Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn trường đại học chính trị hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (882.5 KB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

Vị V¡N BAN

VÊN §Ị NÂNG CAO NĂNG LựC TƯ DUY Lý LUậN
CủA Đội ngũ giảng viên khoa học xà hội và nhân văn
TrƯờng đại häc chÝnh trÞ hiƯn nay
Luận văn thạc sĩ chun ngành: Triết học
M· sè

: 60 22 80

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Trần Văn Phòng

HÀ NỘI - 2012


LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên
cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận
văn là trung thực. Những kết luận khoa học
của luận văn chưa từng được ai cơng bố
trong bất kỳ cơng trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Vũ Văn Ban



BẢNG CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Viết đầy đủ

Viết tắt

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Đại học Chính trị

ĐHCT

Khoa học xã hội và nhân văn

KHXH&NV

Nhà xuất bản

Nxb

Nghiên cứu khoa học

NCKH

Tư duy lý luận

TDLL

Xã hội chủ nghĩa


XHCN


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
Chương 1: NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ TẦM QUAN TRỌNG
CỦA VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI
NGŨ GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC CHÍNH TRỊ ................................................................................. 12
1.1. Năng lực tư duy lý luận ..................................................................... 12
1.1.1. Khái niệm tư duy lý luận ............................................................... 12
1.1.2. Năng lực tư duy lý luận và những yếu tố ảnh hưởng tới năng lực tư
duy lý luận ............................................................................................... 17
1.2. Thực chất của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn Trường Đại học Chính trị .... 23
1.2.1. Đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn Trường Đại học
Chính trị................................................................................................... 23
1.2.2. Năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn Trường Đại học Chính trị ........................................................ 28
1.2.3.Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn Trường Đại học Chính trị ........................................ 31
1.3. Tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực tư duy lý luận của
đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn Trường Đại học
Chính trị .................................................................................................... 35
1.3.1. Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn giúp cho họ ngày càng nhận thức thấu đáo tri thức
khoa học xã hội, nhân văn và các khoa học khác ................................... 35

1



1.3.2. Nâng cao năng lực tư duy lý luận của giảng viên khoa học xã hội
và nhân văn là điều kiện để đội ngũ này tìm tịi, lựa chọn phương pháp
giảng dạy hiệu quả .................................................................................. 37
1.3.3. Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn sẽ giúp họ thực hiện tốt nhiệm vụ nghiên cứu khoa
học và các nhiệm vụ khác ....................................................................... 38
1.3.4. Nâng cao năng lực tư duy lý luận là điều kiện để người giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn tiếp tục học tập, rèn luyện nâng cao hơn nữa
trình độ kiến thức và phương pháp tư duy biện chứng duy vật ................ 39
1.3.5. Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ giảng viên khoa học
xã hội và nhân văn là cơ sở giúp họ rèn luyện, ngày càng hoàn thiện về
phẩm chất, nhân cách sư phạm ............................................................... 40
Chương 2: VẤN ĐỀ NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA
ĐỘI NGŨ GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CHÍNH TRỊ HIỆN NAY - THỰC TRẠNG VÀ
GIẢI PHÁP .................................................................................................... 43
2.1. Thực trạng nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn Trường Đại học Chính trị hiện nay ........... 43
2.2. Giải pháp cơ bản nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ
giảng viên khoa học xã hội và nhân văn Trường ĐHCT hiện nay ...... 57
2.2.1. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng tham
gia phát triển năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên khoa học xã
hội và nhân văn Trường ĐHCT hiện nay............................................... 57
2.2.2. Tích cực bồi dưỡng, rèn luyện và tự bồi dưỡng, rèn luyện năng lực
tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
Trường Đại học Chính trị ........................................................................ 61

2



2.2.3. Từng bước kiện tồn và chuẩn hố đội ngũ theo tiêu chí giảng viên
khoa học xã hội và nhân văn quân sự trong giai đoạn hiện nay ............. 66
2.2.4. Xây dựng mơi trường văn hố sư phạm thuận lợi cho việc nâng
cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và
nhân văn Trường Đại học Chính trị ........................................................ 69
2.2.5. Đổi mới việc bố trí, sắp xếp, sử dụng cán bộ và thực hiện tốt các chế
độ, chính sách đối với đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ... 74
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC CƠNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN ............................................................................ 83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 84
PHỤ LỤC ....................................................................................................... 89

3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, trước sự phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học và
công nghệ, tri thức khoa học đã thực sự trở thành sức mạnh, thành tài sản vô
giá của mọi quốc gia, dân tộc. Có thể nói rằng, bất kì một nước nào, một lĩnh
vực nào của xã hội, muốn phát triển đều cần phải có một nền khoa học tiên
tiến đủ mạnh và đi kèm với nó là những con người có năng lực TDLL đạt
trình độ cao phù hợp với trình độ của khoa học hiện đại.
Đối với nước ta, việc đổi mới TDLL đã trở thành tiền đề, thành điều
kiện cơ bản cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng
XHCN; đồng thời cũng là yêu cầu cấp thiết để đưa sự nghiệp cách mạng
nước ta vững bước đi lên CNXH. Cùng với sự nghiệp đổi mới của toàn

Đảng, toàn dân và sự nghiệp xây dựng quân đội, năng lực TDLL của đội ngũ
giảng viên KHXH&NV ở các học viện, nhà trường trong toàn quân đã có
bước phát triển mới.
Đội ngũ giảng viên KHXH&NV Trường ĐHCT là một bộ phận cán bộ
của Đảng trong qn đội, là lực lượng nịng cốt có vai trị quan trọng trong
giáo dục truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
quan điểm của Đảng và kiến thức KHXH&NV quân sự, giúp cho người học
hình thành thế giới quan khoa học, phương pháp luận mác xít, bồi dưỡng
củng cố lý tưởng, niềm tin cộng sản… để trở thành những chính trị viên, giáo
viên KHXH&NV quân sự vừa hồng vừa chuyên. Năng lực TDLL của đội ngũ
giảng viên ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng giáo dục đào tạo và NCKH của
Nhà trường, đến chất lượng xây dựng quân đội ta vững mạnh toàn diện lấy
xây dựng về chính trị làm cơ sở.

4


Thực tế những năm gần đây cho thấy, phẩm chất năng lực, trình độ trí
tuệ mà trực tiếp là năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên KHXH&NV
Trường ĐHCT còn nhiều mặt chưa ngang tầm đòi hỏi của nhiệm vụ cách
mạng trong giai đoạn hiện nay. Chính thực trạng ấy đã, đang và sẽ gây hậu
quả nhiều mặt đối với bản thân chủ thể, đối với người học, cũng như ảnh
hưởng tiêu cực tới quá trình xây dựng Nhà trường, xây dựng quân đội và công
cuộc đổi mới đất nước.
Vậy, làm thế nào để nâng cao năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên
KHXH&NV Trường ĐHCT hiện nay? Vấn đề này có ý nghĩa cả về mặt lý
luận cũng như thực tiễn, vừa cơ bản và cấp bách, không chỉ đối với yêu cầu
xây dựng đội ngũ giảng viên KHXH&NV của Nhà trường nói riêng, mà
cịn góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới tư duy của đội ngũ cán bộ, đảng
viên trong tồn qn nói chung đáp ứng u cầu nhiệm vụ cách mạng ngày

càng cao.
2.Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bàn về tư duy, TDLL, năng lực TDLL đã thu hút sự quan tâm của nhiều
nhà khoa học. Cho đến nay đã có nhiều cơng trình được cơng bố, tiêu biểu là:
Hội nghị bàn trịn về “Đổi mới tư duy”, Tạp chí Cộng sản, số 10, tháng 12,
năm 1987 và số 8, tháng 9, năm 1988; “Từ tư duy kinh nghiệm tới tư duy lý
luận” của Hồng Chí Bảo chủ biên, Thơng tin lý luận, số 6, năm 1988; “Học
tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh” do PGS,TS Trần Văn Phịng chủ biên,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2001; “Tư duy lý luận với hoạt động của
người cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn” do TS Trần Thành chủ biên, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2003; “Năng lực tư duy lý luận trong quá
trình đổi mới tư duy” của GS,TS Nguyễn Ngọc Long, Tạp chí Cộng sản, số
10, năm 1987; “Nâng cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý cấp huyện ở nước ta hiện nay qua thực tế tỉnh Kiên Giang”,

5


Luận văn thạc sĩ Triết học của Vũ Đình Chuyên, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2000; “Phát triển năng lực tư duy của người lãnh
đạo quản lý hiện nay” của tác giả Hồ Bá Thâm, Tạp chí Cộng sản, số 23,
tháng 8, năm 2002; “Phát triển năng lực tư duy lý luận cho sinh viên thông
qua việc giảng dạy môn Triết học Mác – Lênin ở nước ta hiện nay”, Luận văn
thạc sĩ Triết học, Trần Viết Quang, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, năm 1996; “Nâng cao năng lực tư duy lý luận cho cán bộ giảng dạy
lý luận Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh”, Luận án tiến sĩ Triết học,
Nguyễn Đình Trãi, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm
2001; “Nâng cao năng lực tư duy lý luận của cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp
tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học, Dương
Minh Đức, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2006...

Những cơng trình trên đã bàn về vấn đề đổi mới tư duy, quan hệ giữa tư duy
kinh nghiệm với tư duy lý luận, học tập phong cách tư duy Hồ Chí Minh, trực
tiếp hoặc gián tiếp đề cập đến tư duy, TDLL; bản chất, vai trò của TDLL và
sự cần thiết phải phát triển năng lực TDLL cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản
lý; phát triển, nâng cao năng lực TDLL của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo
thực tiễn ở các huyện, các tỉnh; phát triển năng lực TDLL cho sinh viên hay
cán bộ giảng dạy lý luận Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh. Đó là những
đóng góp có giá trị và có ý nghĩa đối với sự phát triển lý luận, làm sáng tỏ bản
chất khoa học, cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước ta.
Bên cạnh những cơng trình nghiên cứu chun sâu cịn có những bài
viết: “Chống chủ nghĩa chủ quan duy ý chí, khắc phục bệnh kinh nghiệm chủ
nghĩa và bệnh giáo điều trong quá trình đổi mới” của tác giả Nguyễn Ngọc
Long, Trong sách “Mấy vấn đề về đổi mới tư duy”, Học viện Nguyễn Ái
Quốc, Hà Nội, năm 1988; “Một số căn bệnh trong phương pháp tư duy của

6


cán bộ ta” của tác giả Lê Hữu Nghĩa, Tạp chí Triết học, số 2, năm 1988;
“Thực trạng tư duy của cán bộ, đảng viên ta và căn nguyên của nó” của tác
giả Lê Thi, Tạp chí triết học, số 01, năm 1988; “Yêu cầu mới về năng lực trí
tuệ của Đảng trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Phạm Ngọc Quang, Tạp
chí Triết học, số 2, năm 1992; “Tư duy truyền thống Việt Nam trong quá trình
đổi mới tư duy ở nước ta” của PGS.TS Vũ Văn Viên, Tạp chí Lý luận chính
trị, tháng 12, năm 2001; “Đổi mới tư duy lý luận – động lực tinh thần của sự
nghiệp đổi mới” của tác giả Trương Giang Long, Tạp chí Khoa học chính trị,
số 1, năm 2005; “Tư duy lý luận về khoa học phát triển”, tác giả Trần Ngọc
Hiên, Tạp chí Thơng tin & phát triển, số 5, năm 2008; “Tư duy lý luận của
Đảng về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội trong tiến trình đổi

mới" của tác giả Nguyễn Trọng Phúc, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 2, năm 2009;
“Mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam – quá trình hoàn thiện, phát triển tư
duy lý luận của Đảng về chủ nghĩa xã hội” của tác giả Nguyễn Đức Ngọc,
Tạp chí Khoa học chính trị, số 4, năm 2010... Những cơng trình trên đã chỉ rõ
những căn bệnh chủ quan duy ý chí, bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa, bệnh giáo
điều mà cán bộ, đảng viên ta thường mắc phải và biện pháp khắc phục; thực
trạng những yếu kém, hạn chế về năng lực TDLL của các bộ, đảng viên nói
chung và một số biện pháp khắc phục trong quá trình đổi mới tư duy; làm
sáng tỏ yêu cầu mới về năng lực trí tuệ của Đảng trong giai đoạn hiện nay, đặt
ra vấn đề đổi mới tư duy là cấp thiết, những tác động ảnh hưởng của tư duy
truyền thống Việt Nam trong quá trình đổi mới; tư duy lý luận của Đảng về
quản lý, phát triển xã hội và mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam.
Trong lĩnh vực quân sự cũng có nhiều nhà khoa học bàn về vấn đề này.
Tác giả Dương Văn Minh: “Phát triển tư duy năng động, sáng tạo của người
học, mâu thuẫn và hướng giải quyết”, Tạp chí thơng tin giáo dục lý luận chính
trị - quân sự, số 1, năm 1992; “Nâng cao năng lực tư duy sáng tạo của đội

7


ngũ sỹ quan cấp phân đội Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay, Luận án
tiến sĩ Quân sự, Đào Văn Tiến , Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội, năm
1998; “Đặc điểm phát triển tư duy biện chứng duy vật của đội ngũ sĩ quan trẻ
Quân đội nhân dân Việt Nam trong nhận thức nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc”,
Luận án tiến sĩ, Nguyễn Bá Dương, Hà Nội, năm 2000; “Phát triển năng lực
tư duy lý luận của các bộ chính trị cấp trung đồn Qn đội nhân dân Việt
Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học, Nguyễn Văn Dũng, Học viện Chính
trị Quân sự, Hà Nội, năm 2001; “Phát triển năng lực trí tuệ của sĩ quan trẻ
trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết học, Lê
Quý Trịnh, Học viện Chính trị Qn sự, Hà Nội, năm 2002... Những cơng

trình khoa học này đã đề cập tương đối toàn diện về khái niệm, đặc điểm, vai
trò của tư duy, TDLL, tư duy biện chứng, tư duy sáng tạo của đội ngũ sĩ quan
trẻ, đội ngũ sĩ quan cấp phân đội, đội ngũ cán bộ chính trị cấp trung đồn.
Thành cơng của các cơng trình trên là đã đi sâu đánh giá đúng thực trạng năng
lực TDLL của các đối tượng cụ thể; từ đó xác định mâu thuẫn và hướng giải
quyết; xác định yêu cầu và những giải pháp cơ bản nhằm phát triển hoặc nâng
cao năng lực tư duy, TDLL, tư duy sáng tạo, tư duy biện chứng của các đối
tượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới.
Liên quan đến đội ngũ nhà giáo và xây dựng đội ngũ giảng viên trong
các nhà trường qn đội hiện nay đã có một số cơng trình khoa học như:
“Nâng cao chất lượng giảng viên khoa học xã hội nhân văn ở Học viện Chính
trị Quân sự trong giai đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị,
Nguyễn Hồng Tuy, Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội, năm 2000; “Xây
dựng đội ngũ giảng viên khoa học quân sự ở Học viện Quốc phòng trong giai
đoạn hiện nay”, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Dương Văn Hải, Học
vện Chính trị Quân sự, Hà Nội, năm 2006; “Xây dựng đội ngũ giảng viên
khoa học xã hội nhân văn ở các trường đào tạo sĩ quan quân đội nhân dân

8


Việt Nam hiện nay” Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Nguyễn Văn Tháp,
Học viện Chính trị Quân sự, Hà Nội, năm 2007... Các cơng trình đã đi sâu
làm rõ khái niệm, đặc điểm, những nhân tố tác động, những vấn đề có tính
quy luật ảnh hưởng tới chất lượng đội ngũ giảng viên trong các nhà trường
quân đội; thực trạng và những giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ giảng
viên; thực trạng và những biện pháp xây dựng, phát triển đội ngũ giảng viên
khoa học quân sự, giảng viên KHXH&NV… đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong
giai đoạn hiện nay. Đây thực sự là những cơng trình có giá trị thực tiễn cũng
như lý luận mà tác giả đã kế thừa, vận dụng, nghiên cứu để làm phong phú

thêm đề tài của mình.
Mặc dù đã được đề cập ở nhiều khía cạnh, nhiều góc độ khác nhau về tư
duy, TDLL, năng lực TDLL, nhưng do mục đích, phạm vi nghiên cứu cho
nên chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách cơ bản và hệ thống “Vấn đề nâng
cao năng lực tư duy lý luận của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân
văn ở Trường Đại học Chính trị hiện nay”. Vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài làm
luận văn cao học.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
Mục đích: Trên cơ sở phân tích làm rõ thực trạng năng lực TDLL của
đội ngũ giảng viên KHXHNV Trường ĐHCT, luận văn đề xuất một số giải
pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực TDLL của đội ngũ này đáp ứng với yêu
cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Nhiệm vụ:
- Luận giải làm rõ thực chất vấn đề nâng cao năng lực TDLL và tầm
quan trọng của việc nâng cao năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên
KHXH&NV Trường ĐHCT.
- Phân tích thực trạng nâng cao năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên
KHXH&NV Trường ĐHCT và nguyên nhân của thực trạng đó.

9


- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực TDLL của
đội ngũ giảng viên KHXH&NV Trường ĐHCT hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng: Luận văn không đi sâu vào vấn đề tư duy nói chung, mà
trong mối liên hệ với tư duy, phân tích làm rõ thực chất vấn đề nâng cao năng
lực TDLL và tầm quan trọng của việc nâng cao năng lực TDLL của đội ngũ
giảng viên KHXH&NV Trường ĐHCT, từ đó đề xuất một số giải pháp cơ bản
nhằm cao năng lực TDLL đội này trong giai đoạn hiện nay.

- Phạm vi: Nghiên cứu quá trình nâng cao năng lực TDLL của đội ngũ
giảng viên KHXH&NV Trường ĐHCT. Các tư liệu, số liệu phục vụ cho
nghiên cứu chủ yếu từ năm 2008 đến nay. Phạm vi điều tra, khảo sát điểm ở
một số phòng, khoa và đơn vị trực thuộc Trường ĐHCT.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác – Lênin, lý luận nhận thức và lơgíc học mác xít; tư tưởng Hồ Chí
Minh; đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về con người, về trình độ
tư duy và năng lực TDLL, về giáo dục đào tạo, về công tác xây dựng và phát
triển đội ngũ nhà giáo trong các nhà trường quân đội. Luận văn còn kế thừa
kết quả của các tác giả đi trước về vấn đề này, các nghị quyết, đề án và báo
cáo tổng kết liên quan đến công tác giáo dục đào tạo.
- Cơ sở thực tiễn: Quá trình cơng tác của tác giả ở Trường ĐHCT; qua
điều tra, khảo sát thực tế về năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên
KHXH&NV cũng như các vấn đề có liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng tổng hợp phương pháp
luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương
pháp chuyên gia, điều tra xã hội học, kết hợp lơgíc - lịch sử và các phương
pháp khác để nghiên cứu.

10


6. Đóng góp của luận văn
- Góp phần làm rõ năng lực TDLL - một năng lực cơ bản của đội ngũ
giảng viên KHXH&NV và vai trò nâng cao năng lực TDLL của đội ngũ này ở
Trường ĐHCT.
- Luận văn phân tích, đánh giá thực trạng năng lực TDLL của đội ngũ
giảng viên KHXH&NV Trường ĐHCT, trên cơ sở đó đề xuất một số giải
pháp chủ yếu nhằm nâng cao năng lực TDLL của họ trong giai đoạn hiện nay.

7. ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm sáng tỏ vai trị, thực
trạng và giải pháp nâng cao năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên
KHXH&NV Trường ĐHCT hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu khoa
học, giảng dạy triết học nói chung, phần lý luận nhận thức nói riêng và cơng
tác xây dựng đội ngũ nhà giáo trong các nhà trường quân đội hiện nay.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 2 chương, 5 tiết.
Chương 1: Năng lực tư duy lí luận và tầm quan trọng của việc nâng cao
năng lực tư duy lí luận của đội ngũ giảng viên khoa học xã hội và nhân văn
trường Đại học chính trị
Chương 2: Vấn đề nâng cao năng lực tư duy lí luận của đội ngũ giảng
viên khoa học xã hội và nhân văn trường Đại học chính trị hiện nay – Thực
trạng và giải pháp.

11


Chương 1
NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA
VIỆC NÂNG CAO NĂNG LỰC TƯ DUY LÝ LUẬN CỦA ĐỘI NGŨ
GIẢNG VIÊN KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN TRƯỜNG
ĐẠI HỌC CHÍNH TRỊ
1.1. Năng lực tư duy lý luận
Muốn tìm hiểu về năng lực TDLL, trên cơ sở đó làm rõ tầm quan trọng
của việc nâng cao năng lực TDLL của đội ngũ giảng viên KHXH&NV
Trường ĐHCT, chúng ta cần phải hiểu rõ về khái niệm TDLL.
1.1.1. Khái niệm tư duy lý luận

Tư duy là gì?
Tiếp cận từ góc độ lý luận nhận thức, chỉ ra một số đặc điểm của tư duy
để từ đó đưa ra quan niệm về nó và phân biệt khái niệm tư duy với một số
khái niệm có liên quan như ý thức, nhận thức.
Con người muốn cải tạo sự vật, hiện tượng đòi hỏi phải nhận thức được
bản chất, quy luật của những mối quan hệ nội tại cũng như những mối quan
hệ giữa các sự vật, hiện tượng với nhau và giữa chúng với thế giới khách
quan. Để đạt được điều đó, địi hỏi chủ thể nhận thức phải trải qua một q
trình nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức cảm tính đóng vai
trị rất quan trọng, là sự phản ánh bề ngoài chứ chưa đi sâu vào bản chất của
sự vật, giai đoạn này cung cấp tài liệu làm cơ sở cho nhận thức lý tính.
Từ những hình ảnh trực quan, đơn lẻ, bề ngồi mà giai đoạn nhận thức
cảm tính đem lại, thơng qua những thao tác tư duy bằng khái niệm, phán
đoán, suy lý, con người có thể đi sâu phân tích và khám phá bản chất của thế
giới khách quan. Sự lặp lại của quá trình này và sự kiểm nghiệm của thực tiễn
đối với tri thức lý luận đã làm cho tư duy khơng ngừng hồn thiện và phát

12


triển. Như vậy, tư duy của con người không bất biến, nó phát triển từ thấp đến
cao, từ đơn giản đến phức tạp và có những đặc điểm cơ bản sau:
Tính khái qt hố. Muốn vạch ra được dấu hiệu bản chất của sự vật là
phải đi tìm cái chung. Cái chung là những mặt, những thuộc tính, những dấu
hiệu vốn có ở nhiều sự vật, hiện tượng hoặc ở một lớp sự vật hiện tượng nhất
định, nó là cái sâu sắc, phản ánh bản chất của sự vật. Nhưng trong thực tiễn,
cái chung tồn tại không tách rời với cái riêng, thông qua cái riêng để biểu hiện
sự tồn tại của mình. Để tìm thấy cái chung của sự vật phải dựa vào một số
thao tác của tư duy, mà cụ thể là sự khái quát hoá để tách ra và liên kết lại
những thuộc tính, sự vật, hiện tượng có cùng những dấu hiệu chung.

Tính trừu tượng hóa. Để cái chung có thể tồn tại trong tư duy như một
khái niệm tách khỏi cái riêng, cần thiết có một thao tác tư duy nữa, đó là sự
trừu tượng hóa. Sự trừu tượng hóa của tư duy khơng chỉ dừng lại ở chỗ tách
cái chung ra khỏi cái riêng, mà cịn là ở chỗ nó có khả năng khu biệt hóa bất
kỳ thuộc tính nào của sự vật ra khỏi tất cả những thuộc tính khác. Nhờ có trừu
tượng hóa, con người có khả năng nhận thức sự vật ở dạng thuần nhất, độc lập
với tất cả những yếu tố có liên quan đến nó. Với sự trừu tượng hóa, chủ thể
nghiên cứu nắm bắt tốt hơn các thuộc tính hoặc sự vật được tách ra, tập trung
chú ý vào chúng, biến chúng thành khách thể của sự phân tích chun ngành.
Bằng cách đó sẽ làm tăng thêm hiệu quả của q trình nhận thức.
Tính sáng tạo. Q trình tư duy là một q trình sáng tạo. Tính sáng tạo
của tư duy là ở chỗ, nó đem lại cho con người những tri thức mới mang tính
cốt lõi, bản chất giữa mn vàn sự vật, hiện tượng, q trình phức tạp. Tính
sáng tạo đó sẽ càng gần với thực tiễn, có ý nghĩa chỉ đạo trực tiếp thực tiễn
khi tư duy được đặt trên một nền tri thức phong phú, đa dạng cộng với
phương pháp tư duy khoa học. Bản chất của tư duy là một q trình ln
vươn tới cái mới ngày càng sát thực, càng gần tới chân lý khách quan.

13


Tính gián tiếp và gắn liền với ngơn ngữ. Theo Ph. Ăngghen: Ngôn ngữ
là cái vỏ vật chất của tư duy. Nhờ ngôn ngữ mà tư duy phản ánh thế giới một
cách gián tiếp, khái quát (thông qua các khái niệm, phạm trù, quy luật được
biểu đạt bằng những từ, cụm từ và đặc biệt thông qua các đơn vị cơ bản của
ngôn ngữ là câu) thành các ý tưởng, tư tưởng, quan điểm, luận điểm v.v...
Ngôn ngữ càng phát triển thì vốn từ vựng càng phong phú và gắn liền với nó,
tư duy sẽ càng được thể hiện một cách linh hoạt, đa dạng, bao quát, sâu sắc,
chính xác, đầy đủ, thích ứng với các mối liên hệ, quan hệ phức tạp, rộng lớn
của hiện thực khách quan. Không thể đạt được một trình độ tư duy cao, khi

vốn ngơn ngữ khơng đủ để biểu đạt, để định hình các khái niệm, phạm trù.
Nói cách khác, độ rộng, độ sâu về tri thức của chủ thể tư duy liên quan trực
tiếp đến năng lực, trình độ và chất lượng tư duy. Như vậy, tư duy và ngôn ngữ
không tách rời nhau mà thống nhất với nhau. Tư duy không tồn tại khi thiếu
ngôn ngữ, cũng như ngôn ngữ không thể có nếu thiếu tư duy, ngơn ngữ là
hiện thực trực tiếp của tư tưởng.
Từ việc phân tích một số đặc điểm cơ bản của tư duy, chúng ta có thể
quan niệm: Tư duy là trình độ cao của quá trình nhận thức nảy sinhtrên cơ sở
thực tiễn; đó là q trình khái qt hố, trừu tượng hố, mang tính tích cực,
sáng tạo hướng sâu vào nhận thức bản chất, quy luật vận động và phát triển
của sự vật, hiện tượng bởi chủ thể nhận thức trên cơ sở thực tiễn mang tính
lịch sử - xã hội cụ thể.
Vậy tư duy có gì khác so với ý thức và nhận thức? Theo C.Mác: “…ý
niệm chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con người
và được cải biến đi ở trong đó” [38, tr.35]. Cịn V.Lênin cho rằng, ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan [22, tr.138]. Ý thức tuy là hình ảnh
chủ quan của thế giới khách quan, nhưng hình ảnh ấy đã được cải biến đi
trong óc người, nó khác xa so với hình ảnh vật lý phản ánh thế giới hiện thực

14


một cách nguyên si, thụ động, máy móc. Bản chất của ý thức là sự phản ánh
thế giới khách quan một cách tích cực, chủ động và sáng tạo. Nếu ý thức là
hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan thì tư duy là giai đoạn cao của sự
phản ánh tạo nên hình ảnh đó.
Theo chủ nghĩa duy vật biện chứng, nhận thức là q trình phản ánh
tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan bởi con người trên cơ sở của thực
tiễn mang tính lịch sử - xã hội. Nhận thức là một quá trình biện chứng diễn
ra hết sức phức tạp, bao gồm nhiều vòng khâu từ trực quan sinh động đến tư

duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng trở về thực tiễn. Nói cách khác,
nhận thức chân lý bao gồm hai giai đoạn: nhận thức cảm tính và nhận thức
lý tính. Do đó, nếu ý thức là hình ảnh của thế giới khách quan được ghi nhận
bởi con người thì nhận thức chính là quá trình con người phản ánh về thế
giới khách quan.
Từ đó cho thấy, ý thức, nhận thức và tư duy là những khái niệm có mối
quan hệ thống nhất hữu cơ với nhau, vì chúng đều phản ánh hiện thực khách
quan bởi bộ óc con người, cùng bị chi phối bởi những quy luật sinh học và
quy luật xã hội, nhưng chúng không phải là những khái niệm đồng nhất.
Trong mối quan hệ nội tại ấy, ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào
bộ óc người, nó là phạm trù đối lập với vật chất, còn nhận thức là q trình
phản ánh đó và tư duy là trình độ cao của nhận thức [14, tr.13].
Như vậy, tư duy tương ứng với giai đoạn nhận thức lý tính, là sự phản
ánh gián tiếp, trừu tượng, khát quát về sự vật hiện tượng bằng các khái niệm,
phán đoán, suy lý; thông qua sự biểu đạt của ngôn ngữ; cho phép con người
thu nhận những tri thức mới về các sự vật, hiện tượng, các mối liên hệ bản
chất, các thuộc tính và quy luật của khách thể nhận thức. Tư duy phát triển ở
trình độ cao nhất là TDLL, sự xuất hiện TDLL là bước nhảy vọt về chất trong
quá trình nhận thức của con người.

15


Lý luận là gì? Về mặt ngơn ngữ triết học, khái niệm lý luận được dùng
để phân biệt với khái niệm thực tiễn. Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động
vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội của con người nhằm cải biến
tự nhiên và xã hội. Cốt lõi của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất phục
vụ cho sản xuất và sinh hoạt vật chất của con người. Lý luận thuộc lĩnh vực
hoạt động của tư duy nhằm sản xuất ra tri thức mới. Lý luận là phạm trù dùng
để chỉ hệ thống tri thức được khái quát hóa từ kinh nghiệm thực tiễn, phản

ánh mối liên hệ bản chất, tất nhiên mang tính quy luật của hiện thực khách
quan, có vai trò hướng dẫn hoạt động nhận thức cũng như thực tiễn của con
người. Lý luận và thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với nhau, vì vậy, việc
hiểu rõ bản chất và vận dụng tốt mối quan hệ này sẽ giúp cho hoạt động cải
tạo thế giới khách quan của con người ngày càng hiệu quả hơn.
Là sản phẩm của sự phản ánh hiện thực khách quan, thông qua hoạt
động thực tiễn, lý luận có nhiều hình thức khác nhau. Theo đặc điểm của
khách thể nghiên cứu có thể chia lý luận thành: lý luận của khoa học xã hội,
lý luận của khoa học tự nhiên v.v... Theo mức độ phạm vi phản ánh có thể
chia lý luận thành các lý thuyết chung và các lý thuyết chuyên biệt, chun
ngành v.v. . . Dù có nhiều hình thức khác nhau nhưng mọi lý luận đều có
chung một điểm đó là hệ thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật,
phương pháp luận v.v..., trong đó cốt lõi của lý luận là các quy luật. Do là sản
phẩm của sự phản ánh hiện thực khách quan, thông qua hoạt động thực tiễn,
khi hiện thực khách quan biến đổi, phát triển thì lý luận cũng biến đổi theo.
Từ việc tìm hiểu về tư duy và lý luận nói trên, chúng tôi quan niệm:
TDLL là tư duy ở cấp độ cao, dựa trên các công cụ là khái niệm, phạm trù,
phán đốn, suy luận hướng tới phân tích, tổng hợp, khái quát để tìm ra bản
chất, quy luật của hiện thực khách quan; từ đó định hướng, hướng dẫn hoạt
động nhận thức và thực tiễn của con người ngày càng có kết quả cao hơn.

16


TDLL phản ánh những sự vật, hiện tượng một cách gián tiếp thông qua
những khái niệm, phạm trù. Nếu tư duy kinh nghiệm mới chỉ dừng lại ở việc
mô tả những đặc điểm, những mối liên hệ bên ngoài các sự vật, hiện tượng thì
TDLL đi sâu phản ánh những thuộc tính, những mối liên hệ có tính bản chất,
tất yếu, tính quy luật của chúng. Như vậy, nếu xét về trình độ phản ánh thì
TDLL phản ánh sâu sắc hơn về bản chất của sự vật, hiện tượng. Do đó, TDLL

có khả năng phê phán rất sâu sắc và có chức năng dự báo xu hướng vận động,
phát triển của sự vật, hiện tượng. Vì vậy, nó đóng vai trò rất quan trọng đối
với sự phát triển của tri thức khoa học cũng như mang lại hiệu quả cao cho
hoạt động thực tiễn xã hội của con người.
TDLL có hai mặt gắn liền với nhau là nội dung tư duy và phương pháp
tư duy. Nội dung tư duy bao gồm hệ thống tri thức tồn tại dưới dạng khái
niệm, phạm trù, quy luật về những đối tượng xác định. Phương pháp tư duy là
cách thức, thao tác lơ gích tiến hành “nhào nặn” những tri thức, khái quát tri
thức kinh nghiệm để cho ra đời tri thức mới. Trong tư duy kinh nghiệm, nội
dung tư duy dựa vào những tri thức kinh nghiệm, phương pháp tư duy được
tiến hành một cách tự phát theo thói quen hay những nếp nghĩ giản đơn. Còn
trong TDLL, nội dung tư duy dựa chắc vào những tri thức lý luận và phương
pháp tư duy được tiến hành bằng các thao tác tư duy lơ gích, mang tính tích
cực, chủ động. Cho nên, nói đến TDLL là nói đến tư duy ở trình độ cao, dựa
vào các thao tác tư duy như khái quát hoá, trừu tượng hoá; phản ánh gián tiếp
nhưng sâu sắc về mối liên hệ bản chất, tính tất yếu, tính quy luật của sự vật,
hiện tượng, giúp hoạt động thực tiễn mang lại hiệu quả cao hơn.
1.1.2. Năng lực tư duy lý luận và những yếu tố ảnh hưởng tới năng
lực tư duy lý luận
* Năng lực tư duy lý luận:

17


Năng lực là một thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong cuộc sống
và trong nghiên cứu khoa học. Theo Từ điển tiếng Việt, năng lực là: “khả
năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào
đó”, “là phẩm chất tâm và sinh lý tạo cho con người khả năng hoạt động nào
đó với chất lượng cao” [8, tr.660 - 661]. Tâm lí học quan niệm, năng lực là
“tập hợp các tính chất hay phẩm chất của tâm lí cá nhân, đóng vai trò là điều

kiện bên trong, tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt một dạng hoạt động nhất
định” [6, tr.160]. Theo xã hội học, năng lực được hiểu là tài năng của con
người; tài năng này kết hợp với phẩm chất đạo đức tạo nên nhân cách của con
người - tài và đức...
Nhìn chung, các quan điểm trên đều thống nhất ở chỗ: năng lực bao giờ
cũng gắn với con người và hoạt động của con người; sản phẩm của nhận thức
và hoạt động thực tiễn; là sự thống nhất hữu cơ các yếu tố chủ quan của chủ
thể; là khả năng của con người, cộng đồng người trong hoạt động; là điều kiện
bảo đảm cho hoạt động đó đạt kết quả cao; kết quả hoạt động của cá nhân hay
cộng đồng là cơ sở đánh giá năng lực của chính cá nhân hay cộng đồng đó.
Dưới góc độ triết học, năng lực là “tổng hợp các yếu tố chủ quan của
chủ thể đáp ứng yêu cầu hoạt động nào đó, bảo đảm cho hoạt động đó đạt
hiệu quả cao” [53, tr.21].
Năng lực là tổng hợp các yếu tố chủ quan của chủ thể, bao gồm cả yếu tố
vật chất và yếu tố tinh thần; cả sức mạnh đã có và sức mạnh ở dạng tiềm
năng. Mỗi yếu tố đều giữ một vị trí, vai trị khác nhau, song giữa chúng có
mối quan hệ biện chứng với nhau trong việc tạo nên khả năng và điều kiện
nội tại căn bản để chủ thể hoạt động đạt chất lượng, hiệu quả. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy, tư chất, vốn tri thức, kĩ năng – kĩ xảo hoạt động luôn giữ vai trò
đặc biệt quan trọng.

18


Tư chất bao gồm thể chất và tố chất: đó là các yếu tố về điều kiện sức
khoẻ; về năng khiếu, tố chất mang tính bẩm sinh. Tư chất là điều kiện tự
nhiên cần thiết để hình thành và phát triển năng lực. Song, tư chất chỉ là cơ
sở, tiền đề đầu tiên tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động cũng như quá trình
hình thành và phát triển năng lực của chủ thể. Nó khơng phải là yếu tố quyết
định sự hình thành và phát triển năng lực, mà năng lực chủ yếu phụ thuộc vào

hoạt động của cá nhân con người trong một môi trường, điều kiện giáo dục,
xã hội nhất định.
Vốn tri thức là kết quả phản ánh tích cực, sáng tạo hiện thực khách quan
thơng qua hoạt động thực tiễn của chủ thể. Trong cấu trúc năng lực, vốn tri
thức là cơ sở hình thành kĩ năng – kĩ xảo. Vốn tri thức của mỗi người không
phải là đơn nhất, bất biến, mà là sự tổng hợp của nhiều kiến thức khác nhau
và nó thường xuyên biến đổi. Tổng hợp các loại tri thức thu nhận được hình
thành kết cấu hệ thống tri thức của chủ thể. Năng lực của mỗi người không
chỉ quyết định bởi sự nắm vững tri thức nhiều hay ít, mà cịn bởi kết cấu tri
thức của người ấy có hợp lí hay khơng. Vì vậy, trong phát triển năng lực, việc
chú trọng đảm bảo tính hợp lí của kết cấu tri thức cho phù hợp với từng lĩnh
vực, từng ngành nghề của mỗi người là hết sức cần thiết.
Kĩ năng là khả năng thực hiện có kết quả một hành động nhất định trên
cơ sở tri thức có được. Kĩ xảo là khả năng thực hiện một cách tự động hoá
một thao tác hay một cơng việc nhất định, nó thể hiện sự thành thạo trong
hoạt động của con người. Kĩ năng được lặp đi, lặp lại nhiều lần trở thành hoạt
động tự động hoá – kĩ xảo. Kĩ năng và kĩ xảo là thành phần rất quan trọng của
năng lực. Hay nói cách khác, năng lực được thể hiện ở kĩ năng và kĩ xảo. Mỗi
một lĩnh vực hoạt động cụ thể, địi hỏi phải có kĩ năng và kĩ xảo hành động
phù hợp.

19


Các yếu tố cấu thành năng lực tồn tại trong một thể thống nhất biện
chứng. Mỗi yếu tố có một vị trí, vai trị riêng, nếu thiếu một trong các yếu tố
ấy sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến năng lực của con người. Đồng thời, tuỳ thuộc
vào yêu cầu đòi hỏi của từng lĩnh vực hoạt động cụ thể mà vai trị của các yếu
tố đó khơng ngang bằng nhau. Nhưng dù ở lĩnh vực nào đi nữa thì yếu tố vốn
tri thức cũng ln giữ vai trị quyết định nhất đến sự hình thành và phát triển

năng lực của chủ thể.
Cấu thành năng lực vừa có yếu tố thuộc về cái vốn có, bẩm sinh, tiềm ẩn
bên trong chủ thể; vừa có các yếu tố là sản phẩm của q trình học tập, nghiên
cứu, rèn luyện, phấn đấu khơng mệt mỏi trong hoạt động thực tiễn của từng
chủ thể, giúp họ đạt kết quả cao ở từng lĩnh vực nhất định.
Do luôn gắn với chủ thể, với lĩnh vực hoạt động nhất định nên năng lực
có tính phong phú, mn vẻ. Xã hội càng phát triển thì năng lực của con
người trong xã hội càng có tính chun biệt cao.
Từ quan niệm về năng lực và TDLL ở trên có thể hiểu: Năng lực TDLL
là tổng hợp các phẩm chất trí tuệ của chủ thể đáp ứng yêu cầu phát hiện,
nhận thức nhanh, nhạy, đúng đắn những vấn đề của nhận thức và thực tiễn ở
trình độ lý luận; nhờ vậy có những đề xuất cụ thể sắc bén, sáng tạo, thiết thực
góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của
chủ thể.
* Những yếu tố ảnh hưởng tới năng lực TDLL
Năng lực TDLL phụ thuộc vào tư chất của mỗi cá nhân. Tư chất cá nhân
là yếu tố bẩm sinh, di truyền của từng người. Những yếu tố này con người
sinh ra đã có và do thế hệ trước di truyền lại cho thế hệ sau. Tư chất đóng vai
trị chính trong việc tạo ra năng khiếu bẩm sinh, sự thông minh, trí nhớ, khả
năng trực giác, nhạy cảm… Đó là cơ sở, là điều kiện, tiền đề làm nảy
sinhnăng lực trí tuệ nói chung và năng lực TDLL nói riêng. Tố chất bẩm

20


sinh, di truyền mới chỉ là khả năng ở dạng tiềm tàng, do đó, nó cần phải
được khơi dậy, phát huy thông qua việc rèn luyện thường xuyên, nếu không
sẽ bị mai một.
Năng lực TDLL phụ thuộc vào quá trình giáo dục và tự giáo dục của
chủ thể. Trình độ tri thức, trí tuệ là điều kiện tiên quyết để con người phát

triển năng lực của mình về mọi mặt trong đó có cả năng lực TDLL. Để đạt
được một trình độ tri thức, trí tuệ nhất định, khơng có con đường nào khác là
phải thơng qua q trình giáo dục và tự giáo dục. Quá trình này mang lại cho
con người khơng chỉ nội dung tri thức mà cịn cả phương pháp tư duy khoa
học ngày một hoàn thiện hơn. Cùng với tư chất cá nhân, quá trình giáo dục và
tự giáo dục là nền tảng, cơ sở để con người rèn luyện năng lực tư duy nhạy
bén, sáng tạo. Nếu có tư chất cá nhân tốt nhưng lại bị hạn chế về trình độ tri
thức, trí tuệ, sẽ dẫn đến quá trình thực hiện các thao tác TDLL rất khó khăn.
Năng lực TDLL ảnh hưởng bởi mơi trường sống, điều kiện kinh tế, văn
hoá - xã hội. Sự phát triển về năng lực TDLL phụ thuộc vào môi trường gần
và mơi trường xa. Mơi trường gần là tồn bộ những điều kiện, hoàn cảnh
khách quan tác động trực tiếp đến đời sống tâm – sinh – lý, quá trình học tập,
rèn luyện và cơng tác của chủ thể. Mơi trường xa là những điều kiện kinh tế,
văn hố – xã hội tác động một cách gián tiếp đến chủ thể. Cả hai mơi trường
này hợp thành một hồn cảnh hiện thực chi phối, tác động ảnh hưởng trực tiếp
và gián tiếp đến đời sống con người nói chung và năng lực TDLL nói riêng.
C.Mác chỉ rõ: con người là sản phẩm của hoàn cảnh. Hoàn cảnh kinh tế - xã
hội như thế nào sẽ sản sinh ra con người thực tiễn như thế ấy. Bản thân tư duy
cũng là sự phản ánh của tồn tại xã hội, là sản phẩm của lịch sử - xã hội.
Năng lực TDLL phụ thuộc vào hoạt động thực tiễn của chủ thể. Con
người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực tiễn.
Ph. Ăngghen khẳng định: "Chính việc người ta biến đổi tự nhiên, chứ khơng

21


phải một mình giới tự nhiên với tính cách giới tự nhiên, là cơ sở trực tiếp
nhất, chủ yếu nhất của tư duy con người, và trí tuệ con người đã phát triển
song song với việc người ta đã học cải biến tự nhiên"[36, tr.720]. Chính thơng
qua hoạt động thực tiễn mà con người có được những hiểu biết, những tri thức

về hiện thực khách quan và phát triển năng lực nhận thức, năng lực tư duy của
mình. Mặt khác, thực tiễn lại luôn vận động, biến đổi không ngừng, đặt ra
những yêu cầu mới đòi hỏi con người phải tiếp tục suy tư, tìm tịi, hướng về
việc phát hiện và giải quyết các vấn đề thực tiễn đòi hỏi. Như thế, trong hoạt
động thực tiễn, năng lực trí tuệ con người nói chung, năng lực TDLL nói
riêng khơng ngừng được nâng cao và ngày càng hoàn thiện hơn.
Năng lực TDLL chịu ảnh hưởng bởi nhu cầu, lợi ích. Xét cho cùng,
mọi hoạt động của con người đều nhằm đạt được một lợi ích nhất định nào đó
về vật chất hoặc tinh thần để thỏa mãn nhu cầu của mình. Như vậy, nhu cầu,
lợi ích có ảnh hưởng thường xun và trực tiếp đến ý thức, động cơ hoạt động
thực tiễn, học tập và rèn luyện để nâng cao năng lực TDLL. Vì thế, muốn cho
năng lực TDLL phát triển tất yếu phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu, lợi ích cho
con người hoạt động trong lĩnh vực đó. Mặt khác, chúng ta cũng phải hiểu
nhu cầu, lợi ích ở đây là những nhu cầu, lợi ích chính đáng chứ khơng phải là
nhu cầu, lợi ích tầm thường, khơng trong sáng. Cho nên, muốn có năng lực
TDLL tốt trước hết phải đáp ứng đầy đủ nhu cầu về lợi ích cho chủ thể và
điều quan trọng là chủ thể tư duy phải có tâm trong sáng.
Năng lực TDLL chịu sự chi phối chặt chẽ bởi sự phát triển của khoa học
và thực tiễn xã hội. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh, thành tựu của khoa học
kỹ thuật và công nghệ đã đem lại cho con người những bước tiến vượt bậc.
Từ chỗ lao động bằng chân tay chuyển sang máy móc, tiếp đến tự động hố
và hiện nay là số hoá, đang tạo ra khối lượng sản phẩm lớn , một nền sản xuất
có năng xuất, chất lượng và hiệu quả ngày càng cao. Cũng nhờ có khoa học

22


×