang
khẳng định vị trí của mình trong nền thơ đương đại.
Lấy Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay làm đối tượng nghiên cứu
để tìm ra diện mạo, đặc điểm và những cách tân nghệ thuật. Qua đó chúng
tơi xem xét và đối chiếu nó trong mối quan hệ nội tại, có so sánh với thơ trẻ
các thời kỳ trước đó để thấy những nổi trội cũng như những hạn chế của
thơ Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
Trong luận văn chúng tôi không khảo sát, nghiên cứu so sánh thơ của
các tác giả người Việt Nam ở hải ngoại.
Với đối tượng trên, luận văn hướng tới mục đích nghiên cứu sau đây:
Nghiên cứu Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay, chúng tôi góp
phần làm sáng tỏ diện mạo và những cách tân của thơ trẻ đương đại trong
xu thế chung của nền văn học Việt Nam đang có những biến chuyển và
thay đổi theo thời cuộc. Từ đó chúng tơi khẳng định những đóng góp cơ
bản và cả những hạn chế của họ, đồng thời xác định vị trí của họ trong nền
thơ ca đương đại.

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay


6


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

Từ trước đến nay đến nay chưa có một cơng trình nào nghiên cứu một
cách đầy đủ, có hệ thống, về thơ trẻ trong thời kỳ đổi mới. Nghiên cứu Thơ
trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay chúng tơi góp phần nhằm đánh giá một
giai đoạn thơ có sự phát triển đa dạng và không kém phần mới mẻ, bổ sung
về mặt lý luận cũng như thực tiễn cho việc nghiên cứu một giai đoạn văn
học sôi động này.
4. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong luận văn này chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp
nghiên cứu sau đây:
- Phương pháp khảo sát, thống kê phân loại.
- Phương pháp so sánh
- Phương pháp phân tích- tổng hợp để rút ra những đóng góp về mặt nội
dung và nghệ thuật của thơ trẻ từ 1986 đến nay.
- Phương pháp hệ thống.
5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN

Đây là cơng trình tập trung nghiên cứu về Thơ trẻ Việt Nam từ năm
1986 đến nay. Luận văn bước đầu phác thảo bức tranh tồn cảnh mang tính
chất khái quát về thơ trẻ Việt nam giai đoạn 1986 đến 2008.
Có thể xem luận văn là một trong những cơng trình bước đầu nghiên
cứu một cách hệ thống thơ trẻ giai đoạn 1986 đến nay, giai đoạn đổi mới,

tìm hiểu sự hình thành và phát triển, chỉ ra những đặc điểm về nội dung,
nghệ thuật của thơ trẻ giai đoạn này. Qua đó luận văn góp phần vào việc
tìm hiểu thơ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Đây là môt mảng khá quan
trọng trong nền thơ ca đương đại của chúng ta.
6. KẾT CÂU CỦA LUẬN VĂN

Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm ba chương.

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

7


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

Chương 1: Đóng góp của thơ trẻ Việt Nam qua những chặng đƣờng
Chương 2: Nội dung thơ trẻ Việt Nam từ 1986 đến nay
Chương 3: Nghệ thuật của thơ trẻ Việt Nam từ 1986 đến nay.

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

8


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong


NỘI DUNG
Chƣơng 1
ĐÓNG GÓP CỦA THƠ TRẺ VIỆT NAM
QUA NHỮNG CHẶNG ĐƢỜNG
1.1. KHÁI NIỆM THƠ TRẺ

Trong lịch sử phát triển thơ ca, chúng ta thấy có những nhà thơ thành
đạt ở độ tuổi thiếu niên như Vương Bột (Trung Quốc); Lermontov (Nga);
Beaudelaire, Rimbaud, Verlaine (Pháp)…v.v Nhưng cũng có người lại
thành đạt sự nghiệp thơ ca ở tuổi trung niên như Tagore (Ấn Độ) … thời
gian làm tăng độ “ngấu” của họ đối với thi ca. Nhưng vẫn có thể nói thơ ca
dành cho tuổi trẻ, vậy nên Bagriana – một nhà thơ Bungarie cho rằng tuổi
trẻ là tuổi thơ ca.
Có thể khẳng định thơ ca xuất hiện nhiều hơn vào thời trẻ, điều này
được kiểm chứng khi mà hầu hết những cá thể và trào lưu thơ ca đều gắn
với tuổi trẻ.
Viên Mai – một nhà lý luận văn học Trung Quốc đã từng khẳng định:
Thơ ca như tiếng chim oanh hót càng về già tiếng của nó càng khơ đi, và
khơng hấp dẫn nữa
Trong thơ ca Việt Nam, nếu lấy từ thế kỷ 20 trở lại đây, thấy một điều
là sự xuất hiện của phong trào Thơ mới cũng như sự xuất hiện của các nhà
thơ trong thời kỳ này đều gắn liền với một từ “Trẻ”. Một loạt các nhà thơ
“Tây học” trên tinh thần phủ định cái cũ, và đổi mới thơ ca dân tộc theo
hướng hiện đại hóa đã xuất hiện rất ít các nhà thơ đến 30 tuổi mới khẳng
định được mình. Hầu hết họ tạo cho mình một giá trị, một chỗ đứng trên
văn đàn từ trước 30 tuổi với các tên tuổi: Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan
Viên, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Bính, Thâm Tâm… Thơ cách mạng thì có Tố

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay


9


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

Hữu, mới 17 tuổi đã khẳng định mình với các bài thơ: Mồ cơi, Hai đứa trẻ,
Từ ấy… đỉnh cao sáng tác với tập Từ ấy năm 25 tuổi. Bản thân tác giả cho
rằng: Đó là một trong những tập thơ ơng thích nhất.
Điều này lý giải cho vấn đề đặt ra ở đây: Chính sức trẻ đã tạo nên thành
cơng cho các nhà thơ thơng qua việc: Giải phóng sức trẻ, ý thức cá nhân
khơng cịn bị gị bó, khát vọng tự do khẳng định mình, được nói lên tiếng
nói u đương.
Trong kháng chiến chống Pháp có một hiện tượng những nhà thơ của
thời kỳ thơ mới khơng cịn có những bài thơ hay, mà ngược lại một thế hệ
nhà thơ quân đội khẳng định mình trong kháng chiến như Hồng Nguyên,
Quang Dũng, Hoàng Cầm, Vũ Cao… đã theo nhịp sống của thời đại, nói
lên tiếng nói chung của xã hội đã khẳng định sức trẻ của mình trong chiến
đấu kết hợp với sáng tạo thơ ca.
Tiếp đến thời kỳ kháng chiến chống Mĩ, lại thêm một thế hệ các nhà thơ
quân đội khẳng định mình trong chiến tranh: Phạm Tiến Duật, Nguyễn
Khoa Điềm, Nguyễn Duy, Thanh Thảo, Hữu Thỉnh…vv.v
Thơ trẻ sau những năm 1975 được nhắc đến với những tên tuổi như:
Trần Quang Đạo, Ngô Tự Lập, Mai Văn Phấn, Vi Thuỳ Linh…
Ưu điểm của các nhà thơ trẻ với tình cảm hồn nhiên, tự nhiên nói lên
được tiếng nói sức sống của thời đại, họ có khả năng hịa nhập nhanh với
cuộc sống với thời đại mà họ đang tồn tại, cách thể hiện mới mẻ, không bị
ràng buộc.
Ta thấy rõ ở mỗi thời kỳ mới, thơ ca sẽ tự tạo ra một thế hệ các nhà thơ

để phụng sự cho thời đại của nó. Và thời kỳ đổi mới thực sự đã tạo được
một thế hệ của nó.
Vậy thơ trẻ là gì?
Thơ trẻ là cách gọi mang tính tương đối mà lâu nay chúng ta vẫn
thường dùng để chỉ những sáng tác thơ của những nhà thơ có tuổi đời còn
Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

10


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

trẻ. Đây là cách phân loại thơ theo tiêu chí tuổi tác. Vì thế, khác với thơ trẻ
là thơ của các nhà thơ lớp trước, bậc đàn anh và thơ cổ.
Những nhà thơ trẻ là những tác giả có tuổi đời cịn trẻ sáng tác thơ
được phổ biến và tạo được dấu ấn của mình cho độc giải và cả trong đời
sống văn học. Giống như cách phân loại thơ, tiêu chí để phân loại nhà thơ
trẻ cũng theo tiêu chí tuổi tác. Đây là cách gọi để phân định lực lượng sáng
tác của từng thời kỳ văn học.
Diện mạo của thơ trẻ được quyết định bởi đội ngũ sáng tác trẻ và đội
ngũ sáng tác trẻ được hình thành phải chính từ những sáng tác đặc trưng
của thế hệ mình.
Đã có một số nhà phê bình viết về thơ trẻ và đưa ra những định nghĩa
về thơ trẻ hay nhà thơ trẻ. Nguyễn Trọng Tạo cho rằng: “Thực ra khái
niệm thơ trẻ hay nhà thơ trẻ ở nước ta mới xuất hiện chưa đầy 40 năm,
thưở ấy xuất hiện một lớp người trẻ làm thơ bước vào cuộc kháng chiến
chống Mỹ. và để phân biệt đẳng cấp các nhà thơ lão làng đã gọi lớp nhà
thơ em út là “ bọn trẻ làm thơ” hoặc nhà thơ trẻ [52, 217]. Nguyễn Trong

Tạo cũng đưa ra khung tuổi tác cho các nhà thơ trẻ là từ 16-35 “đấy là tuổi
thanh xuân của đời người, tuổi khơi ra nhiều sự mới mẻ để khẳng định
mình, để lập thân”. Cịn nhà thơ Lê Đạt thì khơng đồng tình với việc xem
thơ trẻ là thơ của những người trẻ tuổi sáng tác. Theo ông thơ trẻ là thơ tươi
trẻ trong cảm xúc và ý nghĩ cũng như trong cách thể hiện. Con nhà thơ
Vương Trọng lại cho rằng những người ít tuổi hơn ơng một chút được gọi
là trẻ: “Tôi bây giờ đã 60, nên những người ít tuổi hơn tôi một chút cũng đã
được gọi là trẻ. Như vậy có rất nhiều thế hệ trẻ”.
Như vậy riêng về khái niệm thơ trẻ và nhà thơ trẻ đã có rất nhiều ý kiến
khác nhau, khơng thống nhất. Mỗi ý kiến đều có những hợp lý riêng, và
đúng trong những trường hợp cụ thể khác nhau.

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

11


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

Thực ra cách gọi thơ trẻ và nhà thơ trẻ đã xuất hiện từ thời kỳ chống
Mỹ cứu nước. Nó được hình thành từ những đợt bồi dưỡng viết văn cho các
nhà văn, nhà thơ trẻ do Hội Nhà văn tổ chức. Sau đó, bằng những sáng tác
ghi được dấu ấn của mình đối với đời sống văn học, các nhà phê bình có
những bài viết về thơ trẻ và về đội ngũ thơ trẻ chống Mỹ (134, 89-126).Từ
đó định danh thơ trẻ và những nhà thơ trẻ mới được dùng phổ biến.
Những ý kiến về thơ trẻ và nhà thơ trẻ chắc chắn sẽ là một khái niệm
mở, còn nhiều tranh luận. Trong luận văn này chúng tôi quan niệm nhà thơ
trẻ theo quan niệm tuổi tác và thơ trẻ là thơ được những nhà thơ trẻ viết ra

trong khoảng thời gian mà họ được coi là trẻ. Trẻ ở đây là sự kết hợp giữa
cả hai yếu tố về tuổi đời và cả mức độ phát triển. Chúng tôi thống nhất nhà
thơ trẻ là những nhà thơ cịn ít tuổi đời, đang phát triển về thể chất và trí
tuệ và viết cịn sung sức (trong khoảng độ tuổi từ 16- 40). Còn thơ trẻ là
thơ của những nhà thơ có độ tuổi trên sáng tác, và đã công bố với bạn đọc.
1.2. THƠ TRẺ VIỆT NAM QUA CÁC THỜI KỲ

Những người sáng tác là những “người tìm kiếm”, những người “cứ đi,
cứ đi rồi sẽ gặp những điều mới lạ” trên đường đời. Nhà thơ, với trái tim
nhạy cảm và nồng nàn tình yêu thương, họ đã đi trên đường đời để thu vào
trong mình cuộc sống bao la đầy biến động, lắng vào hồn những vui buồn
nhân thế, thấm vào những vẻ đẹp nao lịng… cho “cây đàn mn điệu” bật
lên thành thơ. Mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn văn học đều tập hợp nhiều nhà
thơ, nhà văn, mà trong đó với tư cách là cá thể sáng tạo đã góp cho văn học
một sắc thái, một phong cách riêng. Với sức trẻ của mình, các nhà thơ trẻ ở
bất kỳ giai đoạn văn học nào cũng tìm cho mình được hương đi riêng, đóng
góp cho thi đàn những tác phẩm văn học có giá trị.
1.2.1. THỜI KỲ CHỐNG PHÁP

Khái quát về thơ trẻ qua các thời kỳ, chúng ta có thể thấy lực lưỡng
sáng tác chủ yếu của thơ Cách mạng thời từ năm 1945- 1954 là các chiến
Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

12


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong


sỹ thuộc tầng lớp cơng nơng hoặc trí thức tiến bộ, lên đường tịng quân theo
tiếng gọi của Cách mạng mà “lòng phơi phới dậy tương lai”. Các nhà thơ
trẻ ra đời và lớn lên sau Cách mạng như: Hồng Trung Thơng, Thơi Hữu,
Trần Hữu, Quang Dũng, Hồng Nguyên… Họ đã đưa lại cho phong trào thơ
sự tươi trẻ, sinh động và máu sắc. Nhiều người tham gia chiến đấu trong
quân đội. Môi trường quân đội đã ảnh hưởng đến con đường sáng tác của
họ. Tình đồng chí, đồng đội, lịng u q hương, tinh thần chiến đấu, trách
nhiệm cơng dân và lịng trung thành với Tổ quốc… là cảm hứng sáng tạo
của các nhà thơ trẻ giai đoạn này.
Hiện thực được phản ánh trong thơ trẻ giai đoạn này là cuộc kháng
chiến chống Pháp thần thánh với những chiến thắng vẻ vang, là những cảnh
đổ nát hoang tàn của thành phố với khẩu hiệu “vườn không nhà trống”, là
cuộc sống chiến đấu gian khổ của người chiến sỹ, là những hành động hung
ác của kẻ thù… Thơ mang tính quần chúng rất rõ, thể hiện tình cảm hết sức
hồn nhiên, trong trẻo. Ngơn ngữ thơ gần với đời sống, mộc mạc, giản dị.
Có khi niềm tin chiếu thắng được diễn tả hồn nhiên qua lắng kính của cơ
thiếu nữ thơn q “thăm lúa”: “Xịe bàn tay bấm đốt/ Tính đã bốn năm
rịng/ Người ta bảo không trông/ Ai cũng bảo đừng mong/ Riêng em thì em
nhớ/… Mùa sau kề mùa trước/ Em vác cuốc thăm đồng/ Lúa sây hạt nặng
bông/ Thấy vui vẻ trong lịng/ Em trơng ngày chiến thắng” (Thăm lúa- Hữu
Thung). Và sự chia tay được miêu tả bằng một cái nhìn dung dị, tràn trề
niềm tin: “Chúng tơi đi nhớ nhất câu ni/ Dân chúng cầm tay lắc lắc/ Độc
lập nhớ rẽ viền chi với chắc” (Nhớ- Hồng Nguyên). Có lúc tinh thần hăng
say lao động được thể hiện đậm màu sắc ca dao: “Chúng ta đoàn áo vải/
Sống cuộc đời rừng núi bấy nay/ Đồng xanh ta thiếu đất cày/ Nghe rừng
lắm đất lên đây với rừng/ Tháng ngày ta góp sức chung/ Vun từng luống
đất cuộc từng gốc cây” (Bài ca vỡ đất- Hồng Trung Thơng)…

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay


13


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

Đối tượng sáng tác và đối tượng thưởng thức thơ giai đoạn này đều nằm
cùng một chiến tuyến, cùng thế giới quan và lý tưởng thẩm mỹ do ánh sáng
Đảng dẫn đường. Tư duy thơ là tư duy hướng ngoại, nói về người khác, và
coi cái tôi cá nhân là bé nhỏ, lạc lõng và cơ đơn. Cái Tơi hịa trong cái Ta,
nhường chỗ cho cái Ta xuất hiện rộng khắp trong thơ. Tư duy thơ hướng
tới thực tại, phản ánh thực tại, “cái tơi khi đó đã trở thành một phương tiện
phản ánh chứ khơng cịn là mục đích phản ánh” (Ngun Bá Thành- Tư
duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại).
Hiện thực trong thơ mang đậm tính chất lý tưởng. Cảm hứng yêu nước
là cảm hứng chủ đạo của thơ giai đoạn này. Vì thế, những bài thơ nói lên
cảm nhận riêng tư, tâm trạng băn khoăn thương xót về những hi sinh mất
mát và tổn thất trong chiến tranh của nhà thơ đều bị coi là khơng có sức
chiến đấu (Màu tìm hoa sim của Hữu Loan là một ví dụ). Những tác phẩm
như thế, dĩ nhiên là khơng được lưu hành công khai mà chỉ nằm trong sổ
tay của những người yêu thơ nhưng chính những bài thơ đó đã làm nên sự
phong phú, đa dạng của thơ thời kỳ này. Chúng mang đậm tính chất trữ
tình, thẫm đẫm tính nhân văn sâu sắc.
1.2.2. THỜI KỲ CHỐNG MỸ

Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã đi vào lịch sử với niềm tự
hào và vinh quang lớn lao nhất của dân tộc. Thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ đã
góp một tiếng nói nhỏ để nói về cuộc đời lớn.Khái niệm thơ trẻ cũng chính
thức xuất hiện trong thời kỳ này. Có thể nói đội ngũ những nhà thơ trẻ thời

kỳ này hết sức đông đảo. Chủ yếu họ là những nhà thơ-chiến sĩ, trưởng
thành trong cuộc kháng chiến của dân tộc. Nhiều cây bút đã khẳng định
được tên tuổi mình ngay từ rất sớm. Đó là những gương mặt tiêu biểu như:
Hữu Thỉnh, Phạm Tiến Duật, Nguyễn Khoa Điềm, Nguyễn Đức Mậu,
Nguyến Duy, Thanh Thảo, Vũ Quần Phương, Lê Anh Xuân, Lâm Thị Mỹ
Dạ, Bằng Việt, Hoàng Nhuận Cầm…vv Hồ nhập trong khơng khí của thời

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

14


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

đại chống Mỹ, trong sức sống mãnh liệt của dân tộc, các nhà thơ trẻ đã cả m
nhận được sâu sắc hơi thở cũng như niềm vui, nỗi buồn của nhân dân.
Nguyễn Khoa Điềm đã nói hộ thế hệ mình điều lo lắng chân tình:
Trong chiến tranh này có ai nói giùm ta
Những kỳ diệu như những mùa nước lớn
Các nhà thơ trẻ đã chủ động tìm đến những thử thách quyết liệt nhất của
cuộc sống để tìm nguồn cảm hứng sáng tạo, tìm chất thơ của đời sống và để
nâng cao tầm nhận thức, biểu hiện các vấn đề trong đời sống một cách
chính xác và sâu sắc. Nhạy cảm và giàu vốn sống chiến trường, đó là ưu
thế của các nhà thơ trẻ so với các nhà thơ lớp trước. Với tư thế của người
trong cuộc, họ đã bổ sung vào bức tranh toàn cánh của cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước một mảng sống lớn: mảng sống chiến trường và trong
đó là chân dung những người cầm súng chống Mỹ cứu nước. Thơ của họ
mang nhiều phẩm chất đẹp: vừa giàu lý tưởng vừa giàu chất hiện thực; có

bề rộng cuộc đời lẫn bề sâu của tâm trạng; có những tìm tịi sáng tạo trong
nội dung và hình thức nghệ thuật. Thơ của họ đã có những đóng góp đáng
kể vào sự nghiệp phát triển của thơ ca hiện đại Việt Nam.
Trực tiếp ở mũi nhọn của cuộc chiến đấu, các nhà thơ trẻ đã đem được
vào thơ những chất liệu thực tế mới mẻ- hiện thực nóng bỏng của cuộc
chiến đấu chống quân xâm lược Mỹ. Những trang thơ của họ đã ghi lại
được những hình ảnh khơng thể phai mờ của một thời kỳ lịch sử đầy gian
lao, thử thách. Đặc biệt là hình ảnh những người cầm súng đánh giặc cứu
nước- những con người mang đậm dấu ấn, tầm vóc, tư tưởng và ý chí của
thời đại.
Cái tơi trong thơ thời kỳ này là cái tơi hịa hợp với cái ta chung và sự
đậm dần, mở rộng, phát triển mạnh mẽ của cái tơi sử thi, tính chất sử thi
[85,63]. Thơ trẻ thời kỳ 1955- 1975 ít sử dụng ngơi thứ nhất để thể hiện cảm
xúc của mình như các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới. Họ thường sử
Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

15


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

dụng ngơi “lưỡng tính” là “Ta” để đẩy cái tôi về cái chúng ta. Nếu họ có sử
dụng cái tơi làm chủ thể trữ tình thì cái Tơi đó cũng là cái Tơi đại diện, cái
Tôi phát ngôn cho cái ta, cái Chúng ta trong sự nhất trí cao độ. Thơ lúc này
trở thành một trợ thủ đắc lực xốc dậy tinh thần toàn dân phục vụ cho cái đích
cao cả là đánh thắng giặc Mỹ. Tuy nhiên, do cái tơi cá nhân ít có điều kiện
để đâm chồi nên phần lớn thơ thời kỳ này nghèo nàn thiếu độ phong phú.
Những rung cảm cá nhân tinh tế không phát lộ.

Mở ra mạnh mẽ về phía thực tại đời sống nhưng khơng q xa rời bản
chất trữ tình của thể loại, thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ đã sáng tạo nên dạng
thức riêng biệt, độc đáo của cái tơi trữ tình- cái tơi thế hệ. Bên cạnh mạch
cảm xúc trữ tình, việc tăng cường chất trí tuệ, chính luận trong thơ đã tạo
cho thơ trẻ thời kỳ này những năng lực biểu hiện mới, tác động đến người
đọc bằng nhận thức và tình cảm tổng hợp. Mỗi nhà thơ trẻ thời kỳ này với
một cách nhìn, một cách khám phá, một cách đặt vấn đề riêng mang bản
sắc của mình đã đem lại cho nền thơ sự đa dạng, phong phú về phong cách,
giọng điệu. Tiếng thơ của họ- những tiếng nói trực tiếp cất lên từ cuộc chến
đấu chống Mỹ cực kỳ ác liệt đã nói được tiếng nói của bao nhiêu người ở
mặt trận. Những người cùng thế hệ với họ đã tìm thấy trong thơ những vui
buồn, lo nghĩ đích thực của mình và cả những khát khao, nhiệt tình trăn trở
và mê say, những kỷ niệm của một thời đẹp nhất. Cho đến hôm nay, những
vần thơ khoẻ khoắn tươi mát ấy vẫn để lại trong tâm hồn chúng ta những ấn
tượng đẹp. Nhiều bài thơ hay vẫn có sức lay động con tim những bạn đọc
yêu thơ. Qua những trang thơ trẻ thời kỳ chống Mỹ, ta hiểu rõ hơn tâm hồn
và tính cách của dân tộc Việt Nam đặc biệt là của thế hệ trẻ vừa sống vừa
đánh giặc vừa làm thơ trong những tháng năm đầy đạn bom, máu lửa.
1.2.3. THỜI KỲ 1975- 1986

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

16


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

Năm 1975, với mốc lịch sử 30- 4- 1975, đất nước ta hoàn toàn giải

phóng, giang sơn thu về một mối, mở đầu cho một chặng đường mới của
đất nước trên tất cả mọi phương diện.
Đội ngũ nhà thơ trẻ sau 1975 đi từ hai luồng chính: Một luồng là những
người mặc áo lính hoặc vừa từ chiến trường trở về sau chiến tranh, những
người từ lực lượng thanh niên xung phong trở về đang học ở các trường đại
học hay chuyển ngành về cơng tác ở các cơ quan, xí nghiệp ở trung ương
và địa phương. Đó là những nhà thơ: Trần Quang Qúy, Nguyễn Quang
Thiều, Trần Anh Thái, Trần Quang Đạo, Nguyễn Hữu Quý, Mai Văn Phấn,
Đoàn Minh Tuấn, Vũ Toàn, Nguyễn Thành Phong, Nguyễn Sỹ Đại, Phạm
Sỹ Sáu, Bùi Chí Vính, Lê Minh Quốc, Đặng Vương Hưng, Nguyễn Ngọc
Phú, Hồng Thanh Quang, Ngô Tự Lập… Một luồng khác là những sinh
viên trong những năm cuối chiến tranh và những năm sau hịa bình lập lại
1975 vừa tốt nghiệp các trường đại học ra công tác ở khắp mọi miền đất
nước. Lực lượng thanh niên xung phong và những nhà thơ trẻ trưởng thành
trong lực lượng vũ trang thời bình. Đó là: Dương Kiều Minh, Nguyễn
Lương Ngọc, Irasara, Dương Thuấn, Văn Công Hùng, Nguyễn Văn Hùng,
Tuyết Mai, Nguyễn Thị Mai, Nguyễn Bình Phương, Thu Nguyệt, Nguyễn
Trọng Hoàn, Trương Nam Hương, Cao Xuân Sơn, Giáng Vân, Trần Kim
Hoa, Đặng Thanh Hương, Nguyễn Thanh Mừng, Nguyễn Linh Khiếu…
Thơ trẻ xuất hiện trên thi đàn với sự tươi mới của nguồn sống dạt dào
và ngọn lửa sáng tạo ngùn ngụt. Họ một phần ảnh hưởng thơ truyền thống
trước đó, một phần chịu tác động của thời cuộc. Tác phẩm của họ mang hơi
thở của thời đại hội nhập, nguồn thơ của họ mang nhiều tâm trạng của lớp
trẻ trước ngưỡng cửa cuộc đời mới trong một thế giới mở cửa và nhiều liên
kết. Họ chủ yếu là những cây bút trẻ cả về tuổi đời và tuổi sáng tác nên thơ
mang dấu ấn cá nhân nhiều hơn thế sự. Họ có tâm hồn nhạy cảm, có những
rung động tinh tế trước thiên nhiên và con người. Họ được đón nhận nhiều

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay


17


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

luồng văn hóa Đơng- Tây nên tác phẩm mang vẻ đẹp hiện đại, cách nói
hiện đại, suy nghĩ hiện đại trong một lực lưỡng xơng xáo, chưa định hình
nhưng đã có những thành tựu ban đầu.
Ở chặng đường phát triển này, những tác giả thơ hình thành ở thời kỳ
đầu đã vào độ chín. Một số nhà thơ vẫn chung thủy với lối viết truyền
thống. Bên cạnh đó nhiều người khơng bằng lịng với lối viết cũ đã mạnh
dạn bứt phá bằng thi pháp mới: mở rộng biên độ thơ, thay đổi cấu trúc thơ
làm thơ không vần, thơ triết luận…
1.2.4. THỜI KỲ 1986 ĐẾN NAY

Năm 1986 thường được gắn với mốc khởi đầu của thời kỳ đổi mới.
Những bước chuyển quan trọng đã diễn ra trong đời sống kinh tế. Những
bước chuyển quan trọng đã diễn ra trong đời sống kinh tế, chịnh trị, xã hội
và văn học thời kỳ này. Sau ba mươi năm chiến tranh và mười năm hậu
chiến, cuộc sống hịa bình và cơ chế thị trường đưa con người Việt Nam trở
về với quỹ đạo bình thường của cuộc mưu sinh. Xu hướng dân chủ hóa, ý
thức cá nhân, những lựa chọn của con người trong thời cơ chế thị trường…
đã tác động sâu sắc đến đời sống vật chất và tinh thần của con người. Giai
đoạn trước người ta nói đến tính chất sử thi, tính chất đồng ca trong thơ.
Nay thơ đã thiên về diễn tả cảm xúc, tâm trạng con người cá nhân cá thể.
Thậm chí có tác giả đi sang thái cực khác: tuyệt đối hóa con người cá nhân,
tơ đậm thái q phần vơ thức và bản năng… Điều này dẫn tới sự xuất hiện
nhiều ý kiến, nhiều thái độ khi đánh giá về thơ giai đoạn này. Người lạc

quan coi những tác phẩm thơ của chúng ta đã đến đỉnh cách tân, sáng tạo;
Người bi quan lớn tiếng phê phán về một nền thơ đang suy thoái, vàng thau
lẫn lộn, nhố nhăng… Theo sự quan sát của chúng tôi, đề cao quá mức hay
chỉ trích, phủ định đều là những cái nhìn phiến diện.
Giai đoạn này quy tụ một lực lượng thơ trẻ đơng đảo. Những cây bút
sinh ra trong thời bình, vừa rời khỏi ghế nhà trường. Điều kiện tiếp xúc với
Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

18


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

thế giới bên ngoài cũng rộng mở hơn. Sự háo hức đi tìm cái mới và thể hiện
cái mới của đội ngũ này ồn ào và khá quyết liệt. Dường như bút lực và cảm
xúc trong họ đang được dồn nén để bứt phá, để dãi bày, để trang trải những
cảm xúc của lòng mình. Họ ưa lối nói mạnh bạo, hướng đến những đề tài
“nóng” về tình u, họ rung lên những âm thanh nhục cảm, họ khát khao
với thi ca như một sự cuồn tín: “Tơi ứa máu những câu thơ siêu việt/ Rách
cằm ngã đến đơn độc/ Nở tận cùng đến chết” (Vi Thùy Linh).
Nhiều gương mặt mới đã được bạn đọc quan tâm: Vi Thùy Linh, Phan
Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, Trương Quế Chi, Lê Thị Mỹ Ý, Dạ Thảo
Phương, Trần Lê Sơn Ý, Khương Hà, Nguyệt Phạm, Thanh Xuân, Linh
Barcadi, Phương Lan, Nguyễn Thúy Hằng, Bình Nguyên Trang, Phạm Vân
Anh, Nguyễn Thanh Vân, Chu Thị Minh Huệ, Ngô Thị Hạnh, Lê Ngân
Hằng, Trang Thanh, Nguyễn Hữu Hồng Minh, Văn Cầm Hải… Họ với cá
tính sáng tạo và năng lực cá nhân đều cố gắng đi tìm những cách thức
phong phú để thể hiện giọng điệu mới, phục vụ cho việc tái hiện chân thành

hiện thực đời sống và hiện thực tâm trạng. Từ chối những “đường viền kẻ
sẵn cho thơ” (Chữ của Nguyễn Hữu Hồng Minh). Với tinh thần nhận thức
lại truyền thống “gây hấn” với truyền thống, đưa cái hiện đại của đời sống
hiện đại vào thơ, họ tạo ra những tứ thơ, những câu thơ lạ. Ví dụ: “…Ngoài
đường cái quan/ Xe rác chạy rầm rập/ Đống lửa bao ni lon đựng rác/ Đơi
tình nhân khét lẹt/ Chàng thương binh ngực đầy huân chương/ Vẫn hô một
hai hành qn khơng chịu nghỉ/ Nàng thất tình/ Hoa mướp bồng áo bông/
Ru hời” Thoại Khanh- Châu Tuấn/ Đun nấu sụt sùi đứt ruột ống bơ…”
(Rỗng ngực- Phan Huyền Thư)
Cách tổ chức hệ thống hình ảnh, cấu trúc câu thơ, nhịp thơ và cảm
xúc cho thấy việc khước từ những kinh nghiệm, quan niệm thẩm mỹ truyền
thống, đưa những chất liệu mới vào thơ… đang là bè chính trong thơ hiện
này. Bên cạnh đó, thơ cũng tiếp thu mạnh mẽ ảnh hưởng của các loại hình
nghệ thuật phi diễn giải từ phương Tây như nghệ thuật hội họa, nghệ thuật
Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

19


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

trình diễn… Họ quyết tâm khai phá những hướng đi mới, dù biết chắc
nhiều chơng gai.
Từ cổ chí kim, ta gặp khơng ít quan niệm thơ là gì, đâu là sứ mệnh
của nhà thơ. Mỗi nhà thơ đều đưa ra những tuyên ngôn nghệ thuật riêng dù
tất cả đều hướng đến cái đích cuối cùng là viết nên những tác phẩm hay,
cống hiến cho bạn đọc.
Biết sáng tác thơ “không phải là nghề mà là nghiệp” (Đoàn Thị Lam

Luyến), song các nhà thơ trẻ vẫn theo đuổi con đường đã chọn, thậm chí
với một niềm tin mạnh mẽ và táo bạo: “Làm người đàn bà hay làm thơ tôi
đều muốn làm mới và lạ”. Đó là lời tuyên bố của “người thiếu phụ tuổi 20”
Vi Thùy Linh. “Tôi làm thơ để giải tỏa những mong đợi” (Vi Thùy Linh,
Nhà thơ và những mong đợi). Inrasara trong Bất ngờ nhiều cái tối nay cho
rằng: “Tôi làm thơ để cãi nhau với cái bóng của mình”. “Câu thơ ngồi dỗ
vết bầm trái tim” (Trương Nam Hương). “Có bài thơ mang thai thế kỷ. Có
câu thơ thức dậy kiếp người” (Dương Kiều Minh). Phan Huyền Thư chống
lại sự màu mè và giả dối của “những bài thơ ảnh viện”, kiên quyết “không
đổi giọng thành kẻ khác”…
Quan niệm về thơ của các nhà thơ trẻ đầy mạnh mẽ, đầy quyết đốn
trong việc đi tìm cái mới, đi tìm một nguồn thơ dạt dào chảy về từ sự nổi
loạn trong tâm hồn địi hỏi được giải phóng, được dấn thân, được nói, được
tung hồnh cùng với lối viết bạo dạn, tự do phóng khống. Vẫn là Vi Thùy
Linh, nhà thơ trẻ quan niệm: “Tôi luôn muốn tạo sự độc đáo riêng biệt
trong lối tư duy, diễn đạt và hình ảnh. Tôi muốn làm những điều chưa ai
làm, hoặc không ai làm được, khó “nhái” được, dù cho vì sự tiên phong
mạnh mẽ, tơi đã chịu nhiều thiệt thịi, cơ lập, thậm chí là sự tấn cơng của
những người bảo thủ, tư duy cũ. Chính những địi hỏi ấy ở bản thân khiến
tôi trở nên vất vả khi sáng tạo, vì tơi ln buộc mình khơng được lặp lại tơi,
khơng giống người khác trong nghệ thuật, để tạo được dấu ấn riêng, là
điều khơng dễ có, khơng dễ làm được. Sống tận lực bằng tình yêu cuộc
Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

20


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong


sống, cá tính đời thực và cá tính nghệ thuật của tơi là một. Tôi dám sống,
dám dấn thân, dám đi đến cùng. Không mưu toan vụ lợi gì, vào thơ, tơi u
thơ bằng tình yêu say đắm, tận trung của một người si tình, chung tình,
khơng tiếc gì cho tình u ấy”.
Chị từng trăn trở:
Em hằng thức trong những câu thơ buồn
Em hằng đau trong những đêm không ngủ
Em tỏa nhiệt vào thơ bất kể mùa nóng lạnh
Thơ là em hay em là thơ?
Như tiền định
Như tiên cảm…
(Những câu thơ mang vị mặn- Vi Thùy Linh)
Vi Thùy Linh nổi lên với ba tập thơ: Khát, Linh và Đồng tử và được
đánh giá là một tác giả thơ thế hệ mới có nhiều cống hiến cho thơ đương
đại. Chị luôn khao khát biểu hiện cái tơi trước cuộc đời, cái tơi bản thể
mang tính khác biệt. “Với tôi, cuộc đi đẹp nhất trong sáng tạo là độc mã.
Tôi phục những con người dám tách khỏi bầy, dù nó sẽ gặp nhiều hiểm
nguy” cho dù “tự tìm kiếm và khai phá con đường khác, sống khác với xu
thế, với đám đông phong trào, để riêng biệt là mình với những lựa chọn
của mình, đồng nghĩa với mất dần các mối quan hệ sau mỗi lần gặp họa,
sự biến và nhân lên sự cô đơn”. Thơ trẻ đương đại dám là mình, chấp nhận
mọi thách thức để dám là mình trong sáng tạo. “Cần lội ngược dịng”,
phương châm của nhà văn Pháp Albert Camus, tơi sống theo phương châm
ấy và chấp nhận trả giá. Kẻ tìm ra điều đúng sớm trước có thể bị tiêu diệt
nhưng chân lý thì khơng” Vi Thùy Linh cịn tham vọng: “Tơi khơng muốn
những bài thơ bình thường vì nó khơng bao giờ tạo ra sự đột biến, cuộc
cách mạng”. Chị chấp nhận sự cơ độc của mình trên con đường sáng tạo.
Trên trang giấy những nhà thơ trẻ được thể hiện những phá cách của
mình về quan điểm nghệ thuật, họ tự trang bị và bồi đắp cho đời sống thi ca

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

21


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

những suy nghĩ, những ý tưởng, những sắp đặt, trình diễn… nhằm mục
đích duy nhất, tạo cho thơ tránh khỏi lối mòn, tránh khỏi khuôn khổ chật
hẹp xưa nay. Ngày nay, đến với thơ là đến với hội hoạ, âm nhạc, là đến với
những ý tưởng được nung nấu của tác giả bên cạnh những con chữ hiển
hiện. ẩn sau những câu thơ của nhà thơ là một nội lực, là sự nhập cuộc tinh
thần thi ca lâu dài và phá cách. ở đó, bản thể là cá nhân sáng tạo duy nhất
được phép tung hoành trên trang giấy những cung bậc, sắc thái trẻ trung,
khát khao chiếm lĩnh và lan toả đến độc giả khơng khí của đời sống của
tiếp nhận.
Có một thực tế là phần đông các nhà thơ trẻ khi đi theo mạch cảm
xúc, họ thường khơng khn thơ mình theo các thể thơ truyền thông, chủ
yếu họ làm thơ tự do, nhưng ln chú ý giữ nhịp điệu và có những chi tiết
đắt gây ấn tượng cho người đọc. Vì thế mà thơ họ thường khó nhớ, khó
thuộc. Người đọc chỉ có thể nhớ đến tứ thơ, hoặc những hình ảnh gợi lên
nhiều ý nghĩa. Họ luôn chủ động tạo ra khơng gian sống cho tác phẩm của
mình. Phan Huyền Thư quan niềm về thơ như sau: “Nếu như khoảng 10
năm trước đây, nhắc đến nhà thơ là nhắc đến một khái niệm đi mây về gió,
nghèo kiết xác và hay mơ mộng hão huyền thì giờ đây chúng tơi nổi loạn,
cứng đầu và lập dị… Nhà thơ bây giờ đồng nghĩa với cá tính và khác lạ”.
Nhà thơ Ly Hồng Ly thì cho rằng: “Với tơi, làm nghệ thuật là công việc
đương dài, càng làm càng mê, càng làm càng thấy đuối sức. Như người bắt

đầu từ con đường mịn và đi mãi, đi mãi, thấy mình lạc vào mê lộ. Rồi sau
những lúc đuối, mệt, kiệt lực lại là những phút giây sung sướng khi phát
hiện ra một điều mới, dù là nhỏ nhoi. Tôi làm nghệ thuật là để khám phá
thế giới quanh mình và khám phá chính mình. Tơi dùng mọi phương tiện
nghệ thuật phương pháp thể hiện, những kỹ thuật mà mình học được, tìm
được để có thể thể hiện ý tưởng của mình trong tác phẩm. Nhưng tôi thấy
cái quan trong nhất của mọi người sáng tác trong mọi thời đại, là sự đắm
đuối thực sự với nghề, và trung thực với cảm xúc, tư tưởng của mình”. Và
Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

22


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

một Trương Quế Chi- cây bút đang có nhiều nội lực trong thi ca trẻ thế hệ
8X hiện nay, quan niệm: “Viết với tôi, như một cách để sống chung dung
hòa với những cảm xúc đơn độc, buồn bã”. Tuy nhiên, mới đây Trương
Quế Chi lại có những ý nghĩ mới:
Sống
Vì ngơn ngữ của chính mình
Sống
Vì khơng cịn muốn độc thoại
Sống vì đã thấy những ngôn ngữ thanh âm gần gũi
Những ngôn ngữ tạo nên thế giới
(Đồng giao Chi mười tám- Trương Quế Chi)
Ở những cây bút cách tân này, quan niệm sáng tác luôn hướng tới cái
tôi bản thể. Dám sống thật với chính mình, trung thành với thực tại, đương

đầu với những thử nghiệm mới. Qua cách nhìn của tác giả trẻ, cách họ quan
niệm về thơ, ta có thể thấy một dịng thơ mang hơi thở nóng bỏng của ngơn
từ, mạnh mẽ trong cách thể hiện. Họ hay nói về sex, về nhục cảm trong thơ,
rát rao trong nhục cảm. Thơ họ mang hơi hướng của chủ nghĩa hiện sinh và
những mảng màu trừu tượng của nghệ thuật sắp đặt. Họ dám thể nghiệm ở
mọi phương diện đời sống,
Sự phát triển của đội ngũ Thơ trẻ Việt Nam từ 1986 đến nay và những
thành tựu họ đạt được là một điều hết sức đáng mừng, nó cho phép chúng
ta hy vọng họ sẽ làm được điều gì đó cho thơ trong thời kỳ khó khăn hiện
nay khi tác giả của thơ ngày càng ít.

Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

23


Luận văn Thạc sĩ

Phan Thị Thanh Phong

Chƣơng 2
NỘI DUNG THƠ TRẺ VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY
2.1. SỰ ĐỔI MỚI XÃ HỘI DẪN ĐẾN SỰ ĐỔI MỚI VĂN HỌC
2.1.1. BỐI CẢNH VĂN HOÁ- XÃ HỘI

Năm 1986, với sự kiện Đại hội Đảng lần thứ VI, đất nước đã có
những chuyển biến quan trọng trên nhiều phương diện. Nền kinh tế chuyển
từ bao cấp sang mơ hình kinh tế thị trường. Cơng cuộc cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa được đẩy mạnh kéo theo đà tăng tốc của q trình đơ thị hóa.
Tinh thần dân chủ được coi trọng, tạo một luồng sinh khí mới ở nhiều lĩnh

vực đời sống. Việc chủ động mở cửa hội nhập với thế giới tạo điều kiện hội
các hoạt động giao lưu, tiếp xúc văn hóa phát triển.
Cùng với sự đổi mới nền kinh tế, chính trị là sự đổi mới văn hóa, văn
nghệ. Nghị quyết 05 của Bộ Chính trị BCHTW Đảng Cộng sản Việt Nam
nhan đề: Đổi mới và nâng cao sự lãnh đạo và quản lý văn hóa văn nghệ lên
một bước phát triển cao hơn, có đoạn viết: “Tự do sáng tạo là điều kiện sống
còn để tạo nên giá trị đích thực trong văn hóa văn nghệ và để phát triển tài
năng… Tác phẩm văn nghệ không phạm pháp luật… đều được quyền lưu
hành và đặt dưới sự đánh giá, phán xét của cơng luận và sự phê bình”.
Thời kỳ đổi mới đã tạo môi trường cho phép con người được giải
phóng cái tơi cá nhân của mình. Trong 30 năm chiến tranh, dưới áp lực của
hoàn cảnh lịch sử, cái tơi ấy nhiều khi phải nén lại và có khi hòa tan trong
cộng đồng, trong ý thức nghĩa vụ. Bối cảnh xã hội thời kỳ đổi mới tạo điều
kiện để cái tôi cá nhân nhận thức lại đúng với ý nghĩa, giá trị của nó. Con
người được quan tâm một cách toàn diện hơn, những nhu cầu thế sự, đời tư
cũng như những phương diện thuộc về đời sống tâm linh, vô thức được chú
ý nhiều hơn. Khi mà những chuẩn mực, chân lý chỉ còn là tương đối, khi
Thơ trẻ Việt Nam từ năm 1986 đến nay

24


×