Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Áp dụng pháp luật trong giai đoạn xét xử sơ thẩm đối với người chưa thành niên phạm tội qua thực tiễn tòa án nhân dân tỉnh nghệ an

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

KIM HOÀN MỸ LINH

CHẾ TÀI LIÊN QUAN TỚI
HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

KIM HOÀN MỸ LINH

CHẾ TÀI LIÊN QUAN TỚI
HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM

Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐẶNG VŨ HUÂN

HÀ NỘI - 2014



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Kim Hồn Mỹ Linh


MỤC LỤC

Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HẠN CHẾ
CẠNH TRANH VÀ CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH ........... 6
1.1.

Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về hạn chế cạnh tranh ................ 6

1.1.1. Khái niệm, căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh .............................. 6
1.1.2. Pháp luật điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh ................................. 15

1.2.

Khái niệm và nội dung chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ...................... 17

1.2.1. Khái niệm chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ............................................... 17
1.2.2. Sự cần thiết áp dụng chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh ................ 20
1.2.3. Các hình thức chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh .......................... 23
1.3.

Kinh nghiệm pháp luật các nước về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ....... 30

1.3.1. Kinh nghiệm các nước thuộc Liên minh châu Âu (EU) ............................. 30
1.3.2. Kinh nghiệm của Canada và Mỹ ............................................................... 33
1.3.3. Kinh nghiệm của một số nước Châu Á ...................................................... 38
Tiểu kết Chương 1 ............................................................................................................ 41
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ
CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở VIỆT NAM ................... 42
2.1.

Thực trạng pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam...... 42

2.1.1.

Khái quát về các biện pháp chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam ......... 42

2.1.2. Thẩm quyền, trình tự và thủ tục xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh ở
Việt Nam .................................................................................................. 52
2.2.

Thực trạng áp dụng các biện pháp chế tài đối với các hành vi hạn

chế cạnh tranh ở Việt Nam ..................................................................... 57


2.2.1. Xử lý hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh ............................................. 58
2.2.2. Xử lý hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền ................. 59
2.2.3. Xử lý hành vi tập trung kinh tế .................................................................. 62
2.3.

Đánh giá thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về chế tài xử
lý hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam .......................................................... 64

2.3.1. Đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam về chế tài xử lý hạn
chế cạnh tranh ........................................................................................... 64
2.3.2. Đánh giá thực tiễn xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh ........................... 76
Tiểu kết Chương 2 ............................................................................................................ 80
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH Ở
VIỆT NAM .................................................................................... 81
3.1.

Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh
ở Việt Nam............................................................................................... 81

3.2.

Định hướng hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh
tranh ở Việt Nam .................................................................................... 82

3.2.1. Xu hướng pháp luật và việc sử dụng các chế tài đối với hành vi hạn
chế cạnh tranh của các nước trên thế giới .................................................. 82

3.2.2. Định hướng hoàn thiện pháp luật về chế tài hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam ...... 83
3.3.

Các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý hạn chế cạnh
tranh ở Việt Nam .................................................................................... 86

3.3.1. Các giải pháp pháp lý ................................................................................ 87
3.3.2. Các giải pháp bổ trợ khác ........................................................................ 103
Tiểu kết Chương 3 .......................................................................................................... 109
KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 110
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 111


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, thì cạnh tranh ln là một
điều kiện và là yếu tố kích thích sản xuất kinh doanh, là mơi trường và động lực
thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động và tạo đà cho sự phát triển của
xã hội. Tuy nhiên, nếu để tồn tại các hành vi cạnh tranh khơng lành mạnh, các thủ
đoạn nhằm kìm hãm q trình cạnh tranh sẽ đưa lại những hệ quả khơng mong
muốn về mặt kinh tế và xã hội, thị trường bị bóp méo, thay đổi cấu trúc xã hội về sở
hữu của cải, phân hóa mạnh mẽ giàu nghèo. Do đó, u cầu kiểm sốt và điều chỉnh
đối với q trình cạnh tranh là một nhiệm vụ cần thiết đặt ra cho các thiết chế quản
lý nền kinh tế thị trường. Những thủ đoạn cạnh tranh tiêu cực trên thị trường rất đa
dạng, trong đó, các hành vi hạn chế cạnh tranh có ảnh hưởng lớn tới mơi trường
kinh doanh và cấu trúc thị trường. Nếu như các hành vi cạnh tranh không lành mạnh
gây thiệt hại trực tiếp cho các đối thủ cạnh tranh và người tiêu dùng xã hội, thì các
hành vi hạn chế cạnh tranh cịn gây thiệt hại và ảnh hưởng đến một ngành hay lĩnh
vực kinh tế, phá vỡ cấu trúc thị trường. Bởi vậy, nếu khơng được điều tiết, kiểm
sốt một cách thỏa đáng và phù hợp, thì các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh,

thống lĩnh thị trường, tập trung kinh tế sẽ loại trừ khả năng cạnh tranh của các đối
thủ tiềm năng, kéo theo đó là sự trì trệ, thậm chí thụt lùi của nền kinh tế. Cho nên,
pháp luật các nước trên thế giới đều chú trọng xây dựng pháp luật để điều chỉnh vấn
đề này với những chế tài rất nghiêm khắc.
Hiểu được vai trò của việc xây dựng một môi trường cạnh tranh lành mạnh
trong phát triển kinh tế xã hội nói chung, năm 2004, Việt Nam đã ban hành Luật
Cạnh tranh, trong đó có các quy định nhằm điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh
và đặt ra chế tài để xử vi phạm để răn đe và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, thực tiễn
áp dụng đã cho thấy, chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh chưa đủ mạnh,
thủ tục xử lý chưa phù hợp, các chế tài được quy định rải rác trong nhiều văn bản luật
và các bất cập khác đã gây khó khăn cho việc tổ chức thực thi pháp luật trên thực tế.

1


Trong khi đó, sự tồn tại với vai trị chủ đạo của các doanh nghiệp nhà nước, sự gia
tăng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi với tiềm lực tài chính mạnh mẽ,
cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường và tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế,
các thủ đoạn nhằm hạn chế cạnh tranh ở nước ta vốn đã phức tạp lại ngày càng tinh vi
hơn, đã gây nhiều tổn hại đến quyền và lợi ích của các doanh nghiệp, người tiêu dùng
cũng như sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Từ những phân tích ở trên, việc hồn thiện pháp luật cạnh tranh nói chung
và hồn thiện, nâng cao hiệu quả của các chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh nói
riêng đang là những yêu cầu rất cấp thiết. Với ý nghĩa như vậy, nên tôi đã mạnh
dạn lựa chọn đề tài “Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam” để
nghiên cứu và làm Luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, Mỹ, Cộng hòa Liên bang Đức, các nước thuộc Liên minh châu
Âu, Nhật Bản và các nước có nền kinh tế thị trường phát triển đều đã có những
cơng trình nghiên cứu sâu sắc, cũng như các án lệ liên quan đến xử lý các hành vi

hạn chế cạnh tranh.
Ở Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu để xây dựng và hoàn thiện thể chế
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đã có rất nhiều các nghiên cứu về
các hành vi hạn chế cạnh tranh như: "Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh
theo pháp luật Việt Nam" của ThS. Hồ Thị Duyên; "Thỏa thuận ấn định giá nhằm
hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam" của ThS. Mai Duy Phước; "Về thoả thuận hạn chế
cạnh tranh" của tác giả Trần Thị Nguyệt, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số
1(237)/2008; "Kiểm sốt hành vi lạm dụng của doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị
trường theo pháp luật cạnh tranh Việt Nam hiện nay" của ThS. Nguyễn Thị Bảo
Nga; "Pháp luật kiểm soát hành vi lạm dụng quyền lực thị trường ở Việt Nam" của
ThS. Nguyễn Ngọc Quý; "Kiểm soát tập trung kinh tế theo quy định của pháp luật
Việt Nam" của ThS. Phạm Thị Ngoan… Ngồi ra, cịn nhiều bài viết, bài báo liên
quan đến pháp luật cạnh tranh nói chung và những phản ánh về thực tế hạn chế cạnh
tranh ở Việt Nam nói riêng.

2


Tuy nhiên, các nghiên cứu trên đây chủ yếu tập trung vào phân tích, làm rõ
các vấn đề pháp lý đối với từng nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh, còn các vấn đề về
chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh, thì chưa có nghiên cứu khoa học chuyên
sâu nào đề cập nghiên cứu, bên cạnh đó, thực tiễn áp dụng pháp luật các chế tài này
ở Việt Nam cũng chưa nhiều. Bởi vậy, nếu nghiên cứu và bảo vệ thành cơng, có thể
xem đây là cơng trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp độ Luận văn Thạc sĩ luật học về
đề tài "Chế tài liên quan tới hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam".
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là làm rõ các vấn đề lý luận pháp luật về
hành vi hạn chế cạnh tranh; bản chất, nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài
xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh; đánh giá thực trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng

các biện pháp chế tài đối với các hành vi hạn chế cạnh tranh ở thị trường Việt Nam,
chỉ ra những bất cập, hạn chế, để từ đó, đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật cạnh
tranh, đặc biệt là nâng cao hiệu quả của các biện pháp chế tài đối với các hành vi
hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu ở trên, đề ra nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Nghiên cứu, làm rõ các vấn đề lý luận pháp luật về hạn chế cạnh tranh, bản
chất, nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật cạnh tranh hiện hành về các chế tài
liên quan tới hạn chế cạnh tranh, cũng như thực tiễn áp dụng các biện pháp chế tài
xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.
- Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất, kiến nghị các giải pháp góp
phần hồn thiện các quy định pháp luật về vấn đề này, cũng như nâng cao hiệu quả
áp dụng các biện pháp chế tài xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý liên quan tới chế tài đối

3


với các hành vi hạn chế cạnh tranh, bao gồm các quy định về hành vi hạn chế cạnh
tranh, các biện pháp chế tài, trình tự áp dụng chế tài, thẩm quyền xử lý hành vi hạn
chế cạnh tranh..., được quy định trong các văn bản pháp luật hiện hành như: Luật
Cạnh tranh năm 2004, Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2012, Bộ luật Hình sự
1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và các văn bản hướng dẫn thi hành, cùng với
thực tế áp dụng chế tài xử lý các hành vi hạn chế cạnh tranh tại Việt Nam.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu là các biện pháp chế tài xử lý các
hành vi hạn chế cạnh tranh và các vấn đề có liên quan theo quy định của pháp luật

Việt Nam từ thời điểm Luật Canh tranh năm 2004 có hiệu lực thi hành.
Bên cạnh đó, việc tham khảo kinh nghiệm pháp luật của một số nước trên thế
giới về vấn đề này chỉ nhằm làm rõ hơn đối tượng nghiên cứu và rút ra bài học kinh
nghiệm góp phần hồn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả áp dụng các
biện pháp chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Để đạt được mục đích và hồn thành nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng
phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác –
Lênin; chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta về hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bên cạnh đó, luận văn còn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khoa
học cơ bản như: Phương pháp phân tích, tổng hợp, khái quát hóa, so sánh pháp
luật... để làm sáng tỏ mục tiêu và nội dung nghiên cứu của đề tài.
6. Những đóng góp mới của đề tài
Luận văn nếu được thực hiện và bảo vệ thành công sẽ đưa lại các đóng góp
mới như sau:
- Góp phần làm rõ hơn các vấn đề lý luận pháp luật về kiểm soát và xử lý các
hành vi hạn chế cạnh tranh; bản chất, nội dung, đặc điểm của các biện pháp chế tài
xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh.
- Góp phần đánh giá trung thực, khách quan về thực trạng pháp luật và hiệu
quả áp dụng các chế tài xử lý hành vi hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay.

4


- Góp phần hồn thiện pháp luật về các biện pháp chế tài xử lý hành vi hạn
chế cạnh tranh tại Việt Nam, từ đó, xây dựng và hồn thiện mơi trường cạnh tranh
bình đẳng, cơng bằng ở Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, luận

văn có kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật hạn chế cạnh tranh và chế tài
xử lý hạn chế cạnh tranh.
Chương 2: Thực trạng pháp luật và áp dụng pháp luật về chế tài xử lý hạn
chế cạnh tranh ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng và các giải pháp hoàn thiện pháp luật về chế tài xử lý
hạn chế cạnh tranh ở Việt Nam.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT HẠN CHẾ
CẠNH TRANH VÀ CHẾ TÀI XỬ LÝ HẠN CHẾ CẠNH TRANH
1.1. Khái niệm và đặc điểm của pháp luật về hạn chế cạnh tranh
1.1.1. Khái niệm, căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh
1.1.1.1. Khái niệm hành vi hạn chế cạnh tranh
Cạnh tranh là một quy luật vận động cơ bản của kinh tế thị trường là động
lực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, nhờ có cạnh tranh - với sự thay đổi liên
tục về nhu cầu và bản tính tham lam của con người - mà nền kinh tế thị trường đã có
những bước phát triển nhảy vọt chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Theo
Black’Law Dictionary, cạnh tranh - với tư cách là động lực nội tại trong mỗi chủ thể
kinh doanh - được hiểu là sự nỗ lực hoặc hành vi của hai hay nhiều thương nhân
nhằm tranh giành những lợi ích giống nhau từ chủ thể thứ ba. Về bản chất, cạnh
tranh là sản phẩm của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh có thể được mơ tả thơng
qua những dấu hiệu riêng vốn có của nó: (i) Cạnh tranh là hiện tượng xã hội diễn ra
giữa các chủ thể kinh doanh, cạnh tranh chỉ có thể tồn tại nếu như các chủ thể kinh
doanh có quyền tự do hành xử trên thị trường; (ii) Cạnh tranh thể hiện sự ganh đua,
sự kình địch giữa các doanh nghiệp, nói cách khác, cạnh tranh là phương thức giải
quyết mâu thuẫn về lợi ích tiềm năng giữa các nhà kinh doanh với vai trị quyết định

của người tiêu dùng; (iii) Mục đích của cạnh tranh là tranh giành thị trường mua
hoặc bán sản phẩm hàng hóa, dịch vụ [52, tr. 11].
Trong đó, hành vi cạnh tranh thường được phân loại thành: hành vi cạnh
tranh không lành mạnh và hành vi hạn chế cạnh tranh. Các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh thường chỉ là hành vi đơn độc của doanh nghiệp, ít có được sự
đồng thuận từ các đối tác và chỉ áp dụng tới một vài đối thủ, khách hàng và trong
một phạm vi nhất định. Ngược lại, các hành vi hạn chế cạnh tranh, được coi là hành
vi có mức độ nguy hiểm và tính phức tạp cao, hành vi hạn chế cạnh tranh mang tính
chất khống chế thị trường nhằm mục đích hạn chế đi tới triệt tiêu cạnh tranh, biến

6


dạng thị trường, gây nguy hại không chỉ cho các đối tượng cạnh tranh, người tiêu
dùng mà toàn thị trường cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.
Luật Cạnh tranh Việt nam đã đưa ra định nghĩa về hạn chế cạnh tranh theo hướng
liệt kê các nhóm hành vi cụ thể, theo đó “hạn chế cạnh tranh là hành vi của doanh
nghiệp làm giảm, sai lệch, cản trở cạnh tranh trên thị trường” [37, Điều 3, Khoản 3].
Mặc dù, không đưa ra một khái niệm chung về hạn chế cạnh tranh, nhưng thông qua
các hành vi cụ thể được các nhà làm luật điều chỉnh trong chế định hạn chế cạnh
tranh, thì có thể thấy hành vi này có đặc điểm chính là:
- Chủ thể thực hiện hành vi có thể là một doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh
nghiệp, các doanh nghiệp này hoặc là đã có sức mạnh thị trường, hoặc hướng đến việc
hình thành nên sức mạnh thị trường bằng cách thỏa thuận hoặc tập trung kinh tế.
- Hành vi hạn chế cạnh tranh mang tính chất khống chế thị trường, áp đặt sự
thống trị duy nhất của doanh nghiệp hoặc một nhóm doanh nghiệp lên thị trường. Ví
dụ như thỏa thuận ấn định giá mua bán hướng tới hạn chế đi tới triệt tiêu cạnh tranh
về giá cả giữa các doanh nghiệp, thỏa thuận phân chia thị trường tiêu thụ hoặc thị
trường cung cấp nguyên vật liệu… buộc người mua khơng có sự lựa chọn từ đó áp
đặt sự thống trị của doanh nghiệp trong những phạm vi nhất định, gây cản trở và

làm hạn chế cạnh tranh.
- Các hành vi được thực hiện nhằm mục tiêu làm biến dạng cạnh tranh và đi
tới triệt tiêu cạnh tranh. Sự biến dạng của cạnh tranh có thể là làm thay đổi cấu trúc
thị trường, thay đổi tương quan cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, loại bỏ đối thủ,
ngăn cản đối thủ tiềm năng để làm giảm đi sức ép cạnh tranh hiện có hoặc sẽ có,
bóc lột khách hàng.
1.1.1.2. Căn cứ xác định hành vi hạn chế cạnh tranh
Tùy vào đặc điểm nền kinh tế của mỗi quốc gia mà pháp luật cạnh tranh có
những cách điều chỉnh đối với hành vi hạn chế cạnh tranh khác nhau. Tuy nhiên,
dưới góc độ lý luận, pháp luật các nước xác định hành vi hạn chế cạnh tranh căn cứ
vào yếu tố thị trường liên quan và thị phần, thị phần kết hợp.

7


* Xác định thị trường liên quan
Dưới góc độ kinh tế học, thị trường là nơi gặp gỡ giữa cung và cầu về một
loại hàng hóa hoặc dịch vụ nhất định. Cục Thương mại công bằng của Vương quốc
Anh đã nhận định:
Thị trường là một giai đoạn rất quan trọng trong bất cứ cuộc điều
tra nào về hành vi lạm dụng. Bởi lẽ thị phần chỉ được tính tốn sau khi
những ranh giới của thị trường đã được xác định. Do đó, nếu thị trường
được xác định sai, thì tất cả những phân tích tiếp theo dựa trên thị phần
hoặc cấu trúc thị trường đều khơng hồn thiện [53, tr. 238].
Việc xác định được thị trường liên quan là để có thể đánh giá được sức mạnh
thị trường của một doanh nghiệp, là để xem mức độ những sản phẩm và dịch vụ
thay thế lẫn nhau tạo sức ép cạnh tranh lên các nhà cung cấp những sản phẩm và
dịch vụ tương ứng. Thị trường liên quan là cơ sở quan trọng để các cơ quan thực thi
luật, kết luận một hành vi cụ thể là có vi phạm Luật Cạnh tranh hay khơng. Nói
cách khác, xác định thị trường liên quan là công đoạn đầu tiên trong chuỗi tác

nghiệp thực thi Luật Cạnh tranh liên quan đến các hành vi hạn chế cạnh tranh.
Thị trường liên quan được cấu thành bởi hai loại giới hạn cơ bản là giới hạn
về sản phẩm (loại hàng hóa, dịch vụ) và giới hạn về phạm vi, không gian địa lý, khu
vực địa lý. Đó là: thị trường sản phẩm liên quan và thị trường địa lý liên quan.
Thứ nhất, thị trường sản phẩm liên quan được xác định trong một phạm vi
mà ở đó hàng hố, dịch vụ có những đặc tính, hình dạng, mục đích sử dụng và giá
cả tương tự, có khả năng thay thế cho nhau một cách hợp lý. Tính chất tương tự
giữa những hàng hố, dịch vụ này phải được xét trong tổng thể các yếu tố nói trên,
khơng ngoại trừ yếu tố nào. Căn cứ để xác định đặc tính, mục đích sử dụng và giá
cả của hàng hóa, dịch vụ cũng như “thuộc tính có thể thay thế cho nhau” được quy
định tại Nghị định số 116/2005/NĐ-CP (Điều 5), đặc tính của hàng hóa, dịch vụ
được xác định theo một hoặc một số căn cứ sau: tính chất vật lý, tính chất hóa học;
tính năng kỹ thuật; tác dụng phụ của sản phẩm; khả năng hấp thụ. Mục đích sử dụng
của hàng hóa, dịch vụ được xác định căn cứ vào mục đích sử dụng thông thường

8


nhất của hàng hóa, dịch vụ đó. Giá cả của hàng hóa, dịch vụ là giá ghi trong hóa
đơn bán lẻ. Ngoài ra, trong một số trường hợp đặc biệt, thị trường sản phẩm liên
quan cịn có thể được xác định là thị trường của một loại sản phẩm đặc thù hoặc một
nhóm các sản phẩm đặc thù căn cứ vào cấu trúc thị trường và tập quán của người
tiêu dùng. Trong trường hợp này, việc xác định thị trường sản phẩm liên quan có
thể xem xét thêm thị trường của các sản phẩm bổ trợ cho sản phẩm liên quan [11].
Thứ hai, thị trường địa lý liên quan là một khu vực địa lý cụ thể có thể là
một thành phố, một tỉnh, một miền, một quốc gia, một khu vực kinh tế, thậm chí là
tồn cầu mà ở đó hàng hố, dịch vụ có khả năng thay thế được cho nhau một cách
hợp lý với các điều kiện cạnh tranh tương tự, đặc biệt, khu vực địa lý này phải có sự
khác biệt đáng kể với các khu vực lân cận khác về hàng rào kiểm soát thương mại,
phương tiện phân phối, chi phí vận chuyển và ngơn ngữ thương mại. Theo khoản 3

Điều 7 Nghị định số 116/2005/NĐ-CP, khu vực địa lý được coi là có điều kiện cạnh
tranh tương tự và khác biệt đáng kể với các khu vực địa lý lân cận nếu thỏa mãn
một trong các tiêu chí sau: (i) Chi phí vận chuyển và thời gian vận chuyển làm giá
bán lẻ hàng hóa tăng khơng q 10%; hoặc (ii) có sự hiện diện của một trong các
rào cản gia nhập thị trường như: rào cản từ sáng chế, giải pháp hữu ích, kiểu dáng
công nghiệp, nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý theo quy định của pháp luật về sở hữu công
nghiệp; rào cản về tài chính bao gồm chi phí đầu tư vào sản xuất, phân phối, xúc
tiến thương mại hoặc khả năng tiếp cận với các nguồn cung cấp tài chính; quyết
định hành chính của cơ quan quản lý nhà nước; quy định về điều kiện kinh doanh, sử
dụng hàng hóa, dịch vụ, các chuẩn mực nghề nghiệp; thuế nhập khẩu và hạn ngạch
nhập khẩu; tập quán của người tiêu dùng… [11].
* Xác định thị phần, thị phần kết hợp
Theo Luật Cạnh tranh năm 2004:
Thị phần của doanh nghiệp đối với một loại hàng hoá, dịch vụ
nhất định là tỷ lệ phần trăm giữa doanh thu bán ra của doanh nghiệp này
với tổng doanh thu của tất cả các doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hố,
dịch vụ đó trên thị trường liên quan hoặc tỷ lệ phần trăm giữa doanh số

9


mua vào của doanh nghiệp này với tổng doanh số mua vào của tất cả các
doanh nghiệp kinh doanh loại hàng hố, dịch vụ đó trên thị trường liên
quan theo tháng, quý, năm [37, Điều 3, khoản 5].
Dưới góc độ pháp luật cạnh tranh, thị phần được đề cập đến khi xác định
hành vi hạn chế cạnh tranh, đặc biệt là vị trí thống lĩnh thị trường và tập trung kinh
tế. Bản thân thị phần chưa đủ để khẳng định một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh
thị trường, có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể. Tuy nhiên, thị
phần cũng là điều kiện cần thiết để xác định hành vi hạn chế cạnh tranh.
Trong quá trình giải quyết các vụ việc cạnh tranh, bên cạnh xác định thị phần,

thì xác định thị phần kết hợp cũng là vấn đề quan trọng. Nếu như thị phần chỉ tỷ lệ
doanh thu của một doanh nghiệp so với tổng doanh thu của các doanh nghiệp trên thị
trường liên quan, thì thị phần kết hợp là tỷ lệ doanh thu của hai hay nhiều doanh nghiệp
trên thị trường liên quan. Khoản 6 Điều 3 Luật Cạnh tranh năm 2004 đã định nghĩa
rằng: “Thị phần kết hợp là tổng thị phần trên thị trường liên quan của các doanh
nghiệp tham gia vào thoả thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung kinh tế” [37].
Trong Luật Cạnh tranh, thị phần kết hợp thường được đề cập đến khi xác định các
doanh nghiệp cùng nhau thực hiện các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh hoặc tập trung
kinh tế. Thị phần kết hợp thể hiện năng lực cạnh tranh của một nhóm doanh nghiệp.
Vì vậy, thơng qua tỷ lệ thị phần kết hợp người ta xác định một nhóm doanh nghiệp
có thuộc trường hợp bị kiểm soát hành vi hạn chế cạnh tranh hay không. Theo Luật
Cạnh tranh 2004, trường hợp một số thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chỉ bị cấm khi
thị phần liên kết của họ vượt quá 30%, hoặc trường hợp tập trung kinh tế, nếu thị
phần kết hợp từ 30% - 50% thì các doanh nghiệp phải báo cáo với cơ quan quản lý
cạnh tranh, nếu thị phần kết hợp trên 50% thì hoạt động tập trung kinh tế đó sẽ bị
cấm… Bởi khi sở hữu tỷ lệ thị phần đó, các doanh nghiệp có thể gây hạn chế cạnh
tranh một cách sâu sắc mà không phải do năng lực tự sản xuất, kinh doanh của họ.
1.1.1.3. Phân loại các nhóm hành vi hạn chế cạnh tranh
Các hành vi hạn chế cạnh tranh tồn tại phổ biến dưới các dạng: thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, lạm dụng vị trí độc quyền,
tập trung kinh tế.

10


* Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh
Thỏa thuận hạn chế cạnh tranh là hành vi cấu kết giữa hai hay nhiều doanh
nghiệp để thủ tiêu sự cạnh tranh giữa chúng và ngăn cản việc tham gia thị trường
của các đối thủ cạnh tranh khác cũng như sự nhập cuộc của các doanh nghiệp. Nội
dung của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh chính là sự thống nhất ý chí giữa các chủ

thể dưới bất kì hình thức nào về cách thức, biện pháp nhằm hạn chế, thậm chí khống
chế cạnh tranh trên thị trường liên quan. Luật Cạnh tranh Việt Nam không đưa ra
khái niệm mà sử dụng phương pháp liệt kê các thỏa thuận bị coi là thỏa thuận hạn
chế cạnh tranh tại Điều 8 Luật Cạnh tranh. Mặc dù thực tế các hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh rất đa dạng, tuy nhiên về bản chất pháp lý thì các hành vi này có
đặc điểm chung đó là:
- Về chủ thể, thỏa thuận hạn chế cạnh tranh diễn ra giữa các doanh nghiệp là
đối thủ cạnh tranh của nhau. Để xác định dấu hiệu này, phải chứng minh được
những điểm sau đây: các doanh nghiệp tham gia thỏa thuận cùng trên thị trường liên
quan; các doanh nghiệp phải hoạt động độc lập với nhau, không phải là những
người liên quan của nhau theo pháp luật doanh nghiệp; không cùng trong một tập
đồn kinh doanh, khơng cùng là thành viên của tổng cơng ty. Ngồi ra, theo pháp
luật Việt Nam, hiệp hội ngành nghề cũng có thể là chủ thể bị áp dụng, vì nơi đây là
diễn đàn tập trung các doanh nghiệp thường là một hoặc một số hàng hóa trên thị
trường liên quan.
- Hình thức của thỏa thuận là sự thống nhất cùng hành động giữa các doanh
nghiệp có thể cơng khai hoặc khơng cơng khai.
- Nội dung của các thỏa thuận hạn chế cạnh tranh thường tập trung vào các
yếu tố cơ bản của quan hệ thị trường mà các doanh nghiệp đang cạnh tranh nhau
như giá, thị trường, trình độ kỹ thuật, cơng nghệ, điều kiện ký kết hợp đồng và nội
dung của hợp đồng. Để xác định được sự tồn tại của một thỏa thuận hạn chế cạnh
tranh cần phải có bằng chứng về sự thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp; và nội
dung của thỏa thuận là cùng nhau thực hiện hành vi hạn chế cạnh tranh.
- Hậu quả của thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, dấu hiệu chung cho cả ba loại

11


hành vi hạn chế cạnh tranh, là làm giảm, sai lệch và cản trở cạnh tranh trên thị
trường. Sự thống nhất ý chí đã liên kết các doanh nghiệp độc lập với nhau nhằm tạo

nên sức mạnh chung trong quan hệ với khách hàng hoặc trong quan hệ cạnh tranh
với những doanh nghiệp không tham gia thỏa thuận. Thế nên hậu quả của thỏa
thuận gây ra cho thị trường là xoá bỏ cạnh tranh giữa những doanh nghiệp tham gia.
Khi nội dung thỏa thuận được hình thành, tạo ra những tiêu chuẩn chung về giá, về
kỹ thuật, về công nghệ, về điều kiện giao kết hợp đồng… các doanh nghiệp đang từ
đối thủ cạnh tranh của nhau sẽ khơng cịn cạnh tranh với nhau nữa. Bằng sức mạnh
chung (nếu sự liên kết tạo nên sức mạnh thị trường) và bằng việc thực hiện hành vi
hạn chế cạnh tranh, các doanh nghiệp tham gia có thể gây thiệt hại cho khách hàng
khi đặt ra các điều kiện giao dịch bất lợi cho họ hoặc gây thiệt hại cho các doanh
nghiệp không tham gia thỏa thuận.
Hiện nay, thông thường các thỏa thuận này thường thể hiện dưới dạng các
thỏa thuận ngầm hoặc cùng hành động để tránh bị phát hiện và xử lý. Thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh có thể được hình thành theo chiều ngang hoặc chiều dọc của quá
trình kinh doanh. Thỏa thuận ngang là thỏa thuận diễn ra giữa các doanh nghiệp ở
cùng một ngành hàng nhằm hạn chế hoặc thủ tiêu cạnh tranh giữa họ với nhau hoặc
trên toàn bộ thị trường. Chẳng hạn như các thỏa thuận ấn định giá, thỏa thuận thông
đồng để một bên thắng thầu, thỏa thuận phân chia thị trường hay khách hàng, thỏa
thuận tẩy chay hoặc cùng từ chối giao dịch mang tính tập thể. Thỏa thuận chiều dọc
là thỏa thuận nhằm hạn chế hoặc thủ tiêu cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ở các
khâu khác nhau của quá trình sản xuất cho đến tiêu thụ. Thỏa thuận này thường liên
quan đến các điều kiện, theo đó các bên mua, bán hay bán lại một số hàng hóa hoặc
dịch vụ đối với bên thứ ba. Do đó thỏa thuận theo chiều dọc còn được gọi là thỏa
thuận cung cấp - phân phối sản phẩm. Biểu hiện của những thỏa thuận này có thể là
thỏa thuận loại bỏ khỏi thị trường những doanh nghiệp không phải là các bên của
thỏa thuận, thỏa thuận duy trì giá bán lại, thỏa thuận ràng buộc…
* Lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền
Hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, vị trí độc quyền những hành vi

12



do doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường, doanh
nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện nhằm củng cố vị trí thống lĩnh, duy trì vị trí
độc quyền bằng cách loại bỏ doanh nghiệp khác ra khỏi thị trường; ngăn cản, kìm
hãm doanh nghiệp khác không cho gia nhập thị trường, phát triển kinh doanh hoặc
nhằm thu lợi nhuận độc quyền bằng cách bóc lột khách hàng [52, tr.104].
Pháp luật của các nước đều thống nhất rằng nhóm hành vi này có: (i) Chủ thể
thực hiện hành vi là doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc
doanh nghiệp có vị trí độc quyền trên thị trường liên quan; (ii) Doanh nghiệp, nhóm
doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh, doanh nghiệp độc quyền đã hoặc đang thực hiện
hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định trong Luật Cạnh tranh; (iii) Hậu quả của
hành vi lạm dụng là làm sai lệch, cản trở hoặc giảm cạnh tranh trên thị trường liên quan.
Việc xác định vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền được thực
hiện qua hai bước cơ bản: Xác định thị trường liên quan và xác định mức độ thống
lĩnh hoặc độc quyền của doanh nghiệp trên thị trường. Điều 11 và Điều 12 Luật
Cạnh tranh năm 2004 quy định về các căn cứ xác định vị trí thống lĩnh thị trường và
vị trí độc quyền của doanh nghiệp, theo đó: Doanh nghiệp được coi là có vị trí
thống lĩnh thị trường nếu có thị phần từ 30% trở lên trên thị trường liên quan hoặc
có khả năng gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể; nhóm doanh nghiệp được coi
là có vị trí thống lĩnh thị trường nếu cùng hành động nhằm gây hạn chế cạnh tranh
và thuộc một trong các trường hợp sau: Hai doanh nghiệp có tổng thị phần từ 50%
trở lên trên thị trường liên quan, ba doanh nghiệp có tổng thị phần từ 65% trở lên
trên thị trường liên quan, bốn doanh nghiệp có tổng thị phần từ 75% trở lên trên thị
trường liên quan; doanh nghiệp được coi là có vị trí độc quyền nếu khơng có doanh
nghiệp nào cạnh tranh về hàng hố, dịch vụ mà doanh nghiệp đó kinh doanh trên thị
trường liên quan.
Luật Cạnh tranh năm 2004 không đưa ra định nghĩa mà liệt cụ thể các
hành vi lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh. Theo
đó, chỉ khi doanh nghiệp, nhóm doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường,
doanh nghiệp có vị trí độc quyền thực hiện những hành vi được quy định tại


13


Điều 13 và Điều 14 Luật Cạnh tranh mới bị coi là lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị
trí độc quyền để hạn chế cạnh tranh.
* Tập trung kinh tế
Khái niệm hành vi tập trung kinh tế được bình luận ở nhiều góc độ khác
nhau trong kinh tế học và trong khoa học pháp lý. Tập trung kinh tế được hiểu:
Là các thỏa thuận tài chính theo đó hai hay nhiều doanh nghiệp độc
lập quyết định kết hợp sức mạnh kinh tế của họ với nhau thành một tổ chức
duy nhất thông qua phương thức mua lại, sáp nhập hoặc liên doanh làm ảnh
hưởng tiêu cực đến cấu trúc của thị trường, hay để tạo lập, củng cố vị trí
thống lĩnh thị trường gây hạn chế cạnh tranh một cách đáng kể [30, tr.7].
Dưới góc độ pháp lý, theo Điều L430-1, Bộ luật Thương mại Pháp, tập trung
kinh tế là “một hoặc nhiều người đã nắm quyền kiểm sốt ít nhất một doanh nghiệp
hoặc nhiều doanh nghiệp có được quyền kiểm sốt đối với tồn bộ hoặc một phần
doanh nghiệp khác một cách trực tiếp hoặc gián tiếp, bằng cách góp vốn mua cổ
phần, giao kết hợp đồng hoặc mọi hình thức khác” [26, tr.20]. Luật Cạnh tranh Việt
Nam năm 2004 không đưa ra khái niệm cụ thể mà quy định theo cách liệt kê các
hành vi được coi là tập trung kinh tế. Theo đó, khoản 3 Điều 3 khẳng định tập trung
kinh tế là hành vi hạn chế cạnh tranh, Điều 16 quy định tập trung kinh tế là hành vi
của doanh nghiệp bao gồm: sáp nhập doanh nghiệp; hợp nhất doanh nghiệp; mua lại
doanh nghiệp; liên doanh giữa các doanh nghiệp; các hành vi tập trung khác theo
quy định của pháp luật [37]. Từ đó, hành vi tập trung kinh tế có những đặc trưng:
chủ thể của tập trung kinh tế là các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường; sáp
nhập, hợp nhất, mua lại và liên doanh giữa các doanh nghiệp; hậu quả của tập trung
kinh tế là việc hình thành các tập đồn kinh tế, thay đổi cấu trúc thị trường và tương
quan cạnh tranh trên thị trường.
Q trình tập trung kinh tế có thể được diễn ra theo những cách sau:

+ Liên kết ngang là hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp cùng ngành
nghề, cùng lĩnh vực kinh doanh;
+ Liên kết dọc là hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp theo các khâu, các
cơng đoạn của q trình sản xuất kinh doanh;

14


+ Liên kết thành một khối là hình thức liên kết giữa các doanh nghiệp
thuộc nhiều ngành nghề, nhiều lĩnh vực khác nhau hợp thành một tổ chức để duy
trì lợi ích chung.
Thực chất của tập trung kinh tế là việc hình thành những liên minh, tập đồn
kinh tế nhằm khai thác những lợi thế kinh tế, qua đó chi phối các vấn đề như: thị
trường, số lượng, giá cả, chất lượng hàng hóa, dịch vụ. Mục đích của việc kiểm sốt
hành vi tập trung kinh tế khơng phải để ngăn cấm hành vi này, cũng khơng phải để
khuyến khích nó, mà nhằm ngăn chặn hậu quả làm ảnh hưởng tiêu cực đến tình hình
cạnh tranh do hành vi tập trung kinh tế có nguy cơ gây ra cho thị trường. Những
tiêu chí để đánh giá các vụ tập trung kinh tế bị cấm là thị phần, tổng doanh thu hàng
năm, số lượng nhân viên, quy mô kinh doanh…
1.1.2. Pháp luật điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh
1.1.2.1. Khái quát chung
Pháp luật cạnh tranh được xây dựng và ban hành nhằm điều chỉnh các quan
hệ cạnh tranh phát sinh trong quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh, giữ cho thị
trường được vận hành theo hướng đúng đắn, lành mạnh, qua đó thúc đẩy hoạt động
sản xuất, kinh doanh phát triển. Pháp luật cạnh tranh thuộc loại pháp luật “ngăn
cản”, mang tính can thiệp.
Cơ cấu pháp luật cạnh tranh chủ yếu bao gồm: pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh và pháp luật chống hạn chế cạnh tranh. Nguyên nhân có sự phân
chia hai lĩnh vực pháp luật khác nhau như vậy, một mặt bởi mức độ khác nhau về
tính chất, mức độ của hành vi và theo đó là mức độ nguy hại của chúng đối với thị

trường. Do đó, phương thức, tính cương quyết trong sự trừng phạt của pháp luật đối
với hai nhóm hành vi này là khác nhau, mặc dù nếu xét đến cùng chúng đều xâm
hại đến sự vận hành bình thường của thị trường. Cùng với các quy định về nội dung
để xác định hành vi vi phạm, pháp luật cạnh tranh cịn bao gồm cả các quy định về
trình tự, thủ tục tố tụng xử lý đối với các hành vi vi phạm pháp luật cạnh tranh.
Pháp luật chống hạn chế cạnh tranh ra đời điều chỉnh các hành vi hạn chế
cạnh tranh trên thị trường với tên gọi phổ biến là Luật Cartel (tại Hoa Kỳ và một số

15


nước, sử dụng phổ biến thuật ngữ Anti-trust hoặc Anti-monopoly). Pháp luật chống
hạn chế cạnh tranh hướng tới điều chỉnh các hành vi của các chủ thể thị trường
nhằm thủ tiêu sức ép cạnh tranh, độc quyền hóa hoặc tạo dựng quyền lực thị trường
một cách bất chính, cũng như lạm dụng quyền lực thị trường để độc quyền hóa và
xâm hại tới người tiêu dùng. Mục đích lớn nhất của pháp luật chống hạn chế cạnh
tranh là bảo vệ tự do cạnh tranh cũng như bảo vệ cơ cấu và tương quan thị trường.
Do đó, nó mang nhiều đặc điểm của pháp luật hành chính.
1.1.2.2. Đặc điểm và nội dung của pháp luật điều chỉnh hạn chế cạnh tranh
Pháp luật điều chỉnh hạn chế cạnh tranh là một bộ phận quan trọng của pháp
luật cạnh tranh. Chế định pháp luật này gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều
chỉnh hành vi cạnh tranh trên thị trường. Pháp luật về hạn chế cạnh tranh thể hiện sự
can thiệp trực tiếp của Nhà nước nhằm kiểm soát, giới hạn hoặc cấm đoán tất cả các
thỏa thuận, liên kết dẫn đến sự hạn chế hoặc triệt tiêu sự cạnh tranh; giám sát các chủ
thể đang nắm giữ vị trí thống lĩnh thị trường để kìm chế, ngăn cản khơng cho các chủ
thể này lạm dụng vị thế quyền lực thị trường hạn chế sự cạnh tranh; giới hạn và điều
hòa lợi ích của các chủ thể có vị thế độc quyền thị trường (bất kể là độc quyền tự
nhiên hay độc quyền hành chính, độc quyền nhóm hay độc quyền hồn tồn) trong
một tương quan hợp lý với lợi ích chung của tồn xã hội. Mục đích lớn nhất của pháp
luật chống hạn chế cạnh tranh và kiểm soát độc quyền là bảo vệ cơ cấu và tương quan

thị trường, bảo vệ cơ chế cạnh tranh và môi trường cạnh tranh lành mạnh [27, tr.66].
Pháp luật kiểm soát các hành vi hạn chế cạnh tranh bao gồm quy định về: các hành vi
hạn chế cạnh tranh, chế tài đối với các vi phạm về hạn chế cạnh tranh, trình tự, thủ
tục thẩm quyền xử lý vi phạm pháp luật về hạn chế cạnh tranh.
Xét về mức độ phức tạp và nguy hại cho thị trường thì hành vi hạn chế cạnh
tranh ở mức độ cao hơn và nguy hiểm hơn so với các hành vi cạnh tranh không lành
mạnh đơn thuần. Cơ chế kiểm soát chặt chẽ hơn, bởi trách nhiệm kiểm soát, xử lý
các hành vi vi phạm trước hết thuộc về các cơ quan chức năng có thẩm quyền của
Nhà nước mà không cần sự khiếu kiện hay cáo giác từ phía các đương sự. Do hành
vi hạn chế cạnh tranh nguy hại về mức độ cũng như trên phạm vi rộng lớn hơn cho

16


thị trường nói chung so với hành vi hành vi cạnh tranh không lành mạnh, nên pháp
luật chống hạn chế cạnh tranh thường có cách xử lý nghiêm khắc hơn và kịp thời
hơn bằng những biện pháp có tính đặc thù hơn – biện pháp hành chính kinh tế.
Các chế tài được áp dụng để xử lý những hành vi vi phạm có thể ở dạng như:
đình chỉ hành vi, tuyên bố thỏa thuận vô hiệu, tái cấu trúc công ty, phạt tiền… Mọi
thủ đoạn gian dối có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự (nếu cấu thành tội phạm)
chứ không chỉ dừng ở mức xử lý vi phạm hành chính. Tuy nhiên, pháp luật điều
chỉnh hạn chế cạnh tranh có đặc trưng là rất mềm dẻo, nó khơng áp dụng cho mọi
trường hợp hạn chế cạnh tranh mà chỉ khi nào hành vi đó có khả năng định tính
hoặc định lượng ở một giới hạn nhất định hoặc có dấu hiệu bất hợp lý thì mới bị xử
lý. Ngồi ra, có rất nhiều trường hợp ngoại lệ về hạn chế cạnh tranh có thể được
miễn trừ khi có những lý do kinh tế chính đáng. Vì đây là pháp luật bảo vệ tự do
cạnh tranh cũng như bảo vệ cơ cấu và tương quan thị trường, nên một việc cần thiết
là phải cân nhắc, chú ý đến quyền lợi của nhiều bên trong quan hệ cạnh tranh.
Nhìn chung, pháp luật chống hạn chế cạnh tranh có những đặc điểm như:
vừa mang tính chất của luật kinh tế cơng trong việc kiểm soát, giám sát các hoạt

động cạnh tranh, vừa mang tính chất của luật tư dưới góc độ tiếp cận liên quan đến
bảo vệ quyền tự do kinh doanh, tự do hợp đồng của các chủ thể; tiếp cận từ mặt trái
của thị trường; và việc áp dụng pháp luật mang tính mềm dẻo…[50, tr.16]
1.2. Khái niệm và nội dung chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh
1.2.1. Khái niệm chế tài xử lý hạn chế cạnh tranh
1.2.1.1. Khái niệm
Chế tài theo quan niệm chung là: “Cách thức áp đặt đối với một người, mà
tại đó một quyền được thi hành hoặc được làm thỏa mãn bởi tòa án khi ai đó bị
thiệt hại hay tổn thương mà xã hội thừa nhận đó là một hành vi sai trái” [25]. Hiểu
một cách đơn giản, pháp luật điều tiết các quan hệ xã hội bằng cách đặt ra các
quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể khi tham gia các quan hệ xã hội nhất định. Theo
khoa học pháp lý, chế tài là một bộ phận cấu thành của quy phạm pháp luật, xác
định các hình thức trách nhiệm pháp lý khi có hành vi trái ngược với những quy tắc
xử sự đã được ghi trong phần quy định và giả định.

17


Tóm lại, chế tài là hậu quả pháp lý bất lợi mà người có hành vi vi phạm phải
gánh chịu. Nó biểu hiện thái độ của Nhà nước và của người bị vi phạm đối với
người vi phạm và là điều kiện đảm bảo cần thiết cho việc tuân thủ pháp luật, tuân
thủ hợp đồng. Đây là những biện pháp cưỡng chế áp dụng đối với chủ thể có hành
vi vi phạm các yêu cầu của bộ phận quy định của quy phạm pháp luật.
Theo tính chất của sự phản ứng pháp lý đối với vi phạm, chế tài bao gồm: (i)
Chế tài hình phạt là sự phản ứng gay gắt nhất của Nhà nước đối với các hành vi vi
phạm pháp luật như chế tài hình sự, chế tài hành chính…; (ii) Chế tài khơi phục
pháp luật hướng tới biện pháp xử phạt đến việc khôi phục trạng thái trước đây, phục
hồi lại trật tự pháp luật đã bị xâm hại; (iii) Chế tài phủ nhận pháp luật là sự phản
ứng tiêu cực của nhà nước đối với việc thực hiện không đúng các quy định pháp
luật [49, tr.387]. Chế tài này thể hiện sự khơng thừa nhận tính chất pháp lý của các

quan hệ xã hội mới phát sinh.
Căn cứ vào tính chất của các nhóm quan hệ xã hội được pháp luật điều
chỉnh, chế tài được phân chia thành nhiều loại: Chế tài hình sự, chế tài dân sự,
chế tài hành chính...
Đối với các vi phạm về hạn chế cạnh tranh, pháp luật các nước đều quy
định trách nhiệm pháp lý mà chủ thể vi phạm phải chịu, bao gồm: Đình chỉ hành
vi, cơng bố cơng khai về hành vi vi phạm, phạt tiền, bồi thường thiệt hại hoặc phạt
tù… Tại Hàn Quốc, nếu một doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh thị trường có hành
vi lạm dụng vị trí của mình sẽ bị phạt tiền khơng quá 3% doanh thu theo Nghị
định của Tổng thống [8, Điều 6]. Hay phạt tù không quá 3 năm hoặc phạt không
quá 5 triệu Yên đối với vi phạm quy định cấm độc quyền tư nhân, các hoạt động
bị cấm của liên kết thương mại theo quy định của pháp luật cạnh tranh Nhật Bản
[6, Điều 89]. Dù bị áp dụng biện pháp gì để phản ứng trước các hành vi hạn chế
cạnh tranh thì các biện pháp đó đều có đặc điểm chung, đó là sự đánh giá tiêu cực
của Nhà nước và xã hội về hành vi và chủ thể thực hiện hành vi đó, buộc chủ thể
vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do đã thực hiện hành vi gây hạn chế,
kìm hãm cạnh tranh.

18


Hiện nay, khoa học pháp lý không đưa ra khái niệm chế tài đối với hành vi
hạn chế cạnh tranh, nhưng căn cứ vào khái niệm chế tài nói chung, có thể hiểu:
“Chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh là những hình thức trách nhiệm
pháp lý được Nhà nước áp dụng đối với các chủ thể kinh doanh, buộc các chủ thể
đó phải gánh chịu những hậu quả bất lợi do đã có hành vi hạn chế cạnh tranh gây
thiệt hại cho các chủ thể kinh doanh và các chủ thể khác”.
Chế tài cạnh tranh tác động đến hoạt động của người vi phạm để thiết lập lại
hoặc bảo vệ môi trường cạnh tranh.
1.2.1.2. Những đặc trưng cơ bản

Ngoài những đặc điểm chung của chế tài như: chỉ áp dụng khi có vi phạm
pháp luật xảy ra; là hình thức cưỡng chế của Nhà nước đối với chủ thể vi phạm; chủ
thể vi phạm phải gánh chịu một hậu quả bất lợi nhất định, chế tài đối với hành vi
hạn chế cạnh tranh cịn có những đặc điểm riêng:
- Chủ thể bị áp dụng chế tài là các doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề. Theo
Điều 2 Luật Cạnh tranh Việt Nam, các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và
các hiệp hội ngành nghề hoạt động ở Việt Nam, trong tất cả các ngành nghề kinh tế,
các khâu, các cơng đoạn của q trình thực hiện hoạt động kinh doanh, nếu các chủ thể
đó vi phạm các quy định về hạn chế cạnh tranh thì sẽ bị áp dụng chế tài xử lý [37].
- Chủ thể bị áp dụng chế tài có hành vi vi phạm quy định của Luật Cạnh
tranh về thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh thị trường, độc
quyền, tập trung kinh tế. Các hành vi này có thể đã, đang hoặc có thể gây ra hậu quả
ngăn cản hay hạn chế cạnh tranh đáng kể trên thị trường.
- Chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh được quy định trong nhiều văn
bản pháp luật khác nhau, thuộc các ngành luật khác nhau. Luật Cạnh tranh phá vỡ
biên giới giữa luật cơng và luật tư, nó là sự xâu chuỗi của hầu hết các ngành luật
dân sự, thương mại hành chính, hình sự… Đây là nét đặc trưng của Luật Cạnh tranh,
nó khơng có chế tài riêng mà sử dụng chế tài của các ngành luật khác, bao gồm:
Chế tài dân sự (chủ yếu là bồi thường thiệt hại, buộc chấm dứt hành vi vi phạm),
chế tài hành chính (chủ yếu là phạt tiền), và chế tài hình sự (áp dụng đối với các

19


hành vi vi phạm Luật Cạnh tranh đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm) [29, tr.27].
Tương tự như vậy, pháp luật cạnh tranh Việt Nam cũng quy định về chế tài hạn chế
cạnh tranh trong nhiều văn bản luật khác nhau như Luật Cạnh tranh, Luật Xử lý vi
phạm hành chính, Bộ luật Hình sự, Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật
Thương mại…
1.2.2. Sự cần thiết áp dụng chế tài đối với hành vi hạn chế cạnh tranh

1.2.2.1. Ảnh hưởng của các hành vi hạn chế cạnh tranh đối với phát triển
nền kinh tế
Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế của nền kinh tế thị trường,
là động lực phát triển của các thành phần, chủ thể kinh tế cùng tham gia kinh
doanh. Động lực cạnh tranh kích thích các doanh nghiệp cải tiến thiết bị, công
nghệ, phương thức quản lý để ứng dụng công nghệ tiên tiến, hiện đại nhằm nâng
cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa và doanh nghiệp của mình. Cạnh
tranh định hướng cho việc kinh doanh sản phẩm dịch vụ, điều tiết quan hệ cung
cầu của xã hội, thông qua cạnh tranh các nhà sản suất sẽ không ngừng sáng tạo ra
sản phẩm, dịch vụ mới tốt hơn với giá thành hợp lý hơn, nhờ vậy người tiêu dùng
được lựa chọn các loại hàng hóa, sản phẩm dịch vụ mà họ mong muốn. Đồng thời,
cạnh tranh giúp cho việc sử dụng các nguồn tài nguyên hiệu quả nhất, phân phối
nguồn lực và điều hòa thu nhập.
Các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh, lạm dụng vị trí thống lĩnh, vị trí
độc quyền hoặc tập trung kinh tế diễn ra khi doanh nghiệp sử dụng bằng mọi cách
thức, thủ đoạn để tiến hành cạnh tranh với mục đích chiếm được ưu thế cạnh tranh,
gây thiệt hại hoặc bất lợi cho chủ thể cạnh tranh, thậm chí thủ tiêu cạnh tranh, loại
bỏ và tiêu diệt các đối thủ cạnh tranh. Hậu quả là nó xóa bỏ cạnh tranh, các doanh
nghiệp sẽ khơng cịn phải chịu sức ép của cạnh tranh và từ đó có thể tha hồ đưa ra
những điều kiện giao kết bất lợi cho khách hàng. Đặc biệt, khi xuất hiện độc quyền,
người tiêu dùng không còn sự lựa chọn nào khác là phải chấp nhận hàng hóa, dịch
vụ và các điều kiện kèm theo của doanh nghiệp độc quyền.
Tuy nhiên, tác động nguy hiểm của các hành vi hạn chế cạnh tranh đó chính

20


×