Tải bản đầy đủ (.pdf) (51 trang)

Những ông trùm tài chính

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 51 trang )

Giới thiệu
- 1 -

NHỮNG

ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH
NHỮNG ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH
- 2 -
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Chúng tôi luôn mong muốn nhận được những ý kiến đóng góp của quý vị độc giả
để sách ngày càng hoàn thiện hơn.

Góp ý về sách, liên hệ về bản thảo và bản dịch:
Liên hệ về dịch vụ bản quyền:

 
 
 
 


 
 
 
 




















LORDS OF FINANCE
Copyright © Liaquat Ahamed, 2009

All rights reserved including the right of reproduction in whole or in part in any form.
This edition published by arrangement with The Penguin Press, a member of Penguin Group (USA) Inc.



NHỮNG ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH
Bản quyền tiếng Việt © 2010 Công ty Sách Alpha

Không phần nào trong xuất bản phẩm này được phép sao chép hay phát hành dưới bất kỳ hình thức hoặc phương tiện nào mà
không có sự cho phép trước bằng văn bản của Công ty Sách Alpha.

Bìa: Nguyễn Ngọc Thùy
Biên tập viên Alpha Books: Bùi Thu Hà
Giới thiệu
- 3 -
 
LIAQUAT AHAMED





NHỮNG ÔNG TRÙM
TÀI CHÍNH

Phương Lan – Kim Ngọc dịch
Trương Đức Hùng - hiệu đính








NHÀ XUẤT BẢN THỜI ĐẠI
NHỮNG ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH
- 4 -
Lời tựa
- 5 -
LỜI TỰA
Những ông trùm tài chính
— Nguồn gốc của các cuộc ₫ại khủng hoảng?
Cuộc Đại Suy thoái những năm 1930 là sự kiện kinh tế nổi bật nhất của thế kỷ
XX. Nó gần như là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc Chiến tranh
Thế giới thứ Hai, tạo điều kiện cho chủ nghĩa phát xít hình thành ở Đức. Cuộc
Đại Suy thoái cũng khuyến khích định hình một hệ thống phúc lợi xã hội mới
ở Mỹ để đối phó với đói nghèo tràn lan.
Ở khắp nơi, cuộc Đại khủng hoảng đã
khiến người dân mất niềm tin vào chủ nghĩa tư bản phi điều tiết.
Có rất nhiều phân tích về nguyên nhân của cuộc Đại khủng hoảng
nhưng hầu hết đều cho rằng cuộc Đại khủng hoảng 1929 là kết quả của rất
nhiều biến cố vượt ngoài tầm kiểm soát của các cá nhân cũng như
chính
phủ. Tuy nhiên, Liaquat Ahamed, nhà quản lý đầu tư chuyên nghiệp tại
Ngân hàng Thế giới ở Washington, D.C. đồng thời là giám đốc điều hành
của hãng quản lý đầu tư cá nhân Fischer Francis Trees and Watts lại cho
rằng quyền lực tập trung trong tay một số chủ ngân hàng là nguyên nhân
chính gây ra cuộc Đại khủng hoảng 1929. John Maynard Keynes, nhà
kinh tế học thần tượng, đã viết trong một luận văn nhan đề “Cuộc Đại suy
thoái năm 1930” (The Great Slump of 1930), xuất bản vào tháng Mười hai
n
ăm đó rằng: thế giới vẫn đang sống trong “bóng tối của một trong các
thảm họa kinh tế lớn nhất của lịch sử hiện đại.”
Tác phẩm mới nhất của Liaquat Ahamed

Lords of Finance
mà chúng tôi
lấy tiêu đề là
Những ông trùm tài chính
đưa ra một cái nhìn mới về bản
chất của cuộc khủng khoảng toàn cầu và còn là lời nhắc nhở chúng ta về
những tác động to lớn tiềm ẩn từ các quyết định của một số ít chủ ngân
hàng, sai lầm của họ, và về những hậu quả khủng khiếp có thể xảy ra ảnh
hưởng đến cả nhân loại.
NHỮNG ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH
- 6 -
Các ông trùm tài chính tạo nên nhan đề cuốn sách này là bốn ông chủ
ngân hàng trung ương chi phối thời kỳ sau chiến tranh: Benjamin Strong của
Cục Dự trữ Liên Bang Hoa Kỳ tại New York; Montagu Norman, lãnh đạo lâu
đời của Ngân hàng nước Anh; Émile Moreau của Ngân hàng nước Pháp; và
Hjalmar Schacht, lãnh đạo Ngân hàng Quốc gia Đức. Vào những năm 1920,
bốn nhân vật này mang trong mình đầy những bí ẩn và danh tiếng; đôi khi
họ được mô tả như là “câu lạc bộ độc quyền nhất của thế giới.”
Cuộc kh
ủng hoảng vừa qua năm 2008-2009 được so sánh với cuộc Đại
suy thoái 1929-1933 với nhiều điểm tương đồng nhưng cũng có vài sự
khác biệt. Cuộc khủng hoảng hiện tại năm 2008-2009 càng làm cho
người ta quan tâm nhiều hơn tới cuộc Đại suy thoái trong quá khứ. Cuộc
Đại suy thoái tạo ra sự tàn phá đặc biệt nghiêm trọng. Như Liaquat
Ahamed viết: “Trong suốt 3 năm khủng hoảng đó, GDP thực tế trong
những n
ền kinh tế lớn đã giảm 25%, một phần tư nam giới trong độ tuổi
lao động mất việc làm… Suy thoái kinh tế đã tạo ra sự khốn khó chưa từng
thấy ở khắp nơi trên thế giới, từ những thảo nguyên bao la ở Canada tới
những thành phố đông đúc chật chội ở Châu Á.”

Ahamed cho rằng có hai nguyên nhân chính tạo ra cuộc Đại suy thoái.
Thứ nhất là việc tái phục hồi m
ột cách thiếu định hướng chế độ bản vị vàng
vào những năm 1920. Thứ hai là những món nợ chính phủ khổng lồ, bao
gồm cả những món bồi thường chiến phí của Đức, hệ quả của Chiến tranh
Thế giới thứ Nhất.
Trong
Những ông trùm tài chính
, chúng ta sẽ gặp gỡ các nhân vật
tiêu biểu như một Montagu Norman dễ kích động và bí ẩn; một Émile
Moreau đa nghi theo chủ nghĩa bài ngoại, một Hjalmar Schacht ngạo
mạn nhưng tài năng, và Benjamin Strong có vẻ ngoài đầy nhiệt huyết
nhưng ẩn chứa bên trong là một con người mang nhiều gánh nặng và bị
tổn thương nghiêm trọng. Sau Chiến tranh Thế Giới thứ Nhất, các chủ
ngân hàng này đã nỗ lực xây dựng lại nền tài chính th
ế giới. Bỏ qua
những mâu thuẫn, họ liên minh với nhau hòng vượt qua nỗi kinh hoàng
không của riêng ai. Đó là việc lạm phát đang đe dọa chủ nghĩa tư bản.
Đó còn là một tương lai u ám khi đồng hồ thời gian quay ngược và thế
giới trở về Chế độ kim bản vị.
Lời tựa
- 7 -
Trong vòng một thời gian ngắn giữa thập niên 1920, họ đã phần nào
thành công. Tiền tệ thế giới ổn định, nguồn vốn bắt đầu lưu thông tự do
trên toàn cầu. Tuy nhiên, những kẽ hở trong hệ thống tài chính bắt đầu
xuất hiện bên dưới lớp vỏ của sự bùng nổ phát triển ở đô thị. Chế độ kim
bản vị mà người ta tưởng là một cái ô tô đem l
ại sự bền vững hóa ra lại chỉ
là một cái áo khoác mỏng không hơn không kém. Và nền kinh tế toàn cầu
bắt đầu trượt dốc một cách thảm hại mà cuộc Đại khủng hoảng kinh tế

1929 là một ví dụ điển hình.
Không giống như bất cứ một sự biến động kinh tế nào đang diễn ra ngày
nay, cuộc đại khủng hoảng và cột mốc 1929 vẫn được xem là bước ngo
ặt
lớn của biến động tài chính thế giới. Một câu chuyện kể đầy lôi cuốn, hấp
dẫn với những sự kiện rất ít người biết đến, nhưng câu chuyện hậu trường
của nền tài chính thế giới –
Những ông trùm tài chính
là môt lời nhắc nhở
hiệu nghiệm về những tác động to lớn của những quyết định của các chủ
ngân hàng, về sự sai lầm của họ, và về những hậu quả khủng khiếp có thể
xảy ra ảnh hưởng đến cả nhân loại.
Những ông trùm tài chính
của Ahamed được viết dựa trên những công
trình nghiên cứu của các kinh tế gia danh tiếng như Milton Friedman, Anna
Schwartz, Charles Kindleberger, Barry Eichengreen và Peter Temin. Nhưng
Ahamed khác biệt ở chỗ ông chỉ ra những con người, những cá nhân cụ thể
và những lực lượng chính trị đã gây ra cuộc khủng hoảng.
Không giống như hầu hết các tác phẩm viết về nguyên nhân của cuộc
đại khủng hoảng 1929, “
Những ông trùm tài chính
được đông đảo độc giả
đón nhận bởi tình tiết lịch sử hiện thực nhưng vẫn đậm tính văn học” như
lời Niall Ferguson viết. Không những thế,
Những ông trùm tài chính
còn
kể lại câu chuyện mang tính bi kịch của 4 ông trùm tài chính, những
người không thể nhìn xa hơn khuôn khổ thông thường của thời kỳ đó.
Cuốn sách là một bức tranh lịch sử đầy cuốn hút, đẹp đẽ…
Xin trân trọng giới thiệu với độc giả một tác phẩm đồ sộ và chi tiết về

bối cảnh tài chính thế giới. Thời gian đã khác đi nhiều nhưng bản chất củ
a
nền tài chính có lẽ vẫn không thay đổi.
Hà Nội tháng 8/2010
N
GUYỄ N
C
Ả NH
B
ÌNH
CEO Alpha Books
NHỮNG ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH
- 8 -

Lời tựa
- 9 -
Mục Lục

GIỚI THIỆU
..........................................................................................................................................................
13


Phần I.
CƠN BÃO BẤT NGỜ THÁNG TÁM 1914
1. Mở
₫ầu

..................................................................................................................................
33

2.
Người ₫àn ông kỳ dị và cô ₫ộc ........................................................................................... 38
3. Vị phù thủy trẻ tuổi.............................................................................................................. 52
4. Đôi tay tin cậy ..................................................................................................................... 65
5. Vị thanh tra tài chính ........................................................................................................... 82
6. Những thống chế tiền tệ...................................................................................................... 96


Phần II.
SAU TRẬN ĐẠI HỒNG THỦY 1919 - 1923
7.
Những cảm hứng ₫iên rồ ....................................................................................................124
8. Chú Shylock ........................................................................................................................160
9. Di sản man rợ .....................................................................................................................189

NHỮNG ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH
- 10 -
Phần III.
GIEO CƠN GIÓ MỚI 1923 - 1928
10.
Cây cầu nối giữa hỗn loạn và hy vọng .............................................................................216
11. Khởi ₫ầu Dawes ................................................................................................................232
12. Vị bộ trưởng vàng.............................................................................................................260
13. Cuộc chiến ................................................................................................................................288
14.
Những ₫ợt gió dữ ₫ầu tiên ...............................................................................................321
15. Một hớp nhỏ whisky......................................................................................................... 346

Phần IV.
MỘT CƠN BÃO KHÁC 1928 — 1933

16.
Lao vào cơn lốc................................................................................................................. 364
17. Quét sạch sự sa ₫ọa..........................................................................................................407
18. Trục trặc ₫ộng cơ ............................................................................................................. 436
19. Khẩu pháo hỏng trên mặt trận .......................................................................................456
20. Những cái cùm vàng......................................................................................................... 486


Phần V.
KẾT CỤC 1933 — 1934
21.
Bản vị vàng trong cơn say.................................................................................................517
22. Đoàn người vẫn ₫i............................................................................................................544
23. Lời kết ............................................................................................................................. 564
Chuyển ₫ổi các giá trị tiền ......................................................................................................573

Lời tựa
- 11 -

Montagu Norman trên tàu Duchess of York, ngày 15/8/1931

NHỮNG ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH
- 12 -
Giới thiệu
- 13 -

GIỚI THIỆU

gày 15/08/1931, một thông cáo báo chí được đăng tải: “Thống
đốc Ngân hàng Trung ương Anh quốc bị ốm nhẹ do phải gánh

chịu nhiều áp lực nặng nề trong những tháng vừa qua. Theo
lời khuyên của bác sĩ, ông đã tạm gác lại công việc và đi nghỉ ở nước
ngoài để thay đổi không khí.” Vị thống đốc đó là Montagu Collet
Norman, D.S.O – không như mọi người vẫn lầm tưởng, ông đã nhiều
lần từ chối vinh h
ạnh được phong tước, vậy nên, ông chẳng phải là Hầu
tước Montagu Norman hay Huân tước Norman gì hết. Dẫu vậy, ông vẫn
tự hào được mang mấy chữ D.S.O sau tên mình – Distinguished Service
Order – Huân chương Công trạng Xuất sắc, huân chương cao quý thứ
nhì của quân đội trao thưởng cho một quân nhân vì lòng dũng cảm
vượt bậc.
Norman vốn chán ghét báo giới đến tận cổ và nổi tiếng vì những gì ông
sẵn sàng làm để thoát khỏi con mắt tọc mạch của các phóng viên – đ
i du
lịch bằng tên giả; nhảy xe lửa; thậm chí trong một lần, ông còn trèo qua
thành một chiếc tàu biển trên thang dây giữa lúc sóng to gió lớn. Tuy
nhiên, trong dịp này, khi chuẩn bị lên con tàu
Duchess of York
để tới
Canada, ông đã bày tỏ một thái độ cởi mở đến không ngờ. Với năng lực nói
năng tuyệt khéo được trời phú cho những con người thuộc tầng lớp của
ông và những người sinh ra ở nước Anh, ông tuyên bố với các phóng viên
đang bu kín trên cảng rằng, “Tôi cảm thấy mình cần nghỉ ngơi chút ít bởi
thời gian qua tôi đã gặp nhiều chuyện căng thẳng. Do sức khỏe vẫn ch
ưa
được hồi phục hoàn toàn nên tôi nghĩ một chuyến du lịch trên con tàu
xinh đẹp này sẽ tốt cho mình.”
N
NHỮNG ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH
- 14 -

Thể trạng tinh thần mong manh của ông đã không còn là một bí mật
trong giới tài chính suốt một thời gian khá dài. Chỉ một số ít dân ngoại đạo
biết được sự thật bên trong – rằng trong hai tuần qua, khi cuộc khủng
hoảng tài chính thế giới đã lên đến đỉnh điểm và hệ thống ngân hàng châu
Âu đứng trên bờ vực sụp đổ, vị thống đốc này đã bị suy nhược thần kinh
trầm trọ
ng do phải hứng chịu vô vàn áp lực nặng nề. Thông cáo báo chí
của Ngân hàng Anh quốc, được đăng tải ở khắp các tờ báo từ San
Francisco cho tới Thượng Hải, đã gây nên cú sốc lớn đối với nhà đầu tư
trên toàn thế giới.
Bao nhiêu năm trời đã trôi đi kể từ ngày những sự kiện trên diễn ra, giờ
đây thật khó để có thể hình dung nổi quyền lực và danh tiếng của Montagu
Norman lớ
n lao đến mức nào vào giai đoạn giữa hai cuộc chiến tranh, cái
tên của ông ngày nay chỉ còn vọng lại rất ít tiếng vang. Nhưng vào thời đó,
ông được coi là vị thống đốc ngân hàng Trung ương có tầm ảnh hưởng sâu
rộng nhất thế giới, nói như tờ
New York Times
, là “vị chúa tể của [một] đế
chế vô hình.” Đối với Jean Monet, ông trùm của Liên minh châu Âu, Ngân
hàng Trung ương Anh quốc khi ấy là “thành trì của những thành trì” và
“Montagu Norman là người cai trị thành trì đó. Ông là người đáng được
kính nể.”
Trong suốt thập kỷ vừa qua, Norman và các thống đốc đứng đầu ba
ngân hàng Trung ương lớn khác đã là một phần của thứ được báo chí
phong là “câu lạc bộ độc nhất vô nhị trên thế giới.” Norman, Benjamin
Strong thuộc Ngân hàng Dự tr
ữ Liên bang New York (New York Feral
Reserve Bank), Hjalmar Schacht thuộc Ngân hàng Trung ương Đức
(Reichsbank), và Émile Moreau thuộc Ngân hàng Trung ương Pháp

(Banque de France) đã hợp thành bộ tứ bốn thống đốc ngân hàng Trung
ương đảm nhận sứ mệnh tái thiết guồng máy tài chính thế giới sau Chiến
tranh Thế giới thứ Nhất.
Song đến giữa năm 1931, chỉ còn Norman là thành viên duy nhất của bộ
tứ trụ lại. Strong đã mất năm 1928 ở tuổi 55, Moreau nghỉ hưu năm 1930,
và Schacht từ chức n
ăm 1930 do xung đột với bộ máy chính phủ và quay
sang ve vuốt Adolf Hitler và đảng Đức Quốc xã. Do vậy trọng trách lãnh
đạo thế giới tài chính đã được đặt trọn lên vai người đàn ông Anh quốc
Giới thiệu
- 15 -
tính tình màu mè nhưng bí ẩn này, con người có nụ cười “tinh nghịch,”
phong thái hư hư thực thực đầy chất kịch, với bộ râu của Van Dyke
1
, và
trang phục kín đáo: chiếc mũ rộng vành, tấm áo choàng dài, và chiếc kim
cài cà vạt bằng ngọc lục bảo lấp lánh.
Đối với vị thống đốc ngân hàng quyền lực nhất thế giới thì việc bị suy
nhược thần kinh trong khi nền kinh tế toàn cầu đang phải trải qua năm
thứ hai của một cuộc suy thoái chưa từng có tiền lệ trước đó quả là một
điều b
ất hạnh thật sự. Nền sản xuất ở hầu hết các quốc gia đều đã sụp đổ -
ở hai quốc gia bị thiệt hại nặng nề nhất, Mỹ và Đức, quy mô sản xuất đã
thu hẹp tới 40%. Các nhà máy trên khắp thế giới công nghiệp - từ những
xưởng lắp ráp ô tô tại Detroit cho đến những xưởng thép ở Ruhr, từ những
xưởng dệt lụa ở Lyons cho
đến những xưởng đóng tàu ở Tyneside - đều
đóng cửa im ỉm, nếu không thì cũng chỉ hoạt động cầm chừng. Đứng trước
mức cầu sụt giảm, các doanh nghiệp đã phải cắt giảm giá thành sản phẩm
tới 25% tính từ thời điểm kinh tế bắt đầu suy thoái.

Những đội quân thất nghiệp vất vưởng khắp hang cùng ngõ hẻm ở các
thị trấn và thành phố
của các nước công nghiệp. Tại Mỹ, nền kinh tế lớn
nhất thế giới, khoảng 8 triệu đàn ông và phụ nữ, tương đương với 15% lực
lượng lao động, đã mất việc làm. 2,5 triệu người ở Anh và 5 triệu người ở
Đức, hai nền kinh tế lớn thứ nhì và thứ ba thế giới, cũng đành đứng vào
hàng ngũ những người thất nghiệp. Trong số bố
n đầu tàu kinh tế lớn, chỉ
có Pháp là có vẻ được bảo vệ phần nào khỏi sự tàn phá từ cơn bão đang
hoành hành khắp thế giới, song đến giờ ngay cả nền kinh tế này cũng đã
bắt đầu chứng kiến sự sụt giảm.
Những tốp thanh niên và đàn ông thất nghiệp không có việc gì để làm
ngày ngày vật vờ lê la ở khắp các góc phố, trong công viên, quán bar và
tiệm cà phê. Càng ngày càng có nhiều người rơi vào c
ảnh ăn không ngồi
rồi, do đó chẳng còn đủ tiền để trang trải cho một chỗ ở dù khiêm tốn
nhất, kết quả là những khu ổ chuột tồi tàn được xây cất cẩu thả từ kiện

1
Tên gọi khác của Anthony van Dyck (1599 – 1641) là một họa sĩ Hà Lan thời kỳ Baroque. Van
Dyck trở thành họa sĩ cho triều đình Anh và nổi tiếng với những bức chân dung vua Charles I
cùng hoàng gia. Phong cách của ông đã ảnh hưởng nhiều tới những họa sĩ vẽ chân dung người
Anh những thế hệ tiếp theo.
NHỮNG ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH
- 16 -
đóng hàng, sắt vụn, thùng đựng dầu nhờn, vải nhựa, và thậm chí cả vỏ xe
hơi mọc lên nhan nhản ở các thành phố như New York và Chicago – ngay
giữa công viên Trung tâm cũng có hẳn một khu trại như thế. Các khu nhà
tạm tương tự cũng rải rác khắp ngoại ô Berlin, Hamburg, và Dresden. Ở
Mỹ, hàng triệu người lang thang đã rời bỏ bầu không khí ảm đạm của

nghèo đói đang bủa vây các thành phố để lên đường hòng tìm ki
ếm một
loại – bất kỳ loại – công việc nào.
Thất nghiệp dẫn đến bạo lực và nổi loạn. Ở Mỹ, những cuộc cướp bóc
lương thực, thực phẩm xảy ra như cơm bữa ở Arkansas, Oklahoma, và
khắp các bang ở miền Trung và Tây Nam. Ở Anh, công nhân mỏ tổ chức
biểu tình, rồi đến công nhân xưởng bông và các thợ dệt. Berlin gần như rơi
vào tình trạng nội chiế
n. Trong suốt các cuộc bầu cử vào tháng Chín 1930,
đảng Đức Quốc xã, lợi dụng sự sợ hãi và chán nản cùng cực của dân thất
nghiệp và chiêu bài buộc tội tất cả những lực lượng khác – từ quân Đồng
minh đến những người cộng sản và dân Do Thái – vì đã gây ra bao đau
khổ cho nước Đức, đã giành được gần 6,5 triệu phiếu bầu, nhờ đó tăng số
ghế của đảng này trong Qu
ốc hội Đức từ 12 lên 107 ghế và đưa nó thành
đảng phái lớn thứ hai góp mặt tại Quốc hội sau đảng Dân chủ Xã hội.
Trong khi đó trên các đường phố, các nhóm người theo đảng Đức Quốc xã
và các nhóm người cộng sản đụng độ, xô xát với nhau hàng ngày. Còn ở
Bồ Đào Nha, Brazil, Argentina, Peru và Tây Ban Nha, đảo chính là tình
trạng phổ biến.
Mối đe dọa kinh tế lớn nhất hiện nay đến từ hệ thống ngân hàng đ
ang
sụp đổ. Tháng Chín năm 1930, Bank of United States (dù mang tên như
vậy song đây là một ngân hàng tư nhân không có vị thế chính thức nào)
sụp đổ, trở thành vụ phá sản ngân hàng lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ,
làm đóng băng khoảng 200 triệu đô-la trong các tài khoản tiền gửi.
Tháng Năm năm 1931, ngân hàng lớn nhất nước Áo, Creditanstalt, ngạc
nhiên thay, chính là sở hữu của gia tộc Rothschild, với giá trị tài sản lên
tới 250 triệu đô-la, cũ
ng đành đóng cửa. Ngày 20 tháng Sáu, tổng thống

Herbert Hoover công bố lệnh tạm hoãn trả tất cả các khoản nợ và khoản
bồi thường chiến phí phát sinh từ cuộc chiến tranh vừa qua trong vòng
một năm. Vào tháng Bảy, Danatbank, ngân hàng lớn thứ ba ở Đức, gục
ngã, gây hoảng loạn trên toàn bộ hệ thống ngân hàng Đức và khiến dòng
Giới thiệu
- 17 -
vốn ào ạt rời bỏ đất nước này. Thủ tướng Đức, Heinrich Bruning, bèn ra
tuyên bố về ngày các ngân hàng đóng cửa, trong đó giới hạn số tiền mỗi
công dân Đức có thể rút khỏi tài khoản ngân hàng của mình, và tạm
ngừng thanh toán các khoản nợ nước ngoài ngắn hạn. Chỉ cuối tháng đó,
khủng hoảng đã lan đến tận London, chủ nợ cực lớn của Đức; giờ đây,
London bàng hoàng nhậ
n ra rằng việc thu nợ lúc này đã trở thành bất
khả thi. Đột nhiên phải đối mặt với một cảnh huống chưa từng lường
được trước đó rằng nước Anh sẽ không còn khả năng hoàn thành nghĩa
vụ của mình, các nhà đầu tư trên khắp thế giới bắt đầu đổ xô đi rút vốn
khỏi London. Ngân hàng Trung ương Anh quốc buộc phải vay tới 650
triệu đô-la từ các ngân hàng
ở Pháp và Mỹ, bao gồm cả Ngân hàng Trung
ương Pháp và Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York, để tránh làm cạn
kiệt kho dự trữ vàng của mình.
Khi dòng người thất nghiệp ngày càng dài thêm, các nhà băng đóng
cửa, giá các nông trại liên tục tụt dốc, và các nhà máy bị bỏ hoang, người ta
bắt đầu bàn tán về ngày tận thế. Ngày 22 tháng Sáu, nhà kinh tế học danh
tiếng John Maynard Keynes đã phát biểu trước các khán giả Chicago rằng,
“Ngày hôm nay chúng ta đang sống giữa thảm họa khủng khiếp nhất củ
a
thế giới hiện đại – thảm họa khủng khiếp nhất hoàn toàn bắt nguồn từ các
nguyên nhân kinh tế. Có người đã nói với tôi rằng ở Moscow người ta xem
đây như là cuộc khủng hoảng đỉnh điểm cuối cùng của chủ nghĩa tư bản,

và rằng trật tự xã hội hiện thời của chúng ta sẽ không thể tồn tại qua giai
đoạn này.” Nhà sử học Arnold Toynbee, ngườ
i có kiến thức sâu sắc về sự
thịnh suy của các nền văn minh, đã viết trong bài bình luận thường niên về
các sự kiện trong năm cho Học viện Hoàng gia về sự vụ quốc tế như sau,
“Vào năm 1931, đàn ông và phụ nữ trên khắp thế giới đã suy ngẫm nghiêm
túc và bàn luận thẳng thắn rằng hệ thống xã hội phương Tây có thể sẽ sụp
đổ và ngừng hoạt
động.”
Suốt mùa hè năm ấy, một lá thư được Montagu Norman viết từ vài
tháng trước đó để gửi đến vị đồng nghiệp của ông tại Ngân hàng Trung
ương Pháp là Clément Moret, đã được đăng tải trên mặt báo. “Trừ phi có
sự can thiệp của những biện pháp cứu nguy quyết liệt, bằng không hệ
thống tư bản trên khắp thế giới văn minh sẽ đổ vỡ chỉ trong một nă
m,”
Norman tuyên bố, đế thêm chất giọng cay độc ông “ưu ái” dành riêng cho
NHỮNG ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH
- 18 -
người Pháp, “Tôi mong rằng lời tiên đoán này sẽ được lưu lại để phục vụ
công tác khảo cứu trong tương lai.” Người ta còn đồn đại rằng trước ngày
lên đường sang Canada nghỉ dưỡng, ông đã đề xuất việc in sổ lương thực
trong trường hợp đất nước phải quay về với nền kinh tế hàng đổi hàng do
tác động từ sự sụp đổ tiền tệ trên khắp châu Âu.
Trong nhữ
ng thời điểm khủng hoảng, các thống đốc ngân hàng Trung
ương đều tin rằng việc làm khôn ngoan hơn cả là tuân theo lời răn mà các
bà mẹ vẫn khuyên bảo con cái mình suốt bao thế kỷ qua: “Biết thì thưa
thốt, không biết thì dựa cột mà nghe.” Cách làm này giúp tránh được tình
thế tiến thoái lưỡng nan xảy ra như cơm bữa với các viên chức ngành tài
chính đang phải ứng phó với trạng thái hoảng sợ - họ có thể đưa ra những

tuyên bố chính thức thành thật hết mức và rồi châm ngòi cho bạo động,
nhiễu loạn, hoặc có thể cố gắng xoa dịu công chúng, song phương pháp
này lại thường phải viện đến những lời dối trá trắng trợn. Vậy nên khi một
người đứng ở vị trí của Norman lại sẵn lòng nói trắng ra về nguy cơ sụp đổ
của nền văn minh phương Tây, thì đó là một sự đánh
động quá ư rõ ràng
và ầm ĩ, rằng đứng trước “cơn bão kinh tế,” các nhà lãnh đạo của giới tiền
tệ đã cạn kiệt ý tưởng và đang sẵn sàng thừa nhận thất bại.
Norman không chỉ là vị thống đốc ngân hàng lỗi lạc nhất thế giới, ông
còn được giới tài chính và chức sắc thuộc mọi đảng phái, hội nhóm chính
trị tôn thờ như một nhân vật cực kỳ cá tính và s
ắc sảo. Chẳng hạn, bên
trong thành trì của liên minh tài phiệt House of Morgan, không có lời
khuyên hoặc ý kiến của ai lại được trân trọng hơn – hội viên cao cấp của
hãng này, Thomas Lamont, sau này đã xưng tụng ông là “người thông
thái nhất mà ông ta từng gặp.” Ở bên kia chiến tuyến chính trị, Bộ trưởng
Tài chính Anh, Philip Snowden, một nhân vật ủng hộ phe Xã hội bằng tất
cả tấm lòng nhiệt thành vẫn thường xuyên dự báo về sự sụp đổ củ
a chủ
nghĩa tư bản, cũng vồn vã viết rằng Norman “dường như vừa bước ra từ
bức chân dung vẽ một viên cận thần đẹp trai nhất từng mê hoặc cả triều
đình của Nữ hoàng,” rằng “sự cảm thông ông dành cho những nỗi đau
mà đất nước phải hứng chịu thật dịu dàng trìu mến, khác nào tình mẹ
với con thơ,” và rằng ông “có thừa lòng tự tin giúp khơi g
ợi niềm hứng
khởi, vượt xa mọi thước đo thông thường.”
Giới thiệu
- 19 -
Norman đã gây dựng được danh tiếng là một người có đầu óc sáng suốt
trên cả lĩnh vực kinh tế và tài chính nhờ sự đúng đắn rất mực trong quan

điểm của ông về nhiều vấn đề. Kể từ ngày chiến tranh kết thúc, ông đã
luôn là người kịch liệt phản đối việc đo đếm chi li từng khoản bồi thường
chiến tranh mà nước Đức phải trả. Trong suốt nhữ
ng năm 1920, ông còn
liên tục báo động rằng thế giới đang thiếu hụt nguồn dữ trự vàng. Và từ
những ngày đầu tiên, ông cũng đã bày tỏ lo ngại về hiểm hoạ từ bong bóng
thị trường chứng khoán ở Mỹ.
Song vẫn có một vài tiếng nói đơn lẻ khăng khăng cho rằng chính ông
và các chính sách mà ông theo đuổi, nhất là niềm tin cứng nhắc, gần như
mang màu sắc thần học c
ủa ông về những lợi ích của chế độ bản vị vàng, là
nguyên nhân dẫn đến thảm họa kinh tế đang tàn phá phương Tây. Một
trong số những con người kể trên là John Maynard Keynes. Một người
khác nữa là Winston Churchill. Chỉ một vài ngày trước khi Norman lên
đường sang Canada trong chuyến nghỉ bất đắc dĩ, Churchill, người đã mất
gần hết số tiền tiết kiệm trong vụ sụp đổ Phố Wall hai năm về trướ
c, đã
viết thư từ Biarritz gửi cho người bạn đồng thời là cựu thư ký của mình,
Eddie Marsh, như sau, “Tất cả những người tôi gặp dường như đều lờ mờ
cảm thấy có điều gì đó khủng khiếp sắp xảy ra trên thị trường tài chính...
Nếu điều này trở thành sự thật, tôi hy vọng chúng ta sẽ treo cổ gã Montagu
Norman lên ngay tức khắc. Chắc chắn tôi sẽ
tố cáo y chính là kẻ đồng loã
với mình.”
SỰ SỤP ĐỔ của nền kinh tế thế giới kéo dài từ năm 1929 đến năm 1931
- ngày nay chỉ được gọi bằng cái tên ngắn gọn Cuộc Đại suy thoái - là sự
kiện kinh tế có ảnh hưởng sâu sắc nhất trong thế kỷ XX. Không có đất
nước nào thoát khỏi nanh vuốt của nó; trong suốt hơn mười năm ròng,
tình trạng bất ổn mà nó gây ra từ những ngày kh
ởi đầu đã bao trùm khắp

thế giới, hủy hoại mọi phương diện của đời sống vật chất và xã hội và phá
nát tương lai của cả một thế hệ. Cũng chính từ nó mà sinh ra cảnh hỗn
loạn ở châu Âu trong suốt “thập kỷ tha hoá suy tàn” thuộc những năm
1930, dẫn đến sự lên ngôi của Hitler và chủ nghĩa phát xít Đức, và kết cục
bằng bi kịch toàn cầu chìm vào Chiến tranh Th
ế giới thứ Hai, một cuộc
chiến tranh thậm chí còn đau thương đẫm máu hơn cả Chiến tranh Thế
giới thứ Nhất.
NHỮNG ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH
- 20 -
Câu chuyện về quá trình tụt dốc từ sự phát triển bùng nổ vào những
năm 20 của thế kỷ cho tới cuộc Đại suy thoái có thể được kể theo muôn
vàn phương thức khác nhau. Trong khuôn khổ cuốn sách này, tôi đã chọn
cách nhìn từ vị thế những người nắm trọng trách vận hành bốn ngân
hàng Trung ương lớn nhất thế giới: Ngân hàng Trung ương Anh quốc, Hệ
thống Dự trữ Liên bang, Ngân hàng Trung ương Đức, và Ngân hàng
Trung
ương Pháp.
Khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất kết thúc vào năm 1918, một trong
số những đối tượng bị tổn hại nặng nề nhất do hậu quả của cuộc chiến
chính là hệ thống tài chính thế giới. Trong suốt nửa cuối thế kỷ XIX, một
guồng máy tài chính quốc tế tinh vi, đầu não đặt tại Thành phố London,
đã được xây dựng trên nền tảng chế độ bả
n vị vàng và đem theo nó là sự
tăng trưởng rõ rệt của thương mại và của cải trên toàn cầu. Ở thời điểm
năm 1919, cỗ máy đó chỉ còn nằm đắp chiếu. Cả Anh, Pháp, và Đức đều
tiến gần sát đến bờ vực phá sản, nền kinh tế của các nước này phải oằn
mình gánh những khoản nợ khổng lồ, dân chúng rơi vào cảnh nghèo đói
cùng cực do giá cả
tăng vọt, đồng tiền mất giá. Sau chiến tranh, chỉ có

nước Mỹ trỗi dậy với sức mạnh kinh tế ngày càng dồi dào hơn.
Thời ấy các chính phủ đều tin rằng tốt hơn hết là giao các vấn đề tài
chính cho các thống đốc ngân hàng Trung ương giải quyết; do vậy sứ mệnh
khôi phục nền tài chính thế giới đã rơi vào tay của bốn ngân hàng Trung
ương thuộc bốn đất nước v
ới tiềm lực khả dĩ nhất: Anh, Pháp, Đức và Mỹ.
Cuốn sách này sẽ lần lại những nỗ lực của các thống đốc ngân hàng
Trung ương kể trên nhằm tái thiết hệ thống tài chính thế giới sau Chiến
tranh Thế giới thứ nhất. Nó mô tả làm thế nào mà chỉ trong một giai đoạn
ngắn ngủi giữa thập kỷ 1920, cố gắng của họ đã tỏ ra có kế
t quả: tiền tệ thế
giới đã được bình ổn, dòng vốn bắt đầu luân chuyển tự do khắp toàn cầu, và
tăng trưởng kinh tế hồi phục trở lại. Nhưng ẩn bên dưới cái vỏ ngoài thịnh
vượng của các thành phố giàu có, những vết rạn nứt bắt đầu xuất hiện
trong chế độ bản vị vàng, thứ được mọi người tin tưởng sẽ là chi
ếc ô che chở
cho trạng thái ổn định hóa ra chỉ là một manh áo bó chật ních. Những
chương cuối cùng của cuốn sách sẽ mô tả những nỗ lực gắng gượng điên
cuồng và vô ích sau chót của các thống đốc ngân hàng Trung ương khi họ
Giới thiệu
- 21 -
vật lộn để kéo nền kinh tế thế giới khỏi trượt sâu vào vòng xoáy sụt giảm
của cuộc Đại suy thoái.
Những năm 1920 là thời đại mà các thống đốc ngân hàng Trung ương
được đặt vào tay quyền lực khổng lồ và uy tín to lớn, rất giống ngày nay.
Đặc biệt là bốn nhân vật thống trị hoàn toàn câu chuyện này: tại Ngân
hàng Trung ương Anh quốc là một Montagu Norman bí ẩn và dễ bị kích
động; tại Ngân hàng Trung ương Pháp là một Émile Moreau, đầ
u óc sặc
mùi bài ngoại và hoài nghi; tại Ngân hàng Trung ương Đức là một

Hjalmar Schacht cứng nhắc và kiêu ngạo song hết sức thông thái và khôn
ngoan; và cuối cùng, tại Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York, một
Benjamin Strong với chiếc mặt nạ của nhiệt huyết và nghị lực nhằm che
giấu một con người bị tổn thương sâu sắc và đang phải gánh những gánh
nặng quá sức.
Bốn nhân vật kể trên đã đứng ở trung tâm các sự kiện trong phầ
n lớn
thời gian của thập kỷ đó. Cuộc đời và sự nghiệp của họ mang lại một ô cửa
sổ độc nhất vô nhị để người ta có thể soi vào giai đoạn này của lịch sử kinh
tế, giúp hội tụ thời kỳ lịch sử phức tạp của những năm 1920 – toàn bộ câu
chuyện đau thương và cay đắng về nền hòa bình bị sụp
đổ, về những món
nợ và khoản bồi thường chiến tranh, về siêu lạm phát, về những quãng
thời gian khốn khó ở châu Âu và sự phồn vinh ở Mỹ, về quá trình phát
triển bùng nổ nối tiếp đó bằng một đợt vỡ bung – xuống một quy mô nhỏ
hơn, ở một tầm nhân văn, gần gũi hơn.
Mỗi người trong số đó lại rọi ánh sáng soi tỏ tinh thần dân t
ộc ở thời
mình sống theo một cách riêng. Montagu Norman, với niềm tin tưởng
đậm chất hiệp sĩ viển vông ông dành cho trực giác bất toàn của mình, khắc
họa một nước Anh vẫn còn chìm đắm trong thời quá vãng xa xưa, chưa thể
tự điều chỉnh để thích ứng với một vị thế mới, thấp kém hơn, trên trường
quốc tế. Émile Moreau, bằng đầu óc hẹp hòi và thù dai, phản ánh chính
xác một nước Pháp ch
ỉ biết thu mình lại để tự liếm láp những vết thương rỉ
máu do chiến tranh gây ra. Benjamin Strong, người đàn ông hành động,
đại diện cho một thế hệ mới ở nước Mỹ, chủ động dự phần vào việc mang
tất cả sức mạnh tài chính của đất nước ra hòng gánh vác công việc chung
của thế giới. Chỉ có Hjalmar Schacht, với tính tình ngạo mạn khó chịu, tỏ
NHỮNG ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH

- 22 -
ra lệch tông so với một nước Đức thất trận yếu đuối mà ông là người đại
diện, song có lẽ ông cũng chỉ đơn thuần bộc lộ một sự thật được giấu kín
về tâm trạng thực của đất nước này đang ẩn sâu bên trong mà thôi.
Còn có gì đó thật chua xót trong sự đối nghịch giữa quyền lực mà bốn
người đàn ông này đã từng thâu tóm và thực tế r
ằng họ đã gần như biến
mất hoàn toàn khỏi những trang sử. Một thời được báo chí xưng tụng như
“Câu lạc bộ độc nhất vô nhị trên thế giới,” bốn cái tên đã từng vang dội đến
thế, bị vùi lấp dưới đống gạch vụn của thời gian, giờ đã không còn chút ý
nghĩa nào đối với mọi người.
Thập kỷ 1920 là quãng thời gian của s
ự chuyển đổi. Tấm màn hạ xuống
báo hiệu một thời đại đã khép lại và một thời đại mới đã mở ra. Các ngân
hàng Trung ương vẫn còn thuộc sở hữu tư nhân, mục tiêu chủ chốt của họ
là bảo toàn giá trị tiền tệ và dập tắt những cuộc hoảng loạn liên quan đến
hệ thống ngân hàng. Họ mới chỉ bắt đầu nghiêng theo ý niệm rằ
ng chính
họ là lực lượng nắm giữ trọng trách bình ổn nền kinh tế.
Trong suốt thế kỷ XIX, các thống đốc của Ngân hàng Trung ương Anh
quốc và Ngân hàng Trung ương Pháp là những nhân vật đứng trong bóng
tối, nổi danh trong giới tài chính song lại gần như vô hình trong con mắt
người đời. Trái lại, vào thập kỷ 1920, cũng khá giống thời nay, thống đốc
các ngân hàng Trung ương trở thành tâm điểm chú ý của công luận.
Những lời đồ
n đại về các quyết sách và cuộc họp kín của họ đăng nhan
nhản trên các tờ nhật báo trong khi họ phải đối mặt với vô vàn sự vụ và
vấn đề kinh tế khá giống với những gì mà những người kế tục họ đang phải
giải quyết ngày nay: biến động trên các thị trường chứng khoán, đồng tiền
bất ổn, và các dòng vốn ồ ạt chảy từ một trung tâm tài chính này sang m

ột
trung tâm tài chính khác.
Tuy nhiên, họ phải làm việc theo những kiểu cách lạc hậu, với sự trợ giúp
của những công cụ còn rất thô sơ và các nguồn tin mà mình có sẵn. Các số
liệu thống kê kinh tế mới chỉ bước đầu được thu thập. Các thống đốc liên lạc
với nhau qua thư từ – vào cái thời mà một lá thư phải mất đến một tuần để
đi từ New York sang London – hoặc, trong những tình huống
đặc biệt khẩn
cấp, là điện tín. Chỉ đến những giai đoạn cuối của tấn bi kịch, họ mới bắt
đầu được liên lạc qua điện thoại, song cũng gặp không ít khó khăn.
Giới thiệu
- 23 -
Nhịp độ cuộc sống thời đó cũng rất khác. Chưa có ai bay từ thành phố
này qua thành phố khác. Đó là thời hoàng kim của giao thông đường biển,
một chuyến tàu vượt Đại Tây Dương đi mất năm ngày, và người ta đi du
lịch mang theo cả đầy tớ, cũng như một bộ cánh dành riêng cho các buổi
tiệc tối là yêu cầu bắt buộc trước khi tham dự bữa ăn. Đó là thời đại mà
Benjamin Strong, người đứng đầu Ngân hàng Dự trữ Liên bang New York,
có thể biến sang châu Âu trong suốt bốn tháng ròng mà chẳng khiến mấy
người phải nhíu mày – ông sẽ vượt Đại Tây Dương vào tháng Năm, rồi
dành cả mùa hè đi lại giữa thủ đô các nước châu Âu để hội kiến với các
đồng nghiệp của mình, thỉnh thoảng lại dừng chân ở các khu nghỉ dưỡng
hay suối nước khoáng xinh đẹp để xả hơi, và cuối cùng
đến tháng Chín thì
quay về New York.
Họ sống trong lòng một thế giới vừa mang tính quốc tế lại vừa đậm chất
địa phương chủ nghĩa đến kỳ quặc. Đó là một xã hội mà ở đó, những
khuôn mẫu chủng tộc và quốc gia được thừa nhận như những thực tế thay
vì bị coi là định kiến, một thế giới trong đó Jack Morgan, con trai của ngài
Pierpont Morgan oai hùng, có thể từ ch

ối dự phần vào một khoản vay
dành cho nước Đức dựa trên luận điểm người Đức là “thứ dân hạng hai”
hoặc phản đối việc bầu người Do Thái hoặc người Thiên Chúa giáo vào Ủy
ban Giám thị Harvard vì “một gã Do Thái thì trước nhất là một người
Do Thái, thứ nhì mới là người Mỹ, còn một kẻ theo Thiên Chúa giáo
La Mã, tôi e rằng, thường sắm vai con chiên xong rồi mới sắm đến vai
người Mỹ.” Trên lĩnh vực tài chính, trong suố
t quãng thời gian từ cuối thế
kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX, dù ở London hay New York, Berlin hay Paris,
đều có một sự phân chia rành rõ. Một bên là các hãng ngân hàng của dân
Anglo-Saxon: J.P. Morgan, Brown Brothers, Barings; bên kia là các hãng
ngân hàng có dính dáng tới dân Do Thái: bốn chi nhánh ngân hàng của gia
tộc Rothschild, Lazards, hệ thống ngân hàng Do Thái Đức hùng mạnh của
Warburgs và Kuhn Loeb, và những thành phần không theo phe nào như
Ngài Ernest Cassel. Mặc dù dân Anglo-Saxon theo đạo Tin lành, giống như
nhiều người thời nay, thường ghét dân Semite
2
như xúc đất đổ đi, song hai

2
Người Semite là những người thuộc nhóm các chủng tộc nói tiếng Semitic bao gồm người
Do Thái, người A Rập, người Aramean, người Cathaginia, người Ethiopia và người Phoenicia.
NHỮNG ÔNG TRÙM TÀI CHÍNH
- 24 -
lực lượng này vẫn đối đãi nhau bằng một lòng tôn trọng dè dặt. Nói gì thì
nói, giới này cũng toàn những nhà trưởng giả coi khinh giới con buôn như
rơm như rác. Đó là một xã hội có thể trở nên thiển cận và tự mãn, thờ ơ
với những vấn đề như thất nghiệp và nghèo đói. Chỉ ở Đức – và đó cũng là
một phần trong câu chuyện của chúng ta – thì những dòng chảy định ki
ến

ngầm này mới thực sự trở nên méo mó, độc ác.
Khi tôi bắt tay vào viết về bốn thống đốc ngân hàng Trung ương nói
trên và vai trò của từng người trong quá trình uốn nắn thế giới đi trên con
đường dẫn đến cuộc Đại khủng hoảng, có một nhân vật khác liên tục xuất
hiện, gần như xen vào giữa câu chuyện của chúng ta: đó là John Maynard
Keynes, nhà kinh tế học lỗi lạc nhất thuộc thế hệ c
ủa mình, mặc dù khi
xuất hiện lần đầu vào năm 1919, ông chỉ mới ba mươi sáu tuổi. Khi từng
cảnh huống của tấn bi kịch dần dần phơi bày đầy đau đớn, ông từ chối giữ
im lặng, khăng khăng đòi sắm chí ít là một vai độc thoại dù rằng phải diễn
bên ngoài sân khấu. Không giống như những người khác, ông không phải
người được quyền ra quyết định. Trong su
ốt những năm tháng đó, ông chỉ
đơn thuần là một quan sát viên độc lập, một bình luận viên. Song tại mỗi
bước ngoặt của kịch bản, ông luôn đứng đó, thập thò nơi cánh gà, với trí
thông minh đậm tính hài hước và bất kính, tư duy minh bạch và luôn luôn
hoài nghi, và trên tất cả là năng lực suy nghĩ đúng đắn đáng kinh ngạc.
Keynes tỏ ra là một đối trọng hữu ích để cân bằng lại với bốn vị
thống
đốc kia trong câu chuyện sắp tới của chúng ta. Họ đều là những vị chúa tể
vĩ đại trong giới tài chính, những người cầm cân nảy mực của các lề thói
chính thống, thứ dường như đã cầm tù chính họ. Trái lại, Keynes là một kẻ
tính tình cay độc, một giảng viên trường Đại học Cambridge, một triệu
phú tay trắng làm nên, một chủ bút, một nhà báo và là một tác giả ăn
khách, người đ
ã vượt thoát sự đồng thuận cứng nhắc có thể dẫn đến
những thảm hoạ tương tự. Mặc dù tuổi đời chỉ kém bốn vị tai to mặt lớn
nói trên có một thập kỷ, song có lẽ ông đã sinh ra trong một thế hệ hoàn
toàn khác biệt.
ĐỂ HIỂU ĐƯỢC vai trò của các thống đốc ngân hàng Trung ương trong

suốt cuộc Đại khủng hoảng, việc cần làm trước nhất là hiểu
được thế nào
là một ngân hàng Trung ương và trang bị thêm một chút kiến thức về
Giới thiệu
- 25 -
phương thức vận hành của nó. Các ngân hàng Trung ương là những tổ
chức tài chính cực kỳ bí ẩn, chi tiết đầy đủ về các hoạt động bên trong lòng
những tổ chức này tinh vi bí hiểm tới mức rất ít người ngoài, ngay cả các
nhà kinh tế học, có thể hiểu hết được. Nói một cách cô đọng nhất thì ngân
hàng Trung ương là một ngân hàng được trao độc quyền đối với việc phát
hành tiền tệ.
3
Quyền lực đó cho phép ngân hàng Trung ương kiểm soát giá
tín dụng - chính là lãi suất - do đó có thể quyết định lượng tiền luân
chuyển trong nền kinh tế.
Mặc dù đóng vai trò là những tổ chức quốc gia quyết định chính sách
tín dụng của cả đất nước, song ở thời điểm năm 1914, hầu hết các ngân
hàng Trung ương đều thuộc sở hữu tư nhân. Vì vậy các ngân hàng này
chiếm cứ một địa h
ạt phức hợp kỳ dị, về cơ bản nó có nghĩa vụ giải trình
trước các giám đốc, chủ yếu là những người cũng hoạt động trong ngành
ngân hàng, chịu trách nhiệm trả cổ tức cho các cổ đông, nhưng lại được
ban cho những quyền lực tối thượng để phục vụ các mục đích hoàn toàn
phi lợi nhuận. Tuy nhiên, không giống như ngày nay, khi nhiệm vụ của các
ngân hàng Trung ương
được luật pháp quy định rõ là bảo đảm sự bình ổn
giá cả và nỗ lực đạt đến trạng thái toàn dụng nhân công, vào năm 1914,
một mục tiêu tối quan trọng, thực chất là là quan trọng hơn tất thảy, của
các tổ chức này là bảo toàn giá trị tiền tệ.
Ở thời điểm đó, tất cả những đồng tiền chủ chốt đều dựa trên chế độ

bả
n vị vàng, chế độ này “neo chặt” giá trị của một đồng tiền tương ứng với
một lượng vàng nhất định. Ví dụ, đồng bảng, được định nghĩa tương
đương với 113 grain
4
vàng nguyên chất, grain là đơn vị đo khối lượng có
giá trị bằng khối lượng của một hạt điển hình lấy từ đoạn giữa bông lúa mì.
Tương tự như vậy, đồng đô-la được định nghĩa tương đương với 23,22
grain vàng cùng tuổi. Do tất cả các đồng tiền đều được ấn định giá trị theo
vàng, hệ quả tất yếu là giá trị tương
đối giữa các đồng tiền cũng là không

3
Sự độc quyền này không nhất thiết phải là tuyệt đối. Ở Anh, trong khi Ngân hàng Trung ương
Anh được trao độc quyền đối với tiền tệ vào năm 1844, các ngân hàng Scotland vẫn tiếp tục
phát hành tiền tệ và những ngân hàng nào ở Anh đã được hưởng đặc quyền này từ trước cũng
được đặc cách. Những tờ giấy bạc tư nhân cuối cùng ở Anh được các ngân hàng Fox, Fowler
and Company, một ngân hàng Somerset phát hành vào năm 1921.
4
Grain (phiên âm tiếng Việt: Gren) là đơn vị đo khối lượng, 1 grain = 0,0648 gram.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×