Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tính sáng tạo của học sinh tiểu học trong học môn mỹ thuật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.02 MB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------*****------------------------MÃ NGỌC THỂ

TÍNH SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
TRONG HỌC MÔN MỸ THUẬT

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC TÂM LÝ HỌC

HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
--------------------*****---------------------MÃ NGỌC THỂ

TÍNH SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC
TRONG HỌC MÔN MỸ THUẬT
Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành: Tâm lý học
Mã số: 60.31.80

Người hướng dẫn khoa học:

PGS.TS. PHẠM THÀNH NGHỊ

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC

Trang


MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU TÍNH SÁNG TẠO CỦA

3
7

HỌC SINH TIỂU HỌC TRONG HỌC MƠN MỸ THUẬT

1.1.

Tổng quan vấn đề nghiên cứu

7

1.2.

Các khái niệm cơ bản

18
31

1.3.

Một số yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến tính sáng tạo của
học sinh tiểu học trong học môn mỹ thuật

Chương 2 TỔ CHỨC NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN

38


CỨU

2.1.

Vài nét về tổ chức nghiên cứu

2.2.

Phương pháp nghiên cứu

Chương 3 THỰC TRẠNG TÍNH SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH

38
38
44

TIỂU HỌC TRONG HỌC MƠN MỸ THUẬT

3.1

Mức độ tính sáng tạo của học sinh tiểu học theo trắc

45

nghiệm TSD-Z
3.2

Giới tính và tính sáng tạo của học sinh tiểu học

50


3.3

Sự phát triển của tính sáng tạo của học sinh theo năm

53

học
3.4

Nghề nghiệp của bố mẹ và tính sáng tạo của học sinh

57

3.5

Đánh giá của giáo viên về tính sáng tạo của học sinh

63

trong học môn mỹ thuật.

1


KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

69

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


73

PHỤ LỤC

77

2


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Những năm gần đây, người ta thường đòi hỏi nền giáo dục phải
trang bị cho học sinh năng lực tư duy sáng tạo như là một phẩm chất quan
trọng của con người hiện đại, đặc biệt là từ khi thế giới đã bắt đầu chuyển
mạnh sang nền kinh tế tri thức và xã hội tri thức. Ở nước ta, yêu cầu đó cũng
đã được nhiều nhà giáo dục khuyến nghị đưa vào như là một nội dung quan
trọng của triết lý giáo dục nước ta trong thời kỳ cơng nghiệp hố và hiện đại
hố đất nước. Nhưng, sáng tạo là gì? tư duy sáng tạo là gì? dạy cho học sinh
về tư duy sáng tạo là dạy những nội dung gì? và quan trọng hơn nữa là dạy
như thế nào để thật sự bồi dưỡng và nâng cao được năng lực tư duy sáng tạo
của học sinh.
1.2. Tiểu học là bậc học đầu tiên, là nền tảng cho các bậc học tiếp theo,
là tiền đề cho quá trình đào tạo và phát triển năng lực của những công dân
tương lai. Điều 27, Luật Giáo dục qui định: “Giáo dục tiểu học nhằm giúp học
sinh hình thành những cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về
đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục
học trung học cơ sở” [18]. Như vậy, phát triển tính sáng tạo cho học sinh, từ
đó giúp học sinh phát triển nhân cách tồn diện là một trong những mục tiêu
của giáo dục tiểu học. Điều này cho thấy, vấn đề nghiên cứu và nâng cao tính

sáng tạo của học sinh tiểu học là rất cần thiết. Nó góp phần đạt được mục tiêu
giáo dục tiểu học cũng như tạo cơ sở cho việc dạy học sát đối tượng. Năm
được trình độ, khả năng của học sinh tiểu học thì có thể tìm được phương
pháp, cách thức dạy học phù hợp nhằm phát huy tối đa năng lực của mỗi học
sinh, từ đó nâng cao chất lượng dạy học tiểu học.
1.3. Trên thực tế hiện nay, việc phân loại mức độ tính sáng tạo của học
sinh tiểu học nói chung và phân loại mức độ sáng tạo trong học môn mỹ thuật

3


nói riêng chủ yếu dựa vào điểm số (học lực) của học sinh và sự đánh giá,
nhận xét của giáo viên. Vì vậy, nghiên cứu tính sáng tạo của học sinh tiểu học
bằng các công cụ đo khách quan dựa trên cơ sở tâm lý học là rất cần thiết để
giúp nhà nghiên cứu, giáo viên tiểu học có hướng đánh giá mức độ sáng tạo
của học sinh phù hợp hơn. Kết quả nghiên cứu, đánh giá tính sáng tạo của học
sinh tiểu học trong học môn mỹ thuật sẽ là cơ sở khoa học để nâng cao hiệu
quả dạy học môn mỹ thuật và các môn khác.
1.4. Gần đây, ở nước ta cũng đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về tính
sáng tạo của học sinh, sinh viên. Nhưng các cơng trình nghiên cứu về tính
sáng tạo của học sinh tiểu học trong học tập một môn học cụ thể cịn ít, đặc
biệt là các cơng trình đi sâu nghiên cứu tính sáng tạo của học sinh tiểu học
trong học mơn mỹ thuật dưới góc độ tâm lý học.
Xuất phát từ những lý do nêu trên, đề tài: “Tính sáng tạo của học sinh
tiểu học trong học môn mỹ thuật” đã được lựa chọn và nghiên cứu.
2. Mục đích nghiên cứu
Thông qua việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn đề tài chỉ ra hiện trạng
mức độ tính sáng tạo của học sinh tiểu học trong học môn mỹ thuật, trên cơ sở
đó đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính sáng tạo của học sinh tiểu
học trong học mơn mỹ thuật cũng như nâng cao tính sáng tạo trong dạy học

các mơn học khác góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục và dạy học
ở trường tiểu học.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Tính sáng tạo của học sinh tiểu học trong học môn mỹ thuật
3.2. Khách thể nghiên cứu
- Là học sinh tiểu học và giáo viên dạy mỹ thuật của 2 trường Tiểu học
trên địa bàn Quận Đống Đa - Hà Nội.

4


4. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
- Trong đề tài này, tập trung nghiên cứu tính sáng tạo của học sinh tiểu
học qua trắc nghiệm TSD-Z và bài tập vẽ tranh trong học môn mỹ thuật ở
trường tiểu học.
- Thời gian nghiên cứu: từ năm 2008 - 2010.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Xác định cơ sở lý luận và phương pháp luận làm cơ sở nghiên cứu tính
sáng tạo của học sinh tiểu học qua bài tập vẽ tranh trong học môn mỹ thuật.
- Lựa chọn trắc nghiệm và phương pháp nghiên cứu để chỉ ra mức độ
tính sáng tạo của học sinh tiểu học trong học môn mỹ thuật
- Tiến hành khảo sát hiện trạng và thực hiện các test trắc nghiệm đo
mức độ tính sáng tạo trên mẫu học sinh đã lựa chọn, xử lý phân tích thực
trạng tính sáng tạo của số học sinh đã làm trắc nghiệm.
- Đề xuất một số khuyến nghị nhằm nâng cao tính sáng tạo cho học
sinh tiểu học trong học mơn mỹ thuật cũng như nâng cao tính sáng tạo trong
dạy học các mơn học khác góp phần nâng cao hơn nữa chất lượng dạy học giáo dục tại trường tiểu học.
6. Giả thuyết nghiên cứu
Tính sáng tạo của học sinh tiểu học trong học môn mỹ thuật hiện nay ở

mức độ trung bình khá. Do vậy, sau khi nghiên cứu hiện trạng mức độ tính
sáng tạo của học sinh tiểu học qua bài vẽ tranh trong học môn mỹ thuật có thể
đưa ra được các biện pháp tác động để nâng cao tính sáng tạo cho học sinh
tiểu học trong học mơn mỹ thuật đồng thời khuyến khích, nâng cao mức độ
tính sáng tạo và phát triển tính sáng tạo trong các môn học khác cho học sinh
ở trường tiểu học.

5


7. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu
- Phương pháp chuyên gia
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Phương pháp trắc nghiệm
- Phương pháp quan sát
- Phương pháp phỏng vấn sâu
- Phương pháp thống kê toán học
8. Ý nghĩa của luận văn
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về tính sáng tạo của học
sinh tiểu học trong học môn mỹ thuật; đề xuất khuyến nghị nhằm góp phần
nâng cao mức độ phát triển tính sáng tạo của học sinh tiểu học.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
tổ chức q trình dạy học mơn mỹ thuật ở trường tiểu học.
9. Cấu trúc của luận văn
- Mở đầu; ba chương; kết luận; khuyến nghị; danh mục tài liệu
tham khảo; phụ lục.

6



Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN NGHIÊN CỨU TÍNH SÁNG TẠO CỦA HỌC SINH
TIỂU HỌC TRONG HỌC MÔN MỸ THUẬT
1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các cơng trình nghiên cứu về sáng tạo trên thế giới
Hoạt động sáng tạo gắn liền với lịch sử tồn tại và phát triển của xã hội
lồi người. Từ việc tìm ra lửa, chế tạo công cụ bằng đá thô sơ... đến việc sử
dụng năng lượng nguyên tử, chinh phục vũ trụ..., hoạt động sáng tạo của lồi
người khơng ngừng được thúc đẩy. Sáng tạo không thể tách rời khỏi tư duy hoạt động bộ não của con người. Chính q trình tư duy sáng tạo với chủ thể
là con người đã tạo các giá trị vật chất, tinh thần, các thành tựu vĩ đại về mọi
mặt trong cuộc sống và tạo ra nền văn minh nhân loại.
Thuật ngữ khoa học về sáng tạo (Heuristics, Creatology hay Ars
inveniendi), lần đầu tiên xuất hiện trong những cơng trình của nhà tốn học
Pappos, sống vào nửa cuối thế kỷ thứ III tại Alexandri - Hy Lạp. Ý định
"khoa học hóa tư duy sáng tạo" hay sáng tạo, theo quan niệm lúc bấy giờ,
Ơristic là khoa học về các phương pháp và quy tắc làm sáng chế, phát minh
trong mọi lĩnh vực khoa học, kỹ thuật, văn học, nghệ thuật, chính trị, triết học,
tốn, qn sự... Sau đó các nhà toán học và triết học nổi tiếng như Descartes,
Leibnitz, Bernard Bolzano... đã có nhiều cố gắng thành lập hệ thống khoa học
nghiên cứu về khả năng sáng tạo của con người. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa
có những cơng trình nghiên cứu đầy đủ về năng lực sáng tạo của con người
như một ngành khoa học độc lập.
Nghiên cứu chuyên sâu về sáng tạo dưới góc độ tâm lý học có thể thấy
các tác phẩm nổi tiếng trên thế giới chưa được dịch ở Việt Nam như: “Những
nhà tâm lý học sáng tạo người Mỹ”, - Guilford J. P, (1950)[48]; “Các thái độ

7



sáng tạo”, Fromm (1959)[46]; “Sự phát triển của sáng tạo ở trẻ em”, Klaus
K. Urban (1991)[49]; “Sáng tạo trong ngữ cảnh”, Westview Press. Amabile
TM (1996)[42]; “Dạy trẻ phương pháp tư duy: phát triển trí năng, óc sáng
tạo và sự tự tin cho trẻ”, Edward de Bono (2005.)[45]( Các tác phẩm tiếng
Anh- Tác giả dịch tên sang tiếng Việt); và các tác phẩm đã được dịch ra tiếng
Việt như: “Tâm lý học nghệ thuật”, Vưgơtxki (1980); “Trí tưởng tượng và
sáng tạo ở tuổi thiếu nhi”, Vưgôtxki (1985)[37]; …và khá nhiều công trình
nghiên cứu về sáng tạo, tư duy sáng tạo của các nhà tâm lý học Xô viết như
X.L. Rubinstein, N.A. Menchinxcaia, P.Ia. Ganperin, ….
Tổng hợp các cơng trình nghiên cứu của các nhà tâm lý học trên
thế giới khi nghiên cứu sáng tạo có thể tiếp cận theo các hướng như sau:
Hướng thứ nhất, tiếp cận nghiên cứu sáng tạo dưới góc độ xã
hội - nhân cách
Các cơng trình theo hướng tiếp cận xã hội - nhân cách đã tập trung vào
nghiên cứu các biến nhân cách, động cơ và mơi trường văn hố xã hội như
nguồn gốc của sáng tạo. Các nhà nghiên cứu như Amabile (1983), Eysenck
(1993), Gough (1979) đã điểm ra những đặc điểm nhân cách thường là đặc tính
của người sáng tạo. Barron & Harrington (1981) thông qua những nghiên cứu
tương quan và nghiên cứu đối lập những người sáng tạo cao và sáng tạo thấp
(cả mức độ sáng tạo kiệt xuất và hàng ngày) đã liệt kê một số phẩm chất nhân
cách của người sáng tạo: bình luận độc lập, tự tin, bị lơi cuốn bởi sự phức tạp,
định hướng mỹ học và ưa mạo hiểm. Theo Maslow (1968), tính táo bạo, dũng
cảm, tự nhiên, tự chấp nhận và những thuộc tính khác có thể đưa cá nhân đến
hiện thực hoá tất cả tiềm năng của mình, trong đó có tiềm năng sáng tạo.
Tập trung vào động cơ sáng tạo, nhiều nhà lý luận đã giả định sự phù
hợp của động cơ tự thân (Ambile, 1983, Crutchfied, 1962), nhu cầu thành đạt
(McClelland, Atkinson, Clack, Lowell, 1953) và các động cơ khác. Amable

8



(1983) và đồng nghiệp của bà đã tiến hành nhiều nghiên cứu về tầm quan
trọng của động cơ tự thân (bên trong) đối với sáng tạo. Nghiên cứu của
Sternberg, Farrari, Clinkenbeard & Grigorenko (1996) chỉ ra rằng không chỉ
sáng tạo cần động lực mà sáng tạo còn tạo ra động lực. Khi các sinh viên
được đánh giá cao khả năng sáng tạo của họ, kết quả học tập được nâng lên.
Có cơ hội được sáng tạo, những sinh viên vì lý do nào đó mất động lực học
tập có thể tìm lại được động lực.
Sự phù hợp của mơi trường xã hội đối với sáng tạo là lĩnh vực có nhiều
cơng trình nghiên cứu. Ở cấp độ mơi trường xã hội, Simonton (1984) đã tiến
hành nhiều nghiên cứu có liên quan về số liệu theo thời gian với những nền văn
hố đa dạng, có những vai khác nhau, nguồn lực và nhiều người cạnh tranh. Sự
so sánh liên văn hoá (Lubart, 1990) và nhân học (Maduro, 1976; Silver, 1981)
đã chỉ ra những tác động của văn hoá tới sự biểu đạt sáng tạo. Các nền văn hoá
khác nhau đánh giá sáng tạo khác nhau.
Guilford J.B. là người đầu tiên nói về các đặc điểm nhân cách của nhân
cách sáng tạo và biểu diễn nó thành một mơ hình. Ơng cho rằng, nhân cách
sáng tạo được xác định bởi một tổ hợp các đặc điểm và năng lực như sau: tính
lưu lốt (fluency), tính mềm dẻo (flexibility), tính cho tiết (elaboration), tính
độc đáo (ogrinality), tính nhạy cảm vấn đề (sensibility) và sự định nghĩa lại
(redefinition) [48]. Những nghiên cứu ở Viện nhân cách của trường đại học
tổng hợp California đã đi đến kết luận như sau:
- Người sáng tạo trội hơn về tính phức hợp trong tư duy;
- Người sáng tạo tinh tế hơn và phức hợp hơn trong tâm vận động;
- Người sáng tạo có tính độc lập hơn trong đánh giá;
Người sáng tạo tự ý thức cao hơn, tự tin cao hơn;
- Người sáng tạo luôn chống lại sự áp đặt và sự hạn chế.

9



Từ góc độ nhân cách, năm 1988 nhà tâm lý học người Đức Pigpig G.
cho rằng: Tính sáng tạo là thuộc tính nhân cách đặc biệt, thể hiện khi con
người đứng trước một hồn cảnh có vấn đề; Thuộc tính nhân cách này là tổ
hợp các phẩm chất tâm lý, mà nhờ đó con người trên cơ sở kinh nghiệm của
mình và bằng tư duy độc lập tạo ra được ý tưởng mới, độc đáo, hợp lý trên
bình diện cá nhân hay xã hội. Ở đó người sáng tạo gạt bỏ được các giải pháp
truyền thống và đưa ra giải pháp mới, độc đáo và thích hợp đối với các vấn đề
đặt ra [52].
Hướng tiếp cận xã hội - nhân cách đã có đóng góp đáng kể về mặt khoa
học trong nghiên cứu sáng tạo. Tuy nhiên, hướng nghiên cứu này chưa chú ý
đến khía cạnh q trình sáng tạo nên chưa lý giải một cách khoa học về quá
trình sáng tạo diễn ra như thế nào?.
Hướng thứ hai, tiếp cận nghiên cứu sáng tạo dưới góc độ q trình
Kết quả nghiên cứu của Finke, Ward và Smith (1992); Sternberg &
Davidson (1995). Fike và các đồng nghiệp đề xuất mô hình sáng tạo có hai
giai đoạn: giai đoạn ý tưởng và giai đoạn khai thác. Ở giai đoạn ý tưởng, cá
nhân xây dựng dạng thức tâm lý, được gọi là cấu trúc tiền sáng tạo, nó có các
thuộc tính được sử dụng để xúc tiến phát kiến sáng tạo. Trong giai đoạn khám
phá, các thuộc tính này được dùng để đi đến ý tưởng sáng tạo. Hàng loạt các
quá trình tâm lý tham gia vào hai giai đoạn này như sự phục hồi, liên tưởng,
tổng hợp, chuyển hoá, dịch chuyển tương tự và phân nhóm.
Weisberg (1986, 1993) cho rằng tư duy sáng tạo liên quan đến q
trình nhận thức thơng thường nhằm tạo ra sản phẩm đặc sắc. Nghiên cứu
trường hợp các nhà sáng tạo độc đáo và nghiên cứu thử nghiệm trên những
người bình thường, Weisberg cố gắng chỉ ra rằng thời điểm loé sáng phụ
thuộc vào việc chủ thể sử dụng các quá trình nhận thức phù hợp (cũng như sự
dịch chuyển tương tự), sử dụng các kiến thức đang lưu giữ trong trí nhớ.

10



Arnold (1964) và Guilford (1967) coi sáng tạo như là một quá trình giải
quyết vấn đề, vì mỗi tình huống giải quyết vấn đề đòi hỏi cá nhân tư duy sáng
tạo. Đứng trước một vấn đề, con người huy động vốn kinh nghiệm của mình,
kết hợp chúng lại thành cấu trúc mới và với cấu dạng mới này của kinh
nghiệm thì vấn đề đặt ra được giải quyết.
Tâm lý học ngày nay chia quá trình sáng tạo thành bốn pha: chuẩn bị,
ấp ủ, bừng sáng và chứng thực. Mỗi pha đòi hỏi ở cá nhân sáng tạo một trạng
thái tâm lý nhất định. Trạng thái đầu tiên mà người sáng tạo phải trải nghiệm
là căng thẳng (hưng phấn), sau đó là thất vọng, ở pha thứ ba là niềm vui và
trong pha cuối cùng là sự tập trung cao độ.
Dưới góc độ q trình, Torrance E.P. (1962) quan niệm rằng: Sáng tạo
được hiểu là một quá trình tạo ra ý tưởng hoặc giả thuyết, thử nghiệm ý tưởng
này đi đến kết quả …Kết quả này có ít nhiều mới mẻ, có chút ít cái gì đó
trước đây con người chưa bao giờ nhìn thấy, chưa ý thức về nó [55]. Quá
trình sáng tạo ở đây bao gồm tư duy tưởng tượng bay bổng, phát hiện, tò mò,
thử nghiệm, thăm dò và đánh giá, …. Như vậy, dưới góc độ quá trình, sáng
tạo là một quá trình hoạt động được kết thúc ở một sản phẩm mới, độc đáo,
được một nhóm người nào đó ở một thời điểm tương ứng thừa nhận là có ích.
Hướng thứ ba, tiếp cận nghiên cứu sáng tạo dưới góc độ sản phẩm
Nhà tâm lý học người Mỹ, De Bono E. với hướng tiếp cận thực dụng
trong nghiên cứu sáng tạo đã tập trung nghiên cứu thực tiễn vấn đề phát triển
tư duy sáng tạo và những sản phẩm mang tính thương mại (De Bono, 1985,
1992). De Bono không quan tâm đến lý luận mà ông quan tâm đến thực tiễn.
Ơng khuyến nghị dùng cơng cụ tập trung vào các khía cạnh của ý tưởng cộng
(pluses - P), ý tưởng trừ (minuses - M) và hứng thú (I) (PMI) để phát triển các
ý tưởng sáng tạo. Một công cụ khác mà Bono dùng là mũ tư duy (six thinking
hats) để khuyến khích tạo ra sản phẩm sáng tạo từ những quan điểm khác


11


nhau [45]. Osborn (1953) đi theo khuynh hướng này dựa trên kinh nghiệm
quảng cáo của mình, phát triển kỹ thuật cơng não để khuyến khích mọi người
giải quyết vấn đề một cách sáng tạo bằng cách tìm nhiều lời giải có thể trong
một khơng khí xây dựng hơn là phê phán. Von Oech (1986) đã khuyến cáo
mọi người cần thích nghi với các vai trò người khám phá, nghệ sĩ, luật sư và
chiến binh để nuôi dưỡng sản phẩm sáng tạo. Đây là cách tiếp cận hữu dụng,
nhưng chúng ta có thể thấy cách tiếp cận này thiếu cơ sở khoa học và những
đánh giá thực chứng đủ tin cậy.
Kết quả nghiên cứu của Ghiselin B. (1956) chỉ ra: sản phẩm sáng tạo là
cấu dạng mới nhất của thế giới kinh nghiệm, được tạo nên bằng cấu trúc lại
thế giới kinh nghiệm đã có trước đó, thể hiện rõ nhất sự nhận thức của chủ thể
sáng tạo về thế giới và bản thân cũng như quan hệ giữa người đó với thế giới
ấy [47]. Sản phẩm sáng tạo được đánh giá theo mức độ kinh nghiệm được cấu
trúc lại. Một sản phẩm có phạm vi ứng dụng càng rộng thì được đánh giá tính
sáng tạo càng cao.
Theo Guilford J.P., có hai loại sản phẩm sáng tạo: 1) Sản phẩm sáng
tạo cụ thể có thể cảm nhận được hay sản phẩm sáng tạo được một nền văn hoá
thừa nhận; 2) Sản phẩm tâm lý không chỉ đạt được bằng hoạt động cụ thể bên
ngồi, khơng nhất thiết cảm nhận được bằng các giác quan mà có thể chỉ là
các ý tưởng được bộc lộ ra hay chỉ tồn tại trong dạng sản phẩm của tư duy
[48]. Quan niệm về sự tồn tại loại sản phẩm sáng tạo trong tư duy do Guilford
đề xướng là một quan niệm đúng đắn được nhiều nhà tâm lý học tán thành.
Như vậy, khơng chỉ có sáng tạo của các nhà nghệ thuật, kỹ thuật mà cịn có
sáng tạo của các nhà tư tưởng, nhà hoạt động chính trị - xã hội. Tính mới mẻ
của hoạt động sáng tạo là tiêu chuẩn, thước đo về mức độ của tính sáng tạo.
Ban đầu, sáng tạo thường được phân ra thành hai mức độ: trình độ cao khi sự


12


sáng tạo mang tính khai sáng dẫn đến sự phát triển, đổi mới của một xã hội,
một nền văn hoá; trình độ thấp chỉ mở rộng thêm kinh nghiệm.
Để có thể thực thi việc đánh giá tính sáng tạo trong hoạt động khoa học
- kỹ thuật và kinh tế - xã hội, tác giả I. Taylor đã phân chia sự sáng tạo ra năm
cấp độ: cấp độ biểu hiện, đó là sự sáng tạo của trẻ thơ; cấp độ tạo tác là khi cá
nhân đã có những kỹ năng nhất định để thực hiện ý tưởng; cấp độ đổi mới, cá
nhân đã có thể thao tác được, tìm thấy những quan hệ mới giữa những sự vật
được tác động đến; cấp độ cải tiến là cá nhân sáng chế cái mới; cấp độ khai
sáng là khi người sáng tạo đưa ra được ý tưởng hay sản phẩm mới, độc đáo có
ý nghĩa khai sáng văn hố [55].
Ở ba cấp độ đầu của sáng tạo thì cái mới vẫn liên quan đến thế giới
kinh nghiệm của cá nhân người sáng tạo. Ở hai cấp độ cao của sáng tạo thì cái
mới vượt ra ngoài thế giới kinh nghiệm của cá nhân và bổ sung vào thế giới
kinh nghiệm của nhân loại. Mặc dù nhìn từ góc độ truyền thống văn hố tồn
xã hội, tính sáng tạo ở cấp độ cá nhân là khơng có ý nghĩa, những chính sáng
tạo cá nhân tạo ra tính sáng tạo xã hội. Theo quan niệm này thì việc giáo dục
tính sáng tạo ở cấp độ cá nhân là con đường, điều kiện tất yếu để tạo ra sự
sáng tạo ở cấp độ xã hội.
Với việc vận dụng phương pháp nghiên cứu và thành quả của nhiều
ngành khoa học khác nhau như Tâm lý học, Giáo dục học, Logic học, Giải
phẫu học, Điều khiển học, Lý thuyết thông tin, Lý thuyết hệ thống và các tiến
bộ của y học nghiên cứu về bộ não của con người; Hiện nay đã có hàng trăm
cơng cụ hoặc phương tiện giúp tích cực hóa tư duy - giảm sức ỳ trong tư duy,
khơi gợi và phát triển năng lực sáng tạo của con người như: Phương pháp não
công (Brainstorming method), Phương pháp các câu hỏi kiểm tra (Method of
control questions), Phương pháp phân tích hình thái (Morphogical analysis),


13


Sơ đồ khối TRIZ & ARIZ, Sáu mũ tư duy (six thinking hats), Bản đồ tư duy
(của Tony Buzan)....
Nhiều nước trên thế giới đã ứng dụng những cách học tập mang tính
sáng tạo để thúc đẩy tính sáng tạo ở học sinh và còn tổ chức các cuộc thi sáng
tạo, và xem xét trao tặng các giải thưởng sáng tạo hàng năm. Ví dụ, chính phủ
Anh đã đặt ra các mục tiêu giúp học sinh như giỏi toán và văn. Kế hoạch này
đã có được thành cơng. Nhiều nhà quan sát quốc tế ghi nhận, học sinh Anh
đang ngày càng khá hơn trong các môn then chốt, khả năng đọc, viết và tính
tốn của các em có nhiều tiến bộ. Trường tiểu học Michael Faraday là 1 trong
số 33 trường học trên tồn nước Anh trở thành hình mẫu về cách phương
pháp giảng dạy sáng tạo. Qua áp dụng thực tế họ đã chỉ ra rằng: ''Tính sáng
tạo trong dạy học không chỉ đơn thuần là dành nhiều thời gian cho khoa học
nhân văn và nghệ thuật, mà đó là phát triển suy nghĩ và hành động sáng tạo
của học sinh thơng qua các chương trình giảng dạy. Sự sáng tạo sẽ được phát
huy từ những bài học và bài giảng, thơng qua các giáo trình được soạn sẵn và
mơi trường học tập''
Phương pháp Mind Map được Tony Buzan sáng tạo như một “công cụ
đa năng của não bộ” - ứng dụng trong mọi lĩnh vực, từ thay đổi cách quản lý,
ghi chú, tư duy đến cách giải quyết mọi vấn đề. Ý tưởng chủ đạo trong Mind
Map cho thấy trí nhớ của con người được hình thành bằng trí tưởng tượng và
khả năng liên tưởng. Là cha đẻ của phương pháp tư duy Mind Map, Tony
Buzan đã đi khắp thế giới để thực hiện sứ mệnh của mình. Sứ mệnh đó là giải
phóng sức mạnh của não bộ, nhằm khám phá và sử dụng năng lực sáng tạo
mạnh mẽ của mỗi con người một cách dễ dàng nhất.
Tổng hợp các hướng nghiên cứu về sáng tạo trên thế giới cho thấy sự
đa dạng trong nghiên cứu về tính sáng tạo. Các hướng nghiên cứu khác nhau
có bổ sung và phối hợp với nhau. Nghiên cứu về sáng tạo có thể tiến hành


14


một cách độc lập hoặc có thể phối hợp trong nhiều lĩnh vực khoa học hay thực
tiễn. Hướng tiếp cận nghiên cứu sáng tạo dưới góc độ sản phẩm là cơ sở lý
luận quan trọng trong nghiên cứu tính sáng tạo của học sinh tiểu học.
1.1.2. Các nghiên cứu về sáng tạo và tính sáng tạo ở Việt Nam
* Về nghiên cứu:
Trong những năm gần đây, ở Việt Nam, lĩnh vực sáng tạo và phát triển
tư duy sáng tạo được các nhà khoa học rất quan tâm nghiên cứu. Các cơng
trình nghiên cứu về tính sáng tạo của các nhà khoa học trong nước đi theo xu
hướng nghiên cứu chung của các nhà tâm lý học trên thế giới, nhưng tập trung
và phát triển mạnh hơn ở góc độ nghiên cứu thực tiễn. Có thể kể đến một số
cơng trình tiêu biểu như: "Sáng tạo - bản chất và phương pháp chẩn đoán”,
Nguyễn Huy Tú và Phạm Thành Nghị [27]; “Những trò chơi khéo tay và sáng
tạo”, Nguyễn Hạnh (2004); “Phát huy tính sáng tạo của trẻ”, Nguyễn Mạnh
Linh [16]; “Bồi dưỡng trí tuệ qua các bài cắt, ghép hình thủ công phát minh
sáng tạo” [40]; “Tài năng, quan niệm nhận dạng và đào tạo”, Nguyễn Huy
Tú [30]; “Trí tuệ và đo lường trí tuệ”, Trần Kiều [15]; ...
Một số luận án tiến sĩ: “Đặc trưng tâm lý của trẻ em có năng khiếu
thơ”, Nguyễn Ánh Tuyết [34]; “Ảnh hưởng của tri giác tới tưởng tượng sáng
tạo trong hoạt động vẽ của trẻ từ 5-6 tuổi”, Lê Thanh Thúy [31] .…
Bài báo khoa học: "Một số cơ sở tâm lý học của việc bồi dưỡng năng
lực sáng tạo", Phạm Thành Nghị [23]
Nội dung các cơng trình nghiên cứu trên đề cập đến quan niệm sáng tạo
trong mỹ thuật thể hiện qua các cách xây dựng bố cục tranh, tạo hình, các
đường nét vẽ sáng tạo như: “Họa sĩ Nguyễn Gia Trí nói về sáng tạo”, Nguyễn
Xn Việt [36] nghiên cứu này chỉ ra những kinh nghiệm của họa sĩ Nguyễn
Gia Trí trong hoạt động sáng tác, sáng tạo nghệ thuật với cái nhìn của họa sĩ


15


bậc thầy về đời sống và khẳng định vai trò của thực tiễn đối với công việc
sáng tác hội họa …Tuy nhiên, các nghiên cứu về sáng tạo và tính sáng tạo
dưới góc độ tâm lý học thì cịn rất ít. Các nghiên cứu này chỉ ra một số đặc
điểm tâm lý của người lớn và trẻ em có những biểu hiện sáng tạo trong q
trình sáng tạo ngơn ngữ thơ, bố cục tranh vẽ, trí tưởng tượng của con người,
trong hoạt động lao động sản xuất.
Nghiên cứu “Tâm lý học sáng tạo”của tác giả Đức Uy chỉ ra động lực
sáng tạo, vai trò của giao tiếp, trực giác và tưởng tượng trong sáng tạo khoa học,
vai trò của tư duy sáng tạo, một số phẩm chất cơ bản của con người sáng tạo ở
nước ta hiện nay [35].
Trong bài viết “Đặc điểm nhân cách sáng tạo” tác giả Phạm Thành
Nghị đã phân tích khá kỹ 11 đặc điểm nhân cách sáng tạo: thiên hướng về
một lĩnh vực, chấp nhận tình huống khơng xác định, tưởng tượng tự do, tự do
chức năng, tính mềm dẻo, thích mạo hiểm, chấp nhận sự lộn xộn, trì hỗn
hưởng thụ, giải phóng khỏi vai trị giới, tính kiên trì và lịng dũng cảm. Các
đặc điểm này có mối quan hệ mật thiết với quá trình sáng tạo. Có thể khơng
phải tất cả các phẩm chất này đều phát triển đầy đủ ở một nhân cách sáng tạo,
nhưng sự hiện diện của chúng là một đảm bảo cho sự ra đời các ý tưởng sáng
tạo và các sản phẩm sáng tạo [22].
Tác giả Hoàng Chúng đã nghiên cứu vấn đề rèn luyện, phát triển tư duy
sáng tạo cho học sinh về phương pháp suy nghĩ cơ bản trong sáng tạo toán
học. Tác giả đã chỉ rõ hai đặc trưng quan trong nhất của sáng tạo là: tính mới
mẻ trong sản phẩm của tư duy (trên bình diện xã hội hoặc cá nhân); tính độc
lập của tư duy trong việc đặt mục đích, tìm đường giải quyết và trong việc
chọn con đường giải quyết.
Những nghiên cứu sâu hơn có thể kể đến cuốn sách “Bộ trắc nghiệm

sáng tạo TSD-Z của Klaus K.Urban với những ứng dụng ở nước ngoài và

16


Việt Nam”, tác giả Nguyễn Huy Tú là người có nhiều nghiên cứu về tính sáng
tạo dưới góc độ tâm lý học và giáo dục học ở Việt Nam, đã có đóng góp đáng
kể vào việc nghiên cứu lý thuyết về tính sáng tạo của con người cũng như về
các phương pháp đo đạc đánh giá tính sáng tạo của người Việt Nam ở các độ
tuổi khác nhau. Trong cuốn sách này tác giả trình bày một cách cơ bản về bộ
test sáng tạo TSD-Z của Klaus K. Urban (cơ sở lý thuyết, kỹ thuật thực hiện
test, kỹ thuật chấm bài test cũng như kỹ thuật xử lý phân tích số liệu test) và
những ứng dụng ở nước ngoài, những nghiên cứu thích ứng TSD-Z của Urban
vào Việt Nam cũng như những ứng dụng bước đầu của TSD-Z trong nghiên
cứu khảo sát tính sáng tạo của người Việt Nam ở các độ tuổi từ mẫu giáo đến
tuổi trưởng thành [28]. Bên cạnh đó, tác giả Nguyễn Huy Tú cũng có cơng
trình nghiên cứu Báo cáo khoa học đề tài cấp Bộ mã số B98-49-56 thực hiện
năm 2000 “Nghiên cứu ứng dụng bộ trắc nghiệm sáng tạo TSD-Z của Klaus
K. Urban trên trẻ em tuổi học sinh tiểu học Việt Nam”.
Kế thừa những nghiên cứu của tác giả Nguyễn Huy Tú, chúng tôi sử
dụng test TSD-Z của Urban đã được Việt hóa vào q trình nghiên cứu của
mình như là một cơng cụ đo mức độ tính sáng tạo của học sinh tiểu học trong
học tập môn mỹ thuật.
* Về đào tạo
Ở Việt Nam đã có lớp học đầu tiên về tư duy sáng tạo được tổ chức vào
năm 1977. Hiện nay, Trung tâm Sáng tạo KHKT( TSK ) thuộc Đại học Tổng
hợp TP.HCM thường xuyên mở các lớp, chiêu sinh theo cách ghi danh tự do
cho những người nào quan tâm đến việc nâng cao chất lượng suy nghĩ. Gần
60 khoá học đã mở với hơn 2.300 người tham dự. Việc tổ chức giảng dạy
môn học này đã giúp các học viên ứng dụng vào công tác tổ chức và kinh

doanh tạo ra các ý tưởng sáng tạo trong quá trình làm việc.

17


Tại khoa Tâm lý học, Trường ĐH KHXH & NV- Đại học Quốc Gia Hà
Nội đã bắt đầu đưa môn học Tâm lý học sáng tạo vào giảng dạy cho học viên
cao học từ niên học 2009 do PGS. TS Phạm Thành Nghị đảm nhiệm. Môn
học này trang bị cho học viên cao học những kiến thức về sáng tạo, động cơ
sáng tạo, q trình sáng tạo ,…dưới góc độ tâm lý học [21].
Tóm lại, các tác giả và các cơng trình nghiên cứu trên chưa có nghiên
cứu sâu về mức độ tính sáng tạo của học sinh tiểu học trong hoạt động học
môn mỹ thuật. Do vậy, đây cũng là lý do mà chúng tôi tiến hành đề tài nghiên
cứu này ở học sinh tiểu học.
1.2. Các khái niệm cơ bản
1.2.1. Khái niệm sáng tạo
Theo nghĩa thông thường, sáng tạo là một tiến trình phát kiến ra các ý
tưởng và quan niệm mới, hay một kết hợp mới giữa các ý tưởng và quan niệm
đã có. Hay đơn giản hơn, sáng tạo là một hành động làm nên những cái mới.
Với cách hiểu đó thì cái quan trọng nhất đối với sáng tạo là phải có các ý
tưởng, như lời của nhà toán học vĩ đại Poincaré: "Trong sáng tạo khoa học, ý
tưởng chỉ là những ánh chớp, nhưng ánh chớp đó là tất cả", hay lời của một nhà
khoa học vĩ đại khác, Linus Pauling, khi trả lời câu hỏi làm thế nào người ta
sáng tạo ra được các lý thuyết khoa học: "Người ta phải cố nắm bắt được nhiều
ý tưởng" và "con đường để có được một ý tưởng tốt là có thật nhiều ý tưởng".
Từ "Sáng Tạo" (tiếng Pháp : Créer, création) thường được dùng trong
Thần Học, Ðạo Học có nghĩa "làm cho một thứ gì từ cái ‘Khơng gì cả’ (le rien)
hay từ Hư không (le néant) trở thành hiện hữu" (acte de donner l’existence, de
tirer du néant – Dict. Le Petit Robert). Rousseau nói rằng : "Ý niệm sáng tạo là ý
niệm theo đó, người ta quan niệm do một hành động đơn giản của Ý chí, cái

‘Khơng’ trở thành một thứ gì hiện hữu". Ðiều nầy đã trở thành thắc mắc của

18


Leibniz : Tại sao có thứ này thứ nọ mà khơng là khơng gì cả ?".
Có nhiều cách nói khác nhau, và tùy theo cách tiếp cận vấn đề mà các
tác giả đưa ra khái niệm về sáng tạo. Khái niệm sáng tạo được sử dụng trong
mọi lĩnh vực của thế giới vật chất và tinh thần. Ví dụ, trong khi nghiên cứu về
các vùng, thành phố thuận lợi cho việc phát triển công nghệ cao, GS Richard
Florida, Đại học Carnegie Mellon (Mỹ) đã đưa ra khái niệm về “Giai tầng
Sáng tạo” (creative class). Đó là giới khoa học, kỹ sư, giáo sư, văn nghệ sỹ,
diễn viên, nhà thiết kế, kiến trúc sư, các học sỹ, nhà nghiên cứu, các nhà tư
tưởng, nhà báo... Ngồi ra, họ cịn là những người làm các nghề mang tính
sáng tạo (TST), ví dụ: nghề y tế, luật pháp, quản lý kinh doanh, công nghệ
cao... Những người này có thể nghĩ ra những phương pháp, sản phẩm nổi trội
nhưng lại không nằm trong danh mục công việc của họ. Cái mà người ta
muốn họ làm là: suy nghĩ theo cách riêng của họ. Họ đưa các giải quyết độc
đáo và nhiều nhận xét khác biệt. Họ đến từ nhiều nghề, nhưng đều có cái
chung, đó là: tính Sáng tạo, tính Cá nhân, sự Khác biệt và sự Xuất sắc. Họ
đem lại giá trị sáng tạo cho xã hội. Tính sáng tạo càng có giá trị, giai tầng
sáng tạo càng phát triển.
Theo từ điển Tiếng Việt thì “Sáng tạo là tạo ra giá trị mới về vật chất
hoặc tinh thần; có cách giải quyết mới khơng bị gị bó phụ thuộc vào cái đã
có; có óc sáng tạo, vận dụng một cách sáng tạo”[39, tr.1048].
Theo Ponomarev Ia.A thì sáng tạo là tạo ra cái mới, có giá trị, phù hợp.
Hiểu theo nghĩa hẹp, sáng tạo liên quan đến hoạt động con người, nhưng theo
nghĩa rộng, là cơ chế phát triển, tạo ra cái mới, có giá trị để loại bỏ cái cũ [53]
Theo tác giả Phan Dũng: Khái niệm sáng tạo được dùng để chỉ những
sự vật mới và có ích cho đời sống con người [3].

Theo tác giả Phạm Thành Nghị thì: Sáng tạo là q trình tạo ra cái mới
có giá trị, đem lại cho chủ thể sáng tạo sự thích thú và sảng khoái [24].

19


Từ các kết quả nghiên cứu trên có thể hiểu: Sáng tạo là quá trình làm phát
sinh (phát hiện, phát kiến hoặc phát minh) một sự vật hoặc hiện tượng mới và
hữu ích, đáp ứng nhu cầu tồn tại hoặc phát triển của con người trong xã hội
đương đại. Sáng tạo là khả năng tạo ra những ý tưởng mới và giải pháp mới.
Do đó, mọi sự vật hoặc hiện tượng mới phát sinh phải thỏa mãn hai điều
kiện là cái mới và có ích mới được thừa nhận là sáng tạo, đó là tính hữu ích cho
đời sống con người hoặc văn minh nhân loại. Tuy nhiên, có những sự vật hoặc
hiện tượng mới, nhưng không thỏa mãn điều kiện này (về tính hữu ích) thì
cũng khơng được gọi là sáng tạo, mà chỉ dùng từ "mới" để nói về chúng mà
thôi. Như vậy, không phải phát kiến nào cũng được xem là sáng tạo.
Tính phổ biến của khái niệm sáng tạo thể hiện ở phạm vi sử dụng nó. Ở
đâu, trong bất kỳ lĩnh vực nào của nền văn hóa, văn minh nhân loại, khi xuất
hiện một sự vật hay hiện tượng mới, thỏa mãn điều kiện cần và đủ của nó thì
đều được xem đó là sự sáng tạo. Theo đó, ta có thể thấy từ sáng tạo được gắn
kết với rất nhiều khái niệm khác nhau như: ý tưởng sáng tạo, tư duy sáng tạo,
quan điểm sáng tạo, việc làm sáng tạo, hành động sáng tạo, công cụ sáng tạo,
phương tiện sáng tạo, phương pháp sáng tạo.
Sáng tạo là một quá trình diễn ra xuyên suốt từ lúc hình thành ý tưởng
đến khi tạo ra một sản phẩm mới có giá trị trong đó có chứa đựng nhiều yếu
tố liên quan đến như yếu tố con người, môi trường, điều kiện, và nhân cách
của chủ thể sáng tạo. Quá trình sáng tạo bao gồm: Chuẩn bị, ấp ủ (vô thức),
bột thức, đánh giá và chi tiết hóa. Quan trọng nhất là chuyển giữa vơ thức
sang ý thức, nhưng thực chất là giai đoạn chuẩn bị là quan trọng nhất, làm
việc tích lũy. Trong đó cơ chế lơgic và cơ chế trực giác đóng vai trị là mắt

xích trung tâm của q trình sáng tạo

20


+ Cơ chế lơgic: nhận ra vấn đề; phân tích vấn đề; gắn vấn đề vào quan
hệ; xây dựng giả thuyết, giải pháp; kiểm chứng giải pháp; nhận thức mới. Cơ
chế này phù hợp với nghiên cứu khoa học và học tập: cần nhận thức vấn đề đưa ra giả thuyết, giải pháp dự kiến - kiểm tra giả thuyết.
+ Cơ chế trực giác: bột phát xuất hiện, kết quả của làm việc trước đó, tư
duy trăn trở. Khoảnh khắc trực giác tự nó chưa phải là sáng tạo khoa học, nó
phải được ý thức, phát biểu bằng lời và đôi khi phải biểu đạt bằng những
phương tiện của tư duy lơgic. Trực giác được coi là mắt xích trung tâm của
quá trình sáng tạo bởi lẽ: thời điểm trực giác và biểu đạt hiệu quả của nó là
thành tố trung tâm của cơ chế tâm lý học của hoạt động sáng tạo [53].
Như vậy, sáng tạo là khái niệm rộng lớn về phạm vi sử dụng. Nó khơng
có giới hạn cuối cùng khi sử dụng (hoặc áp dụng) trong tất cả các hệ thống
phân loại hiện có của nền văn minh nhân loại như: hệ thống đo, đếm, quy
chiếu, chuẩn mực, các thơng số theo tốn học, vật lý học, hóa học... đến cả
tâm lý học, xã hội học, thần học, triết học, tương lai học hay vũ trụ học.....
Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, chúng tôi tiếp cận
nghiên cứu sáng tạo dưới góc độ sản phẩm. Tức là thơng qua sản phẩm và
bằng sản phẩm để đánh giá mức độ sáng tạo của cá nhân. Sản phẩm sáng tạo
tồn tại ở cả hai dạng: dạng cụ thể có thể cảm nhận được và sản sản phẩm tâm
lý không chỉ đạt được bằng hoạt động cụ thể bên ngồi, khơng nhất thiết cảm
nhận được bằng các giác quan mà có thể chỉ là các ý tưởng được bộc lộ ra hay
chỉ tồn tại trong dạng sản phẩm của tư duy.
1.2.2. Khái niệm tính sáng tạo
Tính sáng tạo hay “óc sáng tạo” là khả năng được xem là có tính chất
sáng tạo trong sản phẩm hoạt động của con người đã tạo tác nên những gì mới
hơn so với những cái cũ. Ðây là khuynh hướng, là khả năng của con người


21


hướng về sáng tạo do thôi thúc phát triển của trí tuệ trong q trình khám phá,
chinh phục thiên nhiên nhằm thoả mãn nhu cầu của bản thân và xã hội. Chỉ
riêng con người mới có tính sáng tạo hay “óc sáng tạo” vì mọi sinh vật khác
dù có biết làm tổ, tích trữ lương thực như một số lồi chim, lồi kiến, lồi
ong,…nhưng chúng chỉ có thể làm một công việc duy nhất, không thay đổi,
cải sửa, theo bản năng chứ khơng có tính sáng tạo.
Tính sáng tạo ln có nơi con người. Tính sáng tạo đóng một vai trò
quan trọng trong cuộc sống của mỗi cá nhân con người. Tính sáng tạo làm lóe
lên ý tưởng ban đầu, đồng thời cũng giúp cải thiện ý tưởng trong quá trình
phát triển sự sáng tạo ở tương lai. Thơng thường, do một nhu cầu nào đó hay
do một khó khăn, trở ngại trong hoạt động, con người thường nẩy sinh óc tìm
kiếm một cơng cụ, một phương thức nào đó để đáp ứng nhu cầu thỏa mãn nhu
cầu hay khắc phục trở ngại. Một học sinh ghi một công thức toán học nơi cửa
ra vào hay nơi bức tường đối diện với bàn làm việc hay giường ngủ để lúc nào
cũng nhìn thấy, từ đó được nhớ mãi, được nhập tâm. Sự việc này ít nhiều
cũng mang tính sáng tạo vì biết vận dụng cái nhớ của thị giác (mémoire
visuelle) bổ túc cho trí nhớ của bộ óc.
Theo các nhà tâm lý học cho rằng, tính sáng tạo là năng lực quan trọng
nhất để mỗi người chuẩn bị cho cuộc sống của mình. Thái độ sống sáng tạo
giúp chúng ta chế ngự được những hồn cảnh ln biến đổi thay vì để các
hồn cảnh đó chế ngự chúng ta. Tính Sáng tạo nơi con người được hiểu qua
sự việc ‘phát kiến, phát minh, sáng chế’ (trong Khoa học, Kỹ thuật), ‘thiết
lập, thiết dựng, hình thành’ một lý thuyết, một hệ thống tín ngưỡng, một chủ
nghĩa’ (trong Triết học, Tơn giáo, Chính trị, Kinh tế), “sáng tác, trước tác”
một tác phẩm (trong Văn học, Nghệ thuật)…
Dưới góc độ tâm lý học, có thể hiểu tính sáng tạo (Creativity,

Kreativitaet, Crativité ) là “năng lực tìm ra những mối quan hệ mới giữa các

22


kinh nghiệm vốn tồn tại đơn lẻ, rời rạc. Những quan hệ này dưới tư duy mới,
cách nhìn mới, hoạt động mới sẽ tạo ra ý tưởng mới, hoạt động mới hay sản
phẩm mới, độc đáo, phù hợp và có giá trị tối lợi” [51].
Theo Amabile T.M. thì tính sáng tạo có ba thành phần: Sự thơng thạo,
kỹ năng tư duy sáng tạo, và động lực. Trong đó, sự thơng thạo là kiến thức về
kỹ thuật, quy trình, trí tuệ; Kỹ năng tư duy sáng tạo được định nghĩa là cách
con người tiếp cận vấn đề. Bà cũng cho rằng, kỹ năng tư duy sáng tạo thường
là chức năng của tính cách và phong cách làm việc[42].
Theo quan niệm của Klaus K. Urban, nhà tâm lý học người Đức :
“Tính sáng tạo là tổ hợp thuộc tính nhân cách bộc lộ trong sản phẩm mới, lạ,
gây ngạc nhiên cho bản thân và cũng mới, lạ, gây ngạc nhiên đối với người
khác” [49].
Khi nghiên cứu về tính sáng tạo Urban cho rằng tính sáng tạo khơng thể
được xem xét chỉ dưới quan điểm nhận thức hoặc chỉ đơn tuyến dưới quan
điểm của lý thuyết nhân cách, mà phải xem xét đồng thời dưới cả hai quan
điểm trên( nhận thức, nhân cách). Những nghiên cứu của ơng chỉ ra cấu trúc
của tính sáng tạo bao gồm những thành tố và tiểu thành tố như sau:
1) Tư duy phân kỳ và hành động phân kỳ
- Soạn thảo tỉ mỉ chi tiết (Elaboration)
- Tính độc đáo (Originality)
- Mối liên kết xa (Ramote Assoziation)
- Cấu trúc lại và định nghĩa lại (Recontruction và Redefinition)
- Tính mềm dẻo (Flexibility)
- Tính lưu lốt (Fluency)
- Tính nhạy cảm vấn đề (Problemsensivity)

2) Cơ sở tri thức chung và cơ sở năng lực tư duy
- Tri thức sâu sắc

23


×