Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN CHU TRÌNH MUA HÀNG THANH TOÁN TRONG QUY TRÌNH KIỂM TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (193.67 KB, 29 trang )

CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN CHU TRÌNH
MUA HÀNG THANH TOÁN TRONG QUY TRÌNH KIỂM
TOÁN BÁO CÁO TÀI CHÍNH
1.1. Chu trình kiểm toán mua hàng – thanh toán trong quá trình sản
xuất kinh doanh.
1.1.1. Đặc điểm, vị trí và nội dung của chu trình mua hàng – thanh toán
trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong nền kinh tế thị trường hiện nay, hoạt động kiểm toán đã phát triển
và ngày càng trở thành một nhu cầu không thể thiếu đối với các hoạt động kinh
doanh. Đối tượng chủ yếu của hoạt động kiểm toán là kiểm toán báo cáo tài
chính, các kiểm toán viên thường chia công việc kiểm toán theo các chu trình,
theo cách này các nghiệp vụ và các tài khoản có liên quan chặt chẽ với nhau
được xếp vào cùng một phần hành.
Chu trình mua hàng – thanh toán là một chu trình quan trọng cần phải
được kiểm toán trong các đợt kiểm toán, bởi vì chi phí cho dịch vụ mua hàng
thường chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí sản xuất kinh doanh và ảnh hưởng
trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp.
Quá trình mua vào của hàng hoá và dịch vụ bao gồm các khoản mục như
mua nguyên liệu, máy móc, thiết bị, vật tư, điện nước, sửa chữa bảo trì và
nghiên cứu phát triển. Chu trình mua hàng – thanh toán bao gồm các quyết định
và các quá trình cần thiết để có hàng hoá và dịch vụ cho quá trình hoạt động của
doanh nghiệp. Chu trình thường bắt đầu bằng việc lập một đơn đặt mua của
người có trách nhiệm tại bộ phận cần hàng hoá hay dịch vụ nhận được.
Đối với các đơn vị sản xuất, quá trình kinh doanh bao gồm ba giai đoạn :
cung ứng, sản xuất và tiêu thụ. Còn ở doanh nghiệp thương mại cũng gồm hao
giai đoạn mua hàng và bán hàng. Như vậy dù ở loại hình doanh nghiệp nào thì
quá trình mua hàng cũng là quá trình cung cấp các yếu tố đầu vào, nó quyết
định đến khả năng sản xuất và duy trì sản xuất của đơn vị. Bên cạnh đó khả
năng thanh toán các khoản chi phí mua hàng cũng đánh giá tình hình tài chính
của doanh nghiệp là tốt hay xấu.
1.1.2. Chức năng của chu trình mua hàng – thanh toán.


Mặc dù ở các doanh nghiệp là khác nhau, nhu cầu về hàng hoá là khác
nhau, nhưng chu trình mua hàng – thanh toán vẫn phải đảm bảo đầy đủ bốn
chức năng :
1.1.2.1. Xử lý các đơn đặt mua hàng hoá hay dịch vụ.
Đây là chức năng quan trọng trong chu trình mua hàng – thanh toán. Các
bước công việc cần thực hiện trong chức năng này bao gồm :
- Xác định nhu cầu hàng hóa, dịch vụ cần cung cấp :thông thường mỗi doanh
nghiệp thường có một bộ phận chuyên nghiên cứu nhu cầu nguyên vật liệu,
công cụ, dụng cụ cần thiết cho sản xuất gọi là Bộ phận kế hoạch. Bộ phận này
có nhiệm vụ lên kế hoạch, cung ứng đảm bảo cung cấp đầy đủ các yếu tố đầu
vào để quá trình sản xuất được liên tục nhưng đồng thời cũng không quá nhiều
gây ứ đọng vốn ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
- Lập đơn yêu cầu mua hàng : sau khi đã lên kế hoạch cung ứng, bộ phận kế
hoạch sẽ lập đơn yêu cầu mua hàng để trình Giám đốc hoặc người có thẩm
quyền ký duyệt. Sau đó đơn yêu cầu mua hàng này sẽ được chuyển cho bộ phận
mua hàng.
- Tìm nhà cung cấp: bộ phận mua hàng căn cứ vào đơn yêu cầu mua hàng này để
xem xét, tìm kiếm nhà cung cấp. Về nguyên tắc, trước khi quyết định mua một
mặt hàng nào cũng phải tìm hiểu đơn chào hàng của nhiều nhà cung cấp khác
nhau để lựa chọn nhà cung cấp thích hợp nhất.
- Lựa chọn nhà cung cấp : sau khi đã xem xét đơn chào hàng của các nhà
cung cấp khác nhau, đơn vị sẽ chọn ra một nhà cung cấp phù hợp nhất. Sự lựa
chọn này căn cứ vào giá cả, chất lượng của hàng hoá và các điều kiện ưu đãi
như chiết khấu thương mại, chiết khấu thanh toán, phương thức thanh toán…
- Giao đơn đặt hàng : đơn đặt hàng là một loại chứng từ trong đó ghi rõ loại hàng,
số lượng, các thông tin liên quan đến hàng hoá mà doanh nghiệp có ý định mua
vào. Tất cả các đơn đặt hàng đều phải đánh số trước, có đầy đủ chữ ký của
những người có thẩm quyền. Tất cả các đơn đặt hàng phải bao gồm vừa đủ số
cột và diện tích để hạn chế tối đa khả năng có gian lận trên đơn đạt mua hàng
này.

Các bước công việc trên cho thấy đơn đặt hàng (yêu cầu về sản phẩm
hoặc dịch vụ) được lập bởi người mua hàng là điểm khởi đầu của chu trình. Nó
là một chứng từ hợp pháp và được xem như một đề nghị để mua hàng hoá dịch
vụ. Trong một số trường hợp khác, nếu người mua và người bán lần đầu có
quan hệ giao dịch hoặc thực hiện những quan hệ giao dịch lớn và phức tạp thì
đòi hỏi phải ký hợp đồng cung ứng hàng hoá hay dịch vụ nhằm đảm bảo việc
thực hiện các quyền lợi hay nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng.
Mẫu của bản yêu cầu và sự phê chuẩn quy định phụ thuộc vào bản chất
của hàng hoá dịch vụ và quy định của công ty. Trong đó việc phê chuẩn đúng
đắn nghiệp vụ mua hàng có chức năng chính vì nó đảm bảo hàng hoá và dịch vụ
được mua theo đúng mục đích đã được phê chuẩn và tránh cho việc mua quá
nhiều hoặc mua các mặt hàng không cần thiết. Hầu hết các công ty cho phép
một sự phê chuẩn chung cho việc mua phục vụ các nhu cầu hoạt động thường
xuyên như việc mua hàng tồn kho ở mức cho phép (phù hợp định mức hàng tồn
kho). Thí dụ, các lần mua tài sản thường xuyên vượt quá một giới hạn tiền nhất
định nào đó có thể yêu cầu sự phê chuẩn của HĐQT, các mặt hàng được mua
tương đối không thường xuyên, như các hợp đồng dịch vụ dài hạn thì được phê
chuẩn bởi các nhân viên nhất định, vật tư và những dịch vụ có giá trị thấp hơn
một giá trị quy định thì được phê chuẩn bởi quản đốc và trưởng phòng và một
số loại nguyên vật liệu, vật tư được tự động tái đặt hàng bất cứ lúc nào chúng ở
mức giới hạn ấn định trước.
- Quá trình kiểm soát với các bước công việc nêu trên phải là đảm bảo trả
lời được các câu hỏi sau :
+ Đơn đặt hàng được phê duyệt bởi ai?
+ Bộ phận nào đưa ra đơn đặt hàng?
+ Đặt hàng tại thời điểm nào?
+ Số lượng đặt hàng là bao nhiêu?
+ Đặt hàng ở nhà cung cấp nào?
+ Đơn đặt hàng có được theo dõi không?
Khi một đơn đặt hàng đã vượt quá một thời gian nhất định nào đó mà

hàng vẫn chưa được giao thì bộ phận mua hàng phải liên hệ với nhà cung cấp
hàng để xem xét có vấn đề gì xảy ra không.
1.1.2.2. Nhận hàng hoá hay dịch vụ.
Việc nhận hàng hoá từ người bán là một điểm quyết định trong chu trình
nghiệp vụ vì đây là thời điểm mà tại đó bên mua thừa nhận khoản nợ liên quan
đối với bên bán trên sổ sách của họ. Khi hàng hoá nhận được đòi hỏi phải có sự
kiểm tra mẫu mã, số lượng, thời gian đến và các điều kiện khác.
Thông thường các công ty có phòng tiếp nhận để nhận hàng, kiểm tra
mẫu mã, số lượng, quy cách và thời gian giao hàng để ngăn ngừa sự mất mát và
lạm dụng. Bộ phận này đồng thời lập biên bản hay báo cáo nhận hàng gửi cho
thủ kho một bản để tiến hành nhập kho hàng hoá và gửi cho kế toán vật tư để
ghi chép sổ sách kế toán.
Để tiện cho việc kiểm tra chéo thì nhân viên phòng tiếp nhận phải độc lập
với thủ kho và phòng kế toán. Cuối cùng, sổ sách kế toán sẽ phản ánh việc
chuyển giao trách nhiệm đối với hàng hoá khi hàng hoá được từ phòng tiếp
nhận qua kho và từ kho vào quá trình sản xuất hay đưa đi tiêu thụ.
1.1.2.3. Ghi nhận các khoản nợ người bán.
Sự ghi nhận đúng đắn về hàng hoá hay dịch vụ nhận đựoc đòi hỏi việc
ghi sổ chính xác và nhanh chóng. Việc ghi sổ ban đầu có ảnh hưởng quan trọng
đến các báo cáo tài chính và đến các khoản thanh toán thực tế nên kế toán chỉ
được phép ghi vào các lần mua có cơ sở hợp lý theo đúng số tiền.
Kế toán các khoản phải trả thường có trách nhiệm kiểm tra tính đúng đắn
của các lần mua và ghi chúng vào sổ Nhật ký và sổ hạch toán chi tiết “ các
khoản phải trả”. Khi kế toán các khoản phái trả nhận được hoá đơn của người
bán thì phải so sánh mẫu mã, giá, số lượng, phương thức và chi phí vận chuyển
ghi trên hoá đơn vơi thông tin trên đơn đặt mua ( hoặc hợp đồng ) và Báo cáo
nhận hàng ( nếu hàng đã về ). Thường thì các phép nhân và các phép tổng cộng
được kiểm tra lại và được ghi vào hoá đơn. Sau đó số tiền được chuyển vào sổ
hạch toán chi tiết các khoản phải trả.
Một quá trình kiểm soát quan trọng đối với các khoản phải trả là quy định

tất cả những ai ghi sổ các khoản chi tiền mặt không được dính líu đến tiền mặt,
các chứng khoán thị trường và các tài sản khác.
1.1.2.4. Xử lý và ghi sổ các khoản thanh toán cho người bán.
Công việc này chỉ được thực hiện khi đã có bốn yếu tố : đơn yêu cầu mua
hàng đã được phê chuẩn, đợn đặt hàng, hoá đơn bán hàng và biên bản giao nhận
hàng. Hoá đơn bán hàng phải do kế toán công nợ lưu giữ cho đến khi thanh
toán. Phương thức thanh toán có thể thực hiện qua uỷ nhiệm chi, qua ngân hàng
hay bằng tiền mặt.
Các quá trình kiểm soát quan trọng đối với quy trình xử lý ghi sổ là việc
ký phiếu phải do đúng cá nhân có trách nhiệm ( nguyên tắc uỷ quyền và phê
chuẩn ), phải có sự tách biệt giữa người ký phiếu chi và người chi tiền ( nguyên
tắc bất kiêm nhiệm ).
Trên đây là bốn nội dung chính của các bước công việc khi mua hàng –
thanh toán của các doanh nghiệp nói chung.
1.1.3. Tổ chức công tác kế toán mua hàng – thanh toán.
1.1.3.1. Chứng từ, tài khoản và sổ sách sử dụng trong chu trình mua hàng –
thanh toán.
Trong chu trình mua hàng – thanh toán, hầu hết các doanh nghiệp sử
dụng các loại chứng từ và sổ sách sau :
- Yêu cầu mua : tài liệu được lập bởi bộ phận được sử dụng ( như bộ phận sản
xuất ) để đề nghị mua hàng hoá dịch vụ. Trong một số trường hợp, các bộ phận
trong doanh nghiệp có thể trực tiếp lập đơn đặt hàng, trình phê duyệt và gửi cho
nhà cung cấp.
- Đơn đặt hàng : lập lại các chi tiết có trong đề nghị mua, được gửi cho nhà cung
cấp hàng hoá hay dịch vụ.
- Phiếu giao hàng ( biên bản giao nhận hàng hoá hay nghiệm thu dịch vụ ): tài
liệu được chuẩn bị bởi nhà cung cấp. Phiếu giao nhận phải được ký nhận bởi
khách hàng để chứng minh sự chuyển giao hàng hoá hay dịch vụ thực tế.
- Báo cáo nhận hàng : được bộ phận nhận hàng lập như một bằng chứng của việc
nhận hàng và sự kiểm tra hàng hoá ( dấu hiệu của sự kiểm soát ).

- Hoá đơn của người bán : chứng từ nhận được từ người cung cấp hàng đề nghị
thanh toán cho các hàng hoá dịch vụ đã được chuyển giao.
- Nhật lý mua hàng : đây là những ghi chép đầu tiên trong hệ thống kế toán để ghi
lại các khoản mua. Nhật ký phải liệt kê danh sách các loại hàng hoá, cùng với
việc chỉ ra tên nhà cung cấp hàng, ngày hoá đơn và các khoản tiền của hoá đơn
đó.
- Sổ hạch toán chi tiết nợ phải trả nhà cung cấp : danh sách các khoản tiền phải
trả cho mỗi nhà cung cấp. Tổng số của tài khoản người cung cấp hàng trong sổ
hạch toán chi tiết phải bằng khoản tiền ghi trên khoản mục phải trả người bán.
- Bảng đối chiếu của nhà cung cấp : báo cáo nhận được của nhà cung cấp hàng
( thường là hàng tháng ) chỉ ra các hoá đơn chưa thanh toán vào một ngày đối
chiếu nhất định.
Sau đây là sơ đồ hạch toán đối với nghiệp vụ thanh toán nợ phải trả với
nhà cung cấp thông qua các tài khoản liên quan
Sơ đồ 1.1: Hạch toán nghiệp vụ phát sinh trong chu trình mua hàng – thanh toán
(thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ)
1.1.3.2. Quy trình tổ chức chứng từ mua hàng – thanh toán.
Quy trình tổ chức chứng từ kế toán chỉ ra dòng vận động của chứng từ kế
toán trong doanh nghiệp từ khi lập chứng từ, thực hiện nghiệp vụ đến khi đưa
chứng từ vào bảo quản, lưu trữ. Một quy trình luân chuyển chứng từ hợp lý giúp
cho các nghiệp vụ được thực hiện gọn nhẹ, nhanh chóng, nâng cao hiệu quả
hoạt động của doanh nghiệp.
Sơ đồ 1.2: Quá trình luân chuyển chứng từ đối với nghiệp vụ mua vào
Căn cứ vào kế hoạch sản xuất trong kỳ, bộ phận kế hoạch lập ra kế hoạch
cung ứng vật tư, hàng hoá. Bộ phận cung ứng có nhiệm vụ khai thác hàng theo
yêu cầu của doanh nghiệp. Sau đó cử cán bộ đi thu mua vật tư, hàng hoá. Khi
hàng hoá được mua về, cán bộ thu mua sẽ lập chứng từ kho trình trưởng bộ
phận cung ứng ký duyệt rồi chuyển cho thủ kho để nhập kho hàng hoá. Cuối
cùng chứng từ được chuyển cho kế toán để ghi sổ và bảo quản lưu trữ.
Sơ đồ 1.3: Quá trình luân chuyển chứng từ đối với nghiệp vụ thanh toán.

Khi đơn vị có nhu cầu thanh toán cho hàng hoá, dịch vụ nhận được, kế
toán quỹ lập chứng từ chi quỹ, trình thủ trưởng đơn vị và kế toán trưởng ký
duyệt rồi chuyển vho thủ quỹ thực hiện chi tiền, nhân viên thanh toán có nhiệm
vụ nhận tiền và thanh toán cho nhà cung cấp. Sau khi thực hiện nghiệp vụ,
chứng từ sẽ được chuyển cho kế toán để ghi sổ, cuói cùng đưa vào bảo quản lưu
trữ.
1.1.4. Mục tiêu kiểm toán chu trình mua hàng – thanh toán.
Để thực hiện một cách nhanh chóng và có hiệu quả trong các cuộc kiểm
toán thì KTV phải xác định được các mục tiêu kiểm toán trên cơ sở các mối
quan hệ vốn có của đối tượng và của khách thể kiểm toán. Vì vậy, khi tiến hành
kiểm toán chu trình mua hàng – thanh toán, KTV phải xác định các mục tiêu
của kiểm toán của chu trình này.
Mục tiêu chung của kiểm toán chu trình mua hàng – thanh toán là đánh
giá xem liệu số dư các tài khoản có liên quan có được trình bày trung thực và
phù hợp với các nguyên tắc kế toán hiện hành hoặc được thừa nhận hay không.
Từ mục tiêu chung này cụ thể hóa thành các mục tiêu đặc thù đối vơi chu trình
mua hàng – thanh toán.
Các mục tiêu kiểm toán đặc thù đối với chu trình mua hàng – thanh toán
đã xác định được bao gồm bảy mục tiêu :
- Tính có thực: của hàng hoá hay dịch vụ mua vào cũng như các khoản nợ
người bán với ý nghĩa các thông tin phản ánh tài sản hoặc công nợ phải được
đảm bảo bằng sự tồn tại của các tài sản cũng như công nợ đó.
- Tính đầy đủ: của việc ghi nhận các hàng hóa hay dịch vụ mua vào và các khoản
phải trả người bán với ý nghĩa thông tin phản ánh trên sổ sách, tài liệu kế toán
không bị vỏ sót trong quá trình xử lý.
- Tính đúng đắn trong việc tính giá vốn thực tế: hàng nhập kho được tính theo chi
phí thực tế thực hiện nghiệp vụ, việc tính toán các khoản phải trả người bán phù
hợp với hợp đồng mua bán, phù hợp với hoá đơn người bán và biên bản giao
nhận hành hoá hay dịch vụ.
- Tính đúng đắn trong việc phản ánh quyền và nghĩa vụ: với ý nghĩa tài sản mua

vào phản ánh trên BCTC phải thuộc quyền sở hữu của đơn vị và nợ phải trả
người bán thể hiện đúng nghĩa vụ của đơn vị này.
- Tính chính xác về số học: trong việc tính toán, cộng dồn, chuyển sổ đối với các
nghiệp vụ mua hàng – thanh toán.
- Tính đúng đắn trong việc phân loại và trình bày: các tài sản mua vào cũng như
các khoản phải trả người bán với ý nghĩa tuân thủ các quy định trong việc phân
loại các tài sản và công nợ cùng việc thể hiện đúng nghĩa vụ của đơn vị này.
- Tính đúng kỳ: các nghiệp vụ kinh tế được ghi chép đúng kỳ kế toán đặc biệt là
các nghiệp vụ sau ngày kết thúc năm tài chính. Trong chu trình mua hàng –
thanh toán, các khoản nợ phải trả thường được ghi chậm so với thực tế phát
sinh.
Các mục tiêu kiểm toán đặc thù chính là khung tham chiếu cho việc xác
định các thủ tục kiểm toán chu trình mua hàng – thanh toán để thu thập bằng
chứng kiểm toán. Căn cứ vào các mục tiêu đó, KTV sẽ thiết kế các thử nghiêm
tuân thủ để nhận diện được cơ cấu, các quá trình kiểm soát hiện có và các nhược
điểm theo từng mục tiêu. Từ đó đánh giá lại rủi ro kiểm soát theo từng mục tiêu
và xây dựng các thủ tục kiểm tra chi tiết các số dư và nghiệp vụ một cách tương
ứng.
1.2. Chu trình mua hàng – thanh toán với công tác kiểm toán báo
cáo tài chính.
Mỗi cuộc kiểm toán dù quy mô lớn hay nhỏ, đơn giản hay phức tạp thì
quy trình kiểm toán thường tuân theo trình tự các bước chung. Cụ thể kiểm toán
chu trình mua hàng – thanh toán được tiến hành qua ba bước sau:
- Chuẩn bị kiểm toán ( Lập kế hoạch kiểm toán chu trình mua hàng – thanh toán).
- Thực hiện kiểm toán.
- Hoàn thành kiểm toán và công bố báo cáo kiểm toán.
1.2.1. Lập kế hoạch kiểm toán chu trình mua hàng – thanh toán.
Lập kế hoạch kiểm toán là giai đoạn đầu tiên mà các KTV cần thực hiện
trong các cuộc kiểm toán nhằm tạo các điều kiện pháp lý cũng như các điều
kiện cần thiết khác cho kiểm toán. Đối với chu trình mua hàng – thanh toán mục

đích của giai đoạn này là xây dựng kế hoạch kiểm toán chung và phương pháp
kiểm toán cụ thể phù hợp với phạm vi, bản chất, thời gian của quy trình kiểm
toán sẽ thực hiện.
Cũng như các chu trình khác, việc lập kế hoạch kiểm toán chu trình mua
hàng – thanh toán cũng tuân theo các bước như sau :chuẩn bị kiểm toán, thu
thập thông tin cơ sỏ, thu thập thông tin về quyền và nghĩa vụ pháp lý của khách
hàng và thực hiện các thủ tục phân tích, đánh giá trọng yếu và rủi ro kiểm toán,
cuối cùng là lập chương trình kiểm toán.
1.2.1.1. Chuẩn bị cho kế hoạch kiểm toán.
- Đánh giá khả năng chấp nhận kiểm toán:
Trên thực tế không phải bất cứ một lời mời kiểm toán nào cũng được
chấp nhận ngay mà phải căn cứ vào khả năng cuả công ty và các điều kiện của
khách hàng. Trong giai đoạn này KTV đánh giá rủi ro có thể gặp phải khi tiến
hành kiểm toán chu trình mua hàng – thanh toán của doanh nghiệp, sau đó kết
hợp với việc đánh giá các chu trình khác để đưa ra quyết định có chấp nhận
kiểm toán cho doanh nghiệp hay không.
- Nhận diện các lý do kiểm toán của công ty khách hàng:
Sau khi đã chấp nhận kiểm toán, công ty kiểm toán tiến hành xem xét các
lý do kiểm toán đối với chu trình mua hàng – thanh toán của khách hàng để từ
đó xác định số lượng bằng chứng kiểm toán phải thu thập và mức độ chính xác
của các ý kiến mà KTV đưa ra trong báo cáo kiểm toán nói chung.
- Lựa chọn đội ngũ nhân viên thực hiện kiểm toán:
Thông qua việc nhận diện các lý do kiểm toán của khách hàng, công ty
kiểm toán ước lượng được quy mô phức tạp của cuộc kiểm toán, từ đó lựa chọn
đội ngũ nhân viên thích hợp để thực hiện kiểm toán. Cụ thể công ty kiểm toán
sẽ lựa chọn những nhân viên có nhiều kinh nghiệm trong kiểm toán chu trình
mua hàng – thanh toán để kiểm toán chu trình này. Số lượng và trình độ của các
KTV phụ thuộc vào tính phức tạp và mức rủi ro của chu trình.
- Hợp đồng kiểm toán :
Công việc cuối cùng của giai đoạn này là ký kết hợp đồng kiểm toán, ghi

rõ trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của mỗi bên.
1.2.1.2. Thu thập thông tin cơ sở về khách hàng.
Sau khi ký kết hợp đồng kiểm toán, KTV bắt đầu thu thập thông tin đối
với phần hành kiểm toán là mình đảm nhận là mua hàng – thanh toán. Trong
giai đoạn này, KTV tiến hành tìm hiểu các mặt hoạt động kinh doanh của khách
hàng và các quy trình mang tính pháp lý có ảnh hưởng đến các mặt hoạt động
kinh doanh này từ đó ảnh hưởng đến chu trình kiểm toán mua hàng – thanh toán
của mình. Có các thông tin cơ sở sau:
- Tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng :
Việc tìm hiểu ngành nghề và hoạt động kinh doanh của khách hàng giúp
KTV nhận định về chủng loại hàng hoá mà doanh nghiệp mua vào cũng như
cách thức thanh toán và mục đích sử dụng đối với từng loại hàng hoá có đúng
với mục đích đã cam kết bằng văn bản không. Ngoài ra việc tìm hiểu ngành
nghề kinh doanh của khách hàng cũng cho KTV biết được cách thức tổ chức hệ
thống kế toán và các nguyên tắc đặc thù của chu trình mua hàng – thanh toán
nói riêng và ngành nghề này nói chung.
- Xem xét lại kết quả cuộc kiểm toán năm trước và hồ sơ kiểm toán chung:
Việc xem xét lại kết quả cuộc kiểm toán năm trước và hồ sơ kiểm toán
chung giúp cho KTV xác định và khoanh vùng các khoản mục chứa đựng rủi ro
cao trong chu trình, những bước mà ở đó HTKSNB yếu kém. Chẳng hạn như
đơn vị khách hàng thường yếu trong khâu ghi nhận các khoản nợ với các nhà
cung cấp nhỏ không thường xuyên. Thông thường những điểm yếu này chưa
khắc phục được trong một thời gian ngắn.
- Tham quan nhà xưởng:
Việc thăm quan nhà xưởng sẽ cung cấp cho KTV những điều mắt thấy tai
nghe về quy trình sản xuất kinh doanh của khách hàng, giúp cho KTV đánh giá
tình trạng bảo quản, nhập và xuất hàng hoá từ đó đánh giá khả năng của bộ phận
mua hàng và những gian lận sai sót có thể xảy ra trong quá trình mua hàng. Cụ
thể, nếu việc sản xuất diễn ra đều đặn, hàng hoá không bị ứ đọng, chất lượng
sản phẩm không bị giảm sút có nghĩa là việc mua hàng tiến triển tốt, hàng hoá

mua vào có chất lượng đạt yêu cầu. Ngược lại, nếu sản xuất bị đình trệ thì đó là
dấu hiệu cho thấy khả năng đầu vào cung cấp không kịp thời, nếu hàng hoá tồn
kho quá nhiều thì có nghĩa là mua hàng không hợp với nhu cầu, chất lượng
giảm sút cho thấy chất lượng các yếu tố đầu vào không tốt.

×