Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Sử dụng câu chuyện để gây hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử việt nam 1954 1975 lớp 12 trung học phổ thông chương trình chuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 116 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC

ĐẶNG THỊ THANH TRÀ

SỬ DỤNG CÂU CHUYỆN ĐỂ GÂY HỨNG THÚ CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ VIỆT NAM (1954-1975)
LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THƠNG (Chương trình chuẩn)

LUẬN VĂN THẠC SĨ SƯ PHẠM LỊCH SỬ

CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
(BỘ MÔN LỊCH SỬ)

Mã số: 60 14 01 11

Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Thế Bình

HÀ NỘI – 2014

1


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ chu đáo, tận tình đầy trách nhiệm của
TS. Nguyễn Thị Thế Bình đã giúp đỡ tơi hồn thành luận văn này.
Tơi xin bày tỏ lịng biết ơn đối với tất cả các thầy cô trong tổ bộ môn Phương
pháp dạy học lịch sử, Phòng tư liệu Khoa Lịch sử, Thư viện trường Đại học Sư
phạm Hà Nội đã tạo điều kiện cho tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu.
Cảm ơn tập thể giáo viên và học sinh trường THPH Vạn Xuân - Hoài Đức - Hà
Nội đã nhiệt tình giúp đỡ tơi trong việc thực nghiệm sư phạm và điều tra thực tế.


Cảm ơn bạn bè, người thân đã giúp đỡ, động viên tôi trong quá trình hồn
thành luận văn này.

Hà Nội, ngày 27 tháng 11 năm 2014
Học viên

Đặng Thị Thanh Trà

i


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

1: CNXH

Chủ nghĩa xã hội

2: GV

Giáo viên

3: HS

Học sinh

4: NXB

Nhà xuất bản

5: SGK


Sách giáo khoa

6: THCS

Trung học cơ sở

7: THPT

Trung học phổ thông

8: XHCN

Xã hội chủ nghĩa

ii


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn ....................................................................................................... i
Danh mục viết tắt ............................................................................................. ii
Mục lục ............................................................................................................ iii
MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
Chương 1: VẤN ĐỀ SỬ DỤNG CÂU CHUYỆN ĐỂ GÂY HỨNG THÚ
CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG
HỌC PHỔ THÔNG. LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN ....................................... 6
1.1. Lịch sử nghiên cứu đề tài ................................................................................... 6
1.1.1. Tài liệu nước ngoài ................................................................................
1.1.2. Tài liệu trong nước .................................................................................

1.2. Cơ sở lý luận .............................................................................................
1.2.1. Cơ sở xuất phát .......................................................................................

6
8
12
12

1.2.2. Quan niệm về sử dụng câu chuyện lịch sử nhằm gây hứng thú cho
học sinh trong dạy học lịch sử ......................................................................... 17
1.2.3. Vai trò, ý nghĩa của việc sử dụng câu chuyện lịch sử nhằm gây hứng
thú cho học sinh trong dạy học lịch sử ..............................................................
1.3. Cơ sở thực tiễn...........................................................................................
1.3.1. Về phía giáo viên ....................................................................................
1.3.2. Về phía học sinh .....................................................................................

24
29
29
33

Chương 2: MỘT SỐ BIỆN PHÁP SỬ DỤNG CÂU CHUYỆN ĐỂ
GÂY HỨNG THÚ CHO HỌC SINH TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ
VIỆT NAM (1954-1975) LỚP 12 TRUNG HỌC PHỔ THƠNG (chương
trình chuẩn) ............................................................................................................................. 38
2.1. Vị trí, mục tiêu của chương trình SGK Lịch sử Việt Nam giai đoạn
1954-1975 trường THPT (chương trình chuẩn)................................................. 38
2.1.1. Vị trí ...................................................................................................... 38
2.1.2. Mục tiêu ................................................................................................ 38
2.2. Xác định nội dung kiến thức cơ bản của lịch sử Việt Nam (1954-1975)

có thể và cần sử dụng câu chuyện để gây hứng thú học tập cho học sinh .......... 41
2.2.1. Nội dung kiến thức cơ bản lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954-1975 ......... 41
2.2.2. Những câu chuyện lịch sử có thể và cần sử dụng trong dạy học lịch
sử Việt Nam từ năm 1954-1975 ở lớp 12 THPT ............................................... 43

iii


2.3. Một số yêu cầu khi sử dụng câu chuyện trong dạy học lịch sử ................... 51
2.4. Một số biện pháp sử dụng câu chuyện để gây hứng thú cho học sinh
trong dạy học lịch sử Việt Nam (1954-1975) THPT ......................................... 54
2.4.1. Sử dụng câu chuyện để định hướng kiến thức cơ bản của bài học .......... 54
2.4.2. Sử dụng câu chuyện để cụ thể hóa kiến thức sơ bản của bài học ............. 57
2.4.3. Sử dụng câu chuyện để tạo biểu tượng nhân vật lịch sử .......................... 59
2.4.4. Vận dụng phương pháp đóng vai, để gây hứng thú học tập cho học
sinh................................................................................................................... 63
2.4.5. Sử dụng câu chuyện lịch sử để ôn tập, kiểm tra kiến thức của học sinh ............ 68
2.5. Thực nghiệm sư phạm ............................................................................... 73
2.5.1. Mục đích thực nghiệm ............................................................................ 73
2.5.2. Đối tượng và địa bàn thực nghiệm .......................................................... 73
2.5.3. Phương pháp thực nghiệm ...................................................................... 73
2.5.4. Kết quả thực nghiệm ............................................................................... 76
2.5.5. Kết quả rút ra từ thực nghiệm ................................................................ 78
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................ 79
TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 81
PHỤ LỤC ........................................................................................................ 85

iv



MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Bước sang tế kỉ XXI, việc hội nhập và hợp tác khu vực, hợp tác quốc tế đã trở
thành một trong những yếu tố quyết định sự phát triển của lịch sử nhân loại. Hòa
nhập vào sự phát triển chung của thế giới, đất nước ta cũng đã và đang thực hiện
công cuộc đổi mới tồn diện và đồng bộ. Trong đó tiềm năng trí tuệ trở thành động
lực chính đảm bảo sự phát triển xã hội, giáo dục - đào tạo được coi là nhân tố quyết
định sự thành bại của mỗi quốc gia. Xu thế tồn cầu hóa vừa mở ra những cơ hội
cho sự hội nhập và phát triển, vừa đem lại những thách thức mới cho mỗi quốc gia,
dân tộc, trong đó có Việt Nam. Điều này địi hỏi mỗi nước phải biết kết hợp thành
công sức mạnh truyền thống dân tộc với sức mạnh của thời đại, trong đó đặc biệt
quan tâm giáo dục, giữ gìn và nâng cao bản sắc văn hóa, kế thừa và phát huy truyền
thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc. Đại hội Đảng Cộng sản Việt
Nam lần thứ VII đã chỉ rõ giáo dục là “Quốc sách hàng đầu” và khẳng định mục tiêu
của giáo dục là: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động
có trí thức, có tay nghề, có năng lực thực hành tự chủ, năng động sáng tạo, có đạo
đức cách mạng, tinh thần yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội” [58, tr. 81]
Đảm nhiệm sứ mệnh cao cả đó, giáo dục - đào tạo khơng ngừng đổi mới toàn
diện và đồng bộ. Cùng với đổi mới về nội dung, chương trình giảng dạy, việc đổi
mới phương pháp dạy học trở thành một trong những vấn đề mang tính chiến lược
cấp thiết và tiến hành mạnh mẽ trước những yêu cầu đổi mới của đất nước. Bộ môn
Lịch sử giúp cho học sinh có được những kiến thức cơ bản cần thiết về lịch sử thế
giới và lịch sử dân tộc, góp phần hình thành ở học sinh thế giới quan khoa học. Đặc
biệt giáo dục truyền thống, đạo đức, tư tưởng chính trị... lại là ưu thế nổi bật của bộ
môn Lịch sử trong nhà trường phổ thông. Vậy làm thế nào để học sinh yêu thích,
hứng thú trong học tập lịch sử ? Nhà văn Nga Tsecnusevski viết: “có thể khơng biết,
khơng cảm thấy say mê học tập mơn Tốn, tiếng Hilạp hoặc Latinh, Hóa học, có thể
khơng biết hàng nghìn khoa học khác, nhưng dù sao là người có giáo dục mà khơng
u thích lịch sử thì chỉ là một con người khơng phát triển về trí tuệ" [29]. Một trong


1


những biện pháp hữu hiệu là sử dụng câu chuyện trong dạy học nhằm gây hứng thú
cho học sinh học tập lịch sử. Thông qua các câu chuyện lịch sử giúp các em tái hiện
lại bức tranh quá khứ chân thực, sinh động, những cuộc kháng chiến hào hùng của
dân tộc, sự hy sinh và chiến đấu quên mình của quân dân ta, tạo ra xúc cảm lịch sử.
Học sinh hứng thú, say mê, tìm hiểu lịch sử sẽ giúp các em nắm vững bản chất các
sự kiện, hiện tượng, hình thành nên khái niệm, hiểu rõ những quy luật, những bài
học quan trọng của lịch sử, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Mặt
khác, việc sử dụng câu chuyện nhằm gây hứng thú học tập lịch sử cho học sinh còn
giúp người thầy thực hiện tốt các phương pháp dạy học và kiểm nghiệm tính hiệu
qủa của các phương pháp đó.
Thực tế việc sử dụng câu chuyện để gây hứng thú cho học sinh trong dạy học
hiện nay ở trường phổ thơng cịn nhiều bất cập. Một bộ phận giáo viên giàu tâm
huyết với nghề thường trăn trở làm sao nâng cao chất lượng dạy và học bộ môn Lịch
sử. Họ đã sưu tầm các tư liệu lịch sử quý báu, xây dựng thành các câu chuyện kể cho
học sinh, được học sinh đón nhận rất hào hứng. Bên cạnh đó, có khơng ít giáo viên
chưa đánh giá đúng tầm quan trọng của những câu chuyện lịch sử để gây húng thú
cho học sinh, nên chưa quan tâm và khai khác câu chuyện lịch sử gắn với kiến thức
cơ bản trong giời học. Nêú có chăng giáo viên cũng chỉ nêu ra các câu chuyện lịch
sử mang tính chất giới thiệu hoặc nhắc tên các nhân vật lịch sử mà không sử dụng
các câu chuyện lịch sử để gây hứng thú cho học sinh. Tình trạng đó làm cho giờ học
trở nên khơ cứng, có nhiều con số, nhiều sự kiện. Vì vậy, học sinh cảm thấy giờ học
lịch sử nặng nề, không tạo được hứng thú học tập lịch sử. Kết quả là nhiều học sinh
cịn hổng kiến thức lịch sử cơ bản, thậm chí hiểu sai lịch sử dân tộc. Theo đó chất
lượng dạy học bộ mơn cịn thấp, chưa đáp ứng được u cầu của đất nước.
Lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954-1975 có vị trí quan trọng trong tiến trình lịch
sử dân tộc. Đây là thời kì nhân dân miền Nam và miền Bắc thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lược khác nhau. Nhân dân miền Bắc vừa hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi

phục kinh tế, xây dựng CNXH, vừa đấu tranh chống lại chiến tranh phá hoại của đế
quốc Mĩ và hết lòng chi viện sức người, sức của cho tiền tuyến lớn miền Nam. Nhân
dân miền Nam anh dũng đấu tranh hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân

2


dân tiến tới thống nhất nước nhà. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu
nước đã đưa nhân dân Việt Nam bước vào thời kì lịch sử mới, thời kì cả nước đi lên
CNXH. Giai đoạn lịch sử quan trọng này có nhiều biến cố lớn, nhiều sự kiện hấp
dẫn thông qua các câu chuyện về sự kiện, nhân vật lịch sử....có tác động mạnh đến
tư tưởng tình cảm của học sinh, hình thành trong các em lý tưởng sống cao đẹp và ý
thức trách nhiệm của mình đối với quê hương, đất nước, tin tưởng vào con đường
XHCN mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn. Đó là điều kiện, là cơ sở để tơi sử dụng có
hiệu quả các câu chuyện lịch sử nhằm gây hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch
sử. Với những lý do trên nên chúng tôi chọn vấn đề: “Sử dụng câu chuyện để gây
hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam (1954-1975) lớp 12
THPT (Chương trình chuẩn)” làm đề tài nghiên cứu luận văn thạc sĩ, chuyên
ngành lý luận và phương pháp dạy học lịch sử.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu, tìm hiểu những vấn đề lý luận của việc sử dụng những
câu chuyện trong dạy học bộ môn và căn cứ vào thực tiễn dạy học lịch sử ở trường
THPT, đề tài đi sâu vào tìm hiểu những câu chuyện tiêu biểu của lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1954-1975, đề xuất một số biện pháp sư phạm sử dụng câu chuyện nhằm
gây hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử ở trường THPT và tiến hành thực
nghiệm một bài cụ thể để khẳng định tính khả thi của các biện pháp đưa ra.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu lý luận của các nhà triết học, các nhà giáo dục học và giáo dục lịch
sử về sử dụng câu chuyện trong các tài liệu giáo dục, giáo dục lịch sử và các tài liệu
lịch sử có liên quan đến đề tài.

- Tìm hiểu chương trình sách giáo khoa, nội dung kiến thức những câu chuyện
tiêu biểu của lịch sử Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975 lớp 12 THPT.
- Tìm hiểu thực tiễn sử dụng những câu chuyện tiêu biểu, chất lượng giảng dạy
bộ mơn, tình hình và sự hứng thú học tập lịch sử của học sinh phổ thông hiện nay.
- Đề xuất một số biện pháp sử dụng câu chuyện trong dạy học lịch sử Việt Nam
giai đoạn 1954-1975 trường THPT. Tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định
tính khả thi của các biện pháp đề ra.

3


4. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Q trình dạy học bộ mơn Lịch sử ở trường THPT.
Đối tượng nghiên cứu: Sử dụng câu chuyện để gây hứng thú cho học sinh trong
dạy học lịch sử Việt Nam (1954-1975) lớp 12 THPT (Chương trình chuẩn).
5. Vấn đề nghiên cứu
Đề tài tập trung vào nghiên cứu hai vấn đề cơ bản sau:
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng câu chuyện để gây
hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử ở THPT.
- Đề xuất các biện pháp sư phạm sử dụng câu chuyện để gây hứng thú cho học sinh
trong dạy học lịch sử Việt Nam (1954-1975) lớp 12 THPT (Chương trình chuẩn)
6. Giả thuyết khoa học
Nếu khai thác tốt câu chuyện lịch sử Việt Nam (1954-1975) lớp 12 THPT
(Chương trình chuẩn) và áp dụng biện pháp, đề xuất trong luận văn sẽ gây hứng thú
học tập cho học sinh, góp phần nâng cao hiệu quả bài học lịch sử ở trường THPT.
7. Giới hạn và phạm vi nghiên cứu
- Đề tài đi sâu tìm hiểu nội dung các câu chuyện lịch sử tiêu biểu liên quan đến
kiến thức cơ bản của các bài học trong nội dung chương trình lịch sử Việt Nam
(1954-1975) lớp 12 THPT (chương trình chuẩn), từ đó đề xuất một số biện pháp sử
dụng câu chuyện lịch sử để gây hứng thú cho học sinh q trình học tập bộ mơn

trong giờ học nội khóa.
- Phạm vi điều tra: Do thời gian có hạn nên chúng tôi tiến hành điều tra thực tế
tại một số trường THPT thuộc các tỉnh, thành phố: Hà Nội, Hưng Yên, Hải Phòng.
- Phạm vi thực nghiệm sư phạm, giới hạn trong giờ học nội khóa, gồm 2 bài lịch sử
Việt Nam (1954-1975) lớp 12, tại trường THPT Vạn Xuân - Hoài Đức - Hà Nội.
8. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Ý nghĩa lý luận của đề tài
Đề tài góp phần làm phong phú thêm lý luận dạy học lịch sử về nội dung kiến
thức và một số biện pháp sử dụng những câu chuyện để gây hứng thú cho học sinh
trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông.
- Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Nghiên cứu lý luận và phương pháp sử dụng câu chuyện nhằm gây hứng thú

4


cho học sinh trong dạy học lịch sử để rút ra kinh nghiệm và nâng cao trình độ nhận
thức của bản thân, đồng thời vận dụng tốt hơn vào thực tiễn giảng dạy sau này.
Giúp các giáo viên có tài liệu tham khảo để sử dụng những câu chuyện nhằm
gây hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam (1954-1975) lớp 12
THPT (Chương trình chuẩn).
9. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu sau
- Nghiên cứu lý luận: Nghiên cứu các tài liệu giáo dục học, giáo dục lịch sử, tài
liệu lịch sử liên quan đến đề tài và nghiên cứu chương trình, nội dung SGK lịch sử
lớp 12 THPT (Chương trình chuẩn).
- Nghiên cứu thực tiễn:
+ Nghiên cứu việc dạy học lịch sử ở trường THPT bằng nhiều hình thức khác nhau
như: dự giờ, quan sát, các hình thức kiểm tra, đánh giá học sinh, trao đổi với giáo viên.
+ Điều tra thực tế để đánh giá mức độ, thực trạng việc sử dụng câu chuyện

nhằm gây hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử thông qua phiếu điều tra giáo
viên, học sinh ở một số trường THPT.
+ Phương pháp thực nghiệm: Soạn bài thực nghiệm theo những dự kiến về biện
pháp mà luận văn đưa ra, tiến hành thực nghiệm sư phạm để khẳng định tính khả thi
của biện pháp đó.
+ Phương pháp thống kê tốn học: Tập hợp và xử lý các số liệu thu được qua
điều tra, thực nghiệm bằng cách lập bảng thống kê số liệu. Từ đó rút ra được nhận
xét khái quát.
10. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần: Mở đầu, Kết luận và khuyến nghị, Tài liệu tham khảo, Phụ lục, nội
dung của luận văn được trình bày trong 2 chương:
Chương 1: Vấn đề sử dụng câu chuyện để gây hứng thú cho học sinh trong dạy
học lịch sử ở trường Trung học phổ thông. Lý luận và thực tiễn.
Chương 2: Một số biện pháp sử dụng câu chuyện để gây hứng thú cho học sinh
trong dạy học lịch sử Việt Nam (1954-1975) lớp 12 Trung học phổ thơng (chương
trình chuẩn).

5


CHƯƠNG 1
VẤN ĐỀ SỬ DỤNG CÂU CHUYỆN ĐỂ GÂY HỨNG THÚ CHO HỌC SINH
TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ Ở TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG.
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Đã có nhiều nhà nghiên cứu giáo dục, nghiên cứu lịch sử trên thế giới và trong
nước có những cơng trình nghiên cứu đề cập đến việc sử dụng tài liệu tham khảo nói
chung, sử dụng câu chuyện trong q trình dạy học bộ mơn lịch sử nói riêng. Đặc biệt,
nghiên cứu phương pháp dạy học bộ mơn, cũng có nhiều hội nghị bàn tới việc đổi mới

phương pháp dạy học lịch sử để phát huy tính tích cực học tập của học sinh, nâng cao
hiệu quả dạy học lịch sử. Bên cạnh đó, cịn có nhiều bài viết về chủ đề này được công
bố trên các tạp chí: “Nghiên cứu giáo dục”, “Nghiên cứu lịch sử”. Nhìn chung, các
cơng trình nghiên cứu đã nêu lên được các vấn đề lý luận và thực tiễn, biện pháp sư
phạm cụ thể để gây hứng thú học tập cho học sinh nhằm nâng cao chất lượng bộ môn.
1.1.1. Tài liệu nước ngoài
Tài liệu tâm lý học, Giáo dục học
Các nhà tâm lý học Xô Viết dựa trên học thuyết Mác - Lênin và học thuyết hoạt
động thần kinh cao cấp của I.V.Paplop đã xem xét hứng thú của con người như là
một trong những hình thức phản ánh hiện thực khách quan vào ý thức con người.
Hứng thú được bộc lộ ở thái độ lựa chọn đối với các đối tượng khác nhau của hoạt
động, ở khuynh hướng đặc biệt hướng đến các đối tượng. Nhiều cơng trình nghiên
cứu của các nhà tâm lý học Liên Xô trước đây đã tập trung vào sự phát triển của
hứng thú nhận thức đối với các môn khoa học và các biện pháp nhằm hình thành
hứng thú nhận thức. A.G.Cơvaliốp trong “Tâm lý học cá nhân” (1971), đã coi hứng
thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đối với một đối tượng nào đó, trên cơ sở đó
có một phương pháp giáo dục tích cực.
Ở một khía cạnh quan trọng khác, nhà giáo dục Liên Xô I.F Khalamốp trong
cuốn “Phát huy tính tích cực học tập của học sinh như thế nào” (1979), tác giả đã
nhấn mạnh đến những câu chuyện khi dạy học: “Khi kể lần đầu tiên về một sự kiện
nào đó, bạn phải truyền đạt chỉ những nét chính của nó mà thơi...”. Ngồi ra ơng cịn

6


đề cập đến việc gây hứng thú trong học tập của học sinh. “Giáo viên giúp học sinh
có cảm xúc niềm vui sướng trong học tập, từ đó sẽ hình thành động cơ học tập, nâng
cao chất lượng dạy học” [20, tr.4]. T.A Ilina cho rằng: “Giảng giải, kể chuyện - dùng
lời nói sinh động của giáo viên đều được sử dụng chủ yếu để truyền thụ tài liệu mới
cho học sinh. Kể chuyện là một trong những phương pháp quan trọng nhất để trình

bày tài liệu một cách có hệ thống. Kể chuyện là một trong những yếu tố cơ bản của
bài học” [53, tr.164].
Trong cuốn “Giáo dục học”, tập I của N.V Savin, đề cập đến vai trò của các câu
chuyện trong dạy học: “Một câu chuyện kể lôi cuốn học sinh, gây nên tiếng vọng
trong tâm hồn các em và tạo ra những tiền đề thuận lợi cho việc hình thành những
tình cảm đạo đức cao cả, tình yêu đối với Tổ quốc, đối với quá khứ và hiện tại của
Tổ quốc, sự tế nhị, sự quan tâm, sự đồng cảm...”. Ngoài ra tác giả cũng nhấn mạnh
“...Trong giờ học giáo viên giải thích hay kể chuyện, học sinh tích cực tìm câu trả lời
cho câu hỏi đã nảy sinh ở các em vào đầu giờ học” [41, tr. 68, 131]. Như vậy, câu
chuyện hay, phù hợp sẽ gây hứng thú cho học sinh trong giờ học.
I.A Lecne trong cuốn “Dạy học nêu vấn đề” đã đề cập đến vai trò của người
giáo viên trong dạy học, trong đó “Giáo viên cần nắm vững nghệ thuật kể chuyện
nêu vấn đề...” [21, tr. 76].
Tài liệu giáo dục lịch sử
M.N.Sacđacốp trong cuốn “Tư duy học sinh” (1970), đã nói rõ vai trị của biểu
tượng lịch sử nói chung, biểu tượng nhân vật nói riêng trong nhận thức lịch sử, đó là
khâu trung gian trong hoạt động tư duy.
Nhà giáo dục Xô Viết N.G.Đairi trong cuốn “Chuẩn bị giờ học lịch sử như
thế nào” tác giả đã đề cập đến tính đa dạng của kiến thức và cần thiết phải trang bị
cho giờ học các phương tiện dạy học, sử dụng tài liệu tham khảo khác để cụ thể hóa
kiến thức trong sách giáo khoa nhằm gây hứng thú cho học sinh. Để có một giờ học
tốt giáo viên phải kết hợp được nhiều khâu khác nhau, quan trọng nhất là tham khảo
các tài liệu để làm cho nội dung bài giảng thêm phong phú và chính xác. Ơng cũng
nhấn mạnh “Phải sử dụng khơng ngừng và có hệ thống tất cả mọi nguồn tư liệu
mn hình mn vẻ ...Tồn bộ cơng tác dạy học sẽ vơ cùng có lợi nếu thầy giáo hiểu

7


môn học trên cơ sở tất cả những nguồn tư liệu hiện nay. Nếu thầy giáo có thể kể

chuyện khơng những về cái mà mình đã đọc và cả về cái mà chính mắt mình trơng
thấy” [40, tr. 13]. Ngồi ra Đairi còn đề cập đến việc dùng câu chuyện để giải thích
bức tranh, các sự kiện, hiện tượng lịch sử.
A.A.Vagin trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử ở trường trung học” (1978),
Nxb giáo dục Matxcơva (tài liệu dịch), đã nêu ra các biện pháp nâng cao chất lượng
dạy học lịch sử trong đó có phương pháp sử dụng tài liệu lịch sử vào dạy học.
Các cơng trình nghiên cứu trên đều đề cập đến hứng thú học tập của học sinh,
nó là cơ sở của sự phát triển nhân cách và tài năng của các em.
1.1.2. Tài liệu trong nước
Trong cuốn “Giáo dục học” của Hà Thế Ngữ - Đặng Vũ Hoạt, tập I, Nxb Giáo
dục Hà Nội (1987) đã chỉ ra rằng, một trong những biện pháp nhằm phát huy tính
tích cực, tính độc lập trong hoạt động nhận thức của học sinh là việc sử dụng tài liệu
tham khảo vào dạy học. Tác giả nêu ra vấn đề để đảm bảo thu hút sự chú ý và phát
huy tính tích cực tư duy của học sinh qua các câu chuyện vui đúng mức.
Đặc biệt trong các giáo trình “Phương pháp dạy học lịch sử” cũng đánh giá
cao vai trò của việc sử dụng tài liệu tham khảo trong đó có tài liệu và những câu
chuyện lịch sử:
Giáo trình “Phương pháp giảng dạy lịch sử” tập I, Nxb Giáo dục Hà Nội
(1976) của Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị tiếp tục khẳng định ý nghĩa quan trọng
của tài liệu lịch sử đối với việc nghiên cứu khoa học cũng như đối với việc dạy học
lịch sử ở trường phổ thông và đã đưa ra một số phương pháp sử dụng tài liệu lịch sử.
Trong cuốn “Phương pháp giảng dạy lịch sử”, Nxb Giáo dục Hà Nội (1992),
đã tái bản có sửa chữa, bổ sung vào các năm 1998, 1999, 2000, 2001 do Phan Ngọc
Liên, Trần Văn Trị chủ biên tiếp tục khẳng định ý nghĩa của việc sử dụng tài liệu
tham khảo và chỉ rõ nguyên tắc, phương pháp sử dụng trong dạy học lịch sử ở
trường phổ thơng.
Giáo trình “Phương pháp giảng dạy lịch sử”, Nxb Giáo dục Hà Nội (1998),
của Phan Ngọc Liên, Trần Văn Trị đã đề cập đến việc sử dụng tài liệu tham khảo: là
một nguồn cung cấp tri thức quan trọng cho học sinh, là một bằng chứng hiển nhiên,


8


hùng hồn, sinh động về một thời đại lịch sử, một nước, một sự kiện, một nhân vật
nhất định. Tài liệu lịch sử giúp cho học sinh cụ thể hóa kiến thức thu nhận được, tạo
một biểu tượng chân thực, rõ ràng, sinh động và làm cho kiến thức của các em được
phong phú, sâu sắc hơn.
Trong cuốn “Phương pháp dạy học lịch sử” của Phan Ngọc Liên (chủ biên),
Trịnh Đình Tùng, Nguyễn Thị Cơi, tập II, Nxb ĐHSP Hà Nội, (2002) đã đề cập một
cách chi tiết hơn vì sao phải sử dụng tài liệu tham khảo, vai trò, ý nghĩa, nguyên tắc
và phương pháp sử dụng. Việc sử dụng tài liệu tham khảo giúp học sinh có cơ sở để
nắm vững bản chất các sự kiện, hình thành các khái niệm, hiểu rõ những quy luật,
bài học quan trọng của lịch sử, rèn luyện cho học sinh thói quen nghiên cứu khoa
học, phát triển tư duy lịch sử.
Bên cạnh đó, trong các tài liệu chuyên khảo của một số tác giả tiếp tục nghiên
cứu và đưa ra ý kiến, đề xuất các biện pháp sử dụng tài liệu tham khảo. Trong đó
cuốn: “Đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông (Một số
chuyên đề)”, Nxb ĐHSP Hà Nội (2005) của Phan Ngọc Liên (cb), đã có một số bài
viết của tác giả đề cập đến việc sử dụng tài liệu dạy học lịch sử ở trường phổ thơng
như: Sử dụng tài liệu Hồ Chí Minh trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông (Phan
Ngọc Liên), Sử dụng văn kiện Đảng trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông (Đỗ
Hồng Thái). Các tác giả đã đưa ra hình thức, biện pháp sử dụng tài liệu Hồ Chí Minh
và văn kiện Đảng trong dạy học bộ môn ở trường phổ thông và khẳng định tầm quan
trọng của nguồn tài liệu này đối với công tác giảng dạy, học tập của GV và HS.
Bài viết của tác giả Phan Ngọc Liên đã đề ra nhiều biện pháp nhằm phát huy
tính tích cực của HS trong dạy học lịch sử, trong đó nhấn mạnh: “Bước thứ nhất của
công việc giảng dạy lịch sử là làm thế nào khêu gợi được hứng thú của HS đối với
việc học tập ..., phải hướng dẫn HS ghi nhớ các nhân vật lịch sử...” [35, tr. 6, 22].
Trong cuốn “Các con đường biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học lịch sử ở
trường phổ thông” của Nguyễn Thị Côi, Nxb ĐHSP Hà Nội (2006) cho rằng: Một

trong những biện pháp để nâng cao hiệu quả bài học là việc trình bày hình ảnh, xúc
cảm lịch sử cho HS để tạo nên hình ảnh về con người, sự kiện trong dạy học lịch sử.
Nguồn gốc, phương tiện tạo nên hình ảnh về sự kiện con người quá khứ trong dạy

9


học lịch sử là lời nói của GV và HS, tranh ảnh, bản đồ, các đoạn trích từ tác phẩm
văn học, nghệ thuật, phim ảnh....Qua đó, khẳng định vai trị quan trọng của việc sử
dụng tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử.
Ngồi ra, vấn đề này cịn được đăng tải trong một số bài viết trên các tạp chí
nghiên cứu giáo dục, nghiên cứu lịch sử:
- Bài viết của Nguyễn Anh Dũng cho rằng môn Lịch sử trong trường phổ thơng
có khả năng giáo dục thẩm mĩ, đặc biệt là khi dạy về các nhân vật lịch sử: “Các
nhân vật lịch sử thực sự làm rung động trái tim HS khêu gợi ở các em những cảm
xúc sâu sắc và hứng thú đối với các nhân vật lịch sử thì mới có hiệu quả giáo dục
thẩm mĩ. Tuy nhiên, khi chọn nội dung và phương pháp trình bày các nhân vật lịch
sử phải tính tốn tới qũy thời gian và cấp độ cảm thụ, tiếp nhận, thưởng thức, đánh
giá đối tượng” [15, tr. 11].
- Võ Xuân Đàn, Đặng Vân Hồ với “Tạo biểu tượng các anh hùng dân tộc trong
dạy học lịch sử Việt Nam” đã đưa ra những nguyên tắc chung về giảng dạy, học tập
các nhân vật lịch sử, cách tạo biểu tượng về các nhân vật lịch sử... [16, tr 12].
- Bài viết về những vấn đề trong dạy học lịch sử ở trường phổ thông hiện nay
của Phan Ngọc Liên - Nguyễn Thị Côi, tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 4 (1991) cũng
đề cập tới thực trạng dạy học lịch sử ở trường phổ thông và ý nghĩa của việc sử dụng
tài liệu tham khảo trong dạy học bộ mơn.
- Trong tạp chí tạp chí Nghiên cứu Giáo dục số 4 năm 2000, trang 21 có bài
viết của Nguyễn Văn Đằng “Phương pháp kể chuyện trong dạy học lịch sử ở THCS”,
tác giả không chỉ nêu lên ý nghĩa, tác dụng của việc kể các câu chuyện lịch sử, mà
còn đưa ra những yêu cầu, biện pháp sư phạm cụ thể để các câu chuyện đạt hiệu quả

trong dạy học lịch sử.
- Bài viết của Trịnh Đình Tùng trong tạp chí giáo dục số 42 (2002), trang 30-31
viết về việc dạy học một số nhân vật lịch sử đầu nhà Nguyễn (1802-1884).
Đặc biệt một số luận án TS, luận văn và khóa luận tốt nghiệp, cũng đề cập đến
vấn đề này và vận dụng lý luận về sử dụng tài liệu tham khảo trong dạy học lịch sử
coi đó là một biện pháp gây hứng thú học tập và nâng cao hiệu quả bài học:

10


- Luận án của Nguyễn Văn Phong “Dạy học các nhân vật lịch sử trong chương
trình lịch sử Viêt Nam 1858-1930 ở trường THPT”, đã khẳng định: ...trong dạy học
lịch sử, hướng dẫn cho học sinh hiểu biết các nhân vật lịch sử trên các lĩnh vực khác
nhau. Tính phong phú đa dạng trong hoạt động của các nhân vật lịch sử giúp học
sinh hiểu sâu sắc hơn về lịch sử.
- Luận văn thạc sĩ khoa học giáo dục của Nguyễn Thị Thơm, khoa Lịch sử
trường ĐHSP Hà Nội (2009), tác giả đã đề cập đến sử dụng câu chuyện về nhân vật
để gây hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam (1945-1954) THPT.
Đồng thời đưa ra những nguyên tắc và biện pháp sử dụng câu chuyện để gây hứng
thú học tập lịch sử cho học sinh.
- Khóa luận tốt nghiệp của Bùi Thị Dinh (1998), “Tìm hiểu tiểu sử và hoạt
động của các nhân vật lịch sử để dạy học lịch sử Việt Nam (1954-1975) ở lớp 12
THPT”. Khóa luận đã đề câp tới vai trò, tác dụng của việc sử dụng tiểu sử và hoạt
động của các nhân vật để dạy học lịch sử Việt Nam và đề ra những biện pháp cụ thể
để góp phần nâng cao hiệu quả bài học.
- Trong khóa luận tốt nghiệp của 2 sinh viên Đào Thị Thúy và Nguyễn Thị
Huyền Trang K55 khoa Lịch sử trường ĐHSP Hà Nội (2009), cũng đã đề cập đến
việc sử dụng các câu chuyện về nhân vật trong dạy học lịch sử Việt Nam (19191945); (1945-1954) lớp 12 THPT. Đồng thời các khóa luận cũng đề ra được một số
biện pháp sử dụng có tính khả thi.
Nhìn chung, các cơng trình đã đi sâu nghiên cứu về tầm quan trọng của việc

sử dụng câu chuyện lịch sử trong dạy học, nó có tác dụng làm cho bài giảng thêm
phong phú, sinh động, học sinh có biểu tượng cụ thể, có hứng thú học tập và có tác
dụng giáo dục, phát triển rất lớn. Đồng thời, khẳng định tính cấp thiết của việc sử
dụng câu chuyện lịch sử để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử. Mặc dù các nhà
nghiên cứu đã đưa ra một số biện pháp sử dụng tài liệu, câu chuyện lịch sử vào dạy
học lịch sử nói chung, nhưng chưa đề cập cụ thể đến việc sử dụng câu chuyện để gây
hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam giai đoạn 1954-1975.
Vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu lý luận về phương pháp sử dụng tài liệu tham
khảo, phương pháp sử dụng câu chuyện lịch sử, đồng thời nghiên cứu nội dung lịch

11


sử Việt Nam (1954-1975). Chúng tôi chọn đề tài “Sử dụng câu chuyện để gây
hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch sử Việt Nam (1954-1975) lớp 12
THPT (chương trình chuẩn)” để tiếp tục đi sâu nghiên cứu và khẳng định vai trò,
ý nghĩa của việc sử dụng câu chuyện nhằm gây hứng thú cho học sinh trong học tập
lịch sử, đồng thời đưa ra các biện pháp sử dụng phù hợp, góp phần nâng cao hiệu
quả bài học trong dạy học lịch sử Việt Nam (1954-1975) lớp 12 THPT.
1.2. Cơ sở lý luận
1.2.1. Cơ sở xuất phát
1.2.1.1. Mục tiêu, nhiệm vụ của bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông
Mục tiêu giáo dục - đào tạo trong nhà trường phổ thông hiện nay là: “Đào tạo
con người Việt Nam phát triển tồn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và
nghề nghiệp, trung thành. Bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công
dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [24, tr. 8].
Từ mục tiêu của giáo dục, xác định mục tiêu của cấp THPT: “Giáo dục THPT
nhằm giúp học sinh củng cố và phát triển những kết quả của giáo dục THCS, hoàn
thiện về những học vấn phổ thông và hiểu biết thông thường về kĩ thuật và hướng
nghiệp, để tiếp tục học đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp, học nghề hoặc

đi vào cuộc sống lao động’’ [23, tr. 17-18].
Mục tiêu của bộ môn Lịch sử là “nhằm giúp cho học sinh có được những kiến
thức cơ bản, cần thiết về lịch sử dân tộc và lịch sử thế giới, góp phần hình thành ở
học sinh thế giới quan khoa học, giáo dục lòng yêu quê hương đất nước, truyền
thống dân tộc, cách mạng, bồi dưỡng các năng lực tư duy, hành động, thái độ ứng xử
đúng đắn trong đời sống xã hội” [6, tr. 3].
Từ mục tiêu chung của môn học, người giáo viên căn cứ vào mục tiêu khóa
trình của mỗi cấp học, mỗi lớp, mỗi phần, mỗi chương và từng bài để dạy học có
hiệu quả:
Một là về kiến thức: Bộ môn Lịch sử ở trường phổ thông cung cấp những
kiến thức cơ bản về lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc, giúp học sinh có được biểu
tượng chân thật về quá khứ lịch sử, bao gồm: sự kiện cơ bản, khơng gian, thời gian,
nhân vật quan trọng, hình thành thuật ngữ, khái niệm, rút ra bài học và quy luật lịch

12


sử (nếu có). Học sinh khơng những “biết”, “hiểu” lịch sử mà còn phải biết vận dụng
những tri thức lịch sử vào giải quyết các bài tập lịch sử để củng cố tri thức, rèn luyện
kĩ năng, kĩ xảo và các phương pháp tư duy đặc biệt là tư duy độc lập, sáng tạo của
HS. Kiến thức cơ bản ấy giúp học sinh trả lời được các câu hỏi như thế nào? Vì sao?
Vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống ra sao?
Hai là thái độ: Bài học hiệu quả phải đạt được mục tiêu giáo dục đề ra. Kết
quả giáo dục thể hiện ở thái độ, xúc cảm của HS đối với các sự kiện, nhân vật,
những phản ứng tự nhiên ...của các em đối với hiện tượng và nhân vật lịch sử.
Những biểu hiện này là cơ sở hình thành cho các em những quan điểm tư tưởng, lập
trường trong quá trình học tập. Giáo dục tư tưởng đạo đức và hình thành nhân cách,
tình cảm đúng đắn, góp phần đào tạo tồn diện con người Việt Nam có tinh thần yêu
Tổ quốc, trung thành với lý tưởng XHCN. Cụ thể là giáo dục lòng yêu quê hương
đất nước, có niềm tin vững chắc vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, noi

gương các thế hệ cha anh đi trước, phấn đấu học tập, rèn luyện đê xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Ba là kĩ năng: Rèn luyện cho học sinh các năng lực nhận thức (tri giác, tưởng
tượng, trí nhớ, tư duy...), năng lực thực hành và các kĩ năng, kĩ xảo trên cơ sở hồn
chỉnh nâng cao những năng lực đã được hình thành ở THCS. Kĩ năng của học sinh
còn được thể hiện trong việc đánh giá đúng sự kiện, vai trò của nhân vật lịch sử, dựa
trên cơ sở kiến thức lý luận đã học để phân tích các hiện tượng xã hội của quá khứ
và hiện tại.
Như vậy, bộ môn Lịch sử ở trường THPT không những cung cấp kiến thức
cơ bản có hệ thống cho HS mà cịn giáo dục tư tưởng, tình cảm đúng đắn và phát
triển tồn diện các em. Điều này phụ thuộc phần lớn vào công tác dạy học của người
GV lịch sử. Sử dụng câu chuyện nhằm gây hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch
sử là một trong những biện pháp để góp phần thực hiện mục tiêu mơn học.
1.2.1.2. Đặc điểm của kiến thức lịch sử
Lịch sử là khoa học nghiên cứu xã hội và con người trong sự phát triển của
nó, nghiên cứu quá khứ cuộc sống của nhân loại một cách tồn diện với những quy
luật chung và tính cụ thể. Vì thế khoa học lịch sử có những đặc trưng riêng so với

13


các khoa học khác, đó là: tính q khứ, tính khơng lặp lại, tính cụ thể, tính hệ thống,
sự thống nhất giữa sử và luận.
Lịch sử mang tính quá khứ: Bao gồm tất cả những sự kiện, hiện tượng lịch sử
đã xảy ra trong quá khứ, chúng ta không thể trực tiếp quan sát lịch sử mà chỉ nhận
thức chúng một cách gián tiếp thông qua các tài liệu được lưu lại hoặc dựa vào các
hiện tượng lịch sử tương tự của cái mới xảy ra hay của các dân tộc khác để phân tích
suy nghĩ về những vấn đề lịch sử ta đang nghiên cứu. Vì vậy, ngồi những kiến thức
trong sách giáo khoa GV còn phải sử dụng thêm các tài liệu tham khảo nói chung và
các câu chuyện lịch sử nói riêng làm căn cứ khoa học, bằng chứng về tính chính xác,

cụ thể của các sự kiện lịch sử, tránh việc hiểu lịch sử một cách chung chung.
Tính khơng lặp lại: Mỗi sự kiện, hiện tượng lịch sử chỉ xảy ra trong một thời
gian, không gian nhất định, khơng có một sự kiện, hiện tượng lịch sử nào hồn tồn
giống nhau, dù có điểm giống nhau. Chính vì lẽ đó, buộc các nhà giảng dạy lịch sử
khi trình bày sự kiện, hiện tượng lịch sử nào đó trong lịch sử phải xem xét tính cụ
thể cả về thời gian và không gian làm nảy sinh sự kiện, hiện tượng đó. Qua đó biết
phân biệt các sự kiện đã xảy ra.
Lịch sử có tính cụ thể: Mỗi sự kiện lịch sử bao giờ cũng diễn ra trong một
hồn cảnh cụ thể, về thời gian, khơng gian, con người. Khoa học nghiên cứu tiến
trình của các nước, các dân tộc khác nhau và quy luật của nó. Mỗi quốc gia, mỗi dân
tộc do những điều kiện lịch sử khác nhau mà mang những nét khác nhau. Chính đặc
điểm này địi hỏi khi trình bày các sự kiện, hiện tượng lịch sử càng cụ thể, sinh động,
có hình ảnh bao nhiêu càng hấp dẫn và gây hứng thú bấy nhiêu.
Tính hệ thống (tính logic lịch sử): Sự vận động của quá khứ tới hiện tại, từ
hiện tại tới tương lai trong hiện thực lịch sử ln là q trình phát triển hợp quy luật.
Đồng thời, tính hệ thống cịn được thể hiện là các sự kiện thuộc các lĩnh vực: chính
trị, qn sự, kinh tế, văn hóa, tư tưởng, khoa học kĩ thuật khơng tồn tại độc lập mà
có mối quan hệ chặt chẽ. Những nội dung của tri thức lịch sử có mối đan xen phức
tạp với nhau. Giúp cho học sinh hiểu sự phong phú, tính đa dạng nhưng có tính hệ
thống của lịch sử xã hội. Điều này đòi hỏi GV khi giảng dạy lịch sử phải chú ý đến
các sự kiện, hiện tượng lịch sử, các mối quan hệ ngang dọc, trước sau của các vấn đề

14


lịch sử để cung cấp cho học sinh những tri thức mang tính khoa học, tính hệ thống
và hồn chỉnh.
Tính thống nhất giữa “sử” và “luận”: Trong giảng dạy lịch sử người GV phải
đảm bảo thống nhất gữa trình bày sự kiện với giải thích, bình luận. Muốn làm tốt
điều này giáo viên cần sử dụng các câu chuyện vào trong giờ dạy lịch sử để cụ thể

hóa được các sự kiện, các nhân vật lịch sử một cách sinh động, phong phú, gây hứng
thú học tập cho học sinh. Vì mọi giải thích, mọi bình luận đều phải xuất phát từ sự
kiện lịch sử cụ thể, chính xác, đáng tin cậy và trên cơ sở đó giúp học sinh hiểu được
bản chất, rút ra quy luật và bài học lịch sử.
1.2.1.3. Đặc điểm tâm lý của học sinh THPT
Quá trình nhận thức của HS cũng tuân theo quy luật chung của quá trình nhận
thức: “Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư duy trừu tượng đến
thực tiễn, đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý, nhận thức hiện thực
khách quan” [22, tr.189]. Nhưng quá trình nhận thức của học sinh mang những đặc
thù riêng: “Một sự nhận thức đã được làm cho dễ dàng đi và được thực hiện dưới sự
chỉ đạo của giáo viên” [31, tr.12]. Quá trình nhận thức của học sinh khơng nhằm
phát hiện những điều lồi người chưa biết về bản chất, quy luật của các hiện tượng
khách quan mà nhằm lĩnh hội các tri thức lồi người đã tích lũy được. Tuy vậy, q
trình khám phá lại những điều loài người đã biết lại mang tính mới mẻ đối với học
sinh. Do đó, địi hỏi các em phải có cố gắng về trí tuệ và có khát vọng học tập, để
dưới sự điều khiển của thầy, học sinh có thể phản ánh thế giới khách quan một cách
có ý thức, có thể đi sâu tìm hiểu bản chất, quy luật, bài học và ý nghĩa của sự vật
hiện tượng.
Học sinh THPT là thời kì cuối của thiếu niên và thời kì đầu của thanh niên (từ
15 đến 18 tuổi), sự phát triển thể chất đang hồn chỉnh, có sự trưởng thành về giới
tính, vai trị xã hội của trẻ em thay đổi rõ rệt. Học sinh THPT ln có xu hướng tìm
hiểu, ham hiểu biết, khám phá các môn khoa học với một thái độ tích cực độc lập
như nhà khoa học và khi đã có hứng thú học tập mơn khoa học nào đó thì sẽ rất say
mê nghiên cứu chúng để đạt kết quả cao. Vì vậy trong giảng dạy, giáo viên cần phải
biết khơi gợi hứng thú học tập của các em, gợi cho các em có niềm đam mê với mơn

15


học. Khi các em đã có hứng thú thì các em sẽ chủ động lĩnh hội kiến thức, tìm tịi

sáng tạo, có óc độc lập suy nghĩ, biết phê phán đánh giá và hồi nghi khoa học, tính
ham hiểu biết, tính ham tìm tịi cái mới, kiên trì chịu khó để hiểu được những gì
mình hồi nghi.
Tóm lại, q trình nhận thức của học sinh trong học tập lịch sử cũng theo chu
trình từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng đến thực tiễn, trong đó giai đoạn
nhận thức quan trọng của học sinh là giai đoạn trực quan. Trong bài giảng, người
thầy sử dụng mọi nguồn tư liệu, những câu chuyện về lịch sử để khắc sâu kiến thức,
tăng tính hình ảnh, để sử dụng sao cho phù hợp với nội dung bài học, gây hứng thú
học tập, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.
1.2.1.4. Yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học lịch sử ở trường phổ thông
Những năm gần đây, việc dạy học lịch sử ở trường phổ thơng đã có nhiều tiến
bộ về nhận thức, nội dung và phương pháp dạy học. Nhiều GV giỏi tâm huyết với
nghề, xác định đúng được trọng tâm kiến thức cơ bản của bài, sử dụng đồ dùng trực
quan hợp lí. Nhưng bên cạnh đó vẫn cịn những vấn đề yếu kém, những sai sót trong
nội dung cũng như phương pháp giảng dạy. Dẫn đến một thực tế hiện nay là HS
khơng thích học lịch sử, điểm thi vào các trường đại học, cao đẳng cịn rất thấp...
trong đó ngun nhân khơng nhỏ là do phương pháp giảng dạy của giáo viên chưa
phù hợp, những giờ giảng lịch sử cịn khơ cứng, chưa gây được hứng thú học tập
cho HS. Vì vậy đổi mới phương pháp dạy học lịch sử trở thành một yêu cầu quan
trọng, góp phần nâng cao chất lượng dạy học bộ môn. Theo chỉ đạo của nghị quyết
29 Trung ương Đảng, đổi mới căn bản và toàn diện: chuyển từ dạy học theo hướng
tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người học, dạy học tích hợp và vận dụng
các phương pháp dạy học mới để HS được trải nghiệm, đóng vai... Nhằm phát triển
tư duy phê phán, khả năng vận dụng một cách linh hoạt, sáng tạo những kiến thức đã
học vào cuộc sống. Muốn thực hiện có hiệu quả chương trình đổi mới trước hết phải
đổi mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học lịch sử. Điều đó phải xuất phát
từ mục tiêu đào tạo, mục tiêu môn học, nội dung, đặc trưng của bộ môn, đặc điểm
của quá trình nhận thức quá khứ, tận dụng mọi phương pháp, phương tiện, hình thức
tổ chức dạy học nhằm phát huy tính tích cực, độc lập, sáng tạo của học sinh. Một


16


trong các phương pháp có hiệu quả cao để gây hứng thú học tập cho học sinh là sử
dụng câu chuyện trong dạy học lịch sử và kết hợp vận dụng nguyên tắc liên môn,
phương pháp dạy học nêu vấn đề, dạy học tích hợp. Lịch sử sẽ cụ thể hơn, sinh động
hơn, nếu được các khoa học khác hỗ trợ nhất là các môn học gần gũi với lịch sử như:
địa lý, chính trị và nhất là văn học.
Như vậy, trong dạy học lịch sử, căn cứ vào mục tiêu giáo dục - đào tạo, nhiệm
vụ của bộ môn Lịch sử theo hướng đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, căn cứ
vào đặc điểm bộ môn, đặc điểm tâm sinh lý và khả năng nhận thức của học sinh
trung học phổ thơng thì việc sử dụng câu chuyện trong dạy học lịch sử nhằm gây
hứng thú học tập lịch sử cho HS để nâng cao hiệu quả bài học lịch sử là điều hết sức
cần thiết.
1.2.2. Quan niệm về sử dụng câu chuyện lịch sử dể gây hứng thú cho học sinh
trong dạy học lịch sử
1.2.2.1. Quan niệm về câu chuyên, kể chuyện
* Truyện lịch sử
Theo “Từ điển thuật ngữ lịch sử phổ thông” của Phan Ngọc Liên nhấn mạnh
“Truyện lịch sử là loại hình văn học về đề tài lịch sử, có phần hư cấu của tác giả, có
phần có thể dùng tài liệu tham khảo về một nội dung lịch sử. Truyện lịch sử có tác
dụng bồi dưỡng tình cảm, giáo dục tư tưởng và gây hứng thú học tập lịch sử cho học
sinh” [37, tr. 432- 433].
*Câu chuyện
Hiện nay chưa có khái niệm đầy đủ, chính xác thế nào là câu chuyện, câu
chuyện lịch sử. Theo từ điển Tiếng Việt của Hồng Phê thì câu chuyện là “sự việc
hoặc chuyện được nói ra” [47, tr. 125].
* Câu chuyện lịch sử
Là câu chuyện về những gì diễn ra trong quá khứ, nó khác với những câu
chuyện bình thường trong đời sống. Câu chuyện lịch sử thường có chủ đề, có tình

tiết, cốt truyện gắn liền với các sự kiện, thời gian, không gian và nhân vật lịch sử cụ
thể. Câu chuyện lịch sử có thể hiểu là những mảnh sự kiện, biến cố lịch sử liên quan
đến nội dung bài học, có khi là những tình tiết liên quan đến các nhân vật lịch sử, có
khi chỉ là giải thích cho một cái tên, một địa danh, cho một khái niệm, thuật ngữ
17


trong bài học. Câu chuyện lịch sử có thể dài, có thể ngắn, tùy thuộc vào mục đích
của người sử dụng.
* Câu chuyện lịch sử khác mẩu chuyện lịch sử
Câu chuyện lịch sử bao gồm cả mẩu chuyện lịch sử. Những câu chuyện lịch sử
được lựa chọn và viết ngắn gọn lại là những mẩu chuyện lịch sử.
* Cấu tạo của một câu chuyện lịch sử
Câu chuyện lịch sử là có chủ đề, nó gồm các yếu tố sau:
- Phần mở đầu (Giới thiệu vấn đề gắn với thời gian, khơng gian, con người cụ
thể, tình huống đặt ra, diễn biến sự kiện).
- Tình tiết phát triển.
- Tình tiết phát triển đến đỉnh cao.
- Sự căng thẳng trong kết cấu.
- Tình tiết giảm dần và kết thúc.
Mở đầu một câu chuyện, giáo viên có thể thu hút học sinh vào ngay câu chuyện,
để các em tập trung chú ý và hứng thú theo dõi câu chuyện. Tình bày tình tiết phải
gợi cảm, xúc động, đồng thời tạo biểu tượng rõ ràng, chân thực. Trong khi trình bày
tình tiết, giáo viên có thể phân tích để học sinh có thể hiểu sâu hơn nội dung, bản
chất sự việc. Kết thúc câu chuyện nên tránh nhạt nhẽo, đột ngột mà phải để lại cho
học sinh một ấn tượng sâu sắc về câu chuyện. Nhà giáo dục Nga U-sin-xki viết:
“Người kể chuyện hay tường thuật một sự kiện không gây cho người nghe có cảm
giác, như cái gì đã qua lâu rồi, mà kể lại sự kiện đó như nó chỉ vừa mới xảy ra ngày
hơm qua mà chính mình được chứng kiến hay nghe kể” [26, tr. 103].
Một câu chuyện được kết cấu và kể lại như vậy mang kịch tính cao, dẫn dắt

người nghe qua các sự kiện, làm cho họ ngày càng hứng thú. Câu chuyện khơng có
sẵn, địi hỏi giáo viên phải chắt lọc từ tài liệu, sắp xếp thành câu chuyện phù hợp với
bài học. Đó là nguồn tài liệu tham khảo quan trọng trong dạy học lịch sử và có vai
trị, ý nghĩa to lớn tạo hứng thú học tập, nâng cao chất lượng dạy học bộ mơn.
* Kể chuyện
“Người kể chuyện là nói có đầu, có đi, trình tự để cho người khác nghe về
câu chuyện nào đó” [62, tr. 135]. Theo Nguyễn Văn Đằng: “kể chuyện lịch sử là
dùng lời nói diễn tả một cách sinh động, hấp dẫn có hình ảnh về một câu chuyện

18


trong quá khứ. Câu chuyện kể có khi chỉ là các mảnh sự kiện, biến cố lịch sử có liên
quan đế nội dung bài học, có khi là những tình tiết liên quan đế nhân vật lịch sử, có
khi chỉ để giải thích cho một cái tên, một địa danh, cho một khái niệm, thuật ngữ
trong bài học” [16, tr. 21].
Việc sử dụng câu chuyện nhằm gây hứng thú cho học sinh trong dạy học lịch
sử nói chung và dạy học lịch sử Việt Nam (1954-1975) ở trường THPT nói riêng là
yêu cầu cần thiết hiện nay. Từ các quan niệm đó cho ta thấy: những câu chuyện lịch
sử là nguồn cung cấp kiến thức cơ bản cho học sinh, góp phần làm cho nội dung của
SGK thêm sinh động, bài giảng lịch sử hấp dẫn. Nội dung của SGK chỉ là những
kiến thức cơ bản, trong khuôn khổ nhỏ hẹp không thể cung cấp hết những kiến thức
sâu rộng cho học sinh hiểu được. Vì vậy, thơng qua các câu chuyện lịch sử, giáo
viên mở rộng kiến thức cho HS, cụ thể hóa, làm phong phú, sâu sắc và khắc sâu
thêm nội dung kiến thức chứa đựng trong SGK. Khi giáo viên kể những câu chuyện
về lịch sử có thể kết hợp với đồ dùng trực quan như: bản đồ, tranh ảnh có liên quan
tới câu chuyện kể cho HS sẽ gây hứng thú học tập lịch sử. Tuy nhiên, việc sử dụng
câu chuyện trong giờ học lịch sử đòi hỏi sự sáng tạo của giáo viên trong sự lựa chọn
câu chuyện và sử dụng như thế nào cho phù hợp với nội dung bài giảng để gây hứng
thú học tập cho HS và nâng cao chất lượng dạy học bộ môn.

1.2.2.2. Quan niệm về “hứng thú” và gây “hứng thú” cho học sinh trong dạy học
lịch sử
* Quan niệm về “hứng thú” và “hứng thú nhận thức”.
Cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn cho thấy hứng thú đóng một vai trị quan trọng
trong việc nâng cao năng lực trí tuệ của con người. Nó là động lực thúc đẩy con
người hoạt động tích cực để đạt đến kết quả mà mình mong muốn. Vì vậy nghiên
cứu về hứng thú là cần thiết với khoa học giáo dục, song đó là một vấn đề hết sức
phức tạp. Therletler Buhle viết: “Nghiên cứu và khảo sát hứng thú là một trong
những vấn đề phức tạp của tâm lí học, vì rằng hứng thú là một hiện tượng đặc biệt
đến nay vẫn chưa được xác định, phức hợp cấu tạo của nó nghiên cứu rất khó vì
ngun nhân của hứng thú là đa dạng” [25, tr. 70].
“Hứng thú” là thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong khoa học cũng như trong
đời sống. Hứng thú là một hiện tượng tâm lý phức tạp, vì vậy vấn đề này được nhiều
19


nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên để trả lời câu hỏi “hứng thú” là gì ?
đã có nhiều quan niệm dựa trên cách tiếp cận khác nhau.
Theo N.G.MôRôZôva: “Hứng thú” từ đối tượng này đến đối tượng khác, đối
với mọi lứa tuổi đều là một niềm vui. Niềm vui thường mang đến cho con người
cuộc sống tốt đẹp, đồng thời cả những khả năng và phương pháp làm việc tốt hơn.
Học tập cũng như bất kì một dạng lao động nào, đều cần thiết mang lại niềm vui cho
con người. Niềm vui là nguồn sáng tạo, thành những chiến công mới trong hoạt
động. “Hứng thú nhận thức” làm cho con người trở thành chủ thể tìm kiếm, ham
muốn tri thức, kiên trì, cần mẫn. Đặc biệt nhờ có hứng thú nhận thức, việc tự giáo
dục, rèn luyện trở thành có phương pháp và có hiệu quả” [56, tr. 3].
“Hứng thú” đó là sự kết hợp độc đáo các q trình tình cảm - ý chí và q trình
trí lực, tính tích cực nhận thức và hoạt động của con người được nâng cao” …
“Đó là thái độ riêng của cá nhân đối với đối tượng, ý thức được ý nghĩa cuộc sống
và sự hấp dẫn về tình cảm gây ra” [19, tr. 4].

Như vậy, hứng thú làm tăng hiệu quả của quá trình nhận thức, làm nảy sinh
khát vọng hành động và hành động sáng tạo. Hứng thú được phân thành nhiều loại:
Hứng thú nghệ thuật, hứng thú thể thao, hứng thú nhận thức... Trong đó hứng thú
nghệ thuật, hứng thú thể thao, hứng thú nhận thức có vị trí quan trọng. Hứng thú nhận
thức là cái tạo ra động cơ quan trọng nhất của học tập, là cơ sở thái độ của HS đối với
học tập, là nguồn thúc đẩy HS học tập một cách say mê. Hứng thú nhận thức khơng chỉ
là sự kích thích bên ngồi mà cịn là q trình kích thích từ bên trong của bản thân HS,
chính sự kích thích từ bên trong đó mới duy trì được lâu dài sự hứng thú.
Để hình thành hứng thú học tập của HS phụ thuộc rất nhiều vào quá trình dạy học.
“Quá trình dạy học nói chung nhằm vào sự chỉ đạo và điều khiển hoạt động nhận thức
của học sinh, là cơ sở giáo dục và phát triển hứng thú nhận thức của họ” [19, tr. 4].
Gây hứng thú cho HS còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, như khả năng diễn đạt,
ngơn ngữ trong sáng, giàu hình ảnh của GV, yếu tố gia đình của học sinh. Tất cả những
điều đó được phối hợp với nhau để kích thích hứng thú học tập của HS, từ đó hoạt động
học tập sẽ trở nên say mê và đạt hiệu quả cao, ngược lại khi đạt kết quả học tập cao sẽ là
yếu tố quyết định để hứng thú học tập tiếp tục được nảy sinh và duy trì.

20


×