Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Trách nhiệm bảo vệ quyền con người trong việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.63 KB, 92 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐOÀN VĂN NHẬT

TRÁCH NHIỆM BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG VIỆC ỨNG DỤNG TRÍ TUỆ NHÂN TẠO

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

ĐOÀN VĂN NHẬT

TRÁCH NHIỆM BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI
TRONG VIỆC ỨNG DỤNG TRÍ TUỆ NHÂN TẠO

Chuyên ngành : Pháp luật về quyền con người
Mã số

: 8380101.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. LÃ KHÁNH TÙNG

Hà Nội – 2020




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả được nêu trong Luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ cơng
trình nào khác. Các trích dẫn, số liệu, ví dụ minh họa trong Luận văn bảo
đảm tính trung thực, tin cậy và độ chính xác. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này kính đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 09 năm 2020
NGƯỜI CAM ĐOAN

Đoàn Văn Nhật


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AGI

AI

ICCPR

ICESCR

UDRH

UNDP


UPR

Artificial General Intelligence
(Trí tuệ nhân tạo tổng quát)
Artificial Intelligence
(Trí tuệ nhân tạo)
International Convenant on Civil and Polotical Rights
(Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị)
International Convenant on Economic, Social and Cultural Rights
(Cơng ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa)
Universal Declaration of Human Rights
(Tun ngơn phổ qt về quyền con người)
United Nations Development Programme
(Chương trình phát triển Liên hợp quốc).
Universal Periodic Review
(Cơ chế đánh giá định kỳ toàn thể)


MỤC LỤC
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1 .......................................................................................................... 8
KHÁI QUÁT VỀ TRÍ TUỆ NHÂN TẠO VÀ QUYỀN CON NGƯỜI ...... 8
1.1.

Trí tuệ nhân tạo và q trình phát triển của nó .......................... 8


1.1.1.

Khái niệm và đặc điểm của trí tuệ nhân tạo ............................... 8

1.1.2.

Lược sử q trình phát triển của trí tuệ nhân tạo .................... 11

1.2.

Quyền con người và chủ thể có trách nhiệm bảo vệ .................. 15

1.2.1.

Khái niệm quyền con người ...................................................... 15

1.2.2.

Trách nhiệm bảo vệ quyền con người ....................................... 17

1.2.3.

Chủ thể có trách nhiệm bảo vệ quyền con người...................... 20

1.3.

Mối quan hệ giữa trí tuệ nhân tạo và quyền con người............. 24

1.4.


Sự cần thiết của việc tăng cường trách nhiệm bảo vệ quyền con

người trong việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo ............................................ 27
Chương 2 ........................................................................................................ 31
ẢNH HƯỞNG CỦA VIỆC ỨNG DỤNG TRÍ TUỆ NHÂN TẠO ............ 31
ĐỐI VỚI TRÁCH NHIỆM BẢO VỆ QUYỀN CON NGƯỜI ................. 31
2.1.

Những ảnh hưởng tích cực của trí tuệ nhân tạo đối với trách

nhiệm bảo vệ quyền con người................................................................. 31
2.2.

Những ảnh hưởng tiêu cực của trí tuệ nhân tạo đối với trách

nhiệm bảo vệ quyền con người................................................................. 33
2.2.1.

Quyền bình đẳng, khơng bị phân biệt đối xử và được xét xử

công bằng ................................................................................................ 34


2.2.2.

Quyền sống và an toàn cá nhân ................................................ 35

2.2.3.

Quyền riêng tư........................................................................... 37


2.2.4.

Quyền sở hữu ............................................................................ 39

2.2.5.

Quyền tự do ngôn luận và biểu đạt ........................................... 41

2.3.

Những thách thức đối với các chủ thể có trách nhiệm bảo vệ

quyền con người trong việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo ......................... 43
2.3.1.

Về phía các nhà nước ................................................................ 43

2.3.2.

Về phía các doanh nghiệp ......................................................... 50

2.3.3.

Về phía các chủ thể khác........................................................... 53

Chương 3 ........................................................................................................ 55
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG TRÁCH NHIỆM BẢO VỆ QUYỀN CON
NGƯỜI TRONG VIỆC ỨNG DỤNG TRÍ TUỆ NHÂN TẠO
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM ............................ 55

3.1.

Giải pháp tăng cường trách nhiệm bảo vệ quyền con người

trong việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo ....................................................... 55
3.1.1.

Giải pháp thể chế ...................................................................... 55

3.1.2.

Giải pháp kỹ thuật ..................................................................... 64

3.1.3.

Giải pháp xã hội ........................................................................ 67

3.2.

Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam về tăng cường trách

nhiệm bảo vệ quyền con người khi ứng dụng trí tuệ nhân tạo ............. 68
KẾT LUẬN .................................................................................................... 76
DANH MỤC CÁC CƠNG TRÌNH ĐÃ CƠNG BỐ ................................... 78
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN VĂN ................................................................... 78
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 79


MỞ ĐẦU


1.

Tính cấp thiết của đề tài

Quyền con người là những giá trị phổ quát, thiêng liêng mà bất cứ ai
không phân biệt dân tộc, màu da, địa vị xã hội, giới tính, tuổi tác … đều được
hưởng thụ như nhau. Những giá trị phổ quát, thiêng liêng ấy được thừa nhận
và được bảo vệ bởi các văn kiện pháp lý quốc tế, hệ thống pháp luật quốc gia
và hệ thống các cơ quan chuyên môn về quyền con người. Trách nhiệm bảo
vệ quyền con người trên thực tế thuộc về mọi tổ chức, cá nhân, song vai trò
đầu tiên và trước hết thuộc về Nhà nước. Bởi lẽ, tất cả cá nhân và tổ chức
trong xã hội vừa là chủ thể của quyền, vừa là chủ thể của trách nhiệm trong
mối quan hệ với quyền con người. Các Nhà nước cũng vậy, vừa là chủ thể
đóng vai trị chính trong việc bảo vệ quyền con người, đồng thời cũng là chủ
thể chính vi phạm quyền con người. Trách nhiệm bảo vệ quyền con người yêu
cầu tất cả các chủ thể có trách nhiệm tơn trọng, bảo đảm và thúc đẩy quá trình
thực hiện quyền được thừa nhận trong Bộ luật Nhân quyền quốc tế và hệ
thống pháp luật quốc gia bằng hệ thống các cơ quan chuyên môn.
Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư đang diễn ra và có
sức lan tỏa rất mạnh mẽ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. AI với tư
cách là một trong những thành tựu nổi bật của cuộc Cách mạng cơng nghiệp
lần thứ Tư chưa có một định nghĩa thống nhất, mà được hiểu theo nhiều
phương diện khác nhau. Điều này là do sự phát triển nhanh chóng của cơng
nghệ số, định nghĩa về AI cũng phát triển và ngày càng mở rộng nội hàm.
Nếu như trước đây AI được biết đến thông qua các bộ phim khoa học viễn
tưởng thì ngày nay nó đã hiện diện ở tất cả các lĩnh vực của đời sống theo
những chiều hướng khác nhau. Một mặt, AI đem lại những lợi ích như: hỗ trợ
chẩn đốn hình ảnh, phát hiện bệnh hiểm nghèo, dự báo thiên tai, tham gia
vào q trình quản trị nhà nước… Mặt khác, AI có thể bị lạm dụng, trở thành


1


tác nhân xâm phạm quyền con người, nhất là trong điều kiện cường độ phát
triển nhanh chóng thì sự vi phạm sẽ không dừng lại.
Trong các điều kiện ngăn chặn sự vi phạm quyền con người: chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội và pháp luật… thì pháp luật có vai trị quan trọng
nhất. Bởi vì, ở phạm vi quốc tế, pháp luật là sự ghi nhận của Liên hợp quốc và
các tổ chức quốc tế khác; ở phạm vi quốc gia, pháp luật được nhà nước thừa
nhận về giá trị của con người, là phương tiện hữu hiệu để Liên hợp quốc, các
tổ chức quốc tế, tổ chức khu vực và các nhà nước bảo vệ, thúc đẩy quyền con
người. Pháp luật tạo ra những nguyên tắc, tiêu chuẩn, căn cứ pháp lý để mọi
chủ thể thực hiện trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của chính mình
và những cá nhân bị vi phạm; và chính pháp luật còn được thể hiện trong mối
quan hệ với các điều kiện khác như: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… Pháp
luật quốc tế, khu vực và các quốc gia đều quy định trách nhiệm bảo vệ quyền
con người. Tuy nhiên, trong điều kiện hoàn cảnh là sự phát triển mạnh mẽ của
khoa học, công nghệ, đặc biệt là việc ứng dụng AI ngày càng phổ biến, thì hệ
thống những quy định và vai trò của các cơ quan chun mơn có trách nhiệm
bảo vệ quyền con người chưa thật sự phù hợp.
Việt Nam là quốc gia đang phát triển, có nền văn hóa đa dạng, có lực
lượng lao động đơng đúc... việc ứng dụng AI ít nhiều được thể hiện trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên, cũng như các quốc gia khác,
khuôn khổ pháp luật ở Việt Nam quy định về trách nhiệm bảo vệ quyền con
người vẫn còn những hạn chế nhất định, nhất là khi ứng dụng AI – một lĩnh
vực mới, ln phát triển khơng ngừng.
Chính bởi những lý do trên mà tác giả lựa chọn đề tài: “Trách nhiệm
bảo vệ quyền con người trong việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo” làm luận
văn thạc sĩ của mình. Thơng qua luận văn, tác giả mong muốn góp phần làm
sáng tỏ những nội dung lý luận, thực tiễn và pháp luật về trách nhiệm bảo vệ

quyền con người trong việc ứng dụng AI trên phạm vi toàn cầu và một số khu
vực, quốc gia đi đầu trong lĩnh vực này. Từ đó tác giả đề xuất giải pháp tăng
2


cường trách nhiệm bảo vệ quyền con người khi ứng dụng AI nói chung, đồng
thời gợi mở bài học kinh nghiệm cho Việt Nam trong thời gian tới.
2.

Tình hình nghiên cứu

Quyền con người và trách nhiệm bảo vệ quyền con người là nội dung
quan trọng được cộng đồng quốc tế và các quốc gia đặc biệt coi trọng trong
hoạt động xây dựng và thực hiện pháp luật. Trong điều kiện sự phát triển
mạnh mẽ của khoa học, công nghệ mà đặc biệt là hệ thống AI, trách nhiệm
bảo vệ quyền con người khỏi những rủi ro từ AI gây ra lại càng quan trọng
hơn bao giờ hết. Để hoàn thành luận văn này, tác giả nghiên cứu, tham khảo
những nhóm tài liệu sau:
Thứ nhất, nhóm cơng trình nghiên cứu về quyền con người và trách
nhiệm bảo vệ quyền con người nói chung: Giáo trình “Lý luận và pháp luật về
quyền con người” do nhóm tác giả Nguyễn Đăng Dung, Vũ Công Giao, Lã
Khánh Tùng thuộc Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội (đồng chủ biên), Nxb Chính trị
quốc gia, 2015; Sách tham khảo “Giới thiệu Công ước quốc tế về các quyền
dân sự và chính trị (ICCPR, 1966)”, do nhóm tác giả Lã Khánh Tùng, Vũ
Công Giao, Tường Duy Kiên thuộc Trung tâm nghiên cứu quyền con người
và quyền công dân biên soạn, Nxb Hồng Đức, 2012; Sách “Doanh nghiệp và
quyền con người – Một số vấn đề cơ bản”, do nhóm tác giả Nguyễn Thị
Thanh Hải, Lã Khánh Tùng, Đinh Hồng Hạnh biên soạn, Nxb. Tri thứ, 2017;
Sách tham khảo “Cơ quan nhân quyền quốc gia 101 câu hỏi – đáp” do tác giả
Lã Khánh Tùng biên soạn, Nxb Hồng Đức, 2017.

Thứ hai, nhóm cơng trình nghiên cứu về ngành khoa học máy tính và AI,
bao gồm cả tài liệu tiếng Việt và tiếng Anh. Tài liệu tiếng Việt gồm: Sách
“Trí tuệ nhân tạo – Các phương pháp giải quyết vấn đề và kỹ thuật xử lý tri
thức” do tác giả Nguyễn Thanh Thủy biên soạn, Nxb Khoa học kỹ thuật,
1995; Bài báo “Trí tuệ nhân tạo trong thời đại số: Bối cảnh thế giới và liên hệ
với Việt Nam” được đăng trên Tạp chí Cơng thương, do nhóm tác giả Nguyễn
Thanh Thủy, Hà Quang Thụy, Phan Xuân Hiếu, Nguyễn Trí Thành biên soạn.
3


Tài liệu tiếng Anh có sách “Artificial Intelligence: A Modern Approach”, do
nhóm tác giả Stuart Russell và Peter Norvig biên soạn, 2010.
Thứ ba, nhóm cơng trình nghiên cứu liên quan cụ thể hơn đến trách
nhiệm bảo vệ quyền con người khi ứng dụng AI, bao gồm cả tài liệu tiếng
Việt và tiếng Anh. Tài liệu tiếng Việt có: Sách tham khảo “Trí tuệ nhân tạo
với pháp luật và quyền con người” do nhóm tác giả Nguyễn Thị Quế Anh, Vũ
Cơng Giao, Mai Văn Thắng đồng chủ biên, Nxb Tư pháp, 2019; Sách chuyên
khảo “Xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về tiền ảo trong bối cảnh hội
nhập và phát triển” do tác giả Nguyễn Minh Oanh chủ biên, Nxb Tư pháp,
2019; Sách “Life 3.0 – Loài người trong kỷ nguyên trí tuệ nhân tạo” do tác giả
Max Tegmark biên soạn, (Hiểu Trần và Thảo Trần dịch), Nxb Thế giới, 2019;
Sách “AI – Bước tiến đột phá hay tham vọng kinh tế của 9 gã khổng lồ” do tác
giả Amy Webb biên soạn, (Phượng Linh dịch), Nxb. Đại học kinh tế quốc
dân, 2019; Bài báo “Quyền con người và pháp luật trong thời đại trí tuệ nhân
tạo” do tác giả Nguyễn Minh Tuấn đăng trong Kỷ yếu Hội thảo khoa học
quốc tế: Luật học trước biến đổi của thời đại, 2019.
Tài liệu tiếng Anh có: Báo cáo “Peparing for the future of artificial
intelligence” (Dịch: Chuẩn bị cho tương lai của trí tuệ nhân tạo), do Văn
phịng điều hành của Hội đồng Chủ tịch Ủy ban khoa học và công nghệ quốc
gia Hoa Kỳ biên soạn, Washington, D.C, 2016; Báo cáo “Human rights in the

robot age - Challenges arising from the use of robotics, artificial intelligence,
and virtual and augmented reality”, (Dịch: Nhân quyền trong thời đại robot –
Những thách thức phát sinh từ việc sử dụng robot, trí tuệ nhân tạo và thực tế
ảo tăng cường), do Ủy ban Nghị viện của Hội đồng Châu Âu chủ trì biên
soạn, 2017; Bài viết “Legal Status of Artificial Intelligence Across Countries:
Legislation on the Move”, (Dịch: Tình trạng pháp lý của trí tuệ nhân tạo tại
các quốc gia: Pháp luật về việc thay đổi), do tác giả A. Atabekov và O.
Yastrebov, đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Châu Âu, 2018.

4


Ngồi ra, tác giả cịn tham khảo một số bài báo của các tác giả khác nhau
như: Đặng Thị Thu Hương, “Ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong việc cung cấp
dịch vụ công tại Hồng Kông”; Tú Anh, “Mỹ bán vũ khí cho Đài Loan : một
cơng đơi ba việc”; Ngọc Minh, “Bảo đảm quyền riêng tư dữ liệu”; Thiên
Long, “Cha đẻ của trí tuệ nhân tạo lo ngại về việc Trung Quốc lạm dụng AI
để giám sát người dân”; Thiên Hương (tổng hợp), “Hate speech trên mạng xã
hội - đâu là giới hạn?”; Phạm Thị Thu Hà, “Phát triển trí tuệ nhân tạo (AI)
tại Việt Nam: Thực trạng, kinh nghiệm quốc tế và xu hướng phát triển”.
Đánh giá chung thì các cơng trình được cơng bố trên đây có nội dung đề
cập đến trách nhiệm bảo vệ quyền con người nói chung và bước đầu đề cập
đến trách nhiệm bảo vệ quyền con người khi ứng dụng AI. Tuy nhiên, trong
những cơng trình này chưa có một cơng trình nào tiếp cận một cách toàn diện,
hệ thống, đồng bộ về trách nhiệm bảo vệ quyền con người trong việc ứng
dụng AI. Mặc dù vậy, các cơng trình nêu trên vẫn là những tài liệu tham khảo
quan trọng, quý báu để tác giả hồn thành luận văn.
3.

Mục đích và nhiệm vụ của luận văn


3.1. Mục đích
Làm rõ những vấn đề lý luận chung và pháp luật về trách nhiệm bảo vệ
quyền con người trong việc ứng dụng AI. Nghiên cứu ảnh hưởng của việc
ứng dụng AI đối với quyền con người, đồng thời đánh giá những nỗ lực và
thách thức của các chủ thể có trách nhiệm bảo vệ quyền con người khi ứng
dụng AI. Từ đó tác giả kiến nghị giải pháp tăng cường trách nhiệm bảo vệ
quyền con người trong việc ứng dụng AI nói chung và bước đầu đưa ra
khuyến nghị đối với Việt Nam nói riêng trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu đặt ra là:
- Làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về trách nhiệm bảo vệ quyền
con người trong việc ứng dụng AI.

5


- Phân tích ảnh hưởng của AI đối với quyền con người, đồng thời đánh
giá những nỗ lực và thách thức đối với các chủ thể có trách nhiệm bảo vệ
quyền con người trong việc ứng dụng AI.
- Kiến nghị giải pháp tăng cường trách nhiệm bảo vệ quyền con người
trong việc ứng dụng AI nói chung và đưa ra bài học kinh nghiệm đối với nước
ta vào thời gian tới.
4.

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu vấn đề lý luận và pháp luật quốc tế, khu vực và
pháp luật một số quốc gia về trách nhiệm bảo vệ quyền con người trong việc

ứng dụng AI.
Luận văn cũng khảo sát những ảnh hưởng hai chiều của AI đối với
quyền con người, đồng thời nghiên cứu sự cần thiết và giải pháp bảo vệ quyền
con người trong việc ứng dụng AI.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn được giới hạn như sau:
- Những vấn đề lý luận chung về trách nhiệm bảo vệ quyền con người
trong việc ứng dụng AI.
- Quy định của pháp luật quốc tế, pháp luật một số khu vực, một số quốc
gia và pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bảo vệ quyền con người trong việc
ứng dụng AI.
Luận văn khơng tập trung phân tích nội hàm các quyền con người, tuy có
đề cập đến một số quyền con người bị tác động bởi AI để làm cơ sở cho
những nhận định, đánh giá.
5.

Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài

Luận văn được nghiên cứu dựa trên hệ thống các cơ sở lý luận bao gồm:
- Quan điểm của Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế về quyền con
người được thể hiện thông qua Bộ luật Nhân quyền và các văn kiện pháp lý

6


quốc tế chuyên biệt; Hệ thống văn kiện pháp lý khu vực, một số quốc gia và
Việt Nam về quyền con người.
- Quan điểm của một số học giả pháp lý, các nhà lập pháp và thực tiễn
thực hiện pháp luật trên thế giới, các khu vực và ở Việt Nam.
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,

đồng thời kết hợp với các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích,
tổng hợp, luật học so sánh, tiếp cận dựa trên quyền… để luận giải, làm rõ mục
tiêu, nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu.
6.

Tính mới và những đóng góp của đề tài

Đề tài luận văn là một cơng trình nghiên cứu khoa học liên ngành pháp
luật về quyền con người và khoa học máy tính, AI. Đề tài góp phần làm rõ cơ
sở lý luận và khuôn khổ pháp lý quốc tế, khu vực và một số quốc gia về trách
nhiệm bảo vệ quyền con người trong việc ứng dụng AI. Đề tài bước đầu đề
xuất giải pháp tăng cường trách nhiệm bảo vệ quyền con người khi ứng dụng
AI nói chung và gợi mở khuyến nghị đối với Việt Nam trong thời gian tới.
Với những đóng góp như trên, tác giả hy vọng luận văn sẽ là tài liệu
tham khảo hữu ích cho các chủ thể có liên quan thực hiện trách nhiệm bảo vệ
quyền con người trong việc ứng dụng AI. Bên cạnh đó, luận văn cũng đóng
góp vào thư viện học liệu cho việc nghiên cứu, giảng dạy và học tập chuyên
ngành pháp luật về quyền con người.
7.

Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục từ ngữ viết tắt, danh mục tài liệu
tham khảo, luận văn có kết cầu gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về trí tuệ nhân tạo và quyền con người.
Chương 2: Ảnh hưởng của việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo đối với trách
nhiệm bảo vệ quyền con người
Chương 3: Giải pháp tăng cường trách nhiệm bảo vệ quyền con người
trong việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam


7


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ TRÍ TUỆ NHÂN TẠO VÀ QUYỀN CON NGƯỜI

1.1. Trí tuệ nhân tạo và q trình phát triển của nó
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của trí tuệ nhân tạo
Trước đây, chúng ta chỉ biết đến AI thông qua những bộ phim khoa học
viễn tưởng. Ngày nay, với tư cách là một trong những phát minh công nghệ
cấu thành của Cách mạng công nghiệp lần thứ Tư, AI dần trở nên phổ biến,
gần gũi trong cuộc sống của con người. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện tại
vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về AI, nhưng có khá nhiều quan điểm
tạm thời được tiếp cận theo các chiều hướng khác nhau. Có thể dẫn như:
Ủy ban Châu Âu đưa ra định nghĩa: “AI là một hệ thống thể hiện hành vi
thông minh bằng cách phân tích mơi trường của chúng và thực hiện các hành
động một cách tự chủ để đạt được các mục tiêu cụ thể” [50].
Các nhà khoa học trong lĩnh vực AI tiếp cận khái niệm này bằng cách
phân loại nó theo phạm vi tác động rộng, hẹp khác nhau. Ở góc độ tiếp cận
rộng, các nhà nghiên cứu AI là Shane Legg, Mark Gubrud và Ben Goertzel
gọi tên là “trí tuệ nhân tạo tổng quát” (Artificial General Intelligence – AGI).
AGI được định nghĩa là “hệ thống có khả năng hồn thành bất kỳ mục tiêu
nào ở mức ít nhất cũng giỏi như con người” [12, tr.71]. Ở góc độ tiếp cận
hẹp, các nhà khoa học dựa trên đặc điểm chuyên môn hoặc khả năng hoàn
thành nhiệm vụ cụ thể mà chia AI theo 4 cách như sau: (i) các hệ thống có suy
nghĩ giống con người (ví dụ: kiến trúc nhận thức và mạng lưới thần kinh); (ii)
các hệ thống hoạt động giống như con người (ví dụ: khả năng vượt qua bài
kiểm tra bằng cách xử lý ngôn ngữ tự nhiên hay khả năng biểu diễn tri thức);
(iii) các hệ thống suy nghĩ hợp lý (ví dụ như khả năng suy luận, giải quyết
logic vấn đề); (iv) các hệ thống hoạt động hợp lý (ví dụ: khả năng lập kế

hoạch, đưa ra quyết định và hành động) [44, tr.2].
8


Những cách tiếp cận trên đây xuất phát từ sự đa dạng trong khả năng giải
quyết vấn đề mà AI đem lại. Nội dung này liên quan đến công năng, hiệu suất
cũng như độ chính xác của các thuật tốn khiến cho việc xác định rõ ràng khái
niệm về AI cũng có sự khác biệt. Mặc dù các cách hiểu có thể chưa thống
nhất và ln có xu hướng thay đổi theo thời gian, nhưng điều quan trọng, cốt
lõi của các nghiên cứu trên đều chỉ ra những khả năng vượt trội của AI là việc
tư duy, hiểu biết và việc tái tạo hành vi thông minh của con người trong
những trường hợp cụ thể. Những ví dụ gần gũi minh chứng cho điều này có
thể thấy như hệ thống xe tự lái, google maps dùng để tra cứu bản đồ, hệ thống
nhận dạng thông qua sinh trắc học, camera dùng để theo dõi giám sát...
Trên thực tế, AI có những dạng thức phổ biến sau: học máy, học sâu, hệ
thống tự động hóa, đội ngũ robot. Những dạng thức này ít nhiều đều có sự
giao thoa, hịa trộn với nhau, đồng thời có sự liên kết với các lĩnh vực khác
khơng phải là khoa học máy tính như ngơn ngữ học, khoa học nhận thức, y
học, logic học, tâm lý học, xác suất, thương mại.
Thứ nhất, AI được thể hiện dưới dạng học máy (machine learning). Học
máy là một quy trình ứng dụng các thuật tốn để phân tích khối dữ liệu đầu
vào, từ đó đưa ra quy tắc hoặc thủ tục giải thích dữ liệu hoặc có thể dự đoán
dữ liệu trong tương lai. Hiểu một cách đơn giản thì học máy là cách tiếp cận
tổng quát đối với khối dữ liệu để tìm ra mẫu số chung và thực hiện quyết định
có liên quan. Cách thức giải quyết dữ liệu của học máy dựa trên phương pháp
thống kê là chủ yếu, cho phép nó thực hiện các tác vụ để tìm ra quy trình hoạt
động tốt hơn so với cách thức thủ công. Để áp dụng học máy, người dùng bắt
đầu với một tập dữ liệu được tổng hợp, thống kê từ nhiều nguồn khác nhau.
Người dùng tiến hành phân loại dữ liệu và lựa chọn thuật toán đặc trưng để
đưa ra quyết định về dữ liệu đó. Một ví dụ đơn giản có thể thấy đó là Google

Translate. Có thể nhiều người nghĩ rằng nó là cuốn đại từ điển tương đối hoàn
hảo, nhưng thực ra nó là một tập hợp các thuật tốn được lựa chọn để sử
dụng. Thuật toán này dần phát triển theo thời gian, dựa trên việc cập nhật từ
9


mới, ngữ pháp mới trong hệ ngôn ngữ từ người dùng và từ đó đưa ra các câu
dịch tương đối phù hợp. Một ưu điểm của học máy là nó có thể được sử dụng
ngay cả trong trường hợp khó đưa ra được quy tắc hoặc thủ tục giải quyết về
dữ liệu. Ví dụ hệ điều hành dịch vụ thư điện tử có thể sử dụng học máy để
phát hiện các nỗ lực đăng nhập của người dùng là gian lận. Hệ thống quản lý
có thể bắt đầu với dữ liệu về các lần đăng nhập trong quá khứ, để phân loại
đâu là hành vi đăng nhập có khả năng gian lận và phải áp dụng biện pháp bảo
mật bổ sung.
Thứ hai, AI được thể hiện thơng qua hình thức học sâu (deep learning).
Phương pháp này sử dụng các cấu trúc được lấy cảm hứng từ sự hiểu biết về
bộ não con người – tập hợp liên kết về mặt sinh học giữa các nơ-ron thần
kinh. Tuy nhiên, không giống như bộ não sinh học của con người, hệ thống
học sâu là tập hợp các đơn vị dữ liệu đầu vào được phân tích, chuyển đổi tạo
thành dữ liệu đầu ra, lần lượt được truyền tải đến các tập hợp đơn vị tiếp theo
cho phép nhận dạng dữ liệu cực kỳ phức tạp, bảo đảm độ chính xác. Chẳng
hạn, trong một ứng dụng nhận dạng hình ảnh, một tập hợp đơn vị đầu tiên kết
hợp dữ liệu thơ của hình ảnh để nhận dạng mẫu đơn giản trong hình ảnh; tập
hợp đơn vị thứ hai kết hợp kết quả của tập hợp thứ nhất để nhận dạng hình
ảnh mẫu tiếp theo và cứ như thế cho đến khi tạo thành sản phẩm cuối cùng.
Trong những năm gần đây, hệ thống máy tính lớn mạnh hơn cả về số lượng
và độ bao phủ, tạo điều kiện cho cấp độ học sâu phát triển nhanh chóng.
Thứ ba, AI biểu hiện thơng qua hệ thống tự động hố. Thơng thường thì
đối với hệ thống học máy, học sâu bắt buộc phải có sự tác động vật lý từ con
người để kích hoạt các hành động trực tuyến. Hệ thống tự động hoá đề cập

đến khả năng hoạt động xử lý dữ liệu nhằm giảm bớt hoặc khơng có sự tác
động vật lý của con người. Hệ thống tự động hoá dễ dàng nhận thấy trong
cuộc sống ngày nay như ô tô và máy bay khơng người lái. Tuy nhiên, tính
chất tự chủ này cịn rộng lớn hơn bao gồm các hình thức thể hiện như giao
dịch tài chính tự động, hệ thống máy móc có thể tự chuẩn đốn và sữa chữa
10


các lỗi về xác định danh tính người dùng hay lỗ hổng bảo mật. Hệ thống tự
động hoá này sẽ có nhược điểm là chỉ giới hạn trong các hành động được lập
trình sẵn để thực hiện. Khi hệ thống được khởi động bởi một thuật tốn nó sẽ
thực thi nhiệm vụ của mình theo các hướng dẫn và chương trình được cài đặt
hợp lý.
Thứ tư, một dạng thức đỉnh cao của AI chính là đội ngũ robot. Đội ngũ
robot được thiết kế và ứng dụng thông qua sự điều khiển của hệ thống máy
tính hoặc các vi mạch điện tử để phản hồi tín hiệu cảm biến và xử lý thông tin
dữ liệu. Một trong những lý do robot được xây dựng, thiết kế là để hỗ trợ, bổ
sung cho khả năng nhận thức của con người, đôi khi được hiểu là tăng cường
trí thơng minh. Một ví dụ trong lĩnh vực y học, robot có thể kết hợp với trí
thơng minh của con người để tăng cường tính chính xác trong việc xác định
hình ảnh của các tế bào hạch bạch huyết có khả năng bị ung thư hay không.
Cụ thể, kết quả nghiên cứu được thực hiện bởi nhà nghiên cứu bệnh học ở
người có tỷ lệ lỗi 3,5%; phương pháp tiếp cận dựa trên AI đưa ra tỷ lệ lỗi là
7,5%; cách tiếp cận kết hợp giữa AI và bộ não của nhà nghiên cứu đã hạ tỷ lệ
lỗi xuống 0,5% [41, tr.10,11].
Tựu chung lại, những khái niệm và dạng thức phổ biến của AI được trình
bày trên đây ít nhiều giúp chúng ta dễ dàng hình dung hơn về nó. Dù tiếp cận
dưới góc độ nào thì những khái niệm, dạng thức đó đều đề cập đến hai đặc
tính quan trọng của AI như sau: (i) khả năng tư duy, hiểu biết của học máy;
(ii) khả năng thay thế con người trong một số công việc nhất định. Xin nhấn

mạnh rằng, tác giả không hướng đến mục đích tìm ra khái niệm chung về AI,
bởi đây là lĩnh vực khơng có tính bất biến, mà ln phát triển, thay đổi nhanh
chóng theo thời gian.
1.1.2. Lược sử q trình phát triển của trí tuệ nhân tạo
Ngày nay, AI được ứng dụng trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống,
nhưng ít ai biết rằng nó xuất hiện từ bao giờ. Mặc dù thuật ngữ AI được xuất
11


hiện lần đầu tiên vào năm 1956, nhưng gốc rễ của lĩnh vực này bắt nguồn từ
năm 1930. Điều này được thể hiện thông qua hai bài báo chuyên đề: “Phân
tích tượng trưng về Chuyển mạch và Rơ-le” của Claude Shannon và “Các số
khả tính, ứng dụng trong Entcheidungsproblem (Vấn đề quyết định)” của
Alan Turing [1, tr.45,46]. Cả hai bài báo chuyên đề này đều cho chúng ta thấy
bước nhảy vọt của máy móc từ có tư duy trong lý thuyết tới máy tính biết mơ
phỏng suy nghĩ con người. Shannon đã có bước đột phá khi vẽ bản đồ mạch
điện theo logic tượng trưng, mà thời điểm đó thiết kế mạch điện vẫn chưa
theo hệ thống logic nào. Ông phát hiện ra rằng máy tính có hai tầng: vật lý
(phần chứa) và logic (mã). Còn đối với Turing lại thử nghiệm dịch giả ngôn
ngữ phổ quát và đi đến kết luận rằng một chương trình và dữ liệu mà nó sử
dụng có thể được lưu trữ trong cùng một máy tính.
Thập kỷ tiếp theo, các nghiên cứu về AI dần dần được thực hiện bởi các
nhà khoa học trên các lĩnh vực khác nhau. Năm 1943, hai nhà nghiên cứu tâm
thần học Warren McCulloch và Walter Pitts từ Đại học Chicago đã đưa ra bài
báo: “Tính tốn logic của các suy nghĩ nội tại trong hoạt động thần kinh”. Bài
báo này mô tả một dạng hệ thống mới về các nơ-ron sinh học thành cấu trúc
mạng thần kinh đơn giản cho trí thơng minh. Tiếp đến năm 1944, John von
Neumann (nhà khoa học máy tính, vật lý và tốn học) cộng tác cùng với
Princeton (nhà kinh tế học) cho xuất bản cuốn sách dày 641 trang giải thích
chi tiết cách khoa học lý thuyết trò chơi tiết lộ nền tảng của mọi quyết định

kinh tế [1, tr.48,49].
Năm 1950, Alan Turing cho xuất bản trên Tạp chí Triết học Mind. Bài
báo đặt ra câu hỏi: máy móc có thể suy nghĩ gì khơng? Đồng thời bài báo
cũng đề xuất một bài kiểm tra để trả lời chính câu hỏi đó, và nêu ra khả năng
một cỗ máy có thể được lập trình để học hỏi kinh nghiệm như một đứa trẻ.
Nghiên cứu này có tên gọi: Phép thử Turing [1, tr.50].
Đến năm 1955, các nhà khoa học Marvin Minsky (Đại học Harvard),
John McCarthy (Đại học Dartmouth), cùng Claude Shannon (Phòng thí
12


nghiệm điện thoại Bell) và Nathaniel Rochester (Tập đoàn IBM) đã đề xuất
một hội thảo nhằm khám phá cơng trình của Turing. Nghiên cứu này được
tiến hành trên cơ sở phỏng đốn rằng mọi khía cạnh của việc học hoặc bất kỳ
tính năng nào khác của trí thơng minh có thể được mơ tả chính xác bằng một
cỗ máy được chế tạo. Nỗ lực nghiên cứu này nhằm mục đích sử dụng máy
móc để mơ phỏng lại ngơn ngữ, hình ảnh trừu tượng mà trước đây vốn chỉ do
con người thực hiện [55]. Tuy nhiên, kỳ vọng về kết quả nghiên cứu của
nhóm các nhà khoa học khơng thành, bởi họ khơng có đủ thời gian. Bên cạnh
đó, để thực hiện được cơng việc này cần đến một nhóm các nhà khoa học đến
từ nhiều lĩnh vực chuyên môn khác nhau, và việc tập hợp được họ là một
công việc khó khăn, căng thẳng.
Trong những thập kỷ tiếp theo, lĩnh vực AI đã trải qua những thăng trầm
khi gặp những khó khăn nằm ngồi dự đốn, trong đó có cả những khó khăn
về mặt cơng nghệ và nguồn viện trợ tài chính thời đó. Tuy nhiên, thập niên
70-80, lĩnh vực nghiên cứu AI cũng có một vài điểm đáng được ghi nhận. Sự
kiện năm 1972, nhà khoa học Alain Calmerauer cho ra đời ngơn ngữ lập trình
PROLOG [21, tr.7]. Đây là dạng lập trình ngơn ngữ phi thủ tục, cho phép
hướng tới xử lý và lập trình logic và xử lý ngôn ngữ tự nhiên sang ngôn ngữ
máy. Năm 1981, Nhật Bản tuyên bố kế hoạch mười năm nhằm phát triển AI

với tên gọi Thế hệ thứ Năm [1, tr.64] lấy ngơn ngữ lập trình PROLOG làm
nền tảng cơ sở. Những động thái này đã thúc đẩy Mỹ, cũng như Châu Âu tăng
cường đầu tư tiềm lực tài chính, hỗ trợ chính sách cho việc nghiên cứu và
phát triển AI.
Đến cuối những năm 1990, nghiên cứu về AI bắt đầu tăng tốc và đạt
những thành tích nhất định. Những nghiên cứu về AI thời điểm này tập trung
vào các ứng dụng thực tế mà nó đem lại như nhận dạng hình ảnh và chuẩn
đốn y khoa. Vào năm 1997, siêu máy tính chơi cờ vua Deep Blue của IBM
đánh bại kiện tướng thế giới Garry Kasparov. Kiện tướng này phải vật lộn với
sự căng thẳng đến từ sáu ván cờ cùng một đối thủ dường như không thể đánh
13


bại được [41, tr.5]. Những kết quả tiếp theo trong lĩnh vực AI phải kể đến là
siêu máy tính trả lời câu hỏi Watson của IBM, dòng xe tự lái Grand Challenge
ra đời năm 2000 của Cơ quan Quản lý các dự án nghiên cứu cao cấp Bộ Quốc
phòng Mỹ (DARPA). Có thể nói đây là những kết quả tương đối tuyệt vời khi
khép lại thế kỷ XX, tạo những bước đệm quan trọng cho việc ra mắt những
siêu phẩm công nghệ trong thế kỷ tiếp theo.
Thập niên đầu của thế kỷ XXI đánh dấu những bước phát triển vượt bậc
của AI khi các nhà khoa học lần lượt cho ra đời các robot có thể mơ phỏng
các hành động, thực hiện công việc vốn dĩ của con người. Đầu tiên, năm 2000
robot Kismet, Asimo có khả năng tương tác xã hội, giao tiếp với con người,
nhận diện giọng nói. Tiếp đến, năm 2002, một robot dọn nhà tên Roomba
được sản xuất có khả năng phát hiện và tránh các vật cản. Năm 2004, bề mặt
sao Hỏa được khám phá bằng một robot xe tự hành của NASA với tên gọi
Robot Robonaut B. Năm 2006, một nhóm các nhà khoa học máy tính lần đầu
sử dụng thuật ngữ “machine reading” (máy đọc) để định nghĩa khả năng nhận
biết văn bản của AI. Thành công tiếp theo trong năm 2007 khi các cường
quốc công nghệ cho ra đời hàng loạt các loại hình robot phục vụ mục đích

khác nhau như: robot BEAR của cơng ty cơng nghệ Vecna, Mỹ, có khả năng
đưa binh sĩ bị thương ra khỏi chiến trường; Eurobot của cơ quan khơng gian
châu Âu có khả năng khám phá Trạm khơng gian quốc tế. Sang năm 2009,
Google bí mật phát triển công nghệ xe tự hành và 5 năm sau, công nghệ của
họ đã vượt qua bài kiểm tra xe tự hành của Nevada. Có thể khẳng định rằng
có rất nhiều những thành cơng đáng ghi nhận trong lĩnh vực AI được đưa vào
ứng dụng phục vụ con người ở thập kỷ này.
Làn sóng nghiên cứu và chế tạo AI trong thập kỷ thứ hai của thế kỷ XXI
ngày càng phát triển mạnh mẽ nhờ sự sẵn có của dữ liệu lớn từ các nguồn như
thương mại điện tử, hoạt động của phương tiện truyền thông xã hội, từ doanh
nghiệp và chính phủ. Những hoạt động từ các chủ thể khác nhau sẽ cung cấp
nguồn dữ liệu thô cho các hệ thống máy tính thực hành thơng qua các phương
14


pháp và thuật toán đã được cải thiện. Năm 2010, Google tiến hành thử
nghiệm áp dụng kỹ thuật học chuyên sâu để nhận diện giọng nói. Kỹ thuật
Google Voice này và kỹ thuật sao chép văn bản được áp dụng cho các sản
phẩm thương mại. Năm 2014, Google đầu tư tài chính để sở hữu cho mình
start-up về học chun sâu có tên DeepMind và phát triển thêm chương trình
có tên AlphaGo. Tiếp đến, năm 2018, Google tung ra thị trường chương trình
Duplex – là một phần của DeepMind, được tạo ra trên nền tảng AI. Chương
trình này nhằm hỗ trợ giọng nói có thể tự động thực hiện cuộc gọi thay người
dùng và nói chuyện với lễ tân để đặt bàn tại nhà hàng, hoặc đặt lịch làm tóc
tại salon [1, tr.72, 79].
Như vậy, từ những nghiên cứu sơ khai ban đầu của Turing và Shannon
đã đặt nền móng cho sự hình thành và phát triển của AI. Quá trình phát triển
này tuy có những thăng trầm do những điều kiện khác nhau, nhưng ít nhiều
nó đã trả lời được câu hỏi của Turing rằng máy móc có suy nghĩ. So với lịch
sử hình thành và phát triển của lồi người, thì AI cịn khá non trẻ, đang trong

q trình trưởng thành, nhưng chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy khả năng
tăng tốc của nó thật sự đáng kinh ngạc. AI ra đời có những tác động hai chiều
đối với sự phát triển tồn cầu, trong đó đặc biệt có quyền con người. Và để
bảo vệ quyền con người trong bối cảnh ứng dụng AI thì cần sự chung tay tồn
cầu, đặc biệt là vai trị của các nhà nước. Những nội dung này sẽ được trình
bày trong phần tiếp theo.
1.2. Quyền con người và chủ thể có trách nhiệm bảo vệ
1.2.1. Khái niệm quyền con người
Ngay trong lời dẫn tại Chương I, cuốn “Tìm hiểu về quyền con người”,
tác giả Wolfgang Benedek có khẳng định: “Khát vọng bảo vệ nhân phẩm của
tất cả con người là cốt lõi của khái niệm quyền con người” [27, tr. 29]. Nói
cách khác để bảo vệ nhân phẩm của tất cả mọi người, thúc đẩy xây dựng xã

15


hội cơng bằng, văn minh và phát triển thì một cách hiệu quả đầu tiên, khơng
thể thiếu là phải tìm hiểu khái niệm quyền con người (hay “nhân quyền”).
Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, từ trước đến nay có đến gần 50
khái niệm khác nhau về quyền con người đã được cơng bố [4, tr.39] theo các
góc độ tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên hiện nay, trên thế giới có hai khuynh
hướng tiếp cận về khái niệm này được đa số mọi người thừa nhận, dựa trên
thuộc tính tự nhiên và thuộc tính nhân tạo của quyền con người.
Khuynh hướng tiếp cận thứ nhất nhấn mạnh các thuộc tính tự nhiên của
các quyền con người. Theo khuynh hướng này thì quyền con người là những
gì bẩm sinh, vốn có mà mọi cá nhân sinh ra đều được hưởng bởi đã là con
người thì có các quyền. Khuynh hướng tiếp cận này được thể hiện ở cả cấp độ
quốc tế và quốc gia. Biểu hiện, ở cấp độ quốc tế, trong UDHR năm 1948, nêu
rằng: “… thừa nhận phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng, bất khả xâm
phạm của mọi thành viên trong gia đình nhân loại là nền tảng của tự do, cơng

bằng và hịa bình thế giới” [62]. Ở cấp độ quốc gia, Tuyên ngôn Độc lập của
Hoa Kỳ (1776) nêu rằng: “…mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo
hóa ban cho họ những quyền khơng ai có thể xâm phạm được, trong đó có
quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” [4, tr.44]. Những
tuyên bố này được tái khẳng định trong bản Tuyên ngôn về Nhân quyền và
dân quyền của nước Pháp (1789) và bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa (1945). Ưu điểm của khuynh hướng tiếp cận thứ nhất nhấn
mạnh tính phổ biến của quyền con người, được áp dụng bình đẳng cho tất cả
các thành viên trong gia đình nhân loại, khơng phụ thuộc vào phong tục tập
quán, truyền thống văn hóa hay ý chí của bất kỳ chủ thể nào, kể cả Nhà nước.
Tuy nhiên, khuynh hướng tiếp cận thứ nhất chưa đưa ra một chuẩn mực
chung (phổ quát) để làm căn cứ cho sự đồng thuận trong hoạt động xây dựng
pháp luật và thực hiện pháp luật nhằm bảo vệ các quyền con người.
Khuynh hướng tiếp cận thứ hai nhấn mạnh thuộc tính nhân tạo của
quyền con người, cho rằng các quyền con người là do con người thỏa thuận
16


hoặc do Nhà nước quy định trong pháp luật. Đại diện cho khuynh hướng này
là định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc như sau: “Quyền con
người là những bảo đảm pháp lý tồn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và
các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến
nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [59]. Khác
với khuynh hướng thứ nhất, khuynh hướng tiếp cận thứ hai đưa ra được chuẩn
mực chung để làm căn cứ cho sự đồng thuận trong hoạt động xây dựng và
thực hiện pháp luật nhằm bảo vệ các quyền con người, nhưng lại không thể
hiện được thuộc tính tự nhiên và vốn có của các quyền con người.
Như vậy, cả hai khuynh hướng tiếp cận trên đều thể hiện những điểm
hợp lý và không hợp lý nhất định. Và để có một khái niệm tương đối đầy đủ,
phản ánh được các thuộc tính trong nội hàm của quyền con người thì nên tổng

hợp cả hai khuynh hướng tiếp cận trên. Trong luận văn này, tác giả xác định
khái niệm quyền con người là các giá trị tự nhiên, vốn có của mọi cá nhân
được pháp luật quốc tế ghi nhận và được bảo vệ thông qua hệ thống các
nguyên tắc và tiêu chuẩn. Những nguyên tắc và tiêu chuẩn về quyền con
người được ghi nhận trong Bộ luật Nhân quyền quốc tế cùng các văn kiện
pháp lý riêng biệt khác. Sự ghi nhận này tạo ra cơ sở pháp lý thống nhất cho
việc thực hiện trách nhiệm bảo vệ quyền con người. Bên cạnh đó, pháp luật
quốc gia cũng có vai trị quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người và
không được trái với các nguyên tắc, tiêu chuẩn của Luật Nhân quyền quốc tế.
1.2.2. Trách nhiệm bảo vệ quyền con người
Thuật ngữ “trách nhiệm” (responsibility) thường được sử dụng khá phổ
biến trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Ở khía cạnh ngôn ngữ học,
“trách nhiệm” được hiểu là “phần việc được giao cho hoặc coi như được giao
cho, phải bảo đảm làm trịn, nếu kết quả khơng tốt thì phải gánh chịu phần
hậu quả” [40]. Tuy nhiên, thuật ngữ này thường được sử dụng phổ biến hơn
cả trong lĩnh vực pháp lý. Trách nhiệm pháp lý được hiểu là “hậu quả bất lợi
17


mà chủ thể pháp luật phải gánh chịu do pháp luật quy định vì hành vi vi phạm
pháp luật của mình (hoặc của người mà mình bảo lãnh hoặc giám hộ)” [26,
tr.803]. Như vậy, cả hai cách giải thích này đều xác định mối quan hệ giữa
bên có trách nhiệm và bên có quyền. Chủ thể có trách nhiệm mà không thực
hiện hoặc thực hiện sai trách nhiệm sẽ phải gánh chịu hậu quả do các quy
phạm pháp luật hay các quy phạm đạo đức quy định.
Ở góc độ pháp lý, có thể có quan điểm cho rằng thuật ngữ “trách nhiệm”
có sự khác biệt nhất định với thuật ngữ “nghĩa vụ”. Tác giả cho rằng sự khác
nhau giữa hai thuật ngữ này có chăng nhằm phản ánh các giai đoạn của quá
trình thực hiện pháp luật. Vì, “nghĩa vụ” được hiểu là “mối quan hệ giữa
người có nghĩa vụ phải làm một công việc, thực hiện một hành vi hoặc khơng

được làm một cơng việc, một hành vi, vì lợi ích của người có quyền” [26,
tr.560]. Từ đó cho thấy, cả hai thuật ngữ “trách nhiệm” và “nghĩa vụ” đều có
điểm tương đồng về chủ thể và cả nội dung, công việc. Tuy nhiên, điểm khác
biệt ở đây là giai đoạn sau của q trình thực hiện cơng việc. Nếu chủ thể có
nghĩa vụ khơng thực hiện hoặc thực hiện sai nghĩa vụ liên quan đến quyền lợi
của chủ thể khác thì sẽ phải gánh chịu hậu quả, tức phải gánh chịu trách
nhiệm. Điều này cho thấy thuật ngữ “trách nhiệm” sẽ có giới hạn, phạm vi
rộng hơn và bao hàm cả thuật ngữ “nghĩa vụ”.
Tiếp đến, tác giả luận giải về thuật ngữ “bảo vệ” (protect, defend). Đây
là thuật ngữ được sử dụng khá phổ biến trong mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội. Ở khía cạnh ngơn ngữ học, “bảo vệ” được hiểu là “chống lại mọi sự huỷ
hoại, xâm phạm để giữ cho được nguyên vẹn” [40]. Cũng giống như thuật ngữ
trách nhiệm, thuật ngữ “bảo vệ” được sử dụng phổ biến hơn cả ở lĩnh vực
pháp lý. Mặc dù vậy, thuật ngữ này lại chưa được giải thích một cách rõ ràng
bởi một tài liệu học thuật nào cả. Ở lĩnh vực pháp lý, thuật ngữ “bảo vệ”
thường gắn liền với các đối tượng được bảo vệ như hiện trường, môi trường
hay quyền sở hữu [26, tr.46, 47]. Từ những dẫn chứng trên và thực tiễn pháp
lý, tác giả có thể kết luận rằng “bảo vệ” nhằm mục đích giữ gìn, duy trì những
18


nội dung về trật tự, giá trị tốt đẹp đã được pháp luật ghi nhận bằng cách hạn
chế, phòng ngừa và xử lý những tác nhân vi phạm, ảnh hưởng đến nội dung
được bảo vệ. Theo nghĩa rộng, một số đối tượng được bảo vệ như môi trường,
không chỉ đơn thuần là giữ gìn, bảo tồn sự nguyên vẹn mà còn được khai
thác, sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên, hệ sinh vật. Điều này đồng nghĩa
với việc tạo các điều kiện phù hợp thúc đẩy hoạt động bảo vệ môi trường
được tốt hơn.
Trong lĩnh vực quyền con người, bên cạnh thuật ngữ “bảo vệ”, cịn có tài
liệu [4, tr.70, 71] sử dụng các thuật ngữ khác như bảo đảm quyền con người.

Theo đó, thuật ngữ bảo đảm có nội hàm rộng hơn và bao trùm cả thuật ngữ
bảo vệ. Tuy nhiên, tài liệu này lại khơng có sự giải thích vì sao lại có sự khác
biệt như thế. Theo tác giả, xét về mục đích của cả hai thuật ngữ “bảo vệ” và
“bảo đảm” đều nhằm mục đích giữ gìn, duy trì và phát huy những giá trị tốt
đẹp của quyền con người. Bên cạnh đó, như đã phân tích thì quyền con người
là những giá trị tự nhiên chung của nhân loại, được cộng đồng quốc tế thừa
nhận trong các văn kiện pháp lý quan trọng. Vì vậy, quyền con người không
chỉ được bảo vệ một cách toàn vẹn, mà cần được tạo các điều kiện thực thi,
thúc đẩy quyền con người phù hợp với các điều kiện chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội. Trong phạm vi đề tài này, tác giả hiểu thuật ngữ bảo vệ quyền
con người theo nghĩa rộng, tức là có sự đồng nhất với thuật ngữ bảo đảm
quyền con người. Và bảo vệ quyền con người là sự sự tôn trọng, bảo đảm,
thực thi các quyền con người của chủ thể có trách nhiệm.
Từ những luận giải trên tác giả đi đến kết luận: trách nhiệm bảo vệ
quyền con người yêu cầu tất cả các chủ thể có trách nhiệm tơn trọng, bảo
đảm, thực hiện và thúc đẩy các quyền con người được pháp luật quốc tế,
pháp luật quốc gia thừa nhận trên thực tế. Trách nhiệm tôn trọng yêu cầu
các chủ thể thừa nhận, đồng thời không can thiệp, xâm phạm các quyền con
người dưới bất kỳ hình thức nào. Trách nhiệm bảo đảm đòi hỏi các chủ thể
chủ động ngăn chặn hành vi vi phạm quyền con người từ chủ thể thứ ba.
19


×