Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại doanh nghiệp truyền thông vĩ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2 MB, 105 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THỊ QUỲNH LÊ

XÂY DỰNG VÀ KHAI THÁC NGUỒN LỰC
THÔNG TIN TẠI DOANH NGHIỆP TRUYỀN
THÔNG VĨ AN
Chuyên ngành : Khoa học Thư viện
Mã số
: 60 32 20

LUẬN VĂN THẠC SĨ THÔNG TIN THƯ VIỆN

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Việt Bắc

Hà Nội – 2009


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, sự phát triển công nghệ thông tin (CNTT) - cùng với nó là
sự bùng nổ thơng tin - đã đem đến những thay đổi lớn lao trong đời sống xã
hội. Nhân loại đã và đang bước sang một xã hội mới – xã hội thông tin. Một
trong những đặc điểm nổi bật của xã hội thông tin là sử dụng ngày càng nhiều
thơng tin, kiến thức, trí tuệ vào sản xuất. Các yếu tố này có hàm lượng cao
trong sản phẩm. Thông tin trở thành yếu tố của lực lượng sản xuất. Do đó, xã
hội thơng tin là mơi trường để hình thành một ngành cơng nghiệp mới, ngành
cơng nghiệp sản sinh ra chính thơng tin và các dịng thơng tin được truyền tải


trên các mạng – đó là những nhà cung cấp nội dung thông tin.
Xu thế chung của thế giới đã tác động đến Việt Nam, dẫn đến việc ra
đời hàng loạt doanh nghiệp truyền thông (DNTT), hoạt động như những nhà
cung cấp thông tin.
Những nhà cung cấp thông tin đóng vai trị hết sức quan trọng trong
thời kỳ bùng nổ thơng tin bởi khả năng kiểm sốt thơng tin của người sử dụng
bị hạn chế do tính xác thực của thông tin thiếu đảm bảo. Điều này là thách
thức lớn cho các tổ chức, đơn vị cung cấp thông tin, DNTT. Cơ quan thông
tin phải là nơi thu thập, tìm kiếm và cung cấp thơng tin có giá trị cho người
dùng tin, nâng cao khả năng tiếp cận, kiểm sốt nguồn tin có giá trị cho họ.
Đặc biệt, hiện nay Việt Nam đang trong quá trình tăng cường hội nhập
kinh tế thế giới, nên nhu cầu thông tin về kinh tế, xã hội, tiến bộ khoa học kỹ
thuật tiên tiến trên thế giới ngày càng lớn. Các doanh nghiệp cũng như các địa
phương trên cả nước mà đặc biệt là thủ đơ Hà Nội càng ngày càng có nhu cầu
lớn về nguồn thông tin mang giá trị cao trong lĩnh vực kinh tế, khoa học, kỹ
thuật…do đó các nhà cung cấp thông tin hay các DNTT lại càng có vai trị
quan trọng hơn bao giờ hết.


2

Mặt khác, thị trường luôn tồn tại quy luật cạnh tranh, mỗi cơ quan thông
tin muốn tồn tại và phát triển phải luôn không ngừng nâng cao nguồn lực thông
tin, nâng cao chất lượng các sản phẩm và dịch vụ thông tin để đủ sức cạnh
tranh với các nhà cung cấp thông tin khác, thu hút được người dùng tin.
Từ những lý do trên tôi đã chọn đề tài “Xây dựng và khai thác nguồn
lực thông tin tại doanh nghiệp truyền thông Vĩ An” làm đề tài cho luận văn
tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Đề tài về xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin trong các cơ quan

thông tin nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ không phải là một đề tài mới mẻ.
Ở trong nước đã có một số cơng trình nghiên cứu, điều tra khảo sát thực tiễn
tại một số các cơ quan thông tin – thư viện (TT - TV). Cụ thể như:
- Luận văn cao học ngành Thư viện Thông tin: “Xây dựng và khai thác
nguồn lực thông tin nhằm đáp ứng nhu cầu tin tại Trung tâm thông tin khoa học
– Viện khoa học công an” của Nguyễn Thị Liên Hoa tại ĐH Văn hóa Hà Nội.
- Luận văn cao học ngành Thư viện Thông tin: “Tổ chức và quản lý
khai thác nguồn lực thông tin tại Trung tâm TT- TV Đại học Quốc gia Hà
Nội” của học viên Trần Hữu Huỳnh tại ĐH Văn hóa Hà Nội.
- Luận văn cao học ngành Thư viện Thông tin: “Quản lý và khai thác
nguồn tài liệu địa chí tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” của Huỳnh Tới tại ĐH Văn
hóa Hà Nội.
Các đề tài này chủ yếu tập trung khảo sát nguồn lực thông tin trong các
cơ quan hay trung tâm TT – TV, thuộc sự quản lý nhà nước, hoạt động phi lợi
nhuận do đó tính cạnh tranh giữa các cơ quan, trung tâm TT – TV không thể
hiện rõ ràng. Trong khi đó, đối với các doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp
tư nhân, để tồn tại và phát triển, mỗi doanh nghiệp cần xây dựng chiến lược
phát triển của doanh nghiệp mình sao cho đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Qua


3

nghiên cứu, tơi có thể khẳng định, từ trước đến nay chưa có báo cáo, luận văn
cao học chuyên ngành TT - TV nào nghiên cứu mơ hình thơng tin trong các
doanh nghiệp, cụ thể là DNTT. Vì vậy đề tài này là đề tài hồn tồn mới,
khơng trùng lặp với đề tài nghiên cứu nào ở trong nước.
Luận văn sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc khẳng định vai trị cũng
như xu hướng phát triển của ngành thơng tin nói riêng và khoa học TT – TV
nói chung trong sự phát triển kinh tế xã hội ngày nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả việc xây dựng và khai
thác nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An. Từ đó đưa ra những giải pháp, kiến
nghị nhằm xây dựng một mơ hình thơng tin hỗ trợ doanh nghiệp trong thời kỳ
cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề:
- Nghiên cứu nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An;
- Nghiên cứu đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin của DNTT Vĩ An;
- Khảo sát, đánh giá việc xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An;
- Đề xuất những giải pháp khả thi nhằm xây dựng và khai thác nguồn
lực thông tin tại DNTT Vĩ An.
4. Giả thuyết nghiên cứu
Như chúng ta đã biết, điều bất cứ một doanh nghiệp nào cũng phải
quan tâm là tìm biện pháp để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường. Đối với
ngành công nghiệp cung cấp thông tin, sự cạnh tranh càng trở nên khốc liệt
hơn, bởi trong xã hội thông tin, thông tin luôn không ngừng gia tăng cả về số
lượng và chất lượng.


4

Trong khi đó, mỗi sản phẩm hay dịch vụ thơng tin đều có “chu trình
sống” riêng. Mỗi sản phẩm hay dịch vụ đều trải qua ba giai đoạn: từ hình
thành ý tưởng, đến giai đoạn ra đời, phát triển và giai đoạn bão hịa và suy
thối. Do đó, cơ quan thông tin phải thường xuyên khảo sát chất lượng sản
phẩm và dịch vụ thông tin hay nguồn lực thông tin của cơ quan để kịp thời có
biện pháp xử lý đối với mỗi sản phẩm và dịch vụ thông tin.
Từ thực tế đó, tơi đặt ra giả thuyết xu hướng cho đề tài là bất cứ DNTT
nào cũng phải không ngừng nâng cao chất lượng thông tin nếu không muốn bị

thất bại trong cạnh tranh trên thị trường. Cụ thể, trong phạm vi đề tài này,
DNTT Vĩ An phải xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin một cách có
hiệu quả nhất để đáp ứng tối đa nhu cầu tin của người dùng tin, khẳng định
doanh nghiệp là nhà cung cấp thơng tin có uy tín.
5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu: tập trung đi sâu nghiên cứu thực trạng việc
xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An.
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Phạm vi về không gian nghiên cứu: nghiên cứu tại DNTT Vĩ An ở Hà Nội.
- Phạm vi về thời gian nghiên cứu: từ năm 2005 – 2009.
6. Phương pháp nghiên cứu
Căn cứ vào chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước
về phát triển khoa học và cơng nghệ, để khẳng định vai trị của nguồn lực
thông tin trong các cơ quan TT - TV nói chung và trong các DNTT nói riêng,
đặc biệt trong bối cảnh cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, luận văn
vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của Chủ
nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Phương pháp nghiên cứu cụ
thể như sau:
- Phương pháp quan sát thực tế;


5

- Phương pháp phỏng vấn các chuyên gia;
- Phương pháp điều tra xã hội học;
- Phương pháp thống kê; phân tích; tổng hợp tài liệu.
7. Ý nghĩa khoa học và ứng dụng của đề tài
- Về mặt khoa học: đề tài cho thấy mối quan hệ giữa lý luận và thực
tiễn, từ việc nghiên cứu lý luận về những thay đổi trong nhu cầu tin của người
dùng tin trong điều kiện mới để xây dựng nguồn thông tin đáp ứng tối đa nhu

cầu đó.
- Về mặt ứng dụng: trên cơ sở khảo sát thực trạng, đề tài đưa ra những
giải pháp phù hợp nhằm nâng cao chất lượng nguồn lực thông tin; xây dựng
và phát triển thương hiệu của nhà cung cấp thông tin truyền thông.
8. Dự kiến kết quả nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu chỉ ra thực trạng nguồn lực thông tin, thực trạng
xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại DNTT Vĩ An. Đề tài nhằm xây
dựng mơ hình nhà cung cấp thơng tin, ngồi các cơ quan thông tin của nhà
nước, đáp ứng tối đa nhu cầu tin ngày càng đa dạng của xã hội.
9. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham khảo và
phụ lục, luận văn gồm ba chương như sau:
Chương 1: Nguồn lực thơng tin và vai trị của DNTT trong sự phát
triển kinh tế xã hội
Chương 2: Thực trạng xây dựng và khai thác nguồn lực thông tin tại
DNTT Vĩ An
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lực thông tin
tại DNTT Vĩ An


6

NỘI DUNG
Chương 1
NGUỒN LỰC THƠNG TIN VÀ VAI TRỊ CỦA
NGUỒN LỰC THÔNG TIN TẠI DOANH NGHIỆP TRUYỀN
THÔNG VĨ AN TRONG SỰ PHÁT TRIỂN KINH TẾ XÃ HỘI
1.1. Nguồn lực thông tin
1.1.1. Khái niệm thông tin
Thuật ngữ thông tin (tiếng Anh- Information) có nguồn gốc từ thuật

ngữ Latin - Infomatio, có nghĩa là diễn giải, thông báo. Theo nghĩa thông
thường, thông tin được xem như một đối tượng có nội dung, một q trình
trao đổi giữa con người và mơi trường để con người dễ dàng thích nghi với
mơi trường. Con người tồn tại luôn bị chi phối và chịu sự tác động của thế
giới. Cũng chính vì vậy, việc nhận thức được thế giới là mục đích quan trọng
của con người. Thơng tin chính là chiếc cầu nối giữa thế giới với con người.
Khái niệm thông tin xuất hiện lần đầu tiên từ những năm 40 của thế kỷ
XX khi nhà bác học người Mỹ C.Shannon đưa ra lý thuyết thông tin. Cho tới
nay, khái niệm thông tin đã được sử dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực của đời
sống xã hội. Thông tin là một khái niệm phức tạp, do đó có nhiều định nghĩa
khác nhau về thơng tin.
Năm 1948, bài báo “Một lý thuyết tốn về truyền thơng” cơng bố trên
tạp chí Bell System Technical của C.Shannon đã đặt nền tảng cho lý thuyết
thông tin. Theo C. Shannon, thơng tin là q trình liên hệ nhằm loại bỏ sự bất
định. Thông tin là kết quả của phản ánh song khơng phải vì thế mà đánh đồng
giữa thơng tin và phản ánh. Thơng tin cịn tác động tới hành vi của chủ thể
thông qua việc tiếp nhận và sử dụng thông tin. Từ đây, thông tin trong hệ
thống xã hội được xem là tri thức được diễn đạt trong các thơng điệp có khả


7

năng nâng cao tính trật tự, tính đa dạng nội tại của hệ thống. Như vậy, thuộc
tính cơ bản của thông tin là đối lập với bất định và ngẫu nhiên đã được C.
Shannon xác định trong lý thuyết thông tin tốn học thì cũng phản ánh tính
trật tự, tính tổ chức của các hệ thống. Mối quan hệ này làm cho "cách tiếp cận
thơng tin" trở nên có tính phổ biến khi nghiên cứu và xử lý các vấn đề về tổ
chức, quản lý trong các hệ thống xã hội.
Theo từ điển Random House Dictionary of English language, thông tin
là tri thức được giao lưu hoặc được thu nhận có liên quan đến một sự kiện hoặc

hồn cảnh đặc biệt. Trong khi từ điển Oxford English định nghĩa, thông tin là
tri thức, là tin tức. Còn trong cuốn Guide to concept and term in data
processing, thông tin là ý nghĩa mà con người muốn diễn đạt hoặc nhận thức ra,
là sự biểu đạt các sự việc và ý tưởng bằng các phương tiện trình bày đã được
quy định. Theo từ điển Bách khoa tồn thư Xơ Viết, thơng tin là tri thức được
truyền từ người này qua người khác bằng lời nói, chữ viết hay bằng một
phương tiện nào đó.
Như vậy thơng tin giúp con người hiểu biết thêm về một đối tượng, làm
giảm độ bất ổn định về đối tượng. Nếu ta có một lượng thơng tin nhiều bao
nhiêu về sự vật, hiện tượng nào đó thì tính khơng ổn định hay nói cách khác là
độ bất ổn định của sự vật, hiện tượng đó giảm đi bấy nhiêu. Thơng tin chính
là bộ phận tri thức được sử dụng để định hướng, để tác động tích cực, để điều
khiển, nghĩa là, thơng tin nhằm mục đích duy trì, hoàn thiện và phát triển hệ
thống. Trong các hệ thống xã hội, thông tin xã hội là phần tri thức ln
chuyển, vận động tuần hồn khơng ngừng thơng qua các quá trình thu thập,
xử lý, bảo quản, tìm kiếm, phân phối và sử dụng.
Ở phạm vi nghiên cứu của luận văn này, thông tin được hiểu là các số
liệu, kiến thức phản ánh bản chất sự vật, hiện tượng và được chuyển tải tới
người tiếp nhận thông qua một phương tiện nào đó.


8

1.1.2. Khái niệm nguồn lực thông tin
Cũng như khái niệm thơng tin, cũng có rất nhiều định nghĩa khác nhau
về khái niệm nguồn lực thông tin. Song cho đến nay, nội hàm của khái niệm
nguồn lực thông tin vẫn chưa xác định rõ ràng.
Theo từ điển giải nghĩa về thông tin học, “ở dạng chung nhất, nguồn
lực thông tin được hiểu như là tổ hợp các thông tin nhận được và tích lũy
được trong q trình phát triển khoa học và hoạt động thực tiễn của con

người, để sử dụng nhiều lần trong sản xuất và quản lý xã hội. Nguồn lực
thơng tin phản ánh các q trình và hiện tượng tự nhiên được ghi nhận trong
kết quả của các cơng trình nghiên cứu khoa học và trong các dạng tài liệu
khác của hoạt động nhận thức và thực tiễn.”
Trong khi đó, theo tài liệu hướng dẫn của UNESCO về việc xây dựng,
phê duyệt và vận hành chính sách thơng tin quốc gia lại định nghĩa: “nguồn
lực thông tin bao gồm các dữ liệu thể hiện dưới dạng văn bản, số, hình ảnh
hoặc âm thanh được ghi lại trên phương tiện theo quy ước và không theo quy
ước, các sưu tập, những kiến thức của con người, những kiến thức của tổ chức
và ngành CNTT”.
Có người cho rằng, nguồn lực thông tin là vốn tài liệu trong các cơ
quan thông tin. Có ý kiến lại cho rằng, nguồn lực thơng tin không chỉ bao hàm
các nguồn lực về tài liệu mà còn gồm cả các thành phần khác như nhân lực
thông tin, tài lực thông tin…
Tuy nhiên, chúng tôi đồng ý với quan điểm, nguồn lực thông tin phản
ánh những hoạt động nhận thức và thực tiễn của con người, để sử dụng nhiều
lần trong các quá trình sản xuất và quản lý xã hội. Đồng thời, nguồn lực thông
tin được thể hiện dưới dạng tài liệu với nhiều hình thức khác nhau: văn bản,
số, âm thanh, hình ảnh…
Căn cứ vào sở hữu, nguồn lực thơng tin có thể phân ra ở cấp toàn cầu,
quốc gia, khu vực, địa phương, ngành, từng cơ quan, đơn vị, cá nhân. Trong


9

đó, nguồn lực thơng tin cá nhân có thể hiểu như nguồn lực thông tin của các
hãng, các tổ chức, cá nhân được thành lập và hoạt động bằng tiền của các tổ
chức, cá nhân đó. Từ trước đến nay, chúng ta vẫn thường quan niệm khái
niệm “nguồn lực thông tin” chỉ dùng trong các cơ quan thông tin, thư viện.
Song ngày nay, cùng với sự phát triển của xã hội thông tin, bất cứ một tổ

chức, doanh nghiệp nào cũng cần đến thông tin để phục vụ cho hoạt động của
tổ chức mình. Do đó, mỗi doanh nghiệp đều có một bộ phận thơng tin có chức
năng thu thập, xử lý, khai thác thông tin phục vụ cho lĩnh vực của mình.
Chẳng hạn, nguồn lực thơng tin của trường đại học dân lập, của một công ty,
một DNTT.
1.2. Doanh nghiệp truyền thông Vĩ An
1.2.1. Khái niệm doanh nghiệp truyền thơng
Truyền thơng là q trình trao đổi thơng tin giữa các thực thể. Thơng
tin có thể được trao đổi thơng qua hệ thống các ký hiệu hoặc không cần đến
ký hiệu (sự thấu cảm). Truyền thông cũng là một ngành học nghiên cứu các
q trình trao đổi thơng tin.
Truyền thơng (communication) là q trình chia sẻ thơng tin. Truyền
thơng là một kiểu tương tác xã hội trong đó ít nhất có hai tác nhân tương tác lẫn
nhau, chia sẻ các qui tắc và tín hiệu chung. Ở dạng đơn giản, thông tin được
truyền từ người gửi tới người nhận. Ở dạng phức tạp hơn, các thông tin trao đổi
liên kết người gửi và người nhận. Phát triển truyền thông là phát triển các quá
trình tạo khả năng để một người hiểu những gì người khác nói (ra hiệu, hay
viết), nắm bắt ý nghĩa của các thanh âm và biểu tượng, và học được cú pháp
của ngôn ngữ.
Truyền thông thường gồm ba phần chính: nội dung, hình thức, và mục
tiêu. Nội dung truyền thơng bao gồm các hành động trình bày kinh nghiệm,
hiểu biết, đưa ra lời khuyên hay mệnh lệnh, hoặc câu hỏi. Các hành động này


10

được thể hiện qua nhiều hình thức như động tác, bài phát biểu, bài viết, hay
bản tin truyền hình. Mục tiêu có thể là cá nhân khác hay tổ chức khác, thậm
chí là chính người/tổ chức gửi đi thơng tin.
Doanh nghiệp truyền thông là các tổ chức, doanh nghiệp hoạt động

nhằm tạo ra môi trường tương tác thông tin giữa các cá nhân, tổ chức với
nhau, nhằm truyền bá, phổ biến thông tin tới đối tượng tiếp nhận thông qua
một phương tiện cụ thể. Dựa trên các phương tiện chuyển tải thơng tin, chúng
ta thấy có rất nhiều cơ quan truyền thơng như: Đài truyền hình, Hãng thơng
tấn xã…Tuy nhiên, trong phạm vi luận văn này, đối tượng nghiên cứu là
DNTT Vĩ An là một đơn vị chuyên tổng hợp thông tin, cung cấp thông tin từ
các nguồn thông tin khác nhau về lĩnh vực cụ thể để cung cấp cho mỗi đối
tượng khách hàng. DNTT Vĩ An hoạt động như một nhà cung cấp các sản
phẩm và dịch vụ thông tin.
Trên thị trường thế giới về thông tin và các dịch vụ và sản phẩm thơng
tin, người ta có thể chia chúng thành các bộ phận chính, đặc trưng cho các
nước phát triển và không phụ thuộc vào kênh truyền tin, nghĩa là được phổ
biến cả trên Internet, như sau:
- Bộ phận thông tin doanh nghiệp (thị trường chứng khốn, tài chính,
thương mại, kinh tế, thống kê) bao gồm:
+ Thơng tin chứng khốn và tài chính: thơng tin về giá cổ phiếu, tỷ giá
ngọai tệ, thị trường hàng hóa và tiền tệ, đầu tư, giá cả,… do các thị trường
chứng khốn, các cơ sở chun về thơng tin chứng khốn và thị trường, các
cơng ty mơi giới, nhà băng cung cấp;
+ Thông tin kinh tế và thống kê xã hội: thông tin về chỉ số kinh tế, dân
số, xã hội dưới dạng chuỗi động thái, mơ hình dự báo và đánh giá,…do các cơ
quan nhà nước, các công ty nghiên cứu và tư vấn về nhu cầu của thị trường
cung cấp;


11

+ Thông tin thương mại: thông tin về các hãng, cơng ty, tập đồn, về
hướng hoạt động và sản phẩm của chúng, về giá cả, tình hình tài chính, các
mối quan hệ, các hợp đồng…

+ Tin tức trong lĩnh vực kinh tế và kinh doanh do các bộ phận thông tin
chuyên dạng cung cấp.
- Bộ phận thông tin chuyên môn (thông tin khoa học công nghệ, thông
tin chuyên dạng, các tài liệu cấp 1) bao gồm:
+ Thông tin chuyên ngành: thông tin và dữ liệu chuyên cho luật sư, bác
sỹ, dược sỹ,…;
+ Thông tin khoa học và công nghệ: thông tin tư liệu, thư mục, tóm tắt,
tra cứu và các dữ liệu trong lĩnh vực các khoa học cơ bản và ứng dụng, khoa
học tự nhiên, khoa học kỹ thuật, khoa học xã hội, các ngành nghề sản xuất và
các lĩnh vực hoạt động của con người;
+ Dịch vụ của các tổ chức hỗ trợ cho việc tiếp cận đến nguồn thông tin
cấp 1 (kể cả dưới dạng sao chụp tài liệu): thông qua thư viện và các bộ phận
chuyên trách, khả năng có được và nhận được tài liệu gốc theo dịch vụ mượn
giữa các trung tâm TT - TV.
- Bộ phận thông tin đại chúng và tiêu dùng (tin tức, các dịch vụ trên cơ
sở phương tiện viễn thơng tồn cầu hiện đại) bao gồm:
+ Tin tức và sách báo: thông tin của các hãng thông tấn báo chí, tạp chí
điện tử, sách tra cứu, bách khoa tồn thư;
+ Thơng tin tiêu dùng và giải trí, hướng vào việc sử dụng tại gia và
khơng mang tính cơng vụ: tin tức địa phương, dự báo thời tiết, bảng giờ tàu
xe, các trị chơi, thơng tin về tỷ giá hối đối, cho th ơtơ,… Loại thơng tin
này được phổ biến dưới dạng các ấn phẩm truyền thống hoặc theo kênh
truyền hình (tài liệu đa phương tiện), đài phát thanh, và trong vài năm gần
đây- thơng qua mạng máy tính và trước hết là qua Internet.


12

- Bộ phận thơng tin xã hội-chính trị: là thơng tin phục vụ cho các cơ
quan, đoàn thể, các tổ chức chính trị - xã hội.

Một điểm cần lưu ý là, việc phân chia thị trường thông tin ra thành các
bộ phận nói trên hồn tồn mang tính ước lệ. Tuy nhiên, sự phân chia này là
cần thiết, bởi việc làm này cho phép cấu trúc hóa thị trường trên cơ sở nhóm
người dùng tin với các vấn đề mà họ phải giải quyết, tức là cho phép xác định
phạm vi mà một tổ chức thơng tin có thể định hướng vào.
Dựa trên sự phân chia thị trường thông tin như nói trên mà DNTT Vĩ
An đã xây dựng nguồn lực thông tin cũng như các sản phẩm và dịch vụ thông
tin phù hợp để cung cấp theo nhu cầu của người dùng tin.
1.2.2. Khái quát về doanh nghiệp truyền thông Vĩ An
1.2.2.1. Chức năng, nhiệm vụ của Vĩ An
DNTT Vĩ An – đơn vị chuyên cung cấp thông tin chọn lọc từ các
phương tiện thông tin truyền thông như báo, tạp chí, website. DNTT Vĩ An
hoạt động theo các quy định về báo chí, là doanh nghiệp có chức năng, nhiệm
vụ như sau:
- Dịch vụ tổng hợp thông tin kinh tế, xã hội từ báo chí, tuyên truyền
cho doanh nghiệp;
- Dịch vụ cập nhật thông tin, CSDL cho website doanh nghiệp;
- Đại lý kinh doanh dịch vụ bưu chính viễn thơng;
- Dịch vụ nghiên cứu, phân tích thị trường;
- Tiếp thị, xúc tiến thương mại;
- Kinh doanh thương mại điện tử, dịch vụ quảng cáo thương mại;
- Xây dựng và phát triển website cho doanh nghiệp;
- Dịch vụ đào tạo CNTT;
- Đào tạo truyền thông: kỹ năng viết, biên tập tin cho báo, trang tin điện
tử; kỹ năng tổ chức sự kiện, quan hệ quần chúng; kỹ năng phân tích thị
trường, điểm báo.


13


Chức năng và nhiệm vụ của DNTT là một trong những yếu tố quy định
nội dung nguồn lực thông tin của doanh nghiệp. Để xây dựng được nguồn lực
thông tin, trước hết doanh nghiệp phải dựa trên chức năng, nhiệm vụ của
chính doanh nghiệp mình. Chức năng, nhiệm vụ và định hướng phát triển của
DNTT, bản chất và phạm vi nguồn tin mà họ có ý định xây dựng cần phải
được thể hiện trong chính sách phát triển nguồn tin. Tất cả những yếu tố đó có
tác động trực tiếp đến nguồn lực thông tin của doanh nghiệp. Qua vốn tài liệu
hay nguồn thông tin thu thập của doanh nghiệp thể hiện được chức năng của
nó, vì vậy việc lựa chọn nguồn thông tin tất yếu dựa trên cơ sở khái quát chức
năng và nhiệm vụ của đơn vị.
1.2.2.2. Cơ cấu tổ chức và nguồn nhân lực của Vĩ An
* Về cơ cấu tổ chức
Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp truyền thông Vĩ An bao gồm Ban
Giám đốc và 5 phòng chức năng như sau:
Ban Giám đốc: Gồm Giám đốc và 01 Phó Giám đốc
- Phịng Biên tập: 20 người
- Phịng Kinh doanh: 11 người
- Phịng Hành chính: 6 người
- Phịng Kế tốn: 6 người
- Phịng Website: 5 người
Sơ đồ 1.1: Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp truyền thơng Vĩ An
Ban Giám đốc

Phịng
Biên tập

Phịng
Kinh
doanh


Phịng
Hành
chính

Phịng
Kế tốn

Phịng
Website


14

* Chức năng và nhiệm vụ của các phòng ban:
- Ban Giám đốc: Chịu trách nhiệm toàn bộ về hoạt động của doanh
nghiệp và chỉ đạo các đơn vị chức năng thực hiện đúng nguyên tắc, chế độ
của nhà nước; Làm việc với các cơ quan có liên quan, ký các quyết định thuộc
thẩm quyền; Đầu tư trang thiết bị kỹ thuật nhằm phục vụ cho hoạt động của
doanh nghiệp; Trực tiếp lãnh đạo công tác tổ chức bộ máy, công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp.
- Phòng Biên tập: Xây dựng nguồn lực thông tin cho doanh nghiệp;
Chịu trách nhiệm về sản phẩm và dịch vụ thông tin của doanh nghiệp; Đào
tạo nhân viên về kỹ năng biên tập và báo chí; Giải quyết mọi yêu cầu của
khách hàng liên quan đến nội dung sản phẩm và dịch vụ thơng tin.
- Phịng Kinh doanh: Khai thác và tìm kiếm các khách hàng cho Cơng
ty, Phụ trách cơng tác chăm sóc khách hàng; Xây dựng các phương án kinh
doanh cho Cơng ty.
- Phịng Hành chính: Giúp lãnh đạo Cơng ty trong cơng tác quản lý về
bộ máy hành chính; Giúp lãnh đạo Cơng ty theo dõi việc thực hiện kế hoạch
công tác của các phịng và làm báo cáo định kỳ về tình hình hoạt động của

Công ty; Giúp ban lãnh đạo Công ty thực hiện tốt công tác quản lý nhân sự
trong đơn vị theo quy định của Công ty; Thực hiện các cơng việc về hành
chính, tổ chức và quản trị Cơng ty.
- Phịng Kế tốn: Thực hiện tốt về cơng việc quản lý tài chính, quản lý
cơ sở vật chất kỹ thuật, vật tư trang thiết bị của doanh nghiệp theo đúng quy
định; Thực hiện nghiêm chỉnh chế độ báo cáo quyết tốn, cơng khai tài chính
theo quy định của doanh nghiệp; Chịu trách nhiệm trước giám đốc Công ty về
công tác tài chính kế tốn, đảm bảo chế độ chính sách, theo quy định của
Giám đốc.
- Phòng Website: Quản trị website của Công ty; Chịu trách nhiệm về
nội dung thông tin trên website; Quảng bá thương hiệu của doanh nghiệp


15

trên cộng đồng online, Xây dựng và khai thác các dịch vụ thông tin thông
qua website.
* Nguồn nhân lực của Công ty
Là một doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp truyền thông Vĩ An luôn
quan tâm đến công tác tuyển dụng và đào tạo nguồn nhân lực cho Công ty.
Doanh nghiệp có 50 nhân viên, đều có trình độ đại học trở lên. Cụ thể: có
2 thạc sỹ , 48 cử nhân về các chuyên ngành như báo chí, kinh tế, ngoại ngữ…
Theo khảo sát, 100% cán bộ làm công tác xử lý thơng tin đều có nghiệp
vụ báo chí, tốt nghiệp ở ngành báo chí, thơng tin. Do đó, họ rất thành thạo về
nghiệp vụ báo chí cũng như các thao tác tìm kiếm và xử lý thơng tin. Thêm
vào đó, họ cũng có trình độ về tin học, điều này hỗ trợ nhiều trong hoạt động
của họ. Riêng đội ngũ biên tập viên tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Pháp là
những người tốt nghiệp chuyên ngành ngoại ngữ.
Nguồn nhân lực là một trong những nguồn lực nội tại của đơn vị và đồng
thời cũng là một trong những yếu tố tác động trực tiếp đến nguồn lực thơng tin

của chính đơn vị đó. Đối với DNTT, đội ngũ những người làm công tác thu
thập thông tin, xử lý thông tin được gọi là biên tập viên. Người quản lý hay
giám đốc của doanh nghiệp phải đánh giá được thực chất trình độ, năng lực
nhân viên của mình để có chính sách phát triển nguồn tin hợp lý. Khâu biên tập
tin để cho ra những sản phẩm thông tin cuối cùng có thể nói là khâu nghiệp vụ
quan trọng do đó đòi hỏi người biên tập phải thành thạo về nghiệp vụ và có sự
am hiểu về nhiều lĩnh vực mới có thể xử lý tốt thơng tin thu thập được.
1.3. Đặc điểm người dùng tin và nhu cầu tin tại Vĩ An
1.3.1. Đặc điểm người dùng tin tại Vĩ An
Người dùng tin là đối tượng mà hoạt động thông tin hay DNTT hướng
tới, do đó cần phải tập trung nghiên cứu đầy đủ đối tượng người dùng tin
nhằm đáp ứng tối đa nhu cầu tin của họ.


16

Người dùng tin cũng là yếu tố trung tâm của hoạt động thơng tin bởi vì,
người dùng tin sử dụng kết quả của hoạt động thông tin, sử dụng các sản
phẩm và dịch vụ thông tin của doanh nghiệp. Đồng thời, người dùng tin cũng
đánh giá các sản phẩm và dịch vụ thông tin thông qua các chỉ số về mức độ
phù hợp hay khơng phù hợp, có thơng tin phản hồi về hiệu quả sử dụng các
sản phẩm và dịch vụ thông tin tới DNTT để họ điều chỉnh các sản phẩm và
dịch vụ thông tin phù hợp với nhu cầu.
Các DNTT cũng như các cơ quan thông tin, với mục tiêu để phục vụ tốt
hơn cho khách hàng của mình, họ phải phân chia người dùng tin thành các
nhóm khác nhau. Mỗi nhóm người dùng tin sẽ có những đặc điểm nhu cầu tin
khác nhau, do đó cần phải phân nhóm để tạo ra các sản phẩm phù hợp với
từng đối tượng.
Người ta có thể dựa vào nhiều tiêu chí khác nhau để phân chia người
dùng tin, tuy nhiên để xác định nhu cầu của một đối tượng thì phải dựa vào

tính chất lao động của đối tượng đó, hay nói cách khác đó là tiêu chí nghề
nghiệp. Ngoài ra, người ta thường chọn nghề nghiệp làm tiêu chí phân chia là
vì nhu cầu tin là một hiện tượng nằm trong cấu trúc tâm lý của con người,
luôn luôn bị ảnh hưởng bởi đặc điểm tâm lý. Khi đặc điểm tâm lý thay đổi thì
nhu cầu tin cũng thay đổi. Mặc dù có nhiều yếu tố tác động đến đặc điểm tâm
lý song hoạt động chủ đạo của con người quyết định đến đặc điểm tâm lý là
hoạt động lao động.
Việc tìm hiểu đặc điểm người dùng tin của Công ty truyền thông Vĩ An
đã được nghiên cứu thơng qua kết quả của q trình điều tra, nghiên cứu nhu
cầu tin của người dùng tin tại doanh nghiệp. Để xác định nhu cầu tin, Công ty
đã xây dựng mẫu phiếu điều tra (Phụ lục 3). Kết quả điều tra với tổng số
phiếu phát ra là 90 phiếu, số phiếu thu về là 86 phiếu.
Trình độ học vấn của người dùng tin được trình bày ở bảng 1.1.


17

Bảng 1.1: Trình độ học vấn của người dùng tin
Trình độ học vấn

Tổng số

Nữ

Nam

Số người

%


Số người

%

Số người

%

Tiến sỹ

13

15.2

10

76.9

3

23.1

Thạc sỹ

36

41.9

24


66.6

12

33.4

Cử nhân

35

40.7

21

60

14

40

Trình độ học vấn và năng lực chuyên môn của đội ngũ người dùng tin
là một yếu tố đặc biệt quan trọng, cấu thành nên chất lượng của người dùng
tin. Dựa trên những đặc điểm về trình độ nhận thức và năng lực chuyên môn
để cơ quan cung cấp thông tin phù hợp với trình độ của họ, có như vậy thông
tin sử dụng mới đạt hiệu quả cao. Kết quả khảo sát cho thấy, người dùng tin
của doanh nghiệp Vĩ An đều là những người có trình độ học vấn cao do đó
thơng tin cung cấp cho những đối tượng này phải có giá trị thực tiễn cao, đảm
bảo về số lượng và chất lượng nội dung thông tin cũng như phải đảm bảo độ
tin cậy và chính xác.
Đồng thời khảo sát cũng cho thấy, người dùng tin của doanh nghiệp Vĩ

An hoạt động ở nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng hầu hết là những nhà quản
lý, lãnh đạo, họ muốn cung cấp thông tin để hỗ trợ cho hoạt động quản lý, ra
quyết định của mình. Các lĩnh vực hoạt động của người dùng tin tại Vĩ An
được thể hiện ở bảng 1.2.
Bảng 1.2: Các lĩnh vực hoạt động của người dùng tin
Lĩnh vực hoạt động

Tổng số
Số
%
người

Nữ

Nam
Số
người

%

Số
người

%

Quản lý nhà nước

38

44.2


35

92.1

3

7.9

Quản lý doanh nghiệp

29

33.7

24

82.7

5

17.3

Nghiên cứu

19

22.1

17


89.5

2

10.5


18

Đối tượng người dùng tin của Vĩ An không chỉ là các cơ quan, tổ chức,
doanh nghiệp trong nước mà cịn có số lượng lớn các tổ chức, doanh nghiệp
nước ngoài đang đầu tư, kinh doanh tại Việt Nam do đó ngơn ngữ sử dụng
của người dùng tin cũng hết sức đa dạng. Ngồi tiếng Việt là chủ đạo, thì
ngơn ngữ nước ngoài được người dùng tin sử dụng nhiều nhất là tiếng Anh.
Trong tổng số 86 người được hỏi có 25 người sử dụng tiếng Anh (chiếm
29.1%); tiếp đến là tiếng Trung có 8 người sử dụng (chiếm 9.2%) và tiếng
Pháp có 3 người sử dụng (chiếm 3.5%). Bảng 1.3, tổng hợp số liệu về loại
ngôn ngữ mà người dùng tin quan tâm và sử dụng.
Bảng 1.3: Ngôn ngữ người dùng tin sử dụng
Ngôn ngữ

Tổng số người

Tỷ lệ (%)

Tiếng Việt

50


58,2

Tiếng Anh

25

29,1

Tiếng Trung

8

9,2

Tiếng Pháp

3

3,5

Độ tuổi của người dùng tin phần nào phản ánh mức độ năng động, tiềm
năng phát triển, sự ảnh hưởng tới tâm lý sử dụng tin của người dùng tin. Số
liệu về độ tuổi của người dùng tin, theo thống kê qua phiếu điều tra được trình
bày tại bảng 1.4.
Bảng 1.4: Độ tuổi của người dùng tin có cấu trúc theo thứ tự
Nữ
Độ tuổi

Tổng số


Nam

Số người

%

Số
người

%

Số
người

%

21 – 30

5

71.4

2

28.6

7

8.2


31 – 40

8

66.6

4

33.4

12

13.9

41 – 50

8

21.1

30

78.9

38

44.2

51 - 60


8

27.6

21

72.4

29

33.7


19

Theo khảo sát tại DNTT Vĩ An, chúng ta thấy đối tượng người dùng tin
chủ yếu là các nhà quản lý. Nếu căn cứ vào đặc điểm nghề nghiệp và cấp
quản lý, đối tượng khách hàng tiêu biểu của doanh nghiệp có thể được chia
thành các nhóm như sau:
+ Các cơ quan trung ương, có các khách hàng như: Bộ Tài chính; Bộ
Giáo dục; Bộ Cơng nghiệp; Bộ Thuỷ sản; Cục Kiểm lâm; Kho bạc Nhà nước
Trung ương; Đài Truyền hình Việt Nam; Tập đồn Dầu khí Việt Nam.
+ Ở các địa phương: UBND TP Hà Nội; UBND TP Hải Phịng; UBND
tỉnh Bình Dương; UBND tỉnh Quảng Ninh; UBND tỉnh Khánh Hoà…
+ Các tổ chức quốc tế: Đại sứ quán Australia tại Việt Nam; Đại sứ
quán Indonesia tại Việt Nam, Văn phòng Hội đồng Anh tại Việt Nam; Quỹ
Động vật Hoang dã thế giới – WWF; Cisco System Vietnam; Công ty truyền
thông FCR của Pháp, Công ty bảo hiểm AON, Hiệp hội các doanh nghiệp
Hong Kong kinh doanh tại Việt Nam.
+ Các doanh nghiệp: Công ty phân phối ô tô AMEC…

Như vậy, khách hàng chủ yếu là các nhà quản lý, nhà lãnh đạo. Họ có
nhu cầu thơng tin rất lớn, nội dung nhu cầu tin của nhà quản lý đa dạng,
phong phú bởi vì muốn nắm vững đối tượng quản lý thì họ phải cần mọi
thơng tin về đối tượng quản lý, môi trường, các vấn đề liên quan. Đồng thời,
thông tin phải sâu, gắn với lĩnh vực quản lý, sâu vì phải hiểu đối tượng. Các
nhà quản lý thường có ít thời gian để tiếp cận thơng tin, do đó u cầu thơng
tin phải mang tích phân tích, tổng hợp cao, ngắn gọn, súc tích, có giá trị cao.
Nội dung thông tin càng hay, càng hấp dẫn, cập nhật thì giá trị càng cao.
Thơng tin mang lại lợi ích kinh tế lớn lao, thậm chí trong những trường hợp
cụ thể, thơng tin cịn được coi là vơ giá.
1.3.2. Đặc điểm nhu cầu tin tại Vĩ An
1.3.2.1. Khái niệm nhu cầu tin
Nhu cầu tin là những đòi hỏi mang tính khách quan về tiếp nhận và sử
dụng tin để giải quyết một vấn đề trong hoạt động của con người. Con người


20

càng tham gia nhiều hoạt động bao nhiêu thì nhu cầu tin càng nhiều bấy
nhiêu. Hoạt động càng phức tạp thì càng địi hỏi nhiều thơng tin. Những
người hoạt động trong lĩnh vực nhiều rủi ro thì nhu cầu tin càng nhiều hơn,
bởi vì nhờ có thơng tin họ sẽ lượng trước được những rủi ro có thể sẽ xảy ra.
Nắm vững nhu cầu thông tin, đáp ứng kịp thời, đầy đủ và chính xác là
một trong những nhiệm vụ quan trọng của các đơn vị thông tin cũng như các
doanh nghiệp cung cấp thông tin. Nhu cầu thông tin là nhu cầu khách quan của
người dùng tin về những thơng tin cần thiết cho cơng việc của họ. Nó tùy thuộc
vào từng nhóm người dùng tin, vào bản chất cơng việc và nhiệm vụ mà người
dùng tin phải hồn thành. Chất lượng của việc đáp ứng nhu cầu tin lại phụ
thuộc vào sự nắm bắt những đặc điểm của những nhu cầu, yêu cầu dùng tin đó.
Yêu cầu tin càng rõ rang, cụ thể thì việc thỏa mãn nhu cầu tin càng nhanh

chóng và hiệu quả. Vì thế, nếu không nắm chắc nhu cầu tin sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến tồn bộ q trình hoạt động của nhà cung cấp thông tin, từ khâu bổ
sung đến khâu cung cấp sản phẩm, gây lãng phí tiền của và cơng sức.
Theo Dervin [15], nhu cầu tin là trung tâm trong quá trình khai thác, sử
dụng thơng tin của người dùng tin. Dervin đã xây dựng biểu đồ giữa các thành
tố: người dùng tin, nhu cầu tin, các hệ thống thông tin và các sản phẩm, dịch
vụ thông tin.
Sơ đồ 1.2: Mối quan hệ giữa người dùng tin, nhu cầu tin và các sản
phẩm thông tin
Người dùng tin

Nhu cầu tin

Nguồn thông tin

Sản phẩm


21

Sơ đồ thể hiện mối quan hệ khăng khít của nhu cầu tin đối với các
thành tố còn lại. Nhu cầu tin là yếu tố trung tâm, nguồn gốc tạo nên q trình
khai thác và sử dụng thơng tin. Xuất phát từ nhu cầu tin của người dùng tin,
nhà cung cấp tin sẽ tìm kiếm các nguồn thơng tin để tạo ra sản phẩm và dịch
vụ thông tin cung cấp cho người dùng tin. Nhà cung cấp thông tin phải có
chính sách, chiến lược kết nối giữa nhu cầu tin và nguồn thông tin nhằm thu
hẹp khoảng cách giữa nhu cầu tin và khả năng đáp ứng của mỗi nguồn tin cụ
thể. Đồng thời, nhà cung cấp thông tin cũng phải khơng ngừng đa dạng hóa,
mở rộng các sản phẩm và dịch vụ thông tin để đáp ứng nhu cầu tin ngày càng
đa dạng của người dùng tin.

1.3.2.2. Diện nhu cầu tin
Theo như phân nhóm người dùng tin ở trên, chúng ta có thể thấy người
dùng tin của DNTT Vĩ An chủ yếu là những nhà quản lý, bao gồm các nhà
quản lý nhà nước và các nhà quản lý doanh nghiệp. Tính chất lao động của
nhà quản lý là những người ra quyết định, làm việc với cộng đồng và lao động
phải có hiệu quả. Hoạt động ra quyết định là thực hiện một q trình thơng
tin. Trong q trình chuẩn bị ra quyết định, các nhà quản lý, lãnh đạo thường
phải thực hiện các chức năng: Trước hết họ phải thu thập thơng tin có tính chỉ
đạo, thường là các văn bản pháp quy, điều luật; thông tin về hiện trạng và
triển vọng hoạt động của tổ chức do họ quản lý, lãnh đạo và các tổ chức có
liên quan (cấp trên hoặc cấp dưới); thơng tin về các thành tựu kinh tế và khoa
học cơng nghệ…Sau đó, các nhà quản lý, lãnh đạo sẽ tiếp thu thông qua đọc
tài liệu, nghe báo cáo…Tiếp theo là xử lý và chuyển hóa thơng tin: bao gồm
đánh giá thơng tin, soạn thảo phương án quyết định (các giải pháp) và cuối
cùng là đưa ra thông tin mới, là quyết định về giải pháp được lựa chọn.
Thông thường, nhà quản lý, lãnh đạo không phải là chuyên gia khoa
học công nghệ, cịn ít nhiều hạn chế về ngơn ngữ chun mơn, nhưng lại phải


22

nắm giữ tình hình, xu hướng và triển vọng chung cũng như riêng của từng
ngành, những vấn đề kinh tế có liên quan đến từng ngành, từng lĩnh vực.
Lao động của nhà quản lý cịn có đặc điểm khơng gian hoạt động rộng
và bao quát, cần nắm thông tin tổng hợp, cần hiểu rộng nhiều ngành, nhiều
lĩnh vực và nhiều mặt, thường xem xét vấn đề dưới con mắt kinh tế - chính trị
- xã hội. Trong khi đó, thời gian dành cho việc thực hiện chức năng thông tin
rất hạn hẹp, cấp bậc càng cao càng hiếm thời gian, nhưng lại phải tiếp thu một
khối lượng thông tin lớn, đa ngành và bao quát nhiều lĩnh vực, thêm vào đó
việc ra quyết định lại phải kịp thời.

Việc lựa chọn phương án quyết định cũng đòi hỏi các kiến thức
chuyên ngành, liên ngành và mang tính kinh tế - kỹ thuật, cũng như kiến
thức về tổ chức và quản lý. Có nhiều trường hợp, trong những giai đoạn nhất
định, trình độ chun mơn, trình độ quản lý và lãnh đạo chưa đáp ứng yêu
cầu, nên họ mong muốn tiếp nhận thông tin khoa học công nghệ tự học tập,
nâng cao trình độ. Chính vì thế, người ta nói quản lý vừa là một khoa học
vừa là một nghệ thuật.
Từ những đặc điểm lao động của nhà quản lý, đồng thời qua kết quả
khảo sát cho thấy, nhu cầu tin của nhà quản lý chịu ảnh hưởng của một số yếu
tố như sau:
Trước hết, đó là đặc điểm cá nhân nhà quản lý và lãnh đạo, cụ thể là về
tuổi tác, kinh nghiệm, trình độ kiến thức, khả năng tự xử lý thơng tin, ý thích
cá nhân…
Cấp bậc và vị trí quản lý cũng sẽ ảnh hưởng tới nhu cầu tin. Những nhà
quản lý cấp chiến lược, chiến thuật sẽ có nhu cầu tin khác với nhà quản lý cấp
tác nghiệp. Nhu cầu tin của nhà quản lý nhà nước cũng sẽ có nhu cầu tin khác
với nhà quản lý của doanh nghiệp.
Yếu tố về ngành, lĩnh vực quản lý cũng sẽ tác động đến nhu cầu tin.
Nhà quản lý của các ngành kinh tế (Công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, y


23

tế…) sẽ có nhu cầu tin khác với các nhà quản lý của ngành khoa học và
cơng nghệ.
Ngồi ra, nhu cầu tin cũng bị ảnh hưởng bởi môi trường ra quyết định,
đó là khơng gian (địa điểm, trong nước hay quan hệ với nước ngồi); thời
gian (có đủ thời gian để tìm kiếm và xử lý thơng tin hay khơng…).
Thêm vào đó, mơi trường của thơng tin mà nhà quản lý, lãnh đạo yêu
cầu cũng ảnh hưởng đến nhu cầu tin. Về thời gian, thơng tin đó là hồi cố hay

hiện trạng hay dự báo. Về khơng gian, đó là nguồn trong nước hay nước
ngồi.
Từ phân tích về đặc điểm lao động cũng như các yếu tố tác động tới
nhu cầu tin, chúng ta có thể tổng kết một số tiêu chuẩn của thông tin cung cấp
cho các nhà quản lý, lãnh đạo như sau:
* Thông tin đưa ra phục vụ quản lý và lãnh đạo phải đảm bảo chất
lượng cao về nội dung và tính thời gian, thơng tin phải được xử lý và đảm bảo
chính xác, kịp thời và đầy đủ ở mức tối đa.
* Về nội dung thơng tin, thơng tin phải rộng, vì người quản lý muốn
nắm vững đối tượng quản lý thì cần phải có mọi thơng tin về đối tượng đó và
các vấn đề liên quan. Đồng thời thông tin phải sâu, gắn với lĩnh vực quản lý.
Về độ chính xác, thơng tin phải đáng tin cậy, khách quan, thiết thực và có giá
trị, gần sát với nội dung lựa chọn phương án và chuẩn bị ra quyết định. Về
mức độ kịp thời, thông tin phải cập nhật, nhanh và đúng lúc, mang tính thời
sự. Về mức độ đầy đủ, theo chiều dọc: thông tin phải có mức độ tổng qt cao
và phân tích, tổng hợp sâu sắc, có so sánh, đánh giá, kiến nghị và dự báo; theo
chiều ngang: thơng tin phải có mức độ bao quát rộng, tương tác, liên ngành,
đầy đủ các nguồn tin, đề cập tồn diện các khía cạnh kinh tế - kỹ thuật – chính
trị - xã hội – mơi trường….
* Về hình thức thơng tin, là những bản tổng quan, văn bản, văn phong
cô đọng và dễ hiểu.


24

* Về phương thức tiếp nhận thông tin: phải thuận tiện, linh hoạt và dễ
sử dụng.
Đó là những đặc điểm cơ bản về nhu cầu tin của nhà quản lý, lãnh đạo.
Đối với mỗi khách hàng riêng lại có những diện nhu cầu cụ thể khác nhau,
doanh nghiệp sẽ dựa trên các diện nhu cầu cụ thể đó để đáp ứng nhu cầu tin

của khách hàng.
Hai đặc điểm về người dùng tin và nhu cầu tin của họ là hai yếu tố ảnh
hưởng đến việc xây dựng nguồn lực thông tin. Đánh giá hiệu quả hoạt động
của một cơ quan thông tin là dựa trên mức độ đáp ứng nhu cầu tin của người
dùng tin. Do đó nguồn lực thơng tin của họ phải được xây dựng dựa trên cơ
sở khảo sát nhóm người dùng tin chủ yếu và nhu cầu tin của họ. Cơ cấu các
đầu báo, tạp chí mua về phụ thuộc vào đối tượng phục vụ của cơ quan thơng
tin, doanh nghiệp thơng tin đó. Ngồi các đầu báo, tạp chí phổ thơng, đối với
mỗi khách hàng khác nhau, hoạt động ở lĩnh vực khác nhau, thì doanh nghiệp
cũng cần có các đầu báo, tạp chí chun ngành riêng cho từng khách hàng.
1.3.3. Đặc điểm nguồn lực thông tin tại Vĩ An
Ngày nay, con người không những đang sống trong xã hội thơng tin mà
thế giới cịn đang phải đối mặt với sự bùng nổ thông tin. Sự phát triển mạnh
mẽ của thông tin khiến cho khả năng kiểm sốt thơng tin của con người bị hạn
chế, con người rất khó khăn để xác định giá trị của thơng tin bởi khơng phải
mọi thơng tin đều có giá trị như nhau. Hàng ngày con người phải tiếp nhận
hàng ngàn thông tin khác nhau. Đặc biệt trong lĩnh vực truyền thông, thông
tin lại được phổ biến một cách nhanh chóng và rộng rãi trên mọi phương tiện
thơng tin đại chúng. Do đó, việc xác định đặc điểm nguồn lực thơng tin có ý
nghĩa to lớn.
Thứ nhất, thơng tin mang tính thời sự hay tính thích hợp của thơng tin.
Bất cứ một sản phẩm hay dịch vụ thông tin nào cung cấp cho người dùng tin


×