Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

Tư tưởng triết học của lê quý đôn trong vân đài loại ngữ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.34 KB, 72 trang )

1
mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lê Quý Đôn (1726 1784), một học giả xuất sắc trong lịch sử dân tộc
Việt Nam, ông được coi là Bộ bách khoa toàn thư của dân tộc không chỉ ở
thế kỷ XVIII, mà còn cả trong toàn bộ chiều dài lịch sử dân tộc. Trong sự
nghiệp sáng tác của mình, ông đà để lại nhiều tác phẩm nổi tiếng về các lĩnh
vực văn hoá khác nhau, trong đó có triết học. Trên cơ sở nghiên cứu thuộc lĩnh
vực t- t-ởng triết học tự nhiên và xà hội, v.v., Lê Quý Đôn ®· ®-a ra mét sè
quan ®iĨm triÕt häc mµ nhiỊu học giả quan tâm, tuy nhiên việc làm sáng tỏ
những quan điểm đó cho đến nay vẫn ch-a đ-ợc thực hiện cho xứng với tầm
vóc t- t-ởng của ông.
Nh- chúng ta ®· biÕt, tõ tr-íc ®Õn nay ®· cã nhiỊu nhà nghiên cứu ở
những mức độ khác nhau về các tác phẩm của Lê Quý Đôn, song họ mới chỉ
tập trung xung quanh các vấn đề nh- văn học, lịch sử, địa lý, v.v., của ông, mà
rất ít ng-ời tập trung khảo cứu t- t-ởng triết học trong các tác phẩm đó. Khi
tìm hiểu t- t-ởng của Lê Quý Đôn, chúng tôi thấy Vân đài loại ngữ là một tác
phẩm bao hàm nhiều vấn đề triết học nhất, đồng thời cũng gây cho chúng tôi nói
riêng, và bất kỳ độc giả nào nói chung sự tò mò, rằng trong các mệnh đề mà Lê
Quý Đôn đ-a ra có điểm gì khác biệt so với t- t-ởng các nhà triết học ph-ơng
Đông tr-ớc đó phát biểu về bản thể của vũ trụ? Vai trò và ý nghĩa của các mệnh
đề đó nh- thế nào đối với sự phát triển của t- duy triÕt häc ViƯt Nam thêi bÊy giê
cịng nh- hiƯn nay?
Mặt khác, việc nghiên cứu cơ bản về t- t-ởng triết học của dân tộc ta
trong lịch sử là việc làm cần thiết không chỉ khơi dậy niềm tự hào dân tộc, mà
còn góp phần vào việc giao l-u văn hoá với các n-ớc trong khu vực và thế
giới. Vì vậy, thứ nhất, để góp phần nhỏ bé của mình vào lĩnh vực nghiên cứu
t- t-ởng dân tộc, và thứ hai, để phục vụ tót hơn công tác chuyên môn, t«i


2


quyết định chọn T- t-ởng triết học của Lê Quý Đôn trong Vân đài loại
ngữ làm đề tài cho luận văn cao học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Cho đến nay đà có một số công trình viết về Lê Quý Đôn theo nhiều
ph-ơng diện khác nhau. Có thể phân định sơ bộ các nhóm nghiên cứu theo
chủ đề và mục đích riêng. Nhóm thứ nhất là những công trình tập trung giới
thiệu thân thế và sự nghiệp của Lê Quý Đôn. Nhóm thứ hai đề cập đến một số
khuynh h-ớng t- t-ởng của Lê Quý Đôn cũng nh- mèi quan hƯ cđa khuynh
h-íng ®ã víi xu h-íng t- t-ởng dân tộc thế kỷ XVIII. Số khác chuyên bàn
đến ph-ơng pháp làm t- liệu của Lê Quý Đôn. Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài
của mình, chúng tôi chú trọng nhiều nhất đến những công trình liên quan đến
thân thế sự nghiệp và những nội dung t- t-ởng quan trọng đ-ợc nhà t- t-ởng
trình bày trong Vân đài loại ngữ.
Trong các công trình nghiên cứu, các bài viết mà chúng tôi tìm hiểu, có
một số công trình tiêu biểu bàn đến những quan điểm triết học của Lê Quý
Đôn, cụ thể:
1. Lịch sử t- t-ởng Việt Nam, tập 1 cđa ViƯn TriÕt häc, do GS, TS.
Ngun Tµi Th- chủ biên, do Nhà xuất bản Khoa học XÃ hội ấn hành năm
1993. Trong công trình này, các tác giả đà chọn Lê Quý Đôn là nhà t- t-ởng
tiêu biểu ®¹i diƯn cho khuynh h-íng t- t-ëng cđa thêi ®¹i ông. Công trình đÃ
nêu lên đ-ợc những nét cơ bản nhất trong quan niệm của Lê Quý Đôn về
chính trị - xà hội, về một số vấn đề cơ bản cđa triÕt häc, vỊ ý thøc d©n téc tù
lùc, tù c-ờng. Điều làm tôi quan tâm nhất là các tác giả của công trình này
trình bày vấn đề về thế giới quan của Lê Quý Đôn. Tuy nhiên, các tác giả ch-a
thực sự đi sâu để giải quyết những nội dung đà nêu, mà chỉ khẳng định rằng,
Lê Quý Đôn có khuynh h-ớng kết hợp đ-ờng lối nhân trị với pháp trị, sử dụng
cặp phạm trù lý, khí để giải quyết vấn đề bản thể của thế giới. Tuy nhiên các
tác giả ch-a đi sâu phân tích và chỉ rõ nguồn gốc của những quan điểm đó.
Khi trình bày tư tưởng của Lê Quý Đôn trong khuynh hướng Tam giáo ®ång



3
nguyên thời bấy giờ ở Việt Nam, các tác giả cũng chưa lý giải đ-ợc một điều
là, tại sao Lê Quý Đôn là nhà nho, nh-ng lại có khuynh h-ớng phủ nhận sự
độc tôn Nho giáo?
Tuy nhiên, với số trang viết rất ngắn gọn, các tác giả đà làm nổi bật
đ-ợc Lê Quý Đôn với t- cách một nhà t- t-ởng tiêu biểu của dân tộc trên mọi
lĩnh vực, chứ không chỉ có riêng triết học. Điều khẳng định của các tác giả mà
chúng tôi muốn chia sẻ là cần phải nghiên cứu nhiều hơn nữa về Lê Quý Đôn
thì mới thấy hết đ-ợc những quan niệm triết học của ông. Nói tóm lại, phần
trình bày về Lê Quý Đôn trong công trình này đà giúp ng-ời đọc có định
h-ớng chính xác khi nghiên cứu về Lê Quý Đôn trên nhiều lĩnh vực khác nhau
mà chính nhà t- t-ởng này quan tâm.
Công trình thứ hai là Lê Quý Đôn và häc thut “lý“, “khÝ“ cđa GS.
Cao Xu©n Huy trong “T- t-ởng ph-ơng đông gợi những điểm nhìn tham
chiếu do nhà xuất bản Văn học ấn hành năm 1995 cũng là một công trình rất
sâu sắc về những quan điểm triết học tự nhiên của Lê Quý Đôn. Bài viết đÃ
trình bầy rất cụ thể quan điểm của Lê Quý Đôn về vấn đề bản thể của thế giới,
vũ trụ. Hơn nữa tác giả còn chỉ rõ nguồn gốc xuất phát t- t-ởng của Lê Quý
Đôn, chỉ rõ những điểm hạn chế và tiến bộ của ông so với các nhà nho cùng
thời. Tác giả đà đánh giá khuynh h-ớng t- t-ởng của Lê Quý Đôn rất xác
đáng, đó là sự thể hiện của chủ nghĩa hỗn hợp nguyên thuỷ. Tuy nhiên, bài
viết chủ yếu mang tính giới thiệu nhiều hơn là đánh giá, phân tích. Trong đó,
người đọc cũng không nhận rõ được khuynh hướng Tam giáo đồng nguyên
trong t- t-ởng của Lê Quý Đôn. Các vấn đề khác cần đ-ợc xem xét d-ới lăng
kính triết học nh-: vấn đề con ng-ời, vấn đề chính trị, xà hội, v.v., ch-a đ-ợc
tác giả đề cập tới.
Công trình thứ ba là Lê Quý Đôn, nhà t- t-ởng Việt Nam thế kỷ XVIII
của GS. Hà Thúc Minh do nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 1998, tái bản
lần thứ nhất năm 1999. Đây là công trình nghiên cứu khái quát về Lê Quý

Đôn trên mọi ph-ơng diện, từ thân thế, sự nghiệp, những tác phẩm tiêu biểu


4
cho đến t- t-ởng của Lê Quý Đôn. Tác giả đà trình bày những t- t-ởng chính
trị xà hội, triết học của Lê Quý Đôn và đà giúp cho độc giả có cái nhìn khái
quát nhất về quan điểm, lập tr-ờng, khuynh h-ớng t- t-ởng của ông. Tác giả
đà sử dơng nhiỊu ngn t­ liƯu kh¸c nhau ë c¸c t¸c phẩm Quần thư khảo
biện, Thư kinh diễn nghĩa, Kiến văn tiểu lục, Vân đài loại ngữ, v.v., để
chứng minh cho những nhận định mà tác giả nêu ra. Hơn nữa, GS. Hà Thúc
Minh còn dày công s-u tầm, tuyển lựa, trích dẫn những đoạn trích tiểu biểu
trong tám tác phẩm lớn của Lê Quý Đôn để giới thiệu với độc giả.
Tuy nhiên, nếu đây là một công trình chuyên nghiên cứu về t- t-ởng Lê
Quý Đôn thì theo tôi, còn quá sơ sài. Nội dung t- t-ởng của Lê Quý Đôn đ-ợc
tác giả trình bày trong khoảng 30 trang trong tổng số 151 trang của công trình
là quá ít. Do vậy, tác giả mới chỉ phần nào khái quát đ-ợc t- t-ởng của Lê
Quý Đôn, mặc dù đà sử dụng nhiều tác phẩm của Lê Quý Đôn. Gs. Hà Thúc
Minh có nhận định Lê Quý Đôn cũng kêu gọi sử dụng luật pháp nhưng thực
ra ông vẫn một mực chủ tr-ơng đức trị chứ không phải pháp trị nh- có ng-ời
từng nói, theo tôi, với tư liệu mà tác giả đ-a ra thì ch-a đủ để khẳng định
nhận định này.
Theo tác giả, khi bàn về nguồn gốc thế giới, Lê Quý Đôn đà dựa vào
thuyết lý bản thể, từ đó khẳng định lý có tr-ớc khí. Tác giả nhận định “Tuy
quan niƯm r»ng lý ë trong khÝ nh-ng theo «ng (Lê Quý Đôn), thì lý vẫn là cái
có trước và tác giả dùng dẫn chứng Từ xưa đến nay, lý ch-a hề không tồn tại
(chữ in nghiêng do chúng tôi nhấn mạnh HVT). Xem thế đủ biết trong chỗ
h- không im lặng vẫn tồn tại cái lý ấy (Vân đài loại ngữ). Nếu dùng đoạn
trích này để chứng minh cho nhận định đó thì rõ ràng không đủ sức thuyết
phục, bởi vì Lê Quý Đôn muốn nhấn mạnh sự tồn tại của lý trong khí chứ
không khẳng định lý có tr-ớc khí. Đồng thời, tác giả chỉ khẳng định t- t-ởng

của Lê Quý Đôn chịu ảnh h-ởng sâu sắc cđa triÕt häc Tèng Nho mµ cơ thĨ lµ
Chu Hy, mà không thấy rằng, khuynh h-ớng t- t-ởng của Lê Quý Đôn là hỗn
dung đa nguyên trên cơ sở Nho giáo chủ đạo.


5
Những bài viết của Gs. Văn Tân: Vài nét về Lê Quý Đôn nhà bác học
lớn của Việt Nam dưới thời phong kiến và Lê Quý Đôn, cuộc đời và sự
nghiệp đ-ợc đăng trên Tạp chí nghiên cứu lịch sử cũng là nguồn t- liệu tham
khảo tốt bởi tác giả cũng có những bàn luận về quan niệm triết học của Lê
Quý Đôn.
Trong bài viết của mình, tác giả luôn khẳng định Lê Quý Đôn là một
học giả lớn trên mọi lĩnh vực từ văn, sử, địa đến triết học. Trong hai bài viết
của mình, tác giả chỉ chủ yếu ®Ị cËp ®Õn cc ®êi, sù nghiƯp cđa Lª Q Đôn
đúng nh- tên bài viết, đồng thời trình bày khái quát những quan điểm triết học
của Lê Quý Đôn thông qua việc giải quyết mối quan hệ giữa Lý và Khí cũng
như về cuộc đời hoạt động chính trị của ông. Theo Gs Văn Tân, Quan niệm
triết học của Lê Quý Đôn không thể v-ợt ra ngoài quan niệm triết học của
Tống Nho. Điều đó hoàn toàn chính xác, song, theo chúng tôi ngoài sự kế
thừa các t- t-ởng đó, Lê Quý Đôn cũng có những quan điểm riêng của mình
về những vấn đề mà ông thu thập đ-ợc từ triết học Tống Nho. Nói cách khác,
Lê Quý Đôn tuy xuất phát từ triết học Tống Nho, cụ thể là triết học Trình, Chu
nh-ng ông lại có cách giải quyết rất riêng của mình, điều đó đ-ợc thể hiện khá
rõ nét trong Vân đài loại ngữ. Lê Quý Đôn đà sử dụng rất nhiều quan điểm
của các nhà t- t-ởng ph-ơng Tây để chứng minh quan điểm của mình chứ «ng
kh«ng hoµn toµn phơ thc vµo Tèng Nho. Chóng ta đều biết, các nhà nho
thời Tống khi giải quyết mối quan hệ giữa Lý và Khí dù theo h-ớng duy vật
nh- Tr-ơng Tải hay duy tâm khách quan nh- Nhị Trình, Chu Hy, thì mục đích
cuối cùng của họ đề cao những giá trị đạo đức truyền thống của Nho giáo nhNhân, Lễ, Nghĩa, Trí lên ngang với Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh của trời đất, coi
đó là quy luật phổ biến chung, khách quan của xà hội loài ng-ời.

Đọc Vân đài loại ngữ chúng ta thấy Lê Quý Đôn luôn chđ tr-¬ng
chøng minh tÝnh thèng nhÊt cđa thÕ giíi ë Khí chứ không phải ở những giá trị
đạo đức của Nho giáo. Đó là quan điểm duy vật về bản thể của thế giới và cũng
chính là điểm khác biệt của Lê Quý Đôn so với phái Tống Nho Trình Chu.


6
Hơn nữa, các nhà Nho luôn quán triệt nguyên tắc Nhân trị, Đức trị,
nh-ng Lê Quý Đôn lại cho rằng, phải kết hợp Nhân trị với Pháp trị, thậm chí
có chỗ ông nghiêng về Pháp trị hơn. Quan điểm này của Lê Quý Đôn cũng đÃ
đ-ợc tác giả nhắc đến trong bài viết. Nh- chúng ta đà biết, ở thế kỷ XVIII,
Nho giáo ở Việt Nam đà và đang tr-ợt dài trên con đ-ờng suy thoái, các học
thuyết khác nh- Phật giáo và Đạo giáo tuy không tham gia vào chính tr-ờng,
nh-ng cũng tác động tới Nho giáo không ít. Trong bối cảnh đó, khuynh h-ớng
Tam giáo đồng nguyên trên cơ sở Nho giáo giữ vai trò chủ đạo được các nhà
t- t-ởng chú trọng hơn cả mà Lê Quý Đôn là đại biểu rất tiêu biểu. Do vậy,
không vì thế mà khẳng định rằng, quan điểm triết học của Lê Quý Đôn không
thể v-ợt ra ngoài quan điểm triết học của Tống Nho đ-ợc. Khẳng định nhvậy, theo chúng tôi là ch-a hoàn toàn thoả đáng.
Tuy nhiên, hai bài viết của tác giả cung cấp cho ng-ời đọc rất nhiều tliệu về Lê Quý Đôn, đặc biệt là về cuộc đời hoạt động chính trị của ông. Tác
giả rất kỳ công sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác nhau nh-: Việt sử thông
giám c-ơng mục, Lịch triều hiến ch-ơng loại chí, Lê Quế Đ-ờng tiên sinh tiểu
sử, Duyên Hà phả ký, v.v., để viết về cuộc đời, sự nghiệp của Lê Quý Đôn. Vì
vậy, những t- liệu mà tác giả đ-a ra có độ tin cậy khá cao.
2. Công trình Văn tuyển t- t-ởng Việt Nam thế kỷ XVIII gồm 2 tập của
Viện Triết học hoàn thành năm 1972. Đây là nguồn t- liệu rất quan trọng cho
những ng-ời nghiên cứu về lịch sử t- t-ởng Việt Nam. Trong văn tuyển, các
tác giả đà dành một số l-ợng trang viết khá lớn để giới thiệu và Lê Quý Đôn
với 8 tác phẩm tiêu biểu của ông. Sở dĩ chúng tôi đề cập đến công trình này ở
đây là vì các tác giả đà trích tuyển và phân loại theo chủ đề t- t-ởng cơ bản
của Lê Quý Đôn, đặc biệt là những vấn đề triết học trong Vân đài loại ngữ,

đông thời sơ bộ đặt cho mỗi đoạn một tên gọi riêng mang tính khái quát nội
dung của nó. Điều này giúp cho ng-ời đọc rất thuận lợi trong việc tra cứu bởi
ph-ơng pháp tuyển những đoạn trích rất ngắn gọn, sâu sắc, súc tích mà không
phải t- liệu nào cũng có đ-ợc. Công trình tuy tồn tại nhiều năm d-ới bản in rô


7
nê ô, ch-a đ-ợc chỉnh lý và biên soạn lại để nâng cao chất l-ợng văn tuyển và
đánh giá đúng nội dung t- t-ởng của Lê Quý Đôn, chúng tôi vẫn cho đó là
công trình có ý nghĩa khoa học đáng trân trọng, nó thể hiện thái độ nghiêm
túc và đúng đ-ờng lối của những ng-ời nghiên cứu khoa học nói chung và lịch
sử triết học nói riêng.
Ngoài ra còn có những bài viết của GS, TS. Nguyễn Tài Thư T- t-ởng
Lê Quý Đôn và khuynh h-ớng t- t-ởng của thời đại ông, Lê Quý Đôn trong
lĩnh vực t- t-ởng của dân tộc ở thế kỷ XVIII, Lê Quý Đôn, nhà t- t-ởng Việt
Nam thế kỷ XVIII đ-ợc đăng tải trên tạp chí Triết học, cũng là những nguồn
t- liệu quan trọng khi nghiên cứu về Lê Quý Đôn.
Những tài liệu trên đây là nguồn t- liệu rất quý giá. Trong quá trình thực
hiện luận văn, chúng tôi đà tham khảo, sử dụng những t- liệu đó để cho luận
văn của mình hoàn thiện hơn. Tuy vậy, số l-ợng sách, công trình, bài viết về tác
phẩm Vân đài loại ngữ còn ít, ch-a thực sự xứng với tầm của tác giả và tác
phẩm. Mặt khác những bài viết đó cũng ch-a trình bày một cách có hệ thống và
ch-a nêu bật đ-ợc những t- t-ởng triết học cơ bản của Lê Quý Đôn nh- vấn đề
bản thể vũ trụ, về con ng-ời, về vấn đề chính trị xà hội, v.v.. Do vậy, chúng tôi
thấy ngoài việc kế thừa những thành tựu nghiên cứu của những ng-ời đi tr-ớc,
bản thân cần cố gắng khắc phục khó khăn về ngôn ngữ Hán Việt, để ở khả năng
có thể của mình đ-a ra những nhận xét và đánh giá thoả đáng về một số tt-ởng triết học cơ bản của Lê Quý Đôn trong Vân đài loại ngữ.
3. Mc ớch và nhim v ca lun vn
- Mục đích của luận văn
Luận văn làm rõ những quan điểm triết học của Lê Quý Đôn đ-ợc thể

hiện trong tác phẩm Vân đài loại ngữ, qua đó chỉ ra vị trí, vai trò của ông
trong tiến trình lịch sử t- t-ởng của dân tộc.
- Nhiệm vụ


8
+ Luận văn tr-ớc hết phải làm rõ những tiền đề cho sự hình thành các
quan điểm triết học của Lê Quý Đôn.
+ Trình bày một vấn đề về văn bản học của Vân đài loại ngữ, chỉ ra
đ-ợc những nội dung t- t-ởng cơ bản của tác phẩm này.
+ Làm rõ những t- t-ởng triết học cơ bản của Lê Quý Đôn trong Vân
đài loại ngữ thông qua việc nghiên cứu so sánh quan điểm của ông với các
nhà triết học Tống Nho.
+ B-ớc đầu đ-a ra đánh giá sơ bộ về những điểm tiến bộ cũng nh- làm
rõ những hạn chế trong quan điểm triết học của ông ở trong Vân đài loại ngữ
và chỉ ra vị trí của Lê Quý Đôn trong tiến trình lịch sử t- t-ởng dân tộc.
4. Cơ sở lý luận và ph-ơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận
Luận văn đ-ợc thực hiện trên cơ sở những nguyên lý, quan điểm cơ bản
của chủ nghĩa Mác Lênin, t- t-ởng Hồ Chí Minh về lịch sử triết học.
- Ph-ơng pháp nghiên cứu
Dựa trên ph-ơng pháp luận nghiên cứu của chủ nghĩa Mác Lênin về
lịch sử triết học, luận văn sử dụng các ph-ơng pháp chủ yếu là: logic - lịch sử,
phân tích - tổng hợp, so sánh và hệ thống hoá, nhằm tái hiện chân thực và
đánh giá một cách khách quan những t- t-ởng triết học mà Lê Quý Đôn trình
bày trong Vân đài loại ngữ.
5. Phạm vi nghiên cứu của luận văn
Do giới hạn của đề tài nên luận văn chỉ tập trung làm rõ một số quan điểm
triết học cơ bản của Lê Quý Đôn trong một tác phẩm là Vân đài loại ngữ.
6. Đóng góp mới của luận văn

Luận văn chỉ ra đ-ợc một số quan điểm triết học của Lê Quý Đôn trong
Vân đài loại ngữ. Luận văn đà chỉ ra nguồn gốc t- t-ởng của Lê Quý Đôn, sự
kế thừa và phát triển của Lê Quý Đôn những t- t-ởng triết học cơ bản của


9
Tống Nho. Ngoài ra, luận văn còn dựa vào ph-ơng pháp của triết học và lịch
sử để đánh giá những tích cực cũng nh- những hạn chế trong t- t-ởng của Lê
Quý Đôn và chỉ ra vị trí của ông trong tiến trình lịch sử t- t-ởng của dân tộc.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn hoàn thành sẽ góp một phần nhỏ cho việc đáp ứng những đòi
hỏi khi nghiên cứu về Lê Quý Đôn nói riêng, cũng nh- cho việc nghiên cứu
hiện nay vỊ lÞch sư t- t-ëng ViƯt Nam nãi chung.
8. KÕt cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
chia làm 2 ch-ơng, 4 tiÕt.


10
Ch-ơng 1
Sự hình thành t- t-ởng Lê Quý Đôn
1.1. Vài nét khái quát về cuộc đời và sự nghiệp Lê Quý Đôn
Lê Quý Đôn tự là DoÃn Hậu, hiệu là Quế Đ-ờng, sinh năm 1726, quê ở
làng Duyên Hà, tỉnh Thái Bình. Thân phụ Lê Quý Đôn là Lê Trọng Thứ, đỗ
tiến sĩ năm giáp thìn 1724, làm quan Hình bộ th-ợng th- và đ-ợc phong t-ớc
hầu. Mẫu thân ông là ng-ời họ Tr-ơng quê ở Hà Nam. Ngay từ nhỏ Lê Quý
Đôn đà nổi tiếng thông minh. Các sách chép về ông có nhiều truyền thuyết:
hai tuổi đọc đ-ợc chữ Hữu và chữ Vô, năm tuổi đọc đ-ợc Kinh Thi, m-ời tuổi
học sử và Kinh Dịch, m-ời bốn tuổi học hết Ngũ kinh, Tứ th-, sử truyện và cả
Ch- tử.

Năm 1739, Lê Quý Đôn theo cha lên học ở Thăng Long, đến năm 1743
ông đỗ giải nguyên. Năm 1752, ông đỗ Bảng nhÃn, đ-ợc cử giữ chức Thụ thở viện Hàn lâm. Năm 1754 đ-ợc cử vào ban Toản tu quốc sử, năm 1756 đi
liêm phóng ở trấn Sơn Nam và ông đà phát hiện đ-ợc nhiều vụ hối lộ. Cùng
năm này, ông đ-ợc đổi sang phủ chúa Trịnh trông coi việc phiên binh. Tháng
tám năm đó ông đ-ợc cử đi hiệp đồng với các đạo Sơn Tây, Tuyên Quang,
H-ng Hoá, đem quân đi dẹp khởi nghĩa của Hoàng Công Chất, lập đ-ợc
nhiều chiến công. Năm 1757, đ-ợc thăng lên chức Thị giảng Hàn lâm viện.
Năm 1760, nhân vua Lê ý Tôn mất, ông cùng Trần Huy Mật đ-ợc cử
dẫn đầu một phái đoàn sang báo tang với nhà Thanh và dâng lễ cống. Năm
1761 phái đoàn sang đến Bắc Kinh, tại đây ông đà gặp các nho thần nhà
Thanh nh- L-ơng Thi Chính, Qui Hữu Quang và các sứ thần Triều Tiên nhHồng Khải Hi, Triệu Vinh Kiến. Lê Quý Đôn đà cho họ xem bộ Thánh mô
hiền phạm lục, Quần th- khảo biện, tập Tiêu t-ơng bách vịnh và chính Hồng
Khải Hi đà viết lời tựa cho ba sách này. Trong hành trình đi sứ qua các tỉnh
Trung Quốc, Lê Quý Đôn thấy bọn quan lại thường dùng những chữ di quan,
di mục trong văn thư để chỉ sứ thần Đại Việt, ông đà viết thư cho bän quan


11
lại ở Quảng Tây phản đối việc dùng những chữ đó để chỉ sứ thần Đại Việt.
Quan lại nhà Thanh ở Quảng Tây đà chấp nhận, cho ý kiến của ông là hợp lý
và đề nghị cấp trên thay đổi cách x-ng hô với sứ thần Đại Việt. Từ đó, sứ thần
nước ta được gọi là An nam cống sứ. Ông cũng đề nghị nhà Thanh không
dùng chữ di trong văn thư ngoại giao nữa và nhà Thanh cũng chấp nhận.
Trên đ-ờng sứ đoàn về n-ớc, Lê Quý Đôn đà gặp nho sĩ Tần Triều HÃn
là ng-ời học vấn uyên bác, th-ờng hay tranh luận cùng ông về học thuật, mặc
dù có nhiều bất đồng nh-ng Tần Triều HÃn cũng phải than rằng, nhân tài nhLê Quý Đôn ở Trung Quốc cũng ít có. Lúc qua Quảng Tây, Lê Quý Đôn có
gặp quan Đề học của tỉnh là Châu Bội Liên, và ông này có viết lời tựa cho một
tuyển tập của Lê Quý Đôn.
Năm 1762, khi đi sứ về n-ớc, ông đ-ợc thăng chức Hàn lâm viện thừa
chỉ, đ-ợc giữ chức Học sĩ Bí th- các. Năm 1764 đ-ợc cử giữ chức Đốc đồng

xứ Kinh Bắc. Cùng năm này, ông dâng sớ xin thiết định pháp chế. Năm 1765,
ông đ-ợc bổ nhiệm làm Tham chính xứ Hải D-ơng, nh-ng ông đà không nhận
và xin cáo quan về nhà viết sách.
Năm 1767, Trịnh Sâm lên thay cha đà gọi Lê Quý Đôn ra và trao cho
ông chức thị th-, tham gia biên soạn quốc sử, kiêm T- nghiệp Quốc tử giám.
Năm 1768 ông làm xong bộ Toàn Việt thi lục dâng lên cho chúa Trịnh và
đ-ợc th-ởng hai m-ơi lạng bạc. Tháng 9 năm 1768, ông đ-ợc cử làm Tán lý
quân vụ cùng với Phan Phái Hầu đem quân đi đánh Lê Duy Mật, Lê Đình Bản
ở Thanh Hoá. Lê Quý Đôn đà đại phá quân Lê Đình Bản ở Đồng Cổ. Năm
1769, Lê Quý Đôn thống lĩnh hơn 9000 quân Kinh và Thổ hợp sức với quân
Nghệ An buộc Lê Đình Bản phải đầu hàng, Lê Duy Mật phải tự tử. Nhờ có
công đánh dẹp Lê Duy Mật nên ông đ-ợc thăng chức Thị phó đô ngự sử. Năm
1770 ông lại đ-ợc thăng chức Công bộ hữu thị lang.
Năm 1772, đ-ợc cử đi điều tra tình hình thống khổ của nhân dân và
những việc tham nhũng của quan lại ở Lạng Sơn. Ông đà báo cho chúa Trịnh
biết những việc tham nhũng của viên đốc trấn Lê DoÃn Thân, chúa Trịnh đÃ


12
bÃi chức viên quan này. Cũng năm đó, d-ới sự sắp đặt của Trịnh Sâm, Lê Quý
Đôn cùng với Nguyễn Đình Huấn đà hại Huy Mật bị bÃi chức.
Năm 1773, hoạn quan Trần Huy Đỉnh đ-ợc cử giữ chức Th- phủ sự phủ
chúa Trịnh (tể t-ớng), còn Lê Quý Đôn đ-ợc thăng lên chức Bồi tụng trong
phủ chúa. Theo Việt sử thông giám c-ơng mục, thời gian này Lê Quý Đôn
cấu kết chặt chẽ với Huy Đỉnh, đ-ợc Huy Đỉnh dìu dắt cùng làm việc, vơ vét
của cải, không việc gì không làm, quyền lực bao trùm triều đình, lấn át quyền
vua Lê, gây oán hận trong nhân dân. Tháng 5 năm ấy, hoạn quan Nguyễn
Ph-ơng Đình, Xuân quận công Nguyễn Nghiễm và Lê Quý Đôn đ-ợc lệnh
đốc suất việc làm hộ tịch. Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Ph-ơng Đình chỉ làm lấy
lệ, còn Lê Quý Đôn kê cứu, tra xét quá khắt khe, nghiêm khắc nên nhân dân

rất oán hận ông. Họ làm th- nặc danh dán ở phủ chúa, xin bÃi bỏ Lê Quý Đôn
và dùng Hoàng Ngũ Phúc. Chúa Trịnh đà phải để cho Ngũ Phúc cùng làm với
Lê Quý Đôn.
Năm 1774, Lê Quý Đôn đ-ợc lệnh đi đo đạc ruộng đất ở Sơn Nam.
Cùng năm đó, Trịnh Sâm thân chinh mang quân đi đánh Thuận Hoá, Lê Quý
Đôn cùng Nguyễn Đình Thạch, Nguyễn HoÃn, Nguyễn Đình Huân đ-ợc cử
giữ chức l-u thủ ở Thăng Long. Tr-ớc khi quân Trịnh xuất quân, Lê Quý Đôn
còn vạch trình tự tiến quân, thảo các hịch, dụ, văn th- liên quan đến cuộc
chinh chiến. Trong thời gian l-u thủ Thăng Long ông đà công bố 24 khoản
thân sức đồn phòng, lo vận chuyển l-ơng thực, tuyển dụng quân sĩ.
Năm 1775, sau khi thu phục đ-ợc Thuận Hoá, Trịnh Sâm đem quân về, Lê
Quý Đôn đ-ợc thăng lên chức Lại bộ tả thị lang kiêm Quốc sử quán tổng tài.
Tháng 10/1775 xảy ra việc con trai Lê Quý Đôn là Lê Quý Kiệt gian
lận trong thi cử cùng Đinh Thì Trung. Lê Quý Đôn bị tố cáo chủ m-u nh-ng
là bậc đại thần nên đ-ợc miễn tội, còn Lê Quý Kiệt bị tống ngục, Đinh Thì
Trung bị l-u đày. Năm 1776, chúa Trịnh đặt ty trấn phủ ở Thuận Hoá, Bùi Thế
Đạt đ-ợc cử giữ chức đốc suất kiêm trấn phủ, Lê Quý Đôn đ-ợc cử giữ chức
Hiệp trấn tham tán quân cơ. Trong thời gian ở đây, ông ra sức chấn chỉnh l¹i


13
bộ máy chính quyền, chăm lo đời sống kinh tế, giáo dục cho nhân dân. Mặc
dù chỉ ở đây có 6 tháng, nh-ng Lê Quý Đôn ngoài công việc chính còn viết
xong bộ sách Phủ biên tạp lục. Cuối năm 1776, ông đ-ợc cử giữ chức Hành
bộ phiên cơ mật sự vụ kiêm Ch-ởng tài phú.
Năm 1778 đ-ợc thăng lên chức Hành tham tụng, ông cố từ chối và xin
đổi sang ban võ và đ-ợc phong t-ớc Hữu hiệu điểm, quyền phủ sự, t-ớc Nghĩa
phái hầu. Tháng t- năm 1778, ông bị tham nghị cũ xứ Thanh Hoá là Lê Thế
Toại làm bài khải công kích rất gay gắt. Năm 1779 bị Hoàng Văn Đồng tố
giác ỷ thế ức hiếp lấy 3.000 lạng bạc của y và Lê Quý Đôn bị giáng chức.

Năm 1781, ông lại đ-ợc cử giữ chức Quốc sử quán tổng tài, Hiệp trấn Nghệ
An. Năm 1782, ông đ-ợc triệu về triều thăng lên chức Công bộ th-ợng th-.
Đến 1784, ông mất tại Hà Nam, đ-ợc Trịnh Khải đề nghị bÃi triều ba ngày để
tang ông và đặt tên thụy là Văn Trung, truy tặng t-ớc Thiếu bảo.
Lê Quý Đôn là nhà bác học lớn của dân tộc ở thế kỷ XVIII, di sản ông
để lại rất đồ sộ. Theo các tài liệu còn ghi chép đ-ợc, Lê Quý Đôn là tác giả
của rất nhiều tác phẩm nổi tiếng trên các lĩnh vực nh- triết học, văn học, sử
học, địa lý, chú giải kinh điển
Về Sử học, ông có tác phẩm: Đại việt thông sử, Phủ biên tạp lục, Bắc sứ
thông lục, Kiến văn tiểu lục.
Đại Việt thông sử là bộ lịch sử n-ớc Đại Việt do Lê Quý Đôn biên soạn
mở đầu từ cuộc khởi nghĩa của Lê Lợi ở Lam Sơn từ năm 1418 đến năm 1433.
Theo Lịch triều hiến ch-ơng loại chí quyển 42, của Phan Huy Chú, thì Đại
Việt thông sử có 30 quyển nh-ng hiện nay chỉ còn lại 3 tập với một bài tựa của
tác giả viết năm 1749. Đại Việt thông sử gồm bốn phần: Đế kỷ, Nghệ văn chí,
Liệt truyện (hậu phi, hoàng tử, công thần, gian nghịch), và họ Mạc.
Phủ biên tạp lục là tập bút ký của tác giả viết về Đàng Trong, nhất là xứ
Thuận Hoá và xứ Quảng Nam từ thế kỷ XVIII về tr-ớc. Tác phẩm gồm 6
quyển, đ-ợc viết trong thời gian 6 tháng khi ông giữ chức Hiệp trấn tham tán


14
quân cơ phủ Thuận Hoá. Tác phẩm còn có bài tựa của tác giả đề ngày rằm
tháng tám năm 1776, một bài bạt của Ngô Thì Sĩ đề ngày 1 tháng 10 năm
1777. Tác phẩm gồm các ch-ơng: Lịch sử khai thác hai xứ Thuận, Quảng; Núi
sông, thành luỹ, đ-ờng sá; Ruộng công, ruộng t-, số l-ợng sản phẩm, thuế
má; Th-ợng du, biên phòng, thuế chợ, thuế mỏ; Nhân tài, thơ văn; Phẩm
vật, phong tục. Tr-ớc Lê Quý Đôn, chỉ có D-ơng Văn An đời Mạc với tác
phẩm Ô châu cận lục viết về núi sông, phẩm vật, thành quách xứ Thuận Hoá.
Nh-ng đến tác phẩm này thì tình hình núi sông, phong thổ, tập quán của xứ

Thuận mới đ-ợc giới thiệu kỹ càng hơn. Sau này, các sử thần đời Nguyễn khi
biên soạn Đại Nam thực lục tiền biên đà sử dụng những tư liệu của Phủ
biên tạp lục.
Bắc sứ thông lục là tác phẩm tập hợp các tài liệu trong thời gian ông đi
sứ Trung Quốc từ năm 1760 đến năm 1762 nh- những bài tấu, khải, truyền
báo, ghi chép về núi sông, đ-ờng sá, phong tụcở những nơi mà phái đoàn đi
qua. Tác phẩm gồm 4 quyển, có bài tựa của tác giả đề năm 1780. Phần cuối có
ghi những bài tựa của Tần Triều HÃn, Chu Bội Liênviết cho Thánh mô hiền
phạm và Quần th- khảo biện.
Kiến văn tiểu lục đ-ợc viết bằng chữ Hán gồm 12 phần, tác phẩm đÃ
đ-ợc Viện Sử học dịch ra tiếng Việt và xuất bản năm 1962. Đây là bút ký của
Lê Quý Đôn viết khi đọc những tài liệu có liên quan đến lịch sử Đại Việt từ
Lý, Trần đến Lê. Tác phẩm gồm: Châm cảnh, ghi chép những câu cách
ngôn về việc tu thân xử thế, hành vi của một số nhân vật lịch sử Việt Nam,
Trung Quốc nhằm khuyên răn giáo dục mọi người; Thể lệ thượng ghi chép
các lễ về tế tự, âm nhạc, các phép thi cử, luật lệ, v.v., của các triều Lý, Trần,
Lê; Thiên chương chép về những nhân vật đà làm các bài bia, minh, về sách
vở, thơ văn đời Lý, Trần, về những sứ thần Trung Quốc. v.v.; Tài phẩm ghi
chép về tài năng, phẩm hạnh, tiết tháo, v.v., của một sè danh nh©n n-íc ta;
“Phong vùc” chÐp vỊ danh lam, thắng cảnh, núi sông, thành quách, sản
vậtnh- Sài Sơn, Tam Đảo, Đà Giang thuộc trấn Sơn Tây, H-ng Hoá, Tuyên


15
Quang. Thiền dật chép về các sự tích, thơ văn của các thiền sư Việt Nam từ
Bắc thuộc đến Hậu Lê; Linh tích ghi chép về sự tích của các vị thần linh;
Tùng đàm giai thoại về các danh nhân Việt Nam triều Trần, Lê. Tác phẩm
này còn đến hiện nay bị thiếu phần Thể lệ hạ, Phong vực trung, Phong
vực hạ và Phương thuật.
Về thơ văn thì Lê Quý Đôn có các sáng tác nh- Quế Đ-ờng thi tập, Quế

Đ-ờng văn tập, Quế Đ-ờng di tập và biên tập, Toàn việt thi lục, Hoàng việt
văn hải.
Về triết học gồm có Quần th- khảo biện, Thánh mô hiền phạm lục, Âm
chất văn chú, Vân đài loại ngữ.
Thánh mô hiền phạm lục gồm 12 quyển, ghi chép và bình chú những
danh ngôn của các bậc thánh hiền, có bài tựa của sứ thần Triều Tiên, của Chu
Bội Liên, Tần Triều Vu.
Âm chất văn chú gồm 2 quyển trong đó có bài tựa của tác giả, của Bùi
Huy Bích và sự tham gia hiệu đính của các học trò Lê Quý Đôn.
Quần th- khảo biện gồm 2 quyển, có bài tựa của tác giả đề ngày 1
tháng tám năm 1757, một bài của Chu Bội Liên, một của Tần Triều Vu, một
bài của Hồng Khải Hi, một lá th- ngắn của Hồng Khải Hi, một lá th- ngắn
khác của Lý Huy Trung. Quần th- khảo biện gồm 223 sự kiện khác nhau
trong lịch sử Trung Quốc từ đời Hạ Th-ơng Chu cho đến nhà Minh, đ-ợc tác
giả nêu ra và bình luận, đánh giá, sau mỗi sự kiện là lời bình của Chu Bội Liên
và Tần Triều Vu. Tác phẩm thể hiện đ-ợc quan điểm của Lê Quý Đôn về các
vấn đề chính trị xà hội, hay nói cách khác, đó là tập hợp t- t-ởng triết học xÃ
hội của ông.
Trong số các sáng tác đó, đặc biệt hơn cả là tác phẩm Vân đài loại ngữ,
tác phẩm tập hợp đ-ợc rất nhiỊu kiÕn thøc kh¸c nhau nh- triÕt häc, sư häc, văn
học, địa lý, v.v., cho đến cả những phong tục tập quán, sản vật tự nhiên, v.v..
Trong tác phẩm này Lê Quý Đôn đà trình bầy những quan điểm triết häc tù


16
nhiên, triết học xà hội, một cách t-ơng đối đầy ®đ, ®iỊu mµ cho ®Õn thêi bÊy
giê ch-a cã mét nhà t- t-ởng Việt Nam nào làm đ-ợc.
Ngoài ra còn rất nhiều tác phẩm khác của Lê Quý Đôn đ-ợc nói tới
trong Lịch triều hiến ch-ơng loại chí của Phan Huy Chú, Duyên Hà phả ký,
v.v.. Tuy nhiên, những sách đó hoặc là bị thất lạc, hoặc là của ng-ời khác

đ-ợc gán cho Lê Quý Đôn.
Về tình hình kinh tế, chÝnh trÞ, x· héi ViƯt Nam ThÕ kû XVIII cã nhiều
biến động. Đây là thời kỳ Đại Việt vẫn bị chia cắt làm hai miền. Đàng Trong
thuộc các chúa Nguyễn và Đàng Ngoài thuộc vua Lê-chúa Trịnh. Hậu quả của
sự khủng hoảng chế độ phong kiến và sự chia cắt hai miền từ thế kỷ XVI,
XVII đà ảnh h-ởng rất nhiều đến tình hình kinh tế, chính trị, xà hội thế kỷ
XVIII. Nạn t- hữu ruộng đất ở Đàng ngoài ngày càng gia tăng, ruộng đất công
ngày càng bị thu hẹp, xuất hiện hàng loạt địa chủ có hàng trăm, hàng nghìn
mẫu ruộng, trong khi đó nông dân lại không có ruộng đất để cày cấy. Kinh tế
hàng hoá gặp nhiều khó khăn, các đô thị nh- Phố Hiến sau một thời gian h-ng
thịnh, đến lúc đó đà bị suy tàn. Sự phân hoá giai cấp, giầu nghèo trong xà hội
ngày càng sâu sắc. Bên cạnh đó là những năm thiên tai, hạn hán, mất mùa liên
tiếp làm cho đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, họ phải bỏ làng ra đi, trở
thành dân phiêu bạt khắp nơi.
Trong lúc đó, bộ máy quyền lực ở làng xà ngày càng biến chất, trở
thành công cụ trong tay bọn c-ờng hào để bóc lột ng-ời nông dân. Đặc biệt
đến thời Trịnh Giang (1729-1740), tình trạng này còn trầm trọng hơn nữa. Để
có tiền chi phí cho sự ăn chơi, h-ởng thụ, Trịnh Giang đà mở rộng việc bán
t-ớc quan. Chức tri phủ giá từ 1500 đến 2500 quan, tri huyện từ 500 quan ®Õn
1200 quan, víi quan lơc phÈm trë xng cứ 500 quan đ-ợc thăng một bậc.
Quan tr-ờng trở thành nơi trục lợi, nạn tham nhũng tràn lan. Đời sống của
nhân dân vô cùng khổ cực.
Hậu quả tất yếu của tình hình trên là những cuộc khởi nghĩa của nông
dân nổ ra liên tiếp trong khoảng giữa thế kỷ XVIII. Bắt đầu là cuộc khởi nghĩa


17
của nhà s- Nguyễn D-ơng H-ng vào năm 1737 và tiếp sau đó là hàng chục
cuộc khởi nghĩa khác của Lê Duy Mật, của Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, của
Hoàng Công Chất, của Vũ Đình Dung, của Nguyễn Danh Ph-ơng, của

Nguyễn Hữu Cầu,trong đó nổi bật là bốn cuộc khởi nghĩa lớn của Lê Duy
Mật (1738-1770), Hoàng Công Chất (1739-1769), của Nguyễn Danh Ph-ơng
(1740-1751), của Nguyễn Hữu Cầu (1741-1751) đà làm cho chính quyền
Đàng ngoài phải đối phó hết sức vất vả.
Đến năm 1770, các phong trào nông dân đều thất bại tuy nhiên chúng
đà làm cho chính quyền Đàng ngoài bị lung lay tận gốc rễ. Các phong trào đó
đà lôi cuốn một khối l-ợng lớn nông dân nghèo khổ tham gia, ®· lan réng tõ
®ång b»ng cho ®Õn miỊn núi, từ miền xuôi cho đến miền ng-ợc. Lực l-ợng
lÃnh đạo cách mạng cũng rất đa dạng từ nông dân, nho sĩ cho đến tôn thất nhà
Lê nh- Lê Duy Mật. Đây là minh chứng cho sự suy tàn, khủng hoảng sâu sắc
của xà hội Đàng ngoài. Tuy thất bại nh-ng các phong trào này đà buộc chính
quyền Lê-Trịnh phải có chính sách điều chỉnh cho phù hợp nhằm xoa dịu tình
hình lúc đó. Chẳng hạn, Trịnh Sâm ban bố 7 điều cấm vào năm 1773, phát chẩn
cứu đói cho Nghệ An năm 1777, v.v.. Tuy nhiên, những chính sách đó chỉ
mang tính nhất thời, cho nên nó không cứu vÃn nổi tình hình. Tình trạng dân
nghèo không có đất sản xuất phải bỏ làng ra đi phiêu tán ngày một tăng lên.
Trong khi đó bộ máy cai trị lại mục nát đến cực độ, sự tranh giành
quyền lực, kèn cựa, tham ô, tham nhũng trong bộ máy quan lại ngày một
nhiều, nhất là từ khi Trịnh Sâm lên cầm quyền năm 1767. Khi mới lên cầm
quyền, Trịnh Sâm đà hạ ngục em mình là Trịnh Đệ, giết hại Thái tử Lê Duy
Vĩ, sủng ái Đặng Thị Huệ, dung túng Đặng Mậu Lân tung hoành ngang
ng-ợcDo ăn chơi hoang dâm vô độ, truỵ lạc nên ch-a đầy 40 tuổi Trịnh Sâm
đà bị bệnh, mọi việc chính quyền đều do Đặng Thị Huệ và Hoàng Đình Bảo
định đoạt. Sau khi Trịnh Sâm chết, lại xảy ra cuộc chiến tranh giành quyền lực
giữa Trịnh Cán và Trịnh Khải. Khi Trịnh Khải giành đ-ợc chính quyền, phế
Trịnh Cán, giết Hoàng Đình Bảo thì ở Đàng ngoài lại xảy ra nạn kiêu binh.


18
Cục diện chính trị Đàng ngoài đến thời điểm này hết sức rối loạn, chính quyền

Lê-Trịnh không còn đủ khả năng để ổn định tình hình.
Trong lúc đó ở Đàng trong tình hình chính trị, kinh tế, xà hội vẫn t-ơng
đối ổn định cho đến giữa thế kỷ XVIII. Khi phong trào nông dân ở Đàng
ngoài chấm dứt, thì ở Đàng trong nông dân mới bắt đầu nổi dậy mạnh mẽ, còn
tr-ớc đó chỉ là những phong trào nhỏ, lẻ tẻ. Đến năm 1770, khi phong trào đấu
tranh do anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lÃnh đạo nổ ra thì
phong trào nông dân Đàng trong mới thật sự phát triển mạnh. Điểm đáng chú
ý là trong khi các phong trào đấu tranh ở Đàng ngoài đều thất bại thì phong
trào nông dân do anh em họ Nguyễn ở Tây Sơn lÃnh đạo đà thắng lợi, lật đổ
chính quyền chúa Nguyễn.
Trên đà thắng lợi, Nguyễn Huệ đem quân tiến ra Bắc Hà với danh nghĩa
Phù Lê, diệt Trịnh, đà đập tan chính quyền Lê-Trịnh, thống nhất đất n-ớc,
xoá bỏ giới tuyến sông Gianh, mở ra thời kỳ phát triển mới của dân tộc.
Đến thế kỷ này, việc học tập, thi cử ngày càng đ-ợc mở rộng và phát
triển hơn. ở thế kỷ XVI, XVII mặc dù chiến tranh loạn lạc, xà hội bị phân
chia thành Nam, Bắc triều, rồi tiếp đến những cuộc chiến tranh giữa Đàng
trong và Đàng ngoài diễn ra liên tục, nh-ng việc học hành, thi cử theo lề lối
Nho giáo vẫn đ-ợc duy trì t-ơng đối liên tục. Nhà Mạc trong 60 năm tồn tại
của mình đà tổ chức đ-ợc 22 khoa thi lấy đỗ 385 tiến sĩ. Triều Lê Trung H-ng
đà tổ chức đ-ợc 68 kỳ thi, chọn đ-ợc 717 tiến sĩ. Trong đó có những nhân tài
nh- Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Dữ, Phùng Khắc Khoan, L-ơng Bắc Đằng,
v.v. Tuy nhiên, do sự suy u cđa nhµ n-íc phong kiÕn, cđa hƯ t- t-ëng Nho
giáo nên ngay từ thế kỷ XVI, việc học hành, thi cử theo các nguyên tắc của
Nho giáo đà bộc lộ nhiều hạn chế và tiêu cực. Đặc biệt, khi t- t-ởng thực dụng
đà len lỏi vào đời sống xà hội, nó đà phá vỡ những quan hệ truyền thống, hiƯn
t-ỵng gian lËn, hèi lé trong thi cư, mua quan bán t-ớc ngày một phổ biến.
Những tiền lệ xấu trong giáo dục thi cử của các thế kỷ tr-ớc lại tiếp tục
đ-ợc thi hành trong thế kỷ XVIII. Các học vị ở tr-ờng thi h-ơng (cống sinh,



19
sinh đồ) đà trở thành hàng hoá. Nội dung thi cử ngày một giáo điều, máy móc.
Đề thi đ-ợc tập hợp sẵn, có giải đáp, học trò đi thi chỉ cần mua để học thuộc,
hoặc đem vào tr-ờng thi chép. Thậm chí nhà n-ớc còn chủ tr-ơng bán văn
bằng. Ai nộp 3 quan tiền thông kinh thì có quyền đi thi không phải sát hạch,
cho nên rất nhiều ng-ời nộp tiền đi thi, từ học trò cho đến nông dân, kẻ buôn
bán, v.v., đều có thể đi thi.
Nh- vậy, đến thế kỷ này việc học hành thi cử Nho giáo đà trở nên giáo
điều, sáo rỗng. Tuy nhiên, trong xà hội vẫn có những ng-ời tài cao học rộng
nh- Lê Quý Đôn, Ngô Thì Sĩ, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Nghiễm, Trần Danh
Lâm, v.v..
Xét lĩnh vực t- t-ởng, thì đây là thời kỳ mạnh nhất của xu hướng Tam
giáo đồng nguyên trên cơ sở đề cao Nho giáo, nó trở thành xu hướng giữ vị
trí chủ đạo trong đời sống tinh thần của xà hội. Đây là thời kỳ có sự chuyển
biến mạnh trong lĩnh vực t- t-ởng, Phật giáo từ thời Lê Sơ đà bị mất vai trò
chính trị, Nho giáo trở thành hệ t- t-ởng độc tôn. Tuy nhiên, từ cuối đời Lê,
Nho giáo đà thể hiện sự bất lực của nó tr-ớc các vấn đề của xà hội. Tr-ớc
cảnh đất n-ớc loạn lạc, các nhà nho chỉ mong muốn làm cho đất n-ớc thống
nhất, xà hội yên vui nên họ để tâm đi tìm nguồn gốc của loạn lạc, đ-a ra chủ
tr-ơng, đ-ờng lối trị n-ớc của mình nh-ng không có kết quả. Đất n-ớc vẫn bị
chia cắt. Cho nên, lúc này lý luận về đ-ờng lối trị n-íc cđa giai cÊp phong
kiÕn dùa trªn uy tÝn häc thuật và đ-ờng lối Đức trị của Nho giáo bị rơi vào
khủng hoảng trầm trọng nhất. Từ đó ng-ời ta phải lục tìm trong kho tàng tt-ởng quá khứ xem phải vận dụng các học thuyết chính trị nh- thế nào cho
thích hợp, vì thế khuynh h-ớng kết hợp Nho, Phật với LÃo Trang vốn có ở
những mức độ khác nhau tr-ớc đây, vào thế kỷ XVIII đà trở nên mạnh mẽ mà
các học giả gọi đó là khuynh hướng Tam giáo đồng nguyên trên cơ sở Nho
giáo giữ vị trí chủ đạo.
Phật giáo tuy bị đẩy ra khỏi chính tr-ờng nh-ng nó vẫn đ-ợc tiếp tục
phục hồi và phát triển. Đặc biệt, ở nông thôn, chùa mọc lên ở nhiều nơi, nhà



20
chùa có kinh tế riêng. Bên cạnh đó, Đạo giáo cũng đà đ-ợc truyền bá rộng rÃi,
nhiều đạo quán đ-ợc xây dựng, rất nhiều nho sĩ tin theo Đạo giáo.
Cũng trong thời kỳ này, ngoài các tôn giáo đ-ợc du nhập từ lâu vào
n-ớc ta, trở thành những tôn giáo truyền thống, còn có một tôn giáo từ ph-ơng
Tây đang nỗ lực truyền vào n-ớc ta là Đạo Thiên chúa. Bối cảnh xà hội phức
tạp, đầy biến động nh- đà nói ở trên vô hình chung trở thành điều kiện thuận
lợi cho sự phát triển của tôn giáo này ở cả hai Đàng.
Cùng với các tôn giáo trên, tín ng-ỡng bản địa của dân tộc có dịp đ-ợc
h-ng khởi. Trong bối cảnh loạn lạc nh- vậy, thêm vào đó là sự suy giảm vị trí
của Nho giáo trên tr-ờng chính trị, đà làm cho ng-ời dân mất lòng tin vào
triều đình và học thuyết từng là trụ cột hệ t- t-ởng của nó là Nho giáo. Họ
quay về với các vị thần truyền thống của mình nh- thần núi, thần sông, thần
cây, v.v., quay về với các vị anh hùng của dân tộc nh- Thánh Gióng, thánh
Tản Viên, v.v..
Trong tình hình t- t-ởng nh- vậy, tuy Nho giáo đ-ợc đề cao, song nó
lại không tách biệt hoàn toàn với Phật, Đạo. Các nhà nho không tìm cách đối
lập Nho với các tôn giáo khác mà ng-ợc lại, tìm cách thu hút các tôn giáo
khác vào Nho. Như vậy, khuynh hướng Tam giáo đồng nguyên của thế kỷ
này trên cơ sở đề cao Nho nh- là khuynh h-ớng chủ đạo. Các nhà t- t-ởng
thời kỳ này không chỉ tiếp thu Nho mà còn tiếp thu các kiến thức khác, thậm
chí cả kiến thức ph-ơng Tây nh- Lê Quý Đôn đà từng làm để bổ sung những
khiếm khuyết mà hệ t- t-ởng truyền thống không có.
Chính tình hình kinh tế, chính trị, xà hội, t- t-ởng của thế Kỷ XVIII đÃ
tạo nên những suy t- rất độc đáo trong đời sống tinh thần của trí thức đ-ơng
thời. Những suy t- đó đ-ợc biểu hiện ra ở những tác phẩm văn học rất đặc sắc
như Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều, Chinh phụ ngâm của
Đoàn Thị Điểm, Đặng Trần Côn, v.v., hay những tác phẩm thể hiện t- t-ởng
triết học như Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh của Ngô Thì Nhậm, Quần

thư khảo biện, Vân đài loại ngữ của Lê Quý §«n…


21
Đặc biệt phát triển hơn cả là trên các lĩnh vực sử học và chú giải kinh
điển, xuất hiện nhiều tác phẩm có giá trị nh-: Đại việt thông sử, Kiến văn tiểu
lục của Lê Quý Đôn, Việt sử tiêu án của Ngô Thì Sĩ
Nh- vậy, thời đại Lê Quý Đôn sống có rất nhiều biến động. Trong bối
cảnh lịch sử nh- vậy, Lê Quý Đôn đà tự v-ơn lên khẳng định tài năng và vị thế
của mình. Ông cũng ôm ấp một hoài bÃo chính trị nh- những nhà t- t-ởng
đ-ơng thời là đi tìm một đ-ờng lối trị n-ớc nhằm ổn định xà hội, thời cuộc.
Mang trong mình tham vọng đó cùng hoàn cảnh lịch sử của thời đại, Lê Quý
Đôn đà trở thành một nhà bác học kiệt xuất của dân tộc. Trong di sản đồ sộ
của ông để lại thì Vân đài loại ngữ chứa đựng những suy t- triết học sâu sắc
hơn cả. Những suy t- triết học của Lê Quý Đôn cũng không thể v-ợt ra khỏi
khuynh h-ớng hỗn dung đa nguyên trên cơ sở Nho giáo giữ vai trò chủ đạo
của thế kỷ này đ-ợc. Do vậy, trong t- t-ởng và hành động của ông, chúng ta
thấy có chỗ ông thể hiện mình nh- một nhà nho, nh-ng chỗ khác ông lại tỏ ra
mét ng-êi cã biƯt tµi trong lÜnh vùc phong thủ, bói toán, đoán mệnh, v.v.. Có
nhà nghiên cứu đà đánh giá t- t-ởng của ông thuộc chủ nghĩa hỗn hợp nguyên
thuỷ. Điều này cũng hoàn toàn dễ hiểu khi ta biết đ-ợc hoàn cảnh thời đại mà
ông sống. Bộ Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn cũng đ-ợc hình thành trong
hoàn cảnh đó, do vậy, những t- t-ởng triết học trong tác phẩm này cũng thể
hiện tâm thế đó của ông, làm cho ông có những t- t-ởng rất riêng và đặc sắc.
1.2. Về tác phẩm Vân đài loại ngữ
Vân đài loại ngữ là tác phẩm đ-ợc viết trong thời gian dài, trong đó tập
hợp một khối l-ợng kiến thức phong phú mà Lê Quý Đôn đọc đ-ợc ở nhiều
sách vở khác nhau. Tác phẩm đ-ợc hoàn thành năm 1773. Vân đài loại ngữ
nghĩa là những lời nói thu thập đ-ợc tại nơi chứa sách và đ-ợc sắp xếp theo
từng loại. Trong lời tựa do tác giả viết ở đầu sách đà chỉ rõ: Tôi nhân đọc

sách mà trộm dòm thấy ng-ời thời x-a học hỏi đều nh- thế cả; th-ờng tôi
trích lấy các sự tích chép trong các Truyện, Ký, rồi xếp đặt lại, có chỗ theo ý


22
mình mà bình luận, có chỗ cứ chép lại nguyên văn, tích lâu thành bộ sách,
chia làm chín quyển đặt tên là Loại ngữ [5, tr. 46](*).
1.2.1. Một số vấn đề về văn bản học của Vân đài loại ngữ
Tác phẩm gốc Vân đài loại ngữ của Lê Quý Đôn đ-ợc viết bằng chữ
Hán đến nay mới có hai bản dịch đà đ-ợc in. Một là bản của Trần Văn Giáp
biên dịch và khảo thích do NXB Văn Hoá xuất bản năm 1962, và hai là bản
của Tạ Quang Phát do NXB Thông tin xuất bản năm 1995.
Theo lời nói đầu trong bản dịch của Trần Văn Giáp cho biết, tác phẩm
Vân đài loại ngữ có rất nhiều dị bản khác nhau, chẳng hạn Viện Văn học có
một bản, Viện sư häc cã mét b¶n, Th- viƯn khoa häc trung -ơng có năm bản
đánh số (A.141; A.1258; A.1338). Hầu hết các bản này đều không còn đ-ợc
nguyên vẹn, do vậy, dịch giả gặp rất nhiều khó khăn trong việc biên tập và
hiệu đính. Các dịch giả đà phải đọc nhiều bản khác nhau, cuối cùng họ chọn
bản A. 141 của Th- viện khoa học trung -ơng để dịch và giới thiệu với độc
giả.
Bản dịch của Tạ Quang Phát đ-ợc dịch theo bản chép tay l-u trữ d-ới
mà số MC 3721 KC tại chi nhánh Văn khố - Đà Lạt, nguyên thuộc th- viện
Phạm Quỳnh số P.Q. 220-2.
Trong hai bản dịch nói trên, bản dịch của Trần Văn Giáp đ-ợc các dịch
giả thực hiện rất công phu. Bản dịch này đ-ợc thực hiện từ năm 1957 và hoàn
thành năm 1960. Đây là một công trình của tập thể tác giả với sự tham gia của
những học giả nổi tiếng nh- Trần Văn Giáp, Trần Văn Khang, Trần Lê Nhân,
Ngô Lập Chi, Trần Huy Hân, Phan Võ, Cao Xuân Huy. Trong nguyên bản của
tác phẩm chỉ ghi số mục của 9 loại mà không đánh số rõ ràng các điều mục
trong từng loại. Tuy nhiên, trong quá trình dịch thuật, các dịch giả đà đánh số

cho từng điều mục trong cả 9 loại nhằm mục đích giúp ng-ời đọc tra cứu
thuận lợi hơn. Thậm chí các dịch giả còn dày công làm nhiều sách dẫn, l-ợc
(*)

Từ đây: - Số đầu là số thứ tự của tài liệu tham khảo.
- Số sau là số trang của tài liệu tham khảo.


23
trích các danh mục trong sách th-ờng gọi là chủ đề, tên ng-ời, địa danh, tập
hợp lại và đ-ợc xếp theo chữ cái, sau mỗi chủ đề đều chú thích rõ các số
h-ớng dẫn về từng loại, từng điều mục. Nhờ có sự h-ớng dẫn này mà ng-ời
đọc dễ dàng tra cứu những điều cần thiết.
Đồng thời trong bản dịch này, học giả Cao Xuân Huy đà viết bài giới
thiệu rất kỹ về tác phẩm, do vậy ng-ời đọc ở mức độ nhất định có thể hình
dung ra kết cấu, nội dung t- t-ởng mà Lê Quý Đôn trình bày trong đó.
Bản dịch của Tạ Quang Phát thì tuân theo nguyên bản, không chú thích
từng điều mục trong 9 môn loại, do vậy khi đọc rất khó phân biệt giữa các
điều với nhau. Hơn nữa, trong bản dịch có những ký hiệu có thể là mang tính
nguyên bản mà ng-ời dịch không giới thiệu (ví dụ nh-: trong mục Lý khí có
ký hiệu [8b], [9b], [11a]) làm cho ng-ời đọc không biết đ-ợc ý nghĩa của
những ký hiệu đó.
Bản dịch này mặc dù đ-ợc dịch sau, nh-ng lại chỉ dịch theo bản chép
tay của chi nhánh Văn khố Đà Lạt mà không có sự đối chiếu, so sánh với các
bản dịch tr-ớc. Trong khi đó bản dịch thứ nhất đ-ợc các dịch giả đối chiếu,
biên tập từ nhiều bản khác nhau, thậm chí những chỗ nghi ngờ còn đ-ợc họ
dùng các tài liệu của Trung Quốc để tra cứu nguyên văn cho chính xác.
Với những đặc điểm của từng bản dịch nói trên, mặc dù bỏ nhiều công
sức cho việc đi tìm t- liệu để thực hiện đề tài của luận văn, hiện tại chúng tôi
không tìm thêm đ-ợc bản dịch nào khác và vì vậy, trong luận văn của mình,

chúng tôi quyết định sử dụng bản dịch của Trần Văn Giáp.
1.2.2. Khái quát nội dung của Vân đài loại ngữ
Vân đài loại ngữ có thể đ-ợc coi là bộ bách khoa toàn th- trong đó tập
hợp một khối l-ợng kiÕn thøc ®å sé vỊ nhiỊu lÜnh vùc tõ triÕt học, văn học, sử
học, địa lý, đến phong tục, tập quán, sản vật, v.v., đ-ợc sắp xếp d-ới chín đề
mục khác nhau là: Lý khí, Hình t-ợng, Khu vũ, Vựng điển, Văn nghệ, Âm tự,
Th- tịch, Sĩ quy, Phẩm vật.


24
1. Trong phần Lý khí, Lê Quý Đôn giải quyết vấn đề về nguồn gốc của
vũ trụ, vạn vật và con ng-ời. Đây chính là phần trình bày những t- t-ởng của
ông về triết học tự nhiên, hay nói một cách cụ thể là vấn đề bản thể luận. Khi
giải quyết vấn đề này, Lê Quý Đôn đà xuất phát từ lập tr-ờng của một nhà
nho, nh-ng ông lại không hoàn toàn nhất quán với quan điểm của Nho giáo về
vấn đề đó. Tuy ở mức độ khác nhau, Nho giáo cũng đà từng đề cập đến vấn đề
bản thể của vũ trụ ở mỗi giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử của mình.
Các nhà nho vì thế đều có h-ớng giải quyết vấn đề đó theo cách riêng. Nho
giáo nguyên thuỷ đà không thể hiện rõ ràng tính duy vật hay duy tâm khi giải
quyết vấn đề nguồn gốc vũ trụ, vạn vật. Đến Hán Nho thì tính duy tâm khách
quan của nó được đẩy lên cao với học thuyết Thiên mệnh, Thiên nhân
tương cảm, vì thế vấn đề bản thể của thế giới cũng ít đươc Hán Nho quan tâm
bởi khi đó nó không chỉ là một học thuyết chính trị đạo đức, mà còn đ-ợc bổ
sung thêm các yếu tố tôn giáo.
Chỉ đến Tống Nho, vấn đề bản thể của thế giới mới đ-ợc các nhà nho
chú ý đến do đòi hỏi khách quan từ bên ngoài, cũng nh- đòi hỏi chủ quan bên
trong về sự cần thiết phải nâng Nho giáo lên ngang tầm víi c¸c häc thut
triÕt häc kh¸c. Hay nãi c¸ch kh¸c, các nhà nho muốn tôn Nho giáo lên thành
một học thuyết triết học thực thụ. Với mục đích đó, các nhà nho thời Tống
điển hình nh- Chu Liêm Khê, Tr-ơng Tải, Trình Di, Trình Hạo, Chu Hy đÃ

xuất phát từ cặp phạm trù lý, khí trong truyền thống t- t-ởng cđa Trung Qc
®Ĩ ®-a ra quan ®iĨm triÕt häc cđa mình, tạo nên một giai đoạn phát triển khác
biệt trong lịch sử Nho giáo.
Lê Quý Đôn xuất phát từ chính cặp phạm trù lý, khí của Tống Nho để
giải quyết vấn đề bản thể thế giới. Chính việc giải quyết mối quan hệ giữa cặp
phạm trù này mà toàn bộ quan niệm triết học tự nhiên của ông đ-ợc thể hiện
ra. Lê Quý Đôn rất đề cao các nhà triết học Tống Nho, ông gọi Chu Hy là Chu
Tử thể hiện sự kính trọng, đề cao bậc tiền bối này. Mặc dù vậy, ông không
hoàn toàn đứng trên lập tr-ờng của Tống nho để giải quyết vấn đề triết học ®ã


25
mà ông và thời đại quan tâm. Nếu hầu hết các nhà triết học Tống Nho đều giải
quyết mối quan hệ giữa lý và khí trên lập tr-ờng duy tâm, thì ng-ợc lại, Lê
Quý Đôn mặc dù cũng xem xét phạm trù lý, khí vốn khá trừu t-ợng của triết
học ph-ơng Đông, nh-ng lại đi đến quyết định coi khí là một dạng vật chất cụ
thể, là bản thể của vũ trụ nh- các nhà triết học thuộc phái Milet của Hy Lạp cổ
đại. Thậm chí Lê Quý Đôn còn dùng cả sách Khôn d- đồ thuyết của ng-ời
ph-ơng Tây ®Ĩ chøng minh sù tån t¹i cđa khÝ nh- mét cái gì đó rất cụ thể
xung quanh chúng ta. Còn lý thì đ-ợc Lê Quý Đôn quan niệm nh- là quy lt
vËn ®éng cđa khÝ, cđa thÕ giíi vËt chÊt. Nh- vậy, ông đà không rơi vào chủ
nghĩa duy tâm nh- các nhà nho thời Tống mà ng-ợc lại, ông lại đứng trên lập
tr-ờng duy vật, tuy đó chỉ là duy vật chất phác, cụ thể, thiên về cảm tính.
Chúng tôi sẽ trở lại vấn đề này ở ch-ơng sau.
2. Phần Hình t-ợng đ-ợc Lê Quý Đôn trình bày trong 38 điều, trong đó
ông tập trung bàn về vũ trụ học. Trong phần này, Lê Quý Đôn đà thể hiện
quan điểm tiến bộ của mình về vũ trụ học. Ông đà đọc và biết đến các học
thuyết ph-ơng Tây về vũ trụ. Ông còn đem so sánh với học thuyết của Trung
Quốc và thông qua đó bác bỏ những quan điểm mà ông cho là sai lầm. Mặc
dù vẫn còn t- t-ởng sùng bái Trung Quốc, ông cũng đà chỉ ra những sai lầm

trong các học thuyết Trung Hoa về vũ trụ. Chẳng hạn, từ điều 2 đến điều 6 nói
về phân dÃ, Lê Quý Đôn đà bác bỏ quan niệm của người đời xưa cho rằng,
mỗi vì sao trên trêi sÏ t-¬ng øng víi mét n-íc, mét qn, thËm chí một ấp ở
dưới đất. Lê Quý Đôn đà dẫn sách Nhan Chi Thôi Lúc mới thành lập trời đất
đà có tinh tú; lúc đó ch-a vạch ra chín châu, <> Còn sự ứng hiện của điềm
lành dữ, hoạ hay phúc, nếu nh- không sai thì bầu trời to thế, tinh tú nhiều thế,
phân dà từng tinh tú thế nào, tại sao lại chỉ liên hệ với Trung Quốc mà thôi
[5, tr. 80]. T-ơng tự, ông còn dẫn lời nói của Trần Trác, quan thái sử n-ớc
Ngụy rằng, quận nào nước nào thuộc vào độ số các vì sao nào. Hoàn vũ to
như thế, có chắc hẳn các quận, các nước ở trung châu đương hết được không


Khôn d- đồ thuyết, 2 tập (Ferdnandus Verbiest hay còn gọi là Nam Hoài Nhân, ng-ời Bỉ)


×