Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Nghiên cứu thực trạng đau thắt lưng ở công nhân nhà máy luyện thép Thái Nguyên và áp dụng một số giải pháp can thiệp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 118 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

LƯU THỊ THU HÀ

NGHIÊN CƯU THỰC TRẠNG ĐAU THẮT LƯNG
Ở CÔNG NHÂN NHÀ MÁY LUYỆN THÉP THÁI
NGUYÊN
Và ÁP DỤNG MỘT SỐ GIẢI PHÁP CAN THIỆP

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC

THÁI NGUYÊN - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

LƯU THỊ THU HÀ

NGHIÊN CƯU THỰC TRẠNG ĐAU THẮT LƯNG
Ở CÔNG NHÂN NHÀ MÁY LUYỆN THÉP THÁI
NGUYÊN
Và ÁP DỤNG MỘT SỐ GIẢI PHÁP CAN THIỆP
Chuyờn ngành: Vệ sinh xó hội học và Tổ chức Y tế
Mó số: 62.72.73.15

LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y HỌC



Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS Nguyễn Văn Tư
2. PGS.TS Lê Khắc Đức

THÁI NGUYÊN - 2012
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Vận động là một chức năng quan trọng của các khớp trong cơ thể, nhờ
chức năng này mà con người thực hiện được các hoạt động trong sinh hoạt,
lao động, thể dục thể thao… Khi các khớp bị thay đổi cấu trúc hay chức
năng, hoạt động bình thường của con người sẽ bị ảnh hưởng và ngược lại,
hoạt động khơng đúng của con người có thể gây tổn hại các khớp [99],
[127], [128]. Các kết quả nghiên cứu cho thấy, bệnh lý xương khớp chiếm tỷ
lệ cao [20], [78], chỉ riêng ở Mỹ, có 21 triệu người mắc bệnh thoái khớp, tỷ
lệ mắc viêm khớp dạng thấp chiếm 0,5% dân số Châu Âu và khoảng 0,17 –
0,3% ở các nước Châu Á [32]. Tại Việt Nam, tỷ lệ mắc bệnh xương khớp
của huyện Tân Trường (Hải Dương) là 0,23% dân số [28]. Ở bệnh viện Bạch
Mai, bệnh nhân đến khám và điều trị bệnh xương khớp chiếm 10,4% tổng số
[31]. Do tầm quan trọng và ảnh hưởng to lớn của các bệnh xương khớp đối
với toàn xã hội, thập niên 2000 - 2010 đã được hàng trăm tổ chức từ gần 40
quốc gia trên thế giới gọi là Thập niên Xương và Khớp theo đề xướng của
Lars Lidgren (Thụy Điển).
Đau thắt lưng là một bệnh lý của vùng cột sống thắt lưng có tỷ lệ mắc

cao nhất trong nhóm các bệnh khớp, 60 – 90% dân số trong cuộc đời đã từng
đau thắt lưng, khoảng 50% số người ở độ tuổi lao động bị đau thắt lưng/
năm, [74], [83], [84]. Tỷ lệ đau thắt lưng điều tra tại một thời điểm giao
động từ 12 – 30% [18]. Theo số liệu của Tổ chức Y tế Thế giới, đau thắt
lưng là nguyên nhân thường gặp gây tình trạng ốm đau và mất sức lao động
ở người dưới 45 tuổi [19], thời gian nghỉ việc do đau thắt lưng chiếm 63%
tổng số ngày nghỉ ốm của những người lao động. Chi phí cho điều trị đau
thắt lưng khá cao, theo ước tính ở Mỹ, tổng chi phí để điều trị, đền bù sức
lao động và thiệt hại về sản phẩm lao động do đau thắt lưng gây ra khoảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




2
63 – 80 tỷ USD. Ở Anh, mỗi năm có 1,1 triệu người đau thắt lưng và chi phí
cho y tế khoảng 500 triệu USD [19].
Lao động trong các nhà máy cơng nghiệp có đặc điểm nặng nhọc, tư thế gị
bó, tần xuất hoạt động cao, động tác hoạt động lặp đi lặp lại, độ rung lớn…Đây là
những yếu tố làm tăng gánh nặng có thể dẫn tới đau thắt lưng nói riêng và rối loạn
cơ xương nói chung như tỷ lệ đau thắt lưng ở công nhân lắp ráp xe tải là 65%
[75]; công nhân là hơi 45,8% [16]; lái xe 59,5% [19]. Tỷ lệ rối loạn cơ xương ở
công nhân xi măng là 4,36%, công nhân khai thác đá 2,96% [25], cơng nhân cơ
khí 13,5%, cơng nhân nhà máy hợp kim 15% [39]…
Nhà máy Luyện thép Lưu Xá và nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng
thuộc Tổng công ty Thép Việt Nam được xây dựng từ những năm 60 - 70 của
thế kỷ XX, nhà máy đã từng là niềm tự hào của Việt Nam khi chuyển từ một
nước nơng nghiệp lạc hậu thành nước có cơng nghiệp hiện đại. Từ đó đến
nay, các thiết bị sản xuất dù đã được cải tạo, nâng cấp nhưng không đồng bộ,
phần lớn công nhân phải lao động trực tiếp và làm các công việc nặng nhọc,

theo báo cáo của Y tế cơ sở, số công nhân nghỉ việc do các bệnh khớp khá
cao, tuy nhiên chưa có nghiên cứu nào được thực hiện để xác định tỷ lệ rối
loạn cơ xương và các vấn đề có liên quan. Xuất phát từ những vấn đề trên,
chúng tôi nghiên cứu đề tài “Nghiên cứu thực trạng đau thắt lưng ở công nhân
nhà máy Luyện thép Thái Nguyên và áp dụng một số giải pháp can thiệp” với
ba mục tiêu sau:
1. Mô tả thực trạng đau thắt lưng của công nhân Luyện thép Thái Nguyên.
2. Xác định một số yếu tố liên quan đến đau thắt lưng của công nhân
Luyện thép Thái Nguyên.
3. Đánh giá hiệu quả một số giải pháp can thiệp nhằm giảm thiểu đau
thắt lưng ở công nhân Luyện thép Thái Nguyên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




3
Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Phân loại bệnh khớp
Theo phân loại của Hội nghị nội khoa tháng 5/1976 [4] các bệnh
khớp được xếp loại như sau:
1.1.1. Các bệnh khớp do viêm
- Viêm khớp do thấp: thấp khớp cấp hay thấp tim, viêm khớp dạng
thấp, viêm cột sống dính khớp, viêm khớp mạn tính thiếu niên, viêm khớp
phản ứng hay viêm khớp sau nhiễm khuẩn, viêm khớp vảy nến…
- Viêm khớp do vi khuẩn: lao khớp và cột sống, do tụ cầu, liên cầu,
xoắn khuẩn, do nấm, ký sinh vật, do virut…

1.1.2. Các bệnh khớp khơng do viêm
- Hư khớp (thối hoá khớp): hư khớp nguyên phát hay thứ phát ở cột
sống và các khớp.
- Bệnh khớp sau chấn thương: tràn dịch, tràn máu ổ khớp, viêm, vi
chấn thương nghề nghiệp.
- Dị dạng ở các khớp.
- Do khối u và loạn sản.
1.1.3. Bệnh khớp do nguyên nhân ngoài khớp
- Bệnh hệ thống: Luput ban đỏ hệ thống, xơ cứng bì tồn thể, viêm
da cơ, viêm đa cơ…
- Bệnh chuyển hoá: gút. da sạm, vơi hóa sụn khớp..
- Bệnh máu: Hemophili, Schonlien Henoch.
- Bệnh khớp tiêu hóa, bệnh khớp thần kinh, bệnh khớp cận ung thư...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




4
1.1.4. Thấp ngoài khớp
- Viêm gân và bao gân.
- Viêm dây chằng, bao khớp: viêm quanh khớp (vai, háng), hội chứng
đường hầm cổ tay, ngón lị so.
- Viêm cân cơ, tổ chức dưới da...
Từ bảng phân loại trên cho ta thấy sự đa dạng của các bệnh khớp, tuy
nhiên các trường hợp đau cơ, xương, khớp, thần kinh do các hoạt động trong
lao động rất khó để xác định trong phân loại bệnh theo phương pháp truyền
thống. Do vậy, Liên minh châu Âu đã đưa ra phương pháp phân loại bệnh cho
các trường hợp này và gọi chung là “rối loạn cơ xương”. Như vậy những rối

loạn gây đau các khớp trong cơ thể do hoạt động trong lao động, hoạt động
nghề nghiệp đều nằm trong nhóm “rối loạn cơ xương” và đau thắt lưng là một
trong những bệnh nằm trong nhóm này [22], [38], [48], [64], [79].
1.2. Tình hình rối loạn cơ xƣơng trong cơng nhân
1.2.1. Tình hình rối loạn cơ xương trong công nhân thế giới
Gangopadhyay S. nghiên cứu ở 50 nam công nhân làm việc tại
Baruipur, Calcutta thấy công nhân bị ảnh hưởng bởi rối loạn cơ xương như
đau các khớp bàn tay 40%, đau khớp vai 30%, khớp cổ tay 20% và cột sống
cổ 20%, đặc biệt đau ở lưng có tỷ lệ rất cao chiếm tới 100%. Nghiên cứu cũng
cho thấy có sự tương quan giữa mức độ đau và tư thế làm việc của người lao
động [67].
Một nghiên cứu cắt ngang được Hussain T. tiến hành ở 461 công nhân
lắp ráp xe tải, kết quả 79% số người được điều tra có các triệu chứng rối loạn
cơ xương trong 12 tháng qua. Các triệu chứng rối loạn cơ xương phổ biến
nhất là đau thắt lưng (65%), đau cột sống cổ (60%), đau vai (57%). Các rối
loạn cơ xương có liên quan đến tuổi tác, tuổi nghề và nhóm lao động [76].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




5
Tác giả Dunning KK và cộng sự thống kê các dữ liệu từ trung tâm bồi
thường công nhân Ohio trong thời gian từ năm 1999-2004 thấy rằng rối loạn
cơ xương là một gánh nặng của các nhà quản lý công nghiệp Hoa Kỳ trong đó
có tới 50% các khiếu kiện địi bồi thường do đau thắt lưng, chỉ có 26,9% các
khiếu kiện do đau cột sống cổ và 21,7% do hội chứng cổ vai cánh tay [61].
Qua thống kê từ 52 nghiên cứu ở 65 nhóm đối tượng gồm những người
lao động thủ cơng, nhân viên văn phịng, chun gia y tế, công nhân sản xuất,

công nhân công nghiệp, nhân viên quân sự và nghệ sỹ biểu diễn, Briggs AM
cho biết tỷ lệ hiện mắc đau cột sống lưng dao động từ 3,0% - 55,0% [53].
Nghiên cứu của Mostafa G. cho biết tỷ lệ đau thắt lưng của nữ công
nhân công nghiệp I Ran là 27%, tỷ lệ đau thắt lưng của nam công nhân là
20% [93].
Nagasu M. và cộng sự nghiên cứu về tình trạng đau thắt lưng của các
đầu bếp ở Nhật Bản cho biết tỷ lệ đau thắt lưng cấp là 72,2% ở nam giới và ở
nữ là 74,7% [96].
Năm 2003, Zejda JE, Stasiów B. nghiên cứu 685 phim x-quang cột
sống công nhân mỏ than thấy 188 trường hợp hẹp khe khớp cột sống (26,9%)
và thối hóa cột sống là 332 trường hợp chiếm 47,5% [131].
1.2.2. Tình hình đau cơ xương trong cơng nhân Việt Nam
Đánh giá gánh nặng lao động ở công nhân là hơi của các cơng ty may
Nguyễn Đình Dũng, Lê Thu Nga và cộng sự cho biết tỷ lệ tỷ lệ rối loạn cơ
xương tại một thời điểm là 90,8%, tỷ lệ đau thắt lưng là 45,8%, đau mỏi khớp
vai sau lao động là 57,7%, đau mỏi gáy là 50,5%, khuỷu tay 38,7%, cổ tay
27,3%, bàn tay 26,1% [16].
Nghiên cứu ảnh hưởng của rung tồn thân tới cơng nhân lái xe tải lớn,
xe máy thi cơng, Nguyễn Thị Tồn cho biết tỷ lệ đau thắt lưng của công nhân
lái xe là 72,2% cao gấp 5,69 lần những người khơng lái xe. 92,8% có hình ảnh

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




6
Xquang cột sống bất thường trong đó có 14/360 người bị xẹp đốt sống và
6/360 người bị biến dạng hình thang đốt sống L2 [37]
Trần Thanh Hà và cộng sự nghiên cứu tác hại nghề nghiệp ở người

chăn gia súc gia cầm thấy tỷ lệ rối loạn cơ xương ở những người chăn nuôi gà
36,8%, chăn nuôi gia súc 30,7%, người trồng và chế biến thức ăn là 43,2%
trong đó đau thắt lưng có tỷ lệ cao nhất 30 - 40%, cơng nhân vắt sữa bị có tỷ
lệ đau mỏi khớp cổ tay, bàn tay tới 37,8%. Đặc biệt, nghiên cứu so sánh tỷ lệ
đau các khớp trước và sau lao động cho thấy đặc điểm lao động nghề nghiệp
có tác động rõ rệt đến các khớp của công nhân ví dụ đau khớp cổ tay, bàn tay
ở cơng nhân vắt sữa bò trước và sau lao động là 8,9% - 37,8%, tỷ lệ đau thắt
lưng của người chế biến thức ăn chăn nuôi trước giờ lao động là 54,5%, sau
lao động là 81,8% [21].
Phạm Thị Thúy Hoa và cộng sự ở viện Vệ sinh dịch tễ Tây Nguyên
nghiên cứu môi trường lao động và bệnh tật của 1965 công nhân một số
ngành nghề ở Tây Nguyên năm 2006 thấy tỷ lệ rối loạn cơ xương ở công nhân
xi măng là 4,36%, công nhân khai thác đá 2,96%, công nhân điện, thủy điện
1,08% và các ngành nghề khác là 11,77% [25].
Nghiên cứu về môi trường và sức khỏe tại nhà máy cơ khí và nhà máy
hợp kim sắt Thái Nguyên, Đàm Thương Thương và cộng sự cho biết 51%
công nhân nhà máy cơ khí và 93% cơng nhân nhà máy hợp kim có tư thế lao
động bất hợp lý, tỷ lệ rối loạn cơ xương ở nhà máy cơ khí là 13,5%, nhà máy
hợp kim là 15% [39].
Qua các nghiên cứu cho thấy, các rối loạn cơ xương thường gặp trong
công nhân là đau cột sống cổ, đau khớp gối và một số các khớp có liên quan
đến các hoạt động của công nhân trong công việc, đặc biệt đau thắt lưng
chiếm tỷ lệ khá cao vậy nguyên nhân và các yếu tố liên quan với nó là gì? Đó
là câu hỏi mà chúng tơi cố gắng tìm lời giải đáp.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





7
1.3. Nguyên nhân và các yếu tố liên quan với đau thắt lƣng
* Sơ lược về giải phẫu và sinh lý cột sống thắt lưng
Cột sống thắt lưng gồm 5 đốt sống, được đánh số từ L1 đến L5, có 4
đĩa đệm và 2 đĩa đệm chuyển đoạn (ngực - thắt lưng và thắt lưng – cùng). Cột
sống thắt lưng có cấu tạo giải phẫu phù hợp chức năng là tham gia vận động
với động tác có biên độ rộng, linh hoạt như gập, duỗi, nghiêng và xoay, đồng
thời còn có chức năng chịu lực nâng đỡ nửa trên cơ thể. Trong từng đoạn cột
sống có nhiều đơn vị chức năng gọi là đoạn vận động, theo khái niệm của
Junghanns và Schmorl đoạn vận động là một đơn vị cấu trúc và chức năng
vận động của cột sống gồm các thành phần: nửa phần thân đốt sống lân cận,
dây chằng trước, sau, dây chằng vòng, khớp đốt sống và tất cả phần mềm,
những bộ phận ở cùng đoạn cột sống tương ứng, lỗ sống, lỗ liên đốt cũng như
những khe khớp giữa mỏm gai sau, gai ngang của đốt sống [7].
Nhân nhày

Hình 1. Mơ hình đoạn vận động của cột sống
Như vậy tất cả những biến đổi gây tác động về giải phẫu, sinh lý, chức
năng của đoạn vận động cột sống đều có thể là nguyên nhân dẫn đến ĐTL.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




8
1.3.1. Nguyên nhân đau thắt lưng
* Nguyên nhân tại cột sống
- Ngun nhân có nguồn gốc từ đĩa đệm
+ Thối hoá đĩa đệm (hư đĩa đệm) là nguyên nhân hay gặp, có thể

chiếm tới 85% các trường hợp [5]. Các thay đổi thối hố hoặc lồi đĩa đệm ở
ít nhất 1 đĩa đệm thắt lưng gặp ở 35% bệnh nhân trong độ tuổi 20 - 39 và hầu
như gặp ở tất cả các bệnh nhân trên 50 tuổi.
+ Rách vòng sợi của đĩa đệm, do một phần ba ngoài của đĩa đệm có các
dây thần kinh nên khi rách vịng sợi ở vùng này có thể gây đau lưng và chi dưới.
+ Thoát vị đĩa đệm gây triệu chứng chèn ép rễ thần kinh.
+ Hẹp ống sống gây chẻn ép tuỷ sống và rễ thần kinh. Hẹp ống sống
mắc phải có thể do thối hố cột sống, lồi hoặc thốt vị đĩa đệm, thoái hoá
dây chằng, trượt đốt sống.
- Nguyên nhân từ hệ thống cơ: những thay đổi về sự thăng bằng của hệ
thống cơ cột sống có thể dẫn đến nguy cơ ĐTL [24].
- Nguyên nhân do dây chằng: ở bệnh nhân thoái hoá nặng các dây
chằng trở nên dày và mất tính đàn hồi, khiến cho ống sống có thể hẹp lại khi
cột sống ở tư thế duỗi do dây chằng lồi vào trong ống sống [24].
- Hư đốt sống (thoái hoá đốt sống): thoái hoá thân sống là các thay đổi
thối hố khơng do viêm nhiễm xảy ra ở thân sống.
- Lỗng xương: lỗng xương có thể là nguyên phát ở người lớn tuổi
(týp II), phụ nữ sau mãn kinh (týp I) hoặc loãng xương thứ phát do bất động
lâu, do bệnh về chuyển hoá hay do dùng corticoid kéo dài.
- Nguyên nhân do bất thường bẩm sinh cột sống
Các rối loạn nguồn gốc phôi thai của cột sống, rối loạn liên quan đến q
trình đóng ống sống, vẹo cột sống…là những nguyên nhân bẩm sinh gây ĐTL.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




9
- Các nguyên nhân khác gây tổn thương tại cột sống

Tổn thương cột sống thắt lưng do chấn thương, các nguyên nhân do
viêm, các khối u, các trường hợp thất bại sau phẫu thuật có thể gây ĐTL.
* Nguyên nhân ngoài cột sống
Khi nghiên cứu các nguyên nhân ngoài cột sống, các tác giả thấy rằng
tổn thương các tạng trong, ngồi ổ bụng và tiểu khung có thể dẫn tới ĐTL như
các bệnh thận tiết niệu, bệnh đường sinh dục, đường đường tiêu hóa… Tuy
nhiên các trường hợp ĐTL này bao giờ cũng kết hợp với các triệu chứng khác
của tạng bị bệnh. Một số yếu tố khác như yếu tố tâm thần, trường hợp thấp
khớp cận ung thư cũng có thể là nguyên nhân gây ĐTL.
1.3.2. Những nghiên cứu về các yếu tố liên quan ĐTL trong lao động
1.3.2.1. Những nghiên cứu về các yếu tố liên quan với ĐTL trên thế giới
Nghiên cứu một số trường hợp ĐTL ở các ngành nghề như nông dân,
lâm nghiệp và đánh cá cho thấy 45% các trường hợp ĐTL do hoạt động lặp đi
lặp lại, 11% ĐTL do những tổn thương khi làm việc, 23% được cho là do cả
hoạt động lặp lại và tổn thương khi làm việc [55].
Violante FS. và cộng sự thực hiện một nghiên cứu cắt ngang ở 3.702
đối tượng làm việc trong các siêu thị trung bình (n = 100) và đại siêu thị lớn
(n = 7) ở miền Trung, miền Bắc Italy về tỷ lệ ĐTL để trên cơ sở đó có những
chính sách phù hợp. Kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ ĐTL là 34,5% (36,6% đối
với nữ và 30,7% đối với nam giới) với vài sự khác biệt được tìm thấy giữa các
siêu thị và đại siêu thị, sự căng thẳng tâm thần như khơng hài lịng với cơng
việc là ngun nhân hàng đầu gây ĐTL [118].
Có tổng cộng 352 cơng nhân công nghiệp ở Chicago được điều tra theo
dõi dọc trong vòng 12 tháng để đánh giá sự tái phát của ĐTL. Kết quả tỷ lệ
ĐTL tái phát là 24,4%; tỷ lệ mới mắc là 2,3%. Các yếu tố về căng thẳng tâm
lý, khối lượng công việc được xác định là yếu tố nguy cơ gây ĐTL [89].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





10
Một nghiên cứu đã được Nagasu M. và cộng sự thu thập về tình trạng
ĐTL của các đầu bếp ở Nhật bản [96]. Kết quả trong số 5.835 người tham gia
nghiên cứu với 1.010 nam độ tuổi trung bình là 41,4 và 4.825 phụ nữ độ tuổi
trung bình là 47,5, tỷ lệ ĐTL trong khoảng thời gian 1 tháng là 72,2% ở nam
giới và ở nữ là 74,7%. Qua phân tích thấy có sự liên quan giữa ĐTL với một
số yếu tố như môi trường nhà bếp, chiều cao của thiết bị nấu nướng gắn liền
với sự phổ biến của bệnh đau thắt lưng. Sự căng thẳng tại nơi làm việc, tài
chính khó khăn, lo lắng về tương lai... được xác định có liên quan với ĐTL.
Để thử nghiệm giả thuyết cơng việc liên quan đến cơ khí và các yếu tố
tâm lý có thể gây ĐTL, Harkness E F. nghiên cứu trên 1186 công nhân tại 2
thời điểm 12 và tháng 24 sau khi được tuyển dụng vào làm việc, kết quả một
vài công việc liên quan đến cơ khí như nâng trọng lượng nặng với một hoặc
hai tay, nâng khối lượng nặng ở trên vai, kéo trọng lượng nặng, quỳ hoặc ngồi
xổm 15 phút hoặc lâu hơn có thể gây khởi phát ĐTL. Trong số các yếu tố tâm
lý được kiểm tra, làm việc căng thẳng và nhàm chán cũng gây ĐTL. Ngồi ra,
điều kiện làm việc nóng cũng được dự đoán gây khởi phát ĐTL [71].
1.3.2.2. Những nghiên cứu về các yếu tố có liên quan đến ĐTL ở Việt Nam
Dương Thế Vinh (2001) nghiên cứu trên những công nhân hái chè
nông trường Thanh Ba (Phú Thọ) cho biết tỷ lệ ĐTL là 40,3%, điều kiện lao
động vất vả, tư thế lao động gị bó là yếu tố nguy cơ dẫn đến tỷ lệ ĐTL cao
như vậy. Có sự liên quan giữa tỷ lệ ĐTL và thâm niên hái chè, nhóm có thâm
niên hái chè dưới 10 năm tỷ lệ ĐTL 29,76%, nhóm thâm niên trên 20 năm tỷ
lệ ĐTL cao hơn rõ rệt là 49,56% [45].
Năm 2001 Lê Thế Biểu nghiên cứu tình hình ĐTL ở một số đối tượng
lao động và đơn vị quân đội thuộc tỉnh Hải Dương, Quảng Ninh thấy tỷ lệ
ĐTL 27,29%, trong đó tỷ lệ ĐTL ở những cơng nhân 27,11%, ở quân nhân
làm nhiệm vụ lái xe tải, lái xe tăng là 28,08% và ở học sinh là 25,21%.


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




11
Nghiên cứu cịn cho thấy có 47,88% ĐTL sau khi nâng vác nặng. Điều tra tại
phân xưởng đóng bao của nhà máy xi măng Hồng Thạch và cơng nhân bảo
quản vũ khí ở kho KV4 thấy 100% số cơng nhân bốc vác (nâng vác và xếp
các bao xi măng 50 kg lên ô tô, khiêng xếp thùng đạn vào kho) đều bị ĐTL.
Có thể do tải trọng được đặt lên cột sống một cách đột ngột đã làm tỷ lệ ĐTL
cao như vậy. Có 25,21% quân nhân nghĩa vụ quân sự ở đảo bị ĐTL, điều kiện
sống của những quân nhân này ở trong mơi trường khí hậu khắc nghiệt và
ln sống trong một tâm lý căng thẳng vì xa nhà, xa đất liền là những yếu tố
nguy cơ có thể có liên quan đến tỷ lệ ĐTL ở đối tượng này [8].
Khi nghiên cứu điều liện lao động đặc thù và tình hình ĐTL ở cơng
nhân lái xe Bella mỏ than Cọc Sáu Quảng Ninh (2002), Nguyễn Thị Thu Hà
cho biết tỷ lệ ĐTL của công nhân tại thời điểm điều tra là 59,5% và có 70,6%
cơng nhân đã từng bị ĐTL trong quá trình lao động. Tỷ lệ ĐTL xuất hiện sau
một ngày làm việc tới 88,7%, do người cơng nhân lái xe có điều kiện lao động
đặc thù phải tiếp xúc với rung tần số thấp trong suốt thời gian ngồi lái kết hợp
với tư thế ngồi bắt buộc là những yếu tố thuận lợi cơ bản cho sự xuất hiện
ĐTL, đặc biệt ở cuối ca làm việc [19].
Nguyễn Đình Dũng và cộng sự nghiên cứu tình hình đau thắt lưng ở
cơng nhân may cơng nghiệp cho biết tỷ lệ đau thắt lưng ở công nhân may là
60,5%, cao gấp 2,8 lần nhóm giáo viên (p < 0,05). Có 98,2% cơng nhân may
xuất hiện ĐTL trong và cuối ca lao động, ĐTL gây ảnh hưởng tới lao động và
sinh hoạt của công nhân rõ rệt: phần lớn công nhân may (76,7%) và giáo viên
(100%) đều hạn chế công việc và hạn chế vận động do ĐTL, số công nhân bị

rối loạn giấc ngủ chiếm tỷ lệ 38,3% và hạn chế tình dục 3,9%, cao hơn nhóm
giáo viên, 11,2% công nhân may và 2% giáo viên phải nghỉ việc vì ĐTL. Tỷ
lệ ĐTL cấp tính và bán cấp tính là 88,7%. Ngun nhân gây ĐTL ở cơng
nhân may được cho rằng do lao động ở tư thế gò bó [15].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




12
1.4. Các giải pháp can thiệp đau thắt lƣng
1.4.1. Sơ lược về các phương pháp điều trị ĐTL
* Các phương pháp điều trị bảo tồn ĐTL: có rất nhiều phương pháp
điều trị bảo tồn có thể lựa chọn điều trị cho các trường hợp ĐTL
- Sử dụng thuốc: có thể sử dụng các thuốc chống viêm, giảm đau khơng
có nhân Steroid (non – steroid) hoặc loại có nhân steroid, các thuốc giãn cơ an
thần và các Vitamin nhóm B.
- Phong bế giảm đau cạnh cột sống, phong bế vào rễ thần kinh ở lỗ
ghép khi xác định chắc chắn vị trí định chọc hoặc phong bế ngồi màng cứng
cho các trường hợp ĐTL do căn nguyên đĩa đệm.
- Tiêm Hydrocortison vào đĩa đệm: phương pháp này được Feifer HL.
là người đầu tiên tiêm cho 18 bệnh nhân năm 1956, 14 bệnh nhân kết quả tốt.
Tuy nhiên phương pháp này hiện nay khơng được áp dụng vì thao tác khó và
nhiều biến chứng [43].
- Các phương pháp Vật lý trị liệu: nhiệt trị liệu, kéo giãn cột sống, điện
trị liệu, xoa bóp…
- Điều trị bằng phương pháp Đơng y như châm cứu, bấm huyệt.
* Điều trị bằng phương pháp can thiệp tối thiểu
Phương pháp điều trị can thiệp tối thiểu được áp dụng điều trị cho các

trường hợp ĐTL có nguyên nhân do đĩa đệm cột sống mà muốn tránh một cuộc
phẫu thuật, có thể lựa chọn điều trị bằng một trong các phương pháp sau [43]:
- Liệu pháp làm mất nước bằng dung dịch ưu trương
- Phương pháp hóa tiêu nhân
- Phương pháp tiêm ozon oxygen vào đĩa đệm
- Điều trị giảm áp đĩa đệm bằng tia laser
* Điều trị bằng phương pháp phẫu thuật: điều trị phẫu thuật chỉ đặt ra với
những trường hợp ĐTL do thoát vị đĩa đệm cột sống mức độ nặng hoặc điều trị
nội khoa thất bại. Có thể lựa chọn áp dụng một trong các phương pháp sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




13
- Cắt đĩa đệm bằng đường vào phía sau
- Cắt đĩa đệm thắt lưng bằng kính vi phẫu
- Cắt đĩa đệm thắt lưng bằng nội soi vi phẫu
- Cắt đĩa đệm và hàn xương bằng đường vào phía trước cột sống
- Cắt đĩa đệm và hàn xương tự thân bằng đường vào phía sau
- Phương pháp cấy nhân đĩa đệm giả
1.4.2. Những nghiên cứu can thiệp ĐTL trên thế giới
1.4.2.1. Can thiệp bằng tác động vào KAP của đối tượng
932 bệnh nhân tuổi từ 18-65 được tham gia một thử nghiệm lâm sàng
can thiệp về tâm lý xã hội nhằm giảm thiểu sự lo lắng, trầm cảm, cải thiện
chất lượng cuộc sống cho những người ĐTL ở 38 Trung tâm Chăm sóc sức
khỏe Barcelona Tây Ban Nha và các khu vực lân cận. Kết quả các đối tượng
nghiên cứu đã cải thiện đáng kể hiểu biết về bệnh do vậy giảm được sự lo
lắng về bệnh [103].
37 đối tượng bị ĐTL cấp tính và mạn tính được Paatelma M và cộng

sự điều trị bằng tư vấn để thay đổi kiến thức, thái độ và các hoạt động trong
điều trị bệnh, đánh giá sau điều trị 3 tháng, 6 tháng và 1 năm thấy có sự cải
thiện đáng kể tình trạng ĐTL và đau thần kinh tọa ở các đối tượng trên [98].
Tác giả Rozenberg S cho rằng các yếu tố chính gây ĐTL trở thành mạn
tính là những yếu tố cá nhân, yếu tố tâm lý hoặc các yếu tố xã hội nghề
nghiệp trong đó các yếu tố xã hội nghề nghiệp gây nhiều ảnh hưởng hơn so
với các yếu tố vật lý, các liệu pháp làm thay đổi nhận thức, hành vi và trị liệu
phục hồi chức năng có thể cải thiện đáng kể tình trạng ĐTL [104].
Một bảng thống kê 495 tin tức từ báo chí và tạp chí xuất bản năm 20012003 và 2005-2006 ở Na Uy cho thấy thông tin về yếu tố nguy cơ đau thắt
lưng, phương phám khám, điều trị và phòng ngừa là chủ đề được đề cập nhiều
nhất, 44- 62% các ấn phẩm có hướng dẫn các động tác đúng trong hoạt động

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




14
hàng ngày và trong công việc, kết quả người dân có kiến thức về đau thắt
lưng tốt hơn nhờ những bài báo này [82].
108 bệnh nhân ĐTL mạn tính tự nguyện tham gia vào thử nghiệm lâm
sàng và được chia ngẫu nhiên vào ba nhóm điều trị: Nhóm 1 điều trị bằng
phương pháp vật lý trị liệu và vận động trị liệu, nhóm 2 điều trị vận động trị
liệu, nhóm 3 điều trị bằng tư vấn thay đổi hành vi. Trong 4 tuần đầu, khơng có
sự khác biệt kết quả điều trị giữa các nhóm, sau 6 tháng nhóm 1 giảm cường
độ đau hơn các nhóm cịn lại. Thử nghiệm cho thấý các phương pháp điều trị
riêng biệt không hiệu quả để cải thiện ĐTL mạn tính [113].
1.4.2.2. Can thiệp bằng tác động vào hệ thống chăm sóc sức khỏe
Tại Anh các bác sỹ gia đình là nơi liên hệ đầu tiên các bệnh nhân tìm
kiếm chăm sóc sức khỏe, Chính phủ Vương quốc Anh dự định rằng các bác sĩ

gia đình sẽ có trách nhiệm trong việc quản lý, cấp giấy chứng nhận bệnh tật
và đưa ra lời khuyên đến các bộ phận quản lý lao động của các đối tượng trên.
Coole C. và cộng sự qua nghiên cứu 441 bác sỹ gia đình thấy rằng 76,8% các
bác sỹ chưa đáp ứng được nhiệm vụ, do vậy, một chương trình hoạt động
nhằm thay đổi nhận thức của các bác sỹ gia đình về vai trị của họ để đáp ứng
được nhu cầu của chính phủ đã được thực hiện [56].
Đau thắt lưng mạn tính là một bệnh phổ biến địi hỏi có sự chăm sóc
sức khỏe thường xun và tuân thủ các hướng dẫn theo những người chăm
sóc sức khỏe trong khoảng thời gian dài. Wasiak R. đưa ra mơ hình quản lý,
chăm sóc bệnh nhân ĐTL gồm những người chăm sóc sức khỏe nghề nghiệp,
các hãng bảo hiểm lao động, các bác sĩ gia đình…sự phối hợp hoạt động của
những đối tượng này đóng vai trị quan trọng để quản lý, chăm sóc, giáo dục
nâng cao kiến thức cho bệnh nhân ĐTL [122].
Vai trò của y tế cơ sở trong hoạt động của chương trình rất quan trọng.
Werner EL thực hiện một nghiên cứu so sánh kiến thức, thái độ và thực hành

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




15
của 1105 bác sĩ vật lý trị liệu và bác sĩ chuyên khoa xương khớp trong ba
quận của Na Uy về quản lý và điều trị cho những bệnh nhân ĐTL. Kết quả
nghiên cứu cho thấy các bác sỹ chuyên khoa xương khớp có số lượng bệnh
nhân ĐTL lớn nhất trong tổng số bệnh nhân của họ nên họ thể hiện quan tâm
mức độ cao nhất cho nhóm bệnh nhân này. Khơng có sự khác biệt cơ bản về
kiến thức giữa các nhóm bác sĩ, 77% bác sĩ vật lý trị liệu sẽ tham khảo với
bác sĩ thần kinh những trường hợp đau thần kinh tọa cấp tính, trong khi chỉ
24% bác sĩ chuyên khoa xương khớp làm như vậy. 65% các bác sĩ và 10%

bác sĩ chuyên khoa xương khớp giới thiệu bệnh nhân ĐTL mạn tính điều trị
vật lý trị liệu. Các bác sĩ và bác sĩ vật lý trị liệu có sự hợp tác tốt, trong khi
các bác sĩ chuyên khoa xương khớp dường như ít khi giới thiệu bệnh nhân
những phương pháp chữa bệnh khác. Một phần năm các bác sĩ và bác sĩ
chuyên khoa xương khớp và 13% bác sĩ vật lý trị liệu chẩn đốn ĐTL cấp tính
có dựa vào phim xquang. Rất ít bác sĩ cho rằng có thể chữa khỏi ĐTL, ngồi
ra ít người tin rằng có thể tìm thấy một ngun nhân chính xác cho bệnh nhân
ĐTL [124].
1.4.2.3. Can thiệp bằng các phương pháp nội khoa
305 bệnh nhân ĐTL được Liu M, Huang ZM chia một cách ngẫu nhiên
thành hai nhóm, một nhóm 153 bệnh nhân điều trị bằng phương pháp phong
bế thần kinh và một nhóm 152 bệnh nhân điều trị bằng sóng cực ngắn với
dịng điều biến tần số trung bình phối hợp với mát xa và tập luyện chức năng.
Kết quả sau điều trị, mức độ đau và tầm vận động cột sống thắt lưng được cải
thiện ở cả hai nhóm và kết quả điều trị của nhóm phong bế thần kinh tốt hơn
nhóm điều trị sóng cực ngắn kết hợp với Massage [85].
Một báo cáo về tác dụng điều trị của diclofenac kết hợp với điều trị
bằng động lực quang học cho các bệnh nhân đau thắt lưng kèm cao huyết áp
thấy: điều trị diclofenac đưa vào tĩnh mạch thời gian ngắn trước khi điều trị

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




16
động lực quang học đã làm giảm một cách có ý nghĩa mức độ đau của những
bệnh nhân ĐTL có cao huyết áp [111].
Vorsanger GJ đánh giá sự an toàn và hiệu quả của Tramadol trong điều
trị cho 386 bệnh nhân đau thắt lưng mạn tính. Bệnh nhân được chia thành 3

nhóm; chọn ngẫu nhiên n = 128 người điều trị Tramadol 300 mg/lần/ngày; n
= 129 bệnh nhân điều trị Tramadol 200 mg/lần/ngày và n = 129 điều trị giả
dược. Kết quả nghiên cứu cho thấy mức độ giảm đau của nhóm tiêm 300 mg
tốt hơn nhóm điều trị bằng giả dược với p = 0,009, nhóm tiêm 200 mg cũng
có sự cải thiện khác biệt với nhóm dùng giả dược p = 0,052, chất lượng giấc
ngủ cả 2 nhóm điều trị Tramadol cải thiện đáng kể (p ≤ 0,029) so với giả
dược. Kết quả nghiên cứu khơng thấy có sự khác biệt về kết quả điều trị giữa
nhóm hai nhóm điều trị Tramadol. Các tác dụng khơng mong muốn hay gặp
là buồn nơn, táo bón, nhức đầu, chóng mặt, mất ngủ, và tiêu chảy [119].
Phương pháp tiêm corticosteroid - procaine ngồi màng cứng cho
bệnh nhân đau lưng mãn tính do thối hóa khơng đáp ứng với các thuốc
chống viêm không steroid được Dulović D. và cộng sự điều trị cho 60 bệnh
nhân tuổi từ 34-85. Kết quả 92% bệnh nhân giảm cường độ đau đớn sau ba
tháng [62].
1.4.2.4. Can thiệp bằng các phương pháp Vật lý trị liệu
Các tác giả Waller B, Lambeck J, Daly D. áp dụng phương pháp thể
dục dưới nước để điều trị cho các trường hợp ĐTL trong đó có nguyên nhân
ĐTL liên quan đến mang thai ở nữ. Kết quả cho thấy tập thể dục dưới nước có
tác dụng giảm ĐTL, tuy nhiên nghiên cứu cũng cho thấy phương pháp này
không tốt hơn các biện pháp can thiệp khác cho bệnh nhân bị đau thắt lưng và
đau thắt lưng liên quan đến có thai [121].
Năm 2008, Helmhout PH. và cộng sự ở Thụy Sĩ đánh giá hiệu quả điều
trị ĐTL bằng phương pháp vật lý trị liệu cho 127 quân nhân bằng tập thể dục

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




17

và tập aerobic, một nhóm tập với tần xuất 2 lần/1 tuần, một nhóm tập thường
xuyên, kết quả cho thấy cả hai nhóm mức độ ĐTL giảm dần sau 10 tuần điều
trị và tốt dần ở 12 tháng tiếp theo [72].
Nghiên cứu của Fritz JM, Cleland JA và cộng sự đã nghiên cứu qua hồ sơ
thanh toán của các nhà bảo hiểm cho 471 bệnh nhân ĐTL cấp tính, kết quả cho
thấy bệnh nhân được điều trị vật lý trị liệu có kết quả tốt hơn điều trị kê đơn
thuốc (57,2% so với 46,2%, p < 0,05), chi phí thấp hơn (trung bình $ 167, p
<0,05), triệu chứng đau được cải thiện hơn và tàn tật cũng được cải thiện [65].
Macario A điều trị 94 ĐTL mạn tính do đĩa đệm bằng DRX9000. kết
hợp với nhiệt nóng hoặc với nước đá và kích thích cơ bắp bằng điện. Kết quả
tỷ lệ giảm đau được cải thiện 83% ở các đối tượng nghiên cứu [86].
Kỹ thuật điều trị laze qua da kết hợp với hỗn hợp O2 – O3 được Zhao
B, Shao GH, Yu Y. áp dụng điều trị cho 48 bệnh nhân có thời gian đau kéo
dài trên 6 tháng. Kết quả cho thấy kỹ thuật laze qua da kết hợp với hỗn hợp
O2- O3 là phương pháp hiệu quả và an toàn trong điều trị đau thắt lưng nguồn
gốc do đĩa đệm [132].
Năm 2008, Yousefi-Nooraie R và cộng sự nghiên cứu hiệu quả của
laser công suất thấp trong điều trị các rối loạn cơ xương như đau lưng, nghiên
cứu chỉ ra kết quả điều trị phụ thuộc nhiều vào thời gian điều trị, bước sóng
và liều lượng sử dụng [130].
1.4.2.5. Can thiệp bằng các biện pháp khác
Muto M mô tả phương pháp tiêm ozon (O2-O3) trong đĩa đệm để điều
trị cho 2.900 bệnh nhân dưới hướng dẫn của X quang (CT). Kết quả ở 6 và 12
tháng tỷ lệ thành công là 75% -80% cho các trường hợp ĐTL, 70% ở đối
tượng thoát vị một đĩa, và 55% cho thốt vị tầng [95].
Dùng đai hỗ trợ thắt lưng có thể ngăn chặn sự khởi đầu đau thắt lưng
hoặc ngăn ngừa tái phát của các trường hợp ĐTL (phòng chống) hay khơng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





18
Van Duijvenbode IC, Jellema P. đánh giá hiệu quả điều trị của phương pháp
qua tám nghiên cứu điều trị trên 1.361 người, kết quả nghiên cứu chưa chứng
minh rõ hiệu quả của phương pháp so với các can thiệp khác [115].
56 bệnh nhân được Maurer P lựa chọn điều trị bằng nhiệt điện trong
các đĩa đệm, kết quả mức độ đau lưng của bệnh nhân được cải thiện rõ rệt so
với trước điều trị (p = 0,0001), khả năng hoạt động như ngồi, đứng, và đi bộ
cải thiện với p = 0,0001 [87].
Đĩa đệm nhân tạo đã có lúc được gọi là "vàng" để điều trị đau thắt lưng
và ĐTL có đau thần kinh tọa do thối hóa đĩa, tuy nhiên Mulholland RC thấy
đây là phương pháp cịn có những hạn chế [94].
Với mục tiêu nghiên cứu tính khả thi và tác dụng điều trị của phương
pháp thiền, một chương trình dành cho cộng đồng người lớn tuổi bị đau thắt
lưng mạn tính, Morone NE nghiên cứu ở 89 người có độ tuổi trung bình 74,9,
tỷ lệ nữ là 57%, thời gian thiền trung bình 4,3 ngày một tuần và trong khoảng
31,6 ngày. Chương trình cho thấy có sự cải thiện đau đớn, cải thiện chức năng
ở những người tham gia nghiên cứu [92].
Các tác giả Wei J, Zhao P, Zhou W. tiến hành điều trị cho những bệnh
nhân ĐTL và đau thần kinh toạ mạn tính bằng mát xa 1 lần một tuần, mỗi lần
kéo dài 45 phút ở vị trí các nhóm cơ cạnh cột sống, cơ vùng thắt lưng chậu, đùi
và ở chân. Kết quả cho thấy điều trị bằng Massage có hiệu quả làm giảm cường
độ đau thắt lưng và làm tăng tầm vận động đối với những bệnh nhân này [123].
Hiệu quả của Massage trong điều trị ĐTL được Quinn F khảo sát qua
đường bưu chính 500 đới tượng ở các Viện quốc tế và Trung tâm thể dục

.


Những người được hỏi cảm nhận Massage có một ảnh hưởng tích cực làm
giảm ĐTL (94,3%), cải thiện giấc ngủ, giảm lo lắng và căng thẳng [101].
Nghiên cứu của Kloth DS. và cộng sự đưa ra các tiêu chuẩn lựa chọn
các bệnh nhân điều trị theo phương pháp lấy bỏ một phần đĩa đệm qua da
bằng nhiệt như sau:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




19
1. Bệnh nhân đau thắt lưng kéo dài có thể kèm đau chân và không đáp
ứng với ≥ 6 tuần chăm sóc bảo tồn.
2. Bệnh nhân có tiền sử đau thắt lưng do đĩa đệm, khơng có biểu hiện
triệu chứng thần kinh rõ rệt ở chi dưới.
3. Có hình ảnh nhân nhầy thoát vị qua phim cộng hưởng từ với chiều
cao đĩa đệm ít nhất cịn lại 50% [81].
48 bệnh nhân ĐTL được chẩn đoán xác định nguyên nhân do đĩa đệm
được Jawahar A. và cộng sự áp dụng phương pháp điều trị làm cứng khớp
CSTL. Kết quả 46% có cải thiện kết quả lâm sàng, 48% có cứng khớp ở thể
rắn. Kết quả nghiên cứu cho thấy hội chứng đau có nguồn gốc đĩa đệm có
thể được điều trị bằng cách làm cứng khớp [77].
1.4.3. Những nghiên cứu can thiệp ĐTL tại Việt Nam
1.4.3.1. Can thiệp bằng tác động vào KAP của đối tượng
Lê Trinh điều trị cho 989 bệnh nhân đau cột sống thắt lưng bằng các
phương pháp không dùng thuốc: với bệnh nhân ĐTL được hướng dẫn bất
động khi đang đau nhiều, giảm đau bằng nhiệt, với bệnh nhân đau bán cấp
và mạn tính điều trị phương pháp vận động trị liệu kết hợp với điều chỉnh
các động tác trong sinh hoạt và lao động phù hợp. Kết quả tình trạng đau của
bệnh nhân được cải thiện đáng kể, nghiên cứu còn đưa ra một số vấn đề

trong lao động và sinh hoạt cần tránh để giảm tình trạng đau lưng như sự quá
gắng sức khi lao động, các động tác đột ngột khơng thích ứng, các chấn
động nhỏ liên tục như đi ô tô đường xa, đi xe đạp bị xóc nhiều, sự mẫn cảm
của cơ thể người già với thời tiết [41].
1.4.3.2. Can thiệp bằng các phương pháp khác
Lưu Thị Hiệp phối hợp châm cứu và kéo giãn cột sống thắt lưng điều
trị cho 29 bệnh nhân đau cột sống thắt lưng do thối hóa ở cơ sở 3, Bệnh
viện Đại học Y dược thành phố Hồ Chí Minh, lứa tuổi từ trên 30 trong đó
nam có 7 trường hợp, nữ có 22 trường hợp làm ở nhiều ngành nghề khác
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




20
nhau. Kết quả, hầu hết bệnh nhân có cảm giác đau giảm sau 5 ngày điều trị,
chỉ có 2 trường hợp đỡ ít do đi lại nhiều trong q trình điều trị, khả năng
vận động của cột sống cũng tăng rõ rệt với độ tin cậy 95% [23].
28 bệnh nhân lứa tuổi từ 20 – 48, trong đó có 4 nữ và 24 nam bị thoát
vị đĩa đệm cột sống đã được Nguyễn Xuân Thản và cộng sự lựa chọn ngẫu
nhiên điều trị 8 bệnh nhân bằng bấm huyệt, 20 bệnh nhân điều trị bằng kéo
giãn cột sống. Kết quả điều trị nhóm bệnh nhân kéo giãn cột sống có 50%
kết quả tốt, khơng có trường hợp nào khơng tiến triển, nhóm bệnh nhân
điều trị bấm huyệt có 6 trường hợp chỉ đỡ ít, 2 trường hợp điều trị khơng
kết quả [36].
Phạm Văn Minh điều trị 18 bệnh nhân vẹo cột sống tự phát bằng đeo
áo nẹp chỉnh hình (TLSO) trong 2 năm từ tháng 1/2000 đến tháng 12/2001
tại xưởng chỉnh hình bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội). Đối tượng nghiên cứu
được lựa chọn là những bệnh nhân dưới 17 với nữ và dưới 19 tuổi với nam
có vẹo cột sống tự phát và chịu đeo nẹp 16 giờ/ngày. Kết quả nghiên cứu

cho thấy áo nẹp chỉnh hình TLSO có thể nắn chỉnh được vẹo cột sống tự
phát ở 50% các trường hợp nghiên cứu, có khả năng phịng ngừa triển tiến
vẹo cột sống [33].
Năm 1997, Đoàn Sỹ Quốc và cộng sự đã so sánh tác dụng điều trị
giữa hai phương pháp điện từ trường và châm cứu cho 61 bệnh nhân đau
lưng do thối hóa. Kết quả trong số 30 bệnh nhân điều trị châm cứu có 16
bệnh nhân đạt loại A, 14 bệnh nhân đạt loại B. Trong số 31 bệnh nhân điều
trị điện từ trường có 5 bệnh nhân đạt loại A, 15 bệnh nhân đạt loại B, 11
bệnh nhân đạt loại C. Như vậy, châm cứu có tác dụng giảm đau hơn hẳn
điện từ trường, châm cứu có tác dụng giảm đau ngay sau khi châm cứu và
giảm rõ sau vài lần điều trị, trái lại giảm đau của điện từ trường không được
rõ rệt nhưng điện từ trường có ưu điểm bệnh nhân khơng phải bộc lộ vùng
điều trị [35].
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




21
1.5. Một số đặc điểm về nhà máy Luyện thép
1.5.1. Đặc điểm nhà máy Luyện thép Lưu xá
Nhà máy Luyện thép Lưu Xá (trước đây gọi là xưởng Luyện thép Lưu
Xá) là một đơn vị thành viên của Công ty Gang thép Thái Nguyên thuộc Tổng
công ty Thép Việt Nam (Vietnam Steel Coporation - VSC) được thành lập ngày
21/11/1964 (theo QĐ số 2472-KH/Cty). Đến nay nhà máy đã hoạt động được 47
năm, mặc dù dây chuyền sản xuất nhà máy đã được cải tiến, nhưng bản chất vẫn
là nhà máy có dây chuyền sản xuất lạc hậu.
* Hình thức tổ chức sản xuất của nhà máy
Nhà máy Luyện thép Lưu Xá là một hệ thống gồm hai phân sản xuất
chính và các phân xưởng phụ trợ.

- Hai phân xưởng sản xuất chính là Phân xưởng Cơng nghệ: nấu luyện
ra thép phôi và Phân xưởng Nguyên liệu : gia công chế biến nguyên vật liệu
phế thép, gang cung cấp cho phân xưởng công nghệ để nấu luyện thép .
- Các phân xưởng, bộ phận sản xuất phụ trợ như phân xưởng Cơ điện
và Phân xưởng sản xuất Vật liệu luyện kim để sản xuất khí nén, axetylen, vơi,
bột chèn, chế tạo chi tiết phụ tùng đơn giản, cuốn động cơ, cung cấp phát điện
nước dự phòng ...
- Bộ phận phục vụ: hoá nghiệm, vận chuyển bốc xếp, cung ứng vật tư,
bộ phận động lực (oxy, điện, nước).
- Nhà ăn hiện trường: phục vụ nấu ăn bồi dưỡng giữa ca và độc hại
cho toàn thể CBCNV trong nhà máy. Phụ trách vấn đề vệ sinh an toàn thực
phẩm [30].
* Các bước cơ bản trong q trình cơng nghệ
Nhà máy Luyện thép Lưu xá hiện nay sản xuất thép lỏng từ thép phế và
gang (lỏng hoặc thỏi) bằng lò điện hồ quang (lò SCS, SCCS+LF) và thực hiện

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




22
đúc rót thơng qua hệ thống máy đúc liên tục 4 dịng theo trình tự các bước
cơng nghệ chính như sau:
- Chuẩn bị nguyên liệu: gang, sắt thép phế và chất trợ dung được tập
kết về khu vực chuẩn bị liệu, tại đây chúng được phân loại, gia công chế biến
theo đúng yêu cầu để đưa sang nấu luyện.
- Nấu luyện thép: nguyên vật liệu và các chất trợ dung được nạp vào lò
luyện thép. Khi thép lỏng đạt yêu cầu về nhiệt độ, thành phần hoá học và các
yêu cầu khác được tháo ra khỏi lò và chuyển sang khâu đúc rót.

- Đúc rót thép: thép lỏng được đúc rót trên máy đúc liên tục 4 dịng bán
kính cong 4 m phơi có tiết diện, chiều dài và mác thép tuỳ theo kế hoạch.
- Nghiệm thu và nhập kho: sản phẩm được nghiệm thu theo tiêu chuẩn
quy định, phế phẩm, hồi liệu được đưa trở lại khâu nguyên liệu để chuẩn bị cho
nấu luyện lại.

PX Cơ điện

Thép phế, gang …

( S/c, cuốn đ.cơ, gia
công chi tiết …)

BP Cung ứng V.tư

Phân xưởng Nguyên liệu

PX SXVL LK
( Sản xuất axêtylen,
vôi, bột chèn…)

BP Hố nghiệm

Phân xưởng Cơng nghệ

BP Vận chuyển
BP Bốc xếp
BP Động lực

Kho thành phẩm


Sơ đồ 1. Sơ đồ kết cấu sản xuất của Nhà máy Luyện thép Lƣu Xá

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




23

* Tình hình sử dụng thời gian lao động
Do tính chất đặc trưng của công nghệ và yêu cầu sản xuất, nhà máy bố
trí sản xuất theo 3 ca, mỗi ca làm việc 8 giờ. Bộ phận lao động gián tiếp làm
việc tuần 5 ngày, mỗi ngày 8 tiếng. Số ngày công làm việc theo chế độ = số
ngày theo lịch - số ngày nghỉ tiêu chuẩn [30].
1.5.2. Đặc điểm nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng
Nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng là một đơn vị thành viên thuộc
Công ty gang thép Thái Nguyên do nước cộng hòa dân chủ Đức viện trợ xây
dựng ngày 23/3/1971. Sau 4 năm, ngày 1/5/1975, nhà máy đi vào hoạt động.
Cho đến nay nhà máy đã hoạt động được 36 năm, nhưng các lò sản xuất chỉ
được nâng cấp trên cơ sở những lò luyện cũ nên còn lạc hậu nhiều so với cơng
nghệ Luyện thép của thế giới hiện nay.
* Hình thức tổ chức sản xuất của nhà máy
Hình thức tổ chức sản xuất của nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng gần
tương tự như hình thức tổ chức sản xuất của nhà máy Luyện thép Lưu Xá,
trong đó thêm một bộ phận cán thép ở phân xưởng Công nghệ.
* Các bước cơ bản trong q trình cơng nghệ
Nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng hiện nay sản xuất thép lỏng từ thép
phế và gang bằng 4 lị điện với cơng suất 9 tấn/mẻ. Dây chuyền cán thép công
suất 10 vạn tấn/năm. Các bước công nghệ từ nguyên liệu nấu luyện thành thép

thỏi giống nhà máy Luyện thép Lưu Xá, sau đó thêm một công đoạn đưa thép
thỏi qua hệ thống dây chuyền cán thành thép trịn trơn hoặc thép dẹt có kích
thước tùy theo kế hoạch.
* Tình hình sử dụng thời gian lao động
Nhà máy Luyện cán thép Gia Sàng cũng bố trí sản xuất theo ca giống
như nhà máy Luyện thép Lưu Xá [13].

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




×