Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

SKKN: Phát triển năng lực tự quản của học sinh chủ nhiệm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 22 trang )

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BGH: Ban giám hiệu
GV: giáo viên
GVBM: giáo viên bộ môn
GVCN: giáo viên chủ nhiệm
HS: học sinh
NGLL: ngồi giờ lên lớp
THPT: trung học phổ thơng

1


PHẦN 1. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Về mặt lý luận
Từ lâu, chúng ta đã biết xây dựng lớp học có tính tự quản cần được xem là nội
dung quan trọng trong công tác chủ nhiệm và là đổi mới về phương giáo dục đạo đức
cho HS, công tác giáo dục kỹ năng sống, kỹ năng giao tiếp ứng xử, kỹ năng hợp tác
cho HS. Mục đích của việc làm này nhằm nâng cao tính tự giác trong học tập của HS,
phát huy tính tích cực, chủ động của tất cả HS trong lớp ở từng mảng công việc để làm
tốt từ những công việc nhỏ quen thuộc như dọn dẹp vệ sinh, trang trí lớp học, đến việc
xây dựng nề nếp, học tập, văn nghệ, thể dục thể thao… Đồng thời giúp HS mạnh dạn
tự tin hơn trong các hoạt động, phong trào của trường lớp.
Đối với GVCN, việc xây dựng tập thế lớp đoàn kết, các cá nhân trong lớp biết ý
thức trong các hoạt động của lớp là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng. Một tập thể lớp
đoàn kết sẽ là động lực thúc đẩy mọi hoạt động khác nhất là hoạt động học tập của nhà
trường. Bên cạnh đó khi HS tự quản tốt thì GVCN sẽ có nhiều thời gian để bồi dưỡng
và hồn thành tốt chun mơn của mình.
Hiện nay, đất nước ta đang trong giai đoạn cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa, nhân
tố quyết định thắng lợi của cơng cuộc cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa và hội nhập


quốc tế là con người, vì vậy giáo dục phổ thông trước hết phải bắt đầu từ việc xác định
mục tiêu giáo dục đào tạo những con người có đủ phẩm chất và năng lực để đảm
đương trọng trách trong tương lai. Một thế hệ công dân biết chủ động trong cơng việc,
biết đồn kết với tập thể sẽ góp phần xây dựng đất nước tốt đẹp hơn.
Ngày nay, thanh thiếu niên có những thay đổi trong sự phát triển tâm- sinh lí,
trong bối cảnh hội nhập, mở rộng giao lưu, HS được tiếp nhận nhiều nguồn thông tin
đa dạng, phong phú từ nhiều mặt của cuộc sống, hiểu biết nhiều hơn, linh hoạt và thực
tế hơn so với các thế hệ cùng lứa tuổi trước đây. Trong học tập, HS khơng thoả mãn
với vai trị của người tiếp thu thụ động, không chỉ chấp nhận các giải pháp đã có sẵn
được đưa ra. Như vậy ở lứa tuổi này nảy sinh một yêu cầu và cũng là một quá trình đó
là sự lĩnh hội độc lập các tri thức và phát triển kĩ năng.
Bên cạnh đó do sự phát triển nhanh, mạnh với tốc độ mang tính bùng nổ của khoa
học cơng nghệ địi hỏi người có học vấn hiện đại khơng chỉ có khả năng lấy ra từ trí
nhớ các tri thức dưới dạng có sẵn, đã lĩnh hội ở nhà trường mà cịn phải có năng lực
2


chiếm lĩnh, sử dụng các tri thức mới một cách thông minh, sáng suốt khi gặp trong
cuộc sống, trong lao động và trong quan hệ với mọi người. Giáo dục phải phát triển sự
hứng thú, kĩ năng sống cần thiết cho HS.
1.2. Về mặt thực tiễn
Hiện nay, công tác chủ nhiệm thường chỉ chú tâm vào việc rèn luyện đạo đức
tác phong HS, quá trình học tập cũng như việc thực hiện nội quy, nề nếp của HS mà
không chú ý nhiều đến việc tích lũy kinh nghiệm sống, những kỹ năng làm việc nhóm
hay các kỹ năng mềm khác. Do vậy, một số lớp mặt dù là lớp thi đua xếp thứ hạng cao
trong trường nhưng lại không phải là một tập thể lớp đoàn kết, thống nhất trong các
hoạt động và đặc biệt các em chưa tự giác thực hiện nhiệm vụ được giao nếu GVCN
không đôn đốc nhắc nhở. Như vậy cũng chưa thật sự tốt đối với các em.
Thực tế ở trường THPT Mai Thanh Thế, hàng tuần mỗi lớp sẽ được giao các
nhiệm vụ cụ thể từ Đoàn trường như vệ sinh, trực tuần…, ngoài ra trong lớp cá nhân

các em còn đảm nhận các nhiệm vụ khác nhau trong suốt tuần học. Vì vậy, nếu các em
khơng có ý thức tự giác thực hiện và khơng đồn kết giúp đỡ nhau để hồn thành
nhiệm vụ mà đùn đẩy trách nhiệm cho nhau thì nhiệm vụ sẽ khó hồn thành tốt nếu
GVCN khơng quan tâm đến thậm chí là phải bắt buộc các em phải làm. Khi đó, cơng
tác chủ nhiệm sẽ khó khăn và mệt mỏi hơn rất nhiều nếu GV khơng có giải pháp tốt
hơn.
Với vai trò là một GV đã và đang trực tiếp giảng dạy bộ môn và tham gia làm
công tác chủ nhiệm, tôi luôn mong muốn làm tốt công tác chủ nhiệm và có thêm
những kinh nghiệm quý báu trong lĩnh vực này. Cùng với những trăn trở về thực trạng
HS hiện nay, sau một thời gian thực hiện và đút kết kinh nghiệm tôi xin mạnh dạn thực
hiện sáng kiến kinh nghiệm với đề tài: “Một số giải pháp phát triển năng lực tự quản
của học sinh góp phần xây dựng lớp chủ nhiệm đoàn kết trong giai đoạn hiện nay”
để cùng đồng nghiệp trao đổi học hỏi thêm kinh nghiệm giúp cơng tác chủ nhiệm ngày
càng hồn thiện hơn.
Xuất phát từ những cơ sở lý luận và yêu cầu thực tiễn trên, tôi chọn đề tài:
“Một số giải pháp phát triển năng lực tự quản của học sinh góp phần xây dựng lớp
chủ nhiệm đồn kết trong giai đoạn hiện nay” làm sáng kiến kinh nghiệm của mình
nhằm đóng góp một chút kinh nghiệm cùng đồng nghiệp là GVCN học hỏi trao đổi
làm tốt hơn công tác chủ nhiệm lớp của mình.
3


1.3. Về tính cấp thiết
Năm học này (2019 – 2020), tôi được BGH phân công chủ nhiệm lớp 11T1. Về
mặt bằng chung của trường thì học lực của các em khá tốt và có phần nổi trội hơn so
với các lớp khác trong khối. Tuy nhiên, sau tuần đầu tiên tiếp quản lớp cũng như qua
trao đổi với một số HS trong lớp thì tơi thấy tình hình lớp có một vấn đề rất lớn mà
nếu GVCN không giải quyết thì sẽ rất vất vả trong thời gian sắp tới. Đó là các thành
viên trong lớp thường chơi chung theo nhóm nhỏ, các em thiếu sự đồn kết và khi có
nhiệm vụ gì được phân cơng thì các em hay đùn đẩy nhau mà khơng có sự tự giác thực

hiện. Ví dụ như phân cơng khoảng 5 bạn trực vệ sinh các em sẽ ỷ lại, đùn đẩy nếu
GVCN không trực tiếp phân công và giám sát các em thực hiện. Đây là vấn đề mà một
GVCN trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm như tôi cảm thấy trăn trở và phải thay đổi để có
những giải pháp thích hợp vừa giúp các em có ý thức tốt hơn trong các cơng việc
chung của trường của lớp vừa tạo sự đồn kết thống nhất trong tập thể HS.
Việc xây dựng lớp học tự quản là việc làm cần thiết của bất kì GVCN nào. Vì
GVCN khơng thể làm thay hết mọi việc của HS và không phải lúc nào GVCN cũng có
mặt trên lớp để chỉ đạo những cơng việc thường ngày của lớp. Mặt khác, sự quá nhiệt
tình của GVCN lúc nào cũng hiện diện ở lớp sẽ khiến cho HS nảy sinh tâm lí ỷ lại,
trơng chờ ở GVCN, thiếu trách nhiệm với bản thân và với tập thể, làm lu mờ vị trí, vai
trị của chính các em ngay tại tập thể lớp mà các em là chủ nhân đang học tập và gắn
bó. Vì vậy, khơng có con đường nào khác, nên tôi phải hướng tới “Phát triển năng lực
tự quản cho HS”.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu lý luận về vai trò của GVCN trong công tác chủ nhiệm để phát triển
năng lực tự quản của HS góp phần xây dựng lớp chủ nhiệm đoàn kết hơn trong giai
đoạn hiện nay.
Tạo mối quan hệ đồng thuận, thân thiện giữa GVCN với HS và giữa các em HS
với nhau.
Đề ra những giải pháp hiệu quả và cụ thể việc áp dụng nhằm nâng cao chất
lượng lớp chủ nhiệm.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
HS lớp chủ nhiệm 11T1 năm học 2019 – 2020 trường THPT Mai Thanh Thế.
4


Các giải pháp để để phát triển năng lực tự quản của học sinh góp phần xây dựng
lớp chủ nhiệm đoàn kết hơn trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Nghiên cứu các vấn đê liên quan đến đề tài “Một số giải pháp phát triển năng
lực tự quản của học sinh góp phần xây dựng lớp chủ nhiệm đoàn kết trong giai
đoạn hiện nay.”
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu lý luận
Thu thập những thông tin lý luận về vai trò của người GVCN lớp trong công tác
giáo dục HS THPT, các bài tham luận trên Internet, một số sáng kiến kinh nghiệm có
liên quan tới công tác chủ nhiệm của một số đồng nghiệp, bạn bè trường bạn.
4.2. Phương pháp điều tra
Điều tra tình hình lớp, trước khi nhận lớp chủ nhiệm (hồ sơ, điểm khảo sát chất
lượng của HS, học lực, hạnh kiểm, chức vụ cán sự lớp, hồn cảnh gia đình, lý lịch
HS...)
Trị chuyện, trao đổi thông tin với GVBM, với HS, với Hội cha mẹ HS, bạn bè
đồng nghiệp.
4.3. Phương pháp phân tích số liệu
Từ kết quả cụ thể qua từng giai đoạn, GVCN sẽ tìm ra những mặt tích cực và
mặt hạn chế để có giải pháp phù hợp hơn cho công tác chủ nhiệm sau này.
4.4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm
Tham khảo kinh nghiệm của đồng nghiệp trường bạn, trường mình.
Tham khảo những báo cáo tổng kết hàng năm của nhà trường.
Từ kinh nghiệm của chính bản thân qua các năm làm công tác chủ nhiệm lớp.
4.5. Phương pháp thử nghiệm
Đã áp dụng các biện pháp vào công tác giáo dục HS lớp 11T1 trường THPT
Mai Thanh Thế năm học 2019 - 2020.
5. Tính mới của đề tài
Giải pháp phát triển năng lực tự quản của học sinh góp phần xây dựng lớp chủ
nhiệm đoàn kết trong giai đoạn hiện nay.
Một số kinh nghiệm trong công tác chủ nhiệm.

5



PHẦN 2. NỘI DUNG
1. Cơ sở lý luận
1.1. Năng lực tự quản của học sinh là gì?
Năng lực tự quản nói chung là khả năng tự tổ chức, tự quản lý, tự giải quyết
những công việc của bản thân, của tập thể.
Vậy, thực chất của năng lực tự quản của HS là q trình từng bước chuyển hố
tâm huyết, nhiệt tình của thầy cơ thành ý thức tự quản tự giác đầy trách nhiệm và thích
thú của HS, cũng có nghĩa là biến lớp học của những cá nhân HS thành một tập thể HS
biết tự quản dưới sự quản lý, chỉ đạo của GVCN. Mỗi HS trong lớp là một chủ thể có
tính tự giác cao. Ban cán sự lớp triển khai và tổng kết các hoạt động trong tuần, tháng,
GVCN đóng vai trị tham mưu khi cần thiết.
Xây dựng tính tự quản cho HS ngay trong việc tổ chức các sinh hoạt tập thể của
lớp, nhất là trong việc hướng dẫn cán bộ lớp tổ chức giờ sinh hoạt lớp cuối tuần, giờ
sinh hoạt ngoại khóa và các hoạt động phong trào.
1.2. Tại sao phải phát huy năng lực tự quản của học sinh?
Việc giúp học sinh phát triển năng lực tự quản là nhiệm vụ quan trọng của
GVCN, trong thời đại ngày nay việc phát huy năng lực tự quản sẽ có nhiều lợi ích như
sau:
Thứ nhất, phát huy năng lực tự quản nhằm đáp ứng mục tiêu đào tạo trong thời
đại mới. Chúng ta đều biết con người làm chủ tương lai của thế kỷ 21 trong sự hồ
nhập với cộng đồng thế giới khơng thể là con người thụ động, ngoan ngoãn giản đơn,
chỉ biết vâng lời rập khn một cách máy móc, mà thực sự phải là con người biết làm
chủ mình, phù hợp nhất với ích lợi của cộng đồng. Một thế hệ tương lai như vậy sẽ
khơng thể hình thành nếu chúng ta không biết tạo cơ hội để họ tập dượt, rèn luyện tính
tự giác tự quản, năng động, sáng tạo ngay từ khi cịn ngồi trên ghế nhà trường phổ
thơng.
Thứ hai, khả năng tự quản giúp thực hiện có hiệu quả phương pháp dạy học tích
cực, lấy học trị làm trung tâm. Trong chuyên môn, chúng ta đang sôi nổi thực hiện

phương pháp giảng dạy tích cực, lấy học trị làm trung tâm, chẳng lẽ trong công tác
chủ nhiệm chúng ta lại để tồn tại mãi cách giáo dục thụ động, máy móc - thầy là trung
tâm của tất cả, còn trò cứ mãi mãi thụ động. Phải đổi mới, phải thực sự lấy học trị làm
trung tâm, khơng chỉ trong chuyên môn mà cả trong công tác chủ nhiệm. Phải biến quá
6


trình giáo dục thành tự giáo dục, tự ý thức, tự quản lấy chính mình, tổ, lớp mình. Chỉ
có như thế nhân cách HS mới được xác lập bền vững. Chất lượng giáo dục của chúng
ta mới không bị tụt hậu, mới sánh ngang tầm các nước trong khu vực, mới đáp ứng
được những yêu cầu ngày càng cao của cuộc sống hiện đại.
Thứ ba, việc xây dựng lớp tự quản sẽ tìm ra đáp số bài tốn phức tạp là làm thế
nào tiêu tốn thời gian không nhiều mà lớp chủ nhiệm vẫn đạt chất lượng toàn diện, bền
vững đích thực. Một thực tế khơng thể phủ nhận là hiện nay rất nhiều GV đã phải đầu
tư cho công tác chủ nhiệm một quĩ thời gian lớn gấp nhiều lần con số 4 tiết/tuần theo
như quy định. Ấy vậy mà kết quả chẳng mấy khi được như ý. Họ băn khoăn, lo ngại
không biết lấy thời gian đâu. Trong khi đó, GV bây giờ cịn phải dành nhiều thời gian
để thực hiện công tác khác như soạn bài cải tiến phương pháp giảng dạy, làm đồ dùng
dạy học, soạn hồ sơ, sổ sách…. Để giải quyết mâu thuẫn này, người GVCN chỉ có con
đường ngắn nhất là xây dựng thành cơng mơ hình lớp tự quản.
Và thứ tư là để thoả mãn nhu cầu tâm lý của tuổi vị thành niên. HS THPT trong
độ tuổi mới lớn, rất thích hoạt động, ham hiểu biết, muốn thể hiện mình. Các em
khơng chỉ ước ao khám phá bí mật thế giới xung quanh, mà cịn muốn khám phá chính
bản thân mình. Hàng ngày, không em nào không nảy sinh ý thức muốn tự khẳng định
mình, chứng tỏ mình, và cũng muốn tập thể cơng nhận mình. Xây dựng lớp học tự
quản không những thoả mãn tâm lý này của các em mà còn tạo cho các em cơ hội để
được trải nghiệm, chia sẽ và được nuôi dưỡng, rèn luyện, phát triển theo hướng tích
cực.
2. Đặc điểm tình hình lớp chủ nhiệm ở trường THPT Mai Thanh Thế về ý thức tự
quản

2.1. Thực trạng vấn đề
Trong thời gian công tác, bản thân trãi qua nhiều lớp chủ nhiệm cũng như các
lớp giảng dạy bộ mơn, tơi nhận thấy tính tự giác của đa số các em còn thấp, tinh thần
tự học chưa cao, chưa mạnh dạn phát biểu, còn thiếu tự tin. Các em chưa chủ động
thực hiện nhiệm vụ của mình được phân cơng dù nhiệm vụ nhẹ nhàng như đi học sớm
trực nhật lớp, chấp hành nội quy nhà trường (đồng phục, giờ giấc…) và trong tham gia
các hoạt động ngoại khóa, văn nghệ, thể thao, phong trào… Đa số các em phải được sự
nhắc nhở, đôn đốc của GV mới thực hiện nhiệm vụ nên đôi khi công việc bị chậm trễ
ảnh hưởng đến việc học tập của các em.
7


GVCN lớp lại muốn HS phải theo khn mẫu mình đã đặt ra nên để được kết
quả như mong đợi thì GV phải thường xun có mặt tại trường, tại lớp để đơn đốc,
nhắc nhở các em vì thế khiến quan hệ giữa GV và HS cũng không thật sự thoải mái và
công việc chủ nhiệm sẽ tốn rất nhiều thời gian và công sức của thầy cô.
Tuy nhiên, ở phổ thông, HS ở phổ thông đang trong độ tuổi mới lớn, rất thích
hoạt động, ham hiểu biết, có ý thức muốn thể hiện mình, chứng tỏ mình và cũng muốn
tập thể cơng nhận mình nhưng đơi lúc các em chưa mạnh dạn thể hiện khả năng của
mình trước lớp. Vì vậy, nếu GV khơng tìm hiểu để biết được điểm mạnh của các em sẽ
làm chính các em cảm thấy thiếu tự tin và khơng dám thể hiện mình trước đám đông.
2.2. Nguyên nhân
Qua một thời gian công tác và q trình làm GVCN, tơi nhận thấy tinh thần
đồn kết của tập thể lớp và năng lực tự quản lớp có vai trị cực kì quan trọng. Tuy
nhiên, những thực trạng trên làm cho công tác chủ nhiệm năng nề hơn và chủ yếu chỉ
có kết quả tức thời mà không lâu dài được. Chủ yếu do các nguyên nhân sau đây:
Đầu tiên phải nói đến vai trị của GVCN trong việc phân cơng nhiệm vụ cho
HS. Có thể GV chưa biết hết khả năng, điểm mạnh của từng HS để giao nhiệm vụ hợp
lý cho các em và đơi lúc GVCN vì thành tích của lớp mà ơm đồm làm thay mọi việc
của HS.

Một nguyên nhân nữa mà các lớp hay mắc phải đó là HS trong lớp chưa có tinh
thần đồn kết. Với tình hình hiện nay, một lớp thường ghép HS của nhiều lớp khác
nhau nên các em còn tâm lý e ngại, mắc cỡ và chưa hịa đồng với nhau. Thơng thường,
một lớp học các em sẽ chia thành nhiều nhóm nhỏ nên việc tham gia các hoạt động tập
thể của cả lớp sẽ có nhiều trở ngại.
Ban cán cán sự lớp, ban chấp hành chi đồn lớp hoạt động chưa hiệu quả, các
em cịn trông chờ GVCN và chưa phân cộng công việc cụ thể cho từng cá nhân mà ôm
đồm công việc. Ban cán sự lớp hoặc ban chấp hành chi đoàn chưa phát huy được thế
mạnh của từng thành viên trong lớp.
Ngoài ra, nhiều HS chưa thấy được tầm quan trọng của việc đoàn kết trong lớp
cũng như khả năng tự lực trong cơng việc cịn hạn chế. Mỗi em mỗi cá tính khác nhau
và thích thể hiện mình nhưng mang tính cá nhân chưa đặt tinh thần tập thể lên trên cá
nhân mình.

8


3. Một số giải pháp phát triển năng lực tự quản của học sinh trong giai đoạn hiện
nay
Khối lượng công việc của GVCN là hết sức nặng nề nếu GV làm đúng với trách
nhiệm của mình. Tuy nhiên, nếu xây dựng được một tập thể lớp đoàn kết biết tự nhắc
nhở và tự quản lý lẫn nhau thì GV sẽ cảm thấy cơng việc chủ nhiệm hết sức nhẹ
nhàng. Vì vậy, mặc dù vẫn là những công việc quen thuộc nhưng để phù hợp với đặc
điểm và tình hình lớp thì mỗi GV sẽ có những cách làm khác nhau. Dù bản thân tơi
khơng có nhiều kinh nghiệm trong cơng tác chủ nhiệm nhưng với cách làm của mình
tơi thấy được sự tiến bộ của lớp chủ nhiệm, các em luôn đạt được kết quả tốt trong các
phong trào của đoàn trường, thực hiện tốt các nhiệm vụ được trường phân cơng. Vì
vậy, tơi xin chia sẻ một số kinh nghiệm của bản thân để quý đồng nghiệp có thể áp
dụng và đóng góp ý kiến để cùng nhau thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.
3.1. Xây dựng đội ngũ cán bộ lớp

3.1.1. Vai trò của ban cán sự và ban chấp hành chi đồn lớp
Nhìn chung ban cán sự và ban chấp hành chi đồn lớp có vai trị to lớn trong
việc quản lý lớp, ổn định tình hình lớp và thúc đẩy lớp tiến bộ trong việc học tập, thực
hiện nề nếp cũng như khi làm nhiệm vụ lớp được phân công. Một lớp không thể thiếu
ban cán sự lớp cũng như ban chấp hành chi đoàn. Cả hai cùng phối hợp trong việc
quản lý lớp theo yêu cầu của GVCN. Đây chính là bộ phận thay mặt GVCN quản lý
lớp khi GVCN vắng mặt, giúp truyền tải thơng tin từ các cấp đồn thể trong nhà
trường đến các thành viên trong lớp. Lớp học ổn định, nề nếp, thực hiện vệ sinh tốt,
tham gia hiệu quả các phong trào có sự đóng góp cơng sức khơng nhỏ của ban cán sự
và ban chấp hành chi đoàn lớp.
3.1.2. Một số giải pháp giúp nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán sự lớp và ban
chấp hành chi đoàn
a/ Lựa chọn ban cán sự lớp
GV sẽ để các em tự ứng cử hoặc đề cử, nếu khơng thì GVCN sẽ chỉ định ban
cán sự lớp lâm thời (dựa trên bản sơ yếu lý lịch đầu năm) hoạt động 3 tuần đầu năm
học, theo dõi và tuần 4 cho lớp tiến hành đại hội lớp công khai, bầu chọn. Căn cứ sự
tín nhiệm của tập thể lớp thơng qua bầu dân chủ qua đại hội lớp, đại hội chi đoàn.

9


Tổ 1:
Lâm

Tổ 2:
Bảo

Tổ 4:
Thảo


Sao
đỏ

* Kinh nghiệm bản thân: Vì lớp học đa số là lớp ghép của nhiều lớp nên GV
cần khéo léo để bầu ban cán sự có sự tham gia của các lớp khác nhau để các em cùng
hoạt động và vận động các bạn của lớp cũ tham gia vào các hoạt động chung của lớp.
b/ Giao nhiệm vụ cụ thể cho từng cá nhân:
- Lớp trưởng: quản lý, điều hành toàn bộ các hoạt động của lớp dưới sự chỉ đạo của
GVCN, chủ trì các cuộc họp lớp, sinh hoạt lớp cuối tuần, báo cáo mọi hoạt động trực
tiếp GVCN.
- Lớp phó học tập: lên danh sách SH học tốt nhất cho từng bộ môn phân công phụ
trách giúp đỡ bạn học yếu hơn, phải là HS học tốt, báo cáo việc học tập của HS trong
lớp, duy trì truy bài 15 phút đầu giờ mỗi ngày.
- Lớp phó lao động: phân cơng, đơn đốc, giám sát việc thực hiện vệ sinh lao động của
lớp, trực cờ đỏ, mang ghế tiết chào cờ.
- Lớp phó phong trào: phụ trách mảng văn nghệ, thể dục thể thao, các hoạt động
phong trào của lớp...
- Thủ quỹ: thu các khoản tiền quỹ, thăm hỏi, có ghi chép và báo cáo hàng tuần.
- Thư ký: ghi chép biên bản các phiên họp lớp, biên bản sinh hoạt lớp.
- Bốn tổ trưởng: theo dõi mọi hoạt động tổ mình và tổng kết lại cho lớp trưởng vào
giờ sinh hoạt lớp.
- Bí thư chi đồn: nắm bắt và tiếp thu những thơng báo, chỉ thị của đoàn trường kịp
thời triển khai cho chi đồn mình thực hiện đầy đủ.
GVCN cũng lập sổ theo dõi và giao lại cho từng bộ phận vì đặc trưng tâm lý HS
THPT thể hiện rõ nhu cầu tự khẳng định mình, mong muốn có một chỗ đứng trong tập
thể. GVCN chia nhỏ tạo nên một số chức danh để qua đó HS được góp phần mình
trong cơng việc chung.
Xây dựng dựng đội ngũ ban cán sự lớp là nền tảng cho công tác chủ nhiệm và
cũng là một việc làm quan trọng và khó khăn đối với GVCN. Vì vậy, đầu tiên GVCN
cần xác định được tiêu chuẩn của cán bộ lớp:

+ Có ý thức tổ chức kỷ luật tốt, có khả năng gương mẫu.
+ Tính tình thẳng thắn, dám đấu tranh, dám phê bình.
+ Năng nổ hoạt động và sẵn sàng hoạt động.
+ Có khả năng học tập tốt: Từ khá trở lên.
+ Được tập thể lớp tín nhiệm.
10


+ Có hồn cảnh gia đình thuận lợi.
Khi đã tìm được đội ngũ cán bộ lớp, GVCN cần bồi dưỡng cho các em có ý thức
trách nhiệm cao đối với lớp, phục vụ tập thể lớp, biết phê bình và tự phê bình. Bồi
dưỡng cho các em có phương pháp quản lý lớp.
* Kinh nghiệm của bản thân: Bên cạnh việc giao cơng việc cho ban cán sự tồn
quyền quyết định (có sự giám sát của GVCN) thì GVCN cũng nên tìm hiểu tình hình
lớp qua một vài thành viên khác trong lớp để nắm rõ hơn tác phong làm việc của ban
cán sự lớp để uốn nắn hoặc có sự điều chỉnh kịp thời. Tuy nhiên GVCN phải thống
nhất rõ ràng trên lớp để các em HS biết ban cán sự lớp sẽ thay mặt GVCN quản lý lớp
khi khơng có GV. Ngồi ra, mỗi tháng họp một lần để tổng kết rút kinh nghiệm, giao
kế hoạch nhiệm vụ tháng tới, mua sổ theo dõi để các em ghi chép cụ thể. Mỗi tuần
giao ban một lần vào 15 phút sinh hoạt đầu giờ thứ 5 để thứ 6 có số liệu sinh hoạt và
khen thưởng, phê bình kịp thời trong tiết sinh hoạt chủ nhiệm.

Thưởng và ...phạt.
3.2. Rèn luyện năng lực tự quản thông qua hoạt động giáo dục ngồi giờ lên lớp
3.2.1. Vai trị của hoạt động ngồi giờ lên lớp ở trường phổ thơng
Hoạt động giáo dục kỹ năng ngoài giờ là một bộ phận bắt buộc trong kế hoạch
dạy học ở trường phổ thông đã được Bộ Giáo dục & Đào tạo ban hành, là một nội
dung trong công tác quản lý của các cấp chỉ đạo và quản lý giáo dục.
Hoạt động NGLL là một trong những nội dung giáo dục toàn diện HS. Với mục
đích tiếp nối hoạt động dạy học trên lớp nhằm khắc sâu các bộ mơn văn hóa bằng cách

tổ chức ngồi giờ học. Từ đó giúp các em trang bị đầy đủ khả năng để có thể hịa nhập
với xã hội. Vai trò của GV đối với hoạt động này là không nhỏ, đặc biệt GVCN là
người trực tiếp chỉ đạo, cố vấn và giúp các em hoàn thành được những kỹ năng cơ bản
11


như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng hoạt động, tự nhận thức bản thân, kỹ năng xây dựng
quan hệ cá nhân, …
Hoạt động giáo dục kỹ năng ngồi giờ có quan hệ chặt chẽ với hoạt động dạy
học, tạo điều kiện gắn lý thuyết với thực hành, thống nhất giữa nhận thức và hành
động, góp phần quan trọng vào sự hình thành và phát triển nhân cách tồn diện của HS
trong giai đoạn hiện nay.
Hoạt động giáo dục kỹ năng NGLL là dịp đề HS củng cố kiến thức đã học trên
lớp, biến tri thức thành niềm tin ở mỗi HS. Đây là điểm rất cơ bản của Hoạt động giáo
dục kỹ năng ngoài giờ, khác với hoạt động ngoại khố mơn học.
3.2.2. Giải pháp rèn luyện năng lực tự quản thơng qua hoạt động giáo dục ngồi
giờ lên lớp
Thực tế cho thấy, việc thực hiện hoạt động NGLL bước đầu cịn gặp một số khó
khăn, bất cập như về tổ chức, quản lí, chất lượng giáo dục, … Nhất là khi các em HS
chưa có sự chủ động cần thiết thì việc tổ chức một buổi sinh hoạt ngoại khóa sẽ gặp
nhiều khó khăn. Vì vậy, GVCN cần phải tập luyện để các em có thể tự tổ chức một
buổi ngoại khóa hồn chỉnh. Qua đó sẽ góp phần tăng cường năng lực tự quản của các
em ngoài ra sẽ tạo khối đoàn kết trong tập thể lớp.
HS sẽ tự lên kế hoạch tổ chức từ việc lựa chọn chủ đề, các bước tiến hành, cách
thức tiến hành buổi ngoại khóa như thế nào. GV chủ yếu quan sát theo dõi mà không
trực tiếp làm thay những công việc của các em. Đôi khi kế hoạch sẽ không diễn ra
suôn sẽ ở những buổi đầu tuy nhiên khi các em đã rút ra được kinh nghiệm thì cơng
việc sẽ được thực hiện dễ dàng.
* Kinh nghiệm bản thân: GVCN hãy để các em tự lên ý tưởng, thầy cô chỉ
làm công tác cố vấn và định hướng cho phù hợp. GV phải yêu cầu ban cán sự phân

công công việc rõ ràng và có ghi chép lại cụ thể. Sau mỗi buổi sinh hoạt, GV nên rút
kinh nghiệm ngay những điều làm được và những hạn chế để lần sau tổ chức tốt hơn.
Theo kinh nghiệm bản thân, đến buổi sinh hoạt ngoại khóa thứ ba thì các em sẽ làm rất
tốt.
3.3. Rèn luyện năng lực tự quản thông qua các giờ sinh hoạt lớp
3.3.1. Vai trò của giờ sinh hoạt lớp trong việc rèn luyện năng lực tự quản của học
sinh

12


Tiết sinh hoạt lớp giúp lớp học tổng kết lại những công việc đã làm được cũng
như những hạn chế còn tồn động trong tuần. Giờ sinh hoạt lớp là điều kiện để hình
thành cho HS cơng tác tổ chức, tự quản, biết sơ, tổng kết và đề ra kế hoạch tổ chức
thực hiện một hoạt động cụ thể vừa sức với các em.
Vì vậy, cơng tác chủ nhiệm lớp là khoảng thời gian vô cùng quý báu để triển
khai công việc, chấn chỉnh nề nếp, uốn nắn HS, khơi dậy trong các em sự thích thú,
khả năng sáng tạo.... đặc biệt là giáo dục kĩ năng sống cho các em một cách tập trung
và hiệu quả. Đồng thời phát huy được những năng khiếu tiềm ẩn ở các em. Từ đó, các
em cũng thích đi học và thích học hơn. Tóm lại, thầy cơ chủ nhiệm khơng chỉ là người
dạy chữ mà còn dạy HS nhiều điều tốt đẹp khác và cũng là người hiểu được tâm tư,
tình cảm của các em nhiều nhất.
3.3.2. Giải pháp rèn luyện năng lực tự quản thông qua tiết sinh hoạt lớp
Trên cơ sở có được đội ngũ cán bộ lớp đã biết làm việc, tổ chức giờ sinh hoạt
lớp là điều kiện để các em thể hiện tính chủ động, tự quản, vai trị của mình đối với
lớp. Trong tiết sinh hoạt lớp các em sẽ được thể hiện khả năng của mình.
- Ban cán sự lớp: Được đánh giá một cách vô tư về ưu khuyết điểm của bạn.
- Học sinh: Được phát biểu tự do, thoải mái, thể hiện hết tâm tư nguyện vọng của
mình, được thể hiện hết mình, nên giờ sinh hoạt đã trở thành sự háo hức, sự chờ đợi
đối với các em. Nó thực sự lơi cuốn được cả tập thể lớp nên tính tự quản, tinh thần tập

thể có dịp để phát huy.
Nội dung giờ sinh hoạt lớp cũng rất đa dạng nhưng nên đưa các hoạt động theo
chủ điểm giáo dục như: Tìm hiểu an tồn giao thơng, bảo vệ mơi trường, tư vấn hướng
nghiệp, hồ bình và hữu nghị... Trong các hoạt động đó, HS có thể hát, múa, kể
chuyện, đọc thơ, thi tìm hiểu, vui chơi,... và nhiều hình thức khác theo các chủ đề.
Hoạt động này thực sự lôi cuốn đựoc cả tập thể lớp nên góp phần khơng nhỏ vào việc
rèn luyện tính tổ chức, kỉ luật, nâng cao tinh thần trách nhiệm, lịng nhân ái, tình u
bạn bè, tinh thần tập thể, khả năng tự quản sẽ được nâng cao hơn và đặc biệt tinh thần
đoàn kết sẽ nâng lên.
Trình tự một tiết sinh hoạt lớp gồm các hoạt động như sau: tổ trưởng báo cáo
tình hình tổ mình, nhận xét của lớp phó học tập, báo cáo tình hình thực hiện nội quy
của cờ đỏ, báo báo tình hình vệ sinh của lớp phó lao động, nhận xét chung và thơng
báo của lớp trưởng, thơng báo của bí thư chi đoàn, báo cáo tiền quỹ của thủ quỹ, nhận
13


xét tình hình lớp của GVCN, tổ chức trao đổi theo chủ đề của tháng và kết hợp với văn
nghệ. Tất cả các hoạt động đều do lớp trưởng chủ động điều hành.
* Kinh nghiệm bản thân: phải để tiết sinh hoạt lớp diễn ra đúng trình tự, đừng
vì những công việc khác mà làm ảnh hưởng đến kế hoạch sinh hoạt lớp. Trong giờ
sinh hoạt lớp GVCN nên để HS được trình bày thẳng thắng nguyện vọng của mình,
ban cán sự lớp phải mạnh dạn góp ý đối với cá nhân chưa thực hiện tốt trong tuần và
biết tuyên dương các bạn đạt thành tích cao. GVCN quan sát tiến trình HS thực hiện
và phải chốt những vấn đề HS đã trao đổi.
3.4. Sử dụng mạng xã hội và các thiết bị hiện đại để phát huy năng lực tự quản
của học sinh
3.4.1. Vai trò của mạng xã hội trong trường học và các thiết bị hiện đại
Ngày nay, hầu như tất mọi người ai cũng biết đến mạng xã hội (zalo,
facebook…) và lực lượng tham gia đông đảo nhất chính là giới trẻ. Ở lớp, theo quan
sát của GV thì hầu như bất kì em HS nào cũng có điện thoại thơng minh và tham gia

mạng xã hội mà phổ biến nhất đó là mạng xã hội zalo, facebook, instagram, … Như
chúng ta biết, mạng xã hội có nhiều lợi ích tích cực như:
Mạng xã hội phục vụ học tập. Nó giúp các em tiết kiệm rất nhiều thời gian vì
các em có thể dễ dàng trao đổi trực tuyến với bạn bè và GV khi có những câu hỏi, bài
tập cần được giải đáp mà không phải gặp trực tiếp.
Mạng xã hội giúp trao đổi thông tin thay cách truyền thống. Chúng ta có thể
trao đổi tin nhắn hoặc nói chuyện với nhau một cách nhanh chóng thay bằng cách gửi
thư truyền thống. Dùng mạng xã hội có thể gửi tài liệu, liên lạc với nhau bất kể thời
gian và khơng gian.
Chúng ta có thể giới thiệu bản thân mình với mọi người. Chúng ta có thể giới
thiệu tính cách, sở thích, quan điểm của bản thân trên mạng xã hội và nó có thể giúp
chúng ta tìm kiếm những cơ hội kết thêm nhiều bạn mới. Chúng ta có thể biết được
nhiều thơng tin về bạn bè hoặc người thân bằng cách kết bạn trên mạng xã hội. Chúng
ta cũng có thể gặp gỡ và giao lưu kết bạn với tất cả mọi người trên thế giới có cùng sở
thích hay quan điểm giống mình. Từ đó có thể xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn hoặc
hợp tác với nhau về nhiều mặt.
Còn về các thiết bị hiện đại ở đây tơi muốn nói đến chiếc điện thoại thông minh
và hệ thống camera ở trường học. Với điện thoại thơng minh chúng ta có thể sử dụng
14


internet, sử dụng mạng xã hội để kết nói tất cả các bạn HS trong lớp lại với nhau bằng
cách tạo các nhóm học tập để trao đổi thơng tin cho nhau một cách nhanh chống. Còn
với camera ở lớp học có thể giúp GV nắm bắt được tình hình học tập của các em trong
các tiết học dù GV không đến lớp.
3.4.2. Giải pháp sử dụng mạng xã hội và các thiết bị hiện đại để phát huy năng lực
tự quản của học sinh
Ngày nay, việc sử dụng mạng xã hội hay các thiết bị hiện đại đã được sử dụng
rộng rãi. Tuy nhiên, sử dụng như thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất và đạt được
mục đích giúp HS nâng cao ý thức tự quản giúp các em trong lớp đoàn kết hơn lại là

một vấn đề. Qua một thời gian sử dụng thì tơi nhận thấy việc tạo nhóm zalo trong lớp
hay kết bạn trên facebook, instagram, … là cần thiết và đạt hiệu quả cao.
Đối với mạng xã hội thì tơi tạo các nhóm trong lớp, trong đó có nhóm cả lớp để
tiện việc thơng báo cơng việc chung, ngồi ra là nhóm của ban cán sự lớp để thông tin
các kế hoạch và thống nhất trong ban cán sự lớp trước để các em dễ làm việc (vì đã có
tham vấn ý kiến GVCN). Ngoài ra việc kết bạn với các em cũng giúp GV biết được
tâm trạng, tâm tư nguyên vọng của HS hơn vì đơi lúc trao đổi qua tin nhắn các em sẽ
cảm thấy thoải mái hơn khi nói chuyện trực tiếp với gióa viên.
Đối với việc quan sát lớp học qua camera sẽ giúp GV biết rõ hơn tình hình học
tập của HS lớp mình. Nhờ đó, khi GV nhắc nhở các em sẽ biết mà khắc phục. Việc
quan sát lớp từ xa giúp các em nghiêm túc hơn trong học tập vì các em biết nếu làm
mất trật tự hay vi phạm gì thì sẽ có camera ghi hình lại. Vì vậy, GV sẽ biết được bạn
nào có tự giác làm nhiệm vụ hay không hay phải nhắc nhở nhiều lần dần dần sẽ hình
thành ý thức tự giác trong các em.
* Kinh nghiệm bản thân: khi sử dụng mạng xã hội thì chỉ nên trao đổi trên
nhóm những công việc khi cần thiết để tránh ảnh hưởng đến các em. GVCN nên
thường xuyên trao đổi với ban cán sự lớp để nhắc nhở tính tự giác của các em và phải
yêu cầu các em báo cáo công việc hàng ngày để GV nắm bắt thông tin kịp thời để xử
lý. Đối với các thiết bị hiện đại để quản lý lớp từ xa thì GV quan sát nếu có vi phạm thì
phải lưu lại và nhắc nhở các em ngay, có thể nhắc nhở thơng qua việc nhắn tin riêng để
các em biết vi phạm của mình.
3.5. Xây dựng tập thể đoàn kết nhờ tinh thần tự quản
3.5.1. Vai trò của tập thể lớp
15


Mỗi năm học, các lớp tham gia các phong trào rất nhiều. Từ phong trào của
trường, Đoàn trường, của lớp đến các phong trào do địa phương tổ chức. Các hoạt
động này có thể là hoạt động học thuật (hoa điểm 10, tiết học tốt), các hoạt động thể
thao (hội thao trường), các hoạt động vui chơi giải trí (hội trại, các trị chơi)… Vì vậy,

việc xây dựng một tập thể đồn kết giúp các em hịa đồng với nhau, qua đó các em sẽ
cùng hỗ trợ nhau trong học tập cũng như trong tham gia các hoạt động NGLL vì đa số
các hoạt động NGLL đều hướng tới kỹ năng làm việc nhóm, tinh thần đồn kết của tập
thể. Khi lớp đã có sự đồn kết thì các em sữ tự giác giúp đỡ nhau làm việc qua đó nâng
cao tinh thần tự quản của lớp.
3.5.2. Một số biện pháp xây dựng tập thể lớp chủ nhiệm đoàn kết
Lựa chọn ban cán sự lớp có năng lực, được tín nhiệm, có khả năng tập hợp các
bạn trong lớp. BCS lớp có khả năng phân cơng, điều động và giám sát để báo cáo
GVCN công việc được phân công.
GVCN phân công nhiệm vụ cụ thể cho mọi HS để các em thấy được vai trị của
mình trong tập thể lớp, các em biết phấn đấu vì tập thể lớp.
GVCN phải luôn quan tâm đến mọi HS trong lớp, đặc biệt là các em cá biệt, các
em có hồn cảnh đặc biệt của lớp. Bên cạnh đó, GVCN cũng phải giáo dục để các em
biết chia sẻ, biết đồng cảm với hồn cảnh của các thành viên trong lớp. GVCN có thể
tổ chức cho lớp đến thăm gia đình các bạn có hồn cảnh khó khăn của lớp để HS đồn
kết hơn.
GVCN luôn theo sát các hoạt động mà lớp tham gia để điều động các em tham
gia đồng thời cỗ vũ tinh thần cũng như lôi kéo tập thể tham gia cùng. Kinh nghiệm cho
thấy nếu GVCN không tham gia cùng thì lớp chủ nhiệm sẽ khó tập hợp được HS.
* Kinh nghiệm bản thân: Để thực hiện tốt nhiệm vụ này, GV phải phân công
cụ thể nhiệm vụ cho ban cán sự lớp. Khi có các hoạt động phong trào hay hoạt động
NGLL thì GV cần chú ý để cả lớp cùng tham gia, không để các em tham gia theo
nhóm lẻ. Nếu em nào khơng thể tham gia trực tiếp thì cũng nhắc nhở để các em cỗ vũ
tinh thần cho các bạn khác.
Trên đây là một số giải pháp mà tôi đã thực hiện đối với lớp chủ nhiệm. Đây chỉ
là các giải pháp chính để các em có được sự chủ động khi làm việc và giúp các em hịa
đồng vào cùng tập thể qua đó giúp đỡ nhau cùng hoàn thành nhiệm vụ. Ngoài những
16



biện pháp trên, thì người GV cịn phải thực hiện rất nhiều giải pháp khác để xử lý các
tình huống gặp phải trong quá trình chủ nhiệm. Tất cả các biện pháp trên sẽ hỗ trợ lẫn
nhau giúp lớp không những tự quản tốt mà cịn đồn kết cùng tiến bộ trong học tập
cũng như ý thức trong việc thực hiện nề nếp, nội quy nhà trường và hoàn thành các
cơng việc mà nhà trường giao phó. Nếu GV thực hiện tốt các hoạt động trên ngay từ
đầu năm để lớp sớm đi vào nề nếp thì thành tích của lớp sẽ rất khả quan.
4. Kết quả đạt được
4.1. Kết quả chung
Sau thời gian tìm tịi, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như đúc kết kinh nghiệm của
bản thân thì từ đầu năm học 2019 – 2020 tôi đã áp dụng các giải pháp trên vào lớp chủ
nhiệm 11T1, trường THPT Mai Thanh Thế. Đến thời điểm này cũng gần cuối năm học
thì tơi thu được kết quả rất khả quan. Các em trong ban cán sự làm việc rất tốt, ln
chủ động trong cơng việc và có sự phối hợp ăn ý giữa các cá nhân trong lớp. Lớp tôi
thi đua trong tuần đa số đạt điểm trên 90 (xếp loại tốt) và xếp hạng cao trong trường.
HS trong lớp ln hịa đồng với nhau khơng có trường hợp chia bè phái như các lớp
chủ nhiệm trước đây tôi gặp phải. Dó đó, kết quả học tập ở học kì I cũng rất tốt cả về
học lực lẫn hạnh kiểm. Quan trọng hơn, các em ln có ý thức tập thể. Biết làm việc
nhóm, khơng vi phạm bạo lực học đường hay vô lễ với GV. Các em luôn có ý thức giữ
gìn vệ sinh mơi trường, lớp học. Việc vệ sinh lớp ln hồn thành trước giờ truy bài
đầu giờ để lớp luôn sạch đẹp không ảnh hưởng đến các bạn khác.
4.2. Kết quả cụ thể
- Về kết quả tham gia các phong trào do đoàn trường phát động, lớp đã tham gia đầy
đủ các phong trào với tinh thần vui chơi hết mình, lớp đã đạt được một số kết quả khả
quan như sau:
+ Giải khuyến khích hội thi Làm báo tường nhân ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11.

17


+ Giải nhất hội thi Đồng diễn Cha Cha Cha chào mừng ngày Nhà giáo Việt Nam

20/11.

+ Giải khuyến khích hóa trang Giai điệu tự hào mừng đảng mừng xuân 2020.

+ Giải Khuyến khích Hội thi văn nghệ mừng Đảng, mừng xuân 2020.

+ Bên cạnh đó lớp cũng tham gia đầy đủ các phong trào như thiết kế liều trại:

18


Hay tham gia các hoạt động Hội trại

- Về thực hiện nhiệm vụ được giao:
+ Trong năm qua lớp được phân công trực vệ sinh luân phiên với các lớp khu vực
sân trường và cầu thang. Kết quả lớp luôn thực hiện tốt nhiệm vụ được giao trước thời
gian truy bài 15 phút đầu giờ theo quy định dưới sự giám sát của đồn trường.
+ Ngồi ra lớp cịn được phân cơng chăm sóc bồn hoa và các thành viên trong lớp đã
phân công để thực hiện việc nhổ cỏ, dọn rác, tưới cây hàng tuần.

- Về tình hình nề nếp thì về cơ bản lớp đã thực hiện tốt từ đầu năm và tiếp tục được
duy trì. Tình hình vi phạm nội quy nhà trường đa số HS có ý thức về việc chấp hành
tốt nội quy nhà trường và rất ít khi xảy ra trường hợp vi phạm, kết quả vậy là hết sức
đáng khen và có thể xem là một sự thành công của GVCN. Về thi đua lớp luôn đạt loại
tốt và nhiều lần nhận cờ thi đua xuất sắc nhất khối và xuất sắc nhất trường.
- Ngồi những nội dung trên thì kết quả mà bản thân tơi tâm đắc nhất chính là kết quả
học tập của các em. Nhờ sự đoàn kết và hỗ trợ nhau trong học tập mà thành tích các
em đạt khá tốt so với các lớp trong khối. Tôi xin so sánh kết quả học tập ở học kì I ở
các lớp mà tôi đã chủ nhiệm: lớp 11C8 năm học 2012 – 2013, lớp 11C3 năm học 2018
19



– 2019 (chưa áp dụng sáng kiến mới) và lớp 11T1 năm học 2019 – 2020 (đã áp dụng
các giải pháp như đã trình bày):
Học lực
Lớp 11C8
Lớp 11C3
Lớp 11T1

Giỏi
Khá
TB
Yếu
0%
16,7% 61,1%
22,2%
16,27% 41,86% 41,86%
0%
92,5%
7,5%
0%
0%

Kém
0%
0%
0%

Về hạnh kiểm lớp đạt tỉ lệ 100% hạnh kiểm tốt, lớp khơng có trường hợp nào vi
phạm về bạo lực học đường và an tồn giao thơng.

Tuy đây chỉ là kết quả của các lớp có học lực và ý thức khác nhau nên nói
phương pháp trên đã thành cơng thì cũng cịn nhiều thiếu xót. Tuy nhiên, với vai trị là
GVCN và giảng dạy nhiều năm tơi nhận thấy nếu bản thân các em HS có được động
cơ học tập đúng đắn, có tinh thần học tập tích cực, biết chủ động học hỏi bạn bè và
được sự dẫn dắt của GV thì chắc chắn các em sẽ đạt kết quả tốt hơn nữa. Riêng về ý
thức tự quản nếu được sự hướng dẫn đúng hướng của thầy cơ thì việc quản lý lớp các
em học sẽ thực hiện tốt, khi đó GVCN sẽ quản lý nhẹ nhàng hơn. Ngồi ra, cơng tác tự
quản của HS cũng góp phần giúp lớp đồn kết hơn sẽ có nhiều tiến bộ hơn trong tương
lai.

20


PHẦN 3. KẾT LUẬN
Đối với GVCN nếu HS ngoan ngoãn, vâng lời, biết tự giác trong học tập và
trong các hoạt động khác thì cơng việc của người GV rất nhẹ nhàng. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy trong mỗi lớp chủ nhiệm ln có nhiều thành phần HS khác nhau, mỗi HS là
một cá tính riêng và đặc biệt độ tuổi các em đang có những thay đổi nhất định vì vậy
vai trị GVCN lớp là vơ cùng quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của lớp cũng
như của bản thân HS.
Do đó, trong việc tổ chức giáo dục HS, sự thành công của GV phụ thuộc vào
nhiều yếu tố như: độ tuổi, mức độ trưởng thành của HS, hoạt động của ban cán sự lớp,
phong cách làm việc của các GVBM, điều kiện cụ thể của trường, lớp, gia đình HS, và
các tổ chức xã hội có liên quan và đặc biệt là tâm huyết của GVCN. Cái khó của
GVCN là khơng có một khn mẫu chung cho tất cả thầy cơ giáo vì mỗi lớp thì HS cá
tính, hồn cảnh, ý thức khác nhau vì vậy địi hỏi người GVCN phải hết sức sáng tạo,
có một tinh thần trách nhiệm cao, mới gánh vác được nhiệm vụ này có hiệu quả.
Trong đề tài này, vì thời gian có hạn nên tơi chỉ trình bày một vài giải pháp
chính nhằm giúp lớp tự quản tốt hơn mà qua đó các em sẽ dần hình các kỹ năng mềm
giúp các em trong quá trình học tập và làm việc sau này rất nhiều. Dù đã cố gắng rất

nhiều nhưng chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy, tơi rất mong nhận
được nhiều ý kiến đóng góp BGH nhà trường, q đồng nghiệp, để tơi có dịp bổ sung,
sửa chữa và tích luỹ thêm được nhiều kinh nghiệm hay. Trong phạm vi đề tài còn
mang nhiều tính chủ quan và khơng tránh khỏi những thiếu sót, vì vậy tơi rất mong sự
đóng góp chân thành của BGH nhà trường và quý đồng nghiệp.
Tôi chân thành cảm ơn!

21


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Các chương trình giáo dục trong điều lệ trường THPT theo thông tư 12/2011/TTBGDĐT ngày 28 tháng 3 năm 2011.
2. Nhiệm vụ GVCN trong điều lệ trường THPT theo quyết định số 07/2007/QĐ- Bộ
GD - ĐT ngày 02/04/2007 của bộ trưởng bộ Giáo dục và đào tạo.
3. Một số bài viết tham luận trên internet về công tác chủ nhiệm.
4. Sổ chủ nhiệm các năm học 2012 – 2013; 2018 – 2019; 2019 – 2020.

22



×