Tải bản đầy đủ (.pdf) (74 trang)

Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước sang công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (961.61 KB, 74 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ THỊ NGỌC HƯƠNG

Chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty Trách nhiệm hữu
hạn một thành viên ở Việt Nam hiện nay.

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2012


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGÔ THỊ NGỌC HƯƠNG

Chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà nước sang Công ty Trách nhiệm hữu
hạn một thành viên ở Việt Nam hiện nay.

Chuyên ngành

: Luật kinh tế

Mã số

: 60 38 50

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS LÊ THỊ HOÀI THU

Hà nội – 2012.


MỤC LỤC
Trang
Lời cảm ơn ...................................................................................................... 1
Lời cam đoan ................................................................................................... 2
Mục lục .......................................................................................................... 3
Danh mục chữ viết tắt .................................................................................... 5
MỞ ĐẦU ....................................................................................................... 6
1- Tính cấp thiết của đề tài ............................................................................. 6
2- Mục đích nghiên cứu của luận văn ............................................................ 8
3- Phạm vi nghiên cứu của luận văn .............................................................. 8
4- Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 8
5- Kết cấu của luận văn: ................................................................................. 9
Chương 1- Khái quát chung về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH
một thành viên: ............................................................................................. 10
1.1-

Quan

niệm

về

chuyển

đổi


DNNN

sang

công

ty

TNHH

một thành viên ............................................................................................... 10
1.2-Sự cần thiết của việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành
viên ................................................................................................................. 13
1.3- Quá trình chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên ....... 17
Chương 2- Thực trạng pháp luật về chuyển đổi DNNN sang cơng ty
TNHH một thành viên ................................................................................ 22
2.1- Trình tự, thủ tục chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành
viên: ................................................................................................................ 22
2.1.1- Đối tượng chuyển đổi: ......................................................................... 22
2.1.2- Chủ sở hữu ........................................................................................... 23
2.1.3- Điều kiện chuyển đổi............................................................................ 25
2.1.4- Thủ tục chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên ........ 26

3


2.2 Tổ chức quản lý DNNN sang công ty TNHH một thành viên sau chuyển
đổi ................................................................................................................... 33
2.2.1- Tổ chức quản lý cơng ty theo mơ hình Hội đồng thành viên ............... 34

2.2.2 Tổ chức quản lý công ty theo mô hình Chủ tịch cơng ty ....................... 45
2.3 Quyền lợi của người lao động khi chuyển đổi DNNN sang công ty
TNHH một thành viên .................................................................................. 48
2.4 Thực tiễn chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên ..... 52
2.4.1 Những kết quả đạt được trong quá trình chuyển đổi DNNN sang công ty
TNHH một thành viên .................................................................................... 52
2.4.2 Những mặt hạn chế của chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một
thành viên ....................................................................................................... 55
Chương 3. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động của các
DNNN sau khi chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên ............. 60
3.1 Một số nhận xét về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành
viên ................................................................................................................. 60
3.2 Một số kiến nghị cụ thể về hoạt động của DNNN sau chuyển đổi sang
công ty TNHH một thành viên ..................................................................... 63
3.2.1 Về các quy định của pháp luật về hoạt động của DNNN sau khi chuyển
đổi sang công ty TNHH một thành viên ......................................................... 63
3.2.2 Về quá trình tổ chức thực hiện hoạt động của DNNN sau chuyển đổi
sang công ty TNHH một thành viên ............................................................... 67
KẾT LUẬN ................................................................................................... 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 71

4


Danh mục chữ viết tắt:
1, DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước
2, TNHH: Trách nhiệm hữu hạn.

5



MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài:
Từ sau khi giành được độc lập, nền kinh tế nước ta bị tàn phá nặng nề, đất
nước rơi vào tình trạng nghèo đói, lạc hậu. Trong suốt thời gian dài nước ta đã
áp dụng mơ hình kinh tế kế hoạch tập chung mang tính bao cấp. Khơng thể
phủ nhận trong thời gian đầu khi đất nước vẫn cịn trong thời chiến, mơ hình
kinh tế này đã phát huy tác dụng và mang lại những hiệu quả nhất định. Tuy
nhiên, sau khi kết thúc chiến tranh thì mơ hình này lại trở nên lạc hậu và cản
trở sự phát triển của kinh tế, chính vì vậy nước ta đã rơi vào khủng hoảng
kinh tế trầm trọng vào cuối những năm bảy mươi đầu những năm tám mươi
của thế kỷ hai mươi. Để đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng tại Đại hội
VI của Đảng cộng sản Việt Nam (tháng 12 năm 1986) đã đưa ra đường lối đổi
mới đất nước toàn diện. Đại hội đã đưa ra những quan niệm mới về cơng
nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ q độ, về cơ cấu kinh tế, thừa
nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa và thị trường. Đại hội chủ
trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với những hình thức kinh
doanh phù hợp. Tuy nhiên, phải trải qua nhiều năm nghiên cứu, tìm tịi, tổng
kết kinh nghiệm thực tiễn và trải qua nhiều kỳ Đại hội Đảng thì cụm từ “kinh
tế thị trường” mới chính thức được Đại hội IX của Đảng (tháng 04 năm 2001)
đề cập đến, tại Đại hội đã khẳng định việc phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế
tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa thì thành phần kinh
tế Nhà nước được xem là đóng vai trò chủ đạo, định hướng cho sự phát triển
của nền kinh tế quốc dân. Trong những năm trước đây thành phần kinh tế nhà
nước đã phần nào thực hiện được nhiệm vụ cũng như mục tiêu phát triển của
mình. Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan nhất trong giai đoạn đổi

6



mới đất nước, mặc dù đã nhận được nhiều ưu đãi, đặc quyền, nhưng thành
phần kinh tế này vẫn chưa phát huy hết được lợi thế của mình điều đó được
thể hiện qua hoạt động của các DNNN, nhiều doanh nghiệp làm ăn không
hiệu quả, thua lỗ nặng nề. Đứng trước yêu cầu của phát triển cũng như nhu
cầu của hội nhập. Đảng và Nhà nước ta cũng đã đưa ra nhiều giải pháp cải
cách, đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN, cũng như
tạo ra những cơ sở pháp lý bình đẳng giữa các thành phần kinh tế. Một số giải
pháp được đề ra như: Đối với những DNNN hoạt động trong các ngành nghề,
lĩnh vực mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn điều lệ thì tiến hành Cổ phần
hóa, bán tồn bộ hoặc một phần DNNN, giao DNNN cho tập thể người lao
động để chuyển thành Công ty Cổ phần hoặc Hợp tác xã; Đối với những
DNNN thuộc ngành, lĩnh vực, địa bàn mà Nhà nước cần nắm giữ 100% vốn
điều lệ thì chuyển sang hình thức cơng ty Trách nhiệm hữu hạn một thành
viên. Trong các giải pháp trên thì việc chuyển DNNN sang công ty TNHH
một thành viên là một trong những giải pháp quan trọng và cần thiết trong
việc đổi mới DNNN. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 thì các
DNNN phải tiến hành chuyển đổi trước ngày 01 tháng 07 năm 2010, nhận
thức được vai trò quan trọng của công cuộc chuyển đổi mà Nhà nước đã ban
hành rất nhiều Văn bản pháp luật quy định về vấn đề này và cũng có rất nhiều
bài viết liên quan đến việc chuyển đổi tuy nhiên các bài viết chỉ đề cập đến
một vài khía cạnh nhất định. Trên thực tế, mặc dù việc chuyển đổi đã xong
tuy nhiên những vấn đề tồn tại của các doanh nghiệp sau chuyển đổi đang cịn
nhiều vì vậy tơi chọn đề tài “Chuyển đổi Doanh nghiệp Nhà nước sang công
ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên ở Việt Nam hiện nay” nhằm nghiên
cứu các quy định pháp luật liên quan đến vấn đề này để làm đề tài luận văn tốt
nghiệp của mình.

7



2- Mục đích nghiên cứu của luận văn:
Luận văn làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về các
quy định của pháp luật về vấn đề chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một
thành viên, đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau chuyên đổi
cũng như việc thực hiện chức năng, vai trò của doanh nghiệp đối với nền kinh
tế, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm đem lại hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
sau chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên và phương hướng tiếp
theo sau chuyển đổi.
3- Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn tập chung nghiên cứu các quy định của pháp luật trong quá
trình chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên để từ đó đưa ra
một số kiến nghị cho hoạt động của DNNN sau khi chuyển đổi nhằm đem lại
hiệu quả hơn cho hoạt động của các công ty.
4- Phương pháp nghiên cứu:
Trong q trình nghiên cứu, luận văn có sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu đó là:
Phương pháp so sánh, đối chiếu giữa các văn bản pháp luật trước đây
cũng như hiện hành nhằm thấy được những ưu điểm cũng như hạn chế trong
các văn bản pháp luật
Phương pháp phân tích tổng hợp: phân tích các quy định được dẫn giải
trong các văn bản pháp luật, tổng hợp các quy định của pháp luật quy định
liên quan đến hoạt động chuyển đổi và sau chuyển đổi để có được cái nhìn
khái qt nhất.
Ngồi ra, luận văn cũng sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp
duy vật lịch sử để xem xét quá trình chuyển đổi và bản chất của chuyển đổi
DNNN sang công ty TNHH một thành viên.

8



5- Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, kết luận thì luận văn được kết cấu làm 3 chương
lớn:
Chương 1- Khái quát chung về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH
một thành viên.
Chương 2- Thực trạng pháp luật về chuyển đổi DNNN sang công ty
TNHH một thành viên.
Chương 3- Hoàn thiện các quy định của pháp luật về hoạt động của các
DNNN sau khi chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên

9


Chương 1- Khái quát chung về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH
một thành viên:
1.1- Quan niệm về chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên
Trong những năm gần đây ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính của một
số nền kinh tế lớn đã đẩy nền kinh tế thế giới lâm vào tình trạng suy thối,
làm thu hẹp đáng kể thị trường xuất khẩu, thị trường lao động tác động tiêu
cực đến nền kinh tế - xã hội của nhiều nước trong đó có Việt Nam. Nền kinh
tế nước ta lâm vào tình trạng khó khăn và thử thách to lớn. Mặt khác, ở trong
nước những năm qua do thời tiết khắc nghiệt, thiên tai, dịch bệnh liên tục xảy
ra gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất, kinh doanh của nhiều
doanh nghiệp. Tuy nhiên, dưới sự đồng tâm của tồn thể nhân dân, chính sách
đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nước ta đã dần dần bước qua giai đoạn khó
khăn nhất, giảm dần lạm phát ngăn chặn đà suy giảm kinh tế, đảm bảo an sinh
xã hội. Để đạt được kết quả đó có một phần đóng góp quan trọng của các
DNNN là những lá cờ đầu trong nền kinh tế quốc dân, là công cụ vật chất để

Nhà nước định hướng, điều tiết vĩ mơ chính sách kinh tế, thực hiện chính sách
an sinh xã hội.
Theo điều 1, Luật Doanh nghiệp Nhà nước năm 1995 quy định:
Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn
để thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt
động cơng ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tê - xã hội do Nhà
nước giao.
Doanh nghiệp nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và
nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về hoạt động kinh doanh trong
phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý
Doanh nghiệp nhà nước có tên gọi, có con dấu riêng và có trụ sở
chính trên lãnh thổ Việt nam.

10


Đến năm 2003 thì định nghĩa DNNN được nêu rõ: “Doanh nghiệp nhà nước
là tổ chức kinh tế do Nhà nước sở hữu tồn bộ vốn điểu lệ hoặc có cổ phần,
vốn góp chi phối, được tổ chức dưới hình thức công ty nhà nước, công ty cổ
phần, công ty trách nhiệm hữu hạn” (điều 1, Luật doanh nghiệp Nhà nước
năm 2003)
Như vậy, về hình thức so với luật DNNN (1995) thì định nghĩa về
DNNN trong luật DNNN (2003) đã được rút gọn hơn. Luật DNNN sửa đổi
năm 2003 không đưa ra những đặc điểm cụ thể của DNNN mà theo hướng
khái quát hơn, theo đó DNNN cũng có những đặc điểm của các loại hình
doanh nghiệp khác nhưng điểm khác nhau cơ bản nhất là Nhà nước sỡ hữu
vốn điều lệ hoặc cổ phần chi phối.
Không chỉ trong thời gian hiện nay Nhà nước mới tham gia vào hoạt
động kinh doanh mà ngay từ thời phong kiến thì Nhà nước đã tham đầu tư và
kinh doanh. Truyền thống kinh doanh của Nhà nước được kế thừa và tiếp nối

trong các giai đoạn lịch sử cho đến tận ngày hôm nay. Tuy nhiên, trong một
xã hội trọng nông, ức thương đã ngăn cản thương nhân phát triển, lại mặc cảm
với kinh tế tư bản, vốn đồng nghĩa với sự xâm lược và đàn áp hà khắc của chế
độ thực dân, người dân Việt Nam có nhiều lý do để đặt niềm tin vào kinh tế
quốc doanh. Khi kinh tế tư hữu và cạnh tranh chưa phát huy được hiệu quả,
thì việc Nhà nước trở thành chủ đầu tư lớn nhất, đặc biệt là trong cơ sở hạ
tầng và những lĩnh vực thuộc độc quyền tự nhiên, là tất yếu. Dưới cơ chế
quản lý quan liêu bao cấp thì các doanh nghiệp trong nền kinh tế đều là
DNNN, do Nhà nước làm chủ sở hữu. Khi đó, Nhà nước độc quyền kinh
doanh. Người dân mà kinh doanh là vi phạm pháp luật, là con bn. Mỗi
doanh nghiệp, khi đó được gọi là Xí nghiệp, đều do một cơ quan quản lý Nhà
nước quản lý, gọi là cơ quan chủ quản. Chẳng hạn, Xí nghiệp sản xuất xe đạp
thì do Ty (sau này là Sở) Cơng nghiệp quản lý; Xí nghiệp Thương mại bán

11


bn, bán lẻ thì do Ty (Sở) Thương nghiệp quản lý, v.v…Mỗi Xí nghiệp có
một Giám đốc Xí nghiệp do Giám đốc Sở bổ nhiệm hoặc đề nghị Chủ tịch
UBND tỉnh bổ nhiệm tuỳ theo quy mơ của Xí nghiệp. Mọi hoạt động của Xí
nghiệp từ tuyển dụng nhân sự, kế hoạch sản xuất, mua vật tư, nguyên liệu,
tiêu thụ sản phẩm, giá bán, địa chỉ của người mua hàng…đều phải được lập
kế hoạch và được cơ quan chủ quản phê duyệt. Các Xí nghiệp cứ hoạt động
theo kế hoạch được duyệt. Cuối năm, nếu có lãi thì nộp về Ngân sách Nhà
nước sau khi đã được trích các quỹ theo chỉ tiêu được duyệt, nếu bị lỗ thì
Ngân sách Nhà nước cấp bù. Từ khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới nền
kinh tế thị trường được tiếp thu thì các DNNN lại bộc lộ những khuyết tật của
mình. Và việc chuyển từ nền kinh tế tập chung quan liêu bao cấp, sang nền
kinh tế thị trường với đa dạng hóa các hình thức sở hữu trong mơi trường
cạnh tranh chúng ta cũng gặp phải nhiều khó khăn. Nhất là, từ khi gia nhập

vào sân chơi chung toàn cầu hóa, gia nhập WTO thì những ưu ái đặc biệt
dành cho DNNN đã khơng cịn phù hợp và đơi khi trở thành rào cản bất lợi
trong sân chơi quốc tế. Chính vì vậy việc cải cách, đổi mới DNNN cần phải
được đặt ra. Việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên
cũng là một trong những yêu cầu của việc hội nhập kinh tế quốc tế nhằm tạo
ra một sân chơi bình đẳng trong các doanh nghiệp không phân biệt quốc
doanh hay dân doanh.
Như vậy, chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên là một
quá trình thay đổi về mặt nội dung cũng như hình thức trong các DNNN.
Trong đó thay đổi cơ bản nhất là thay đổi về khung pháp lý, theo đó DNNN
trở thành những doanh nghiệp có địa vị pháp lý như những doanh nghiệp dân
doanh khác, hoạt động theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005 và khơng
cịn được nhận những ưu tiên từ phía Nhà nước trong q trình hoạt động đầu
tư và kinh doanh. Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn đầu

12


tư, doanh nghiệp tự chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của mình mà cơ quan
nhà nước khơng chịu trách nhiệm thay cho doanh nghiệp. Có thể nói đây là
một q trình “cơng ty hóa” các DNNN, về bản chất pháp lý thì khi đó
DNNN mới thực sự là cơng ty.
1.2-Sự cần thiết của việc chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một
thành viên
Như đã nói ở trên, trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, với nền kinh tế hội nhập quốc tế thì việc chuyển đổi DNNN để hoạt
động có hiệu quả kinh tế cao là một việc làm cần thiết. Chuyển đổi DNNN
sang công ty TNHH một thành viên tuy khơng tạo ra tính đột phá như việc cổ
phần hóa DNNN, tuy nhiên nó cũng là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa
nhất định.

Về mặt pháp lý thì theo quy định tại điều 166, Luật doanh nghiệp 2005
thì chậm nhất là trong thời hạn bốn năm kể từ ngày Luật doanh nghiệp 2005
có hiệu lực (tức là ngày 01/7/2006) các cơng ty Nhà nước thành lập theo Luật
doanh nghiệp nhà nước 2003 phải chuyển đổi thành công ty TNNN hoặc công
ty cổ phần theo quy định của luật doanh nghiệp năm 2005. Như vậy, thời hạn
01/7/2010 là thời hạn mà Luật doanh nghiệp Nhà nước 2003 hết hiệu lực pháp
luật, vì vậy những doanh nghiệp thành lập theo quy định của luật DNNN năm
2003 mà chưa cổ phần hóa thì phải chuyển sang công ty TNHH một thành
viên để hoạt động theo luật Doanh nghiệp 2005. Nên việc chuyển đổi DNNN
sang công ty TNHH một thành viên là việc cần thiết tạo cơ sở pháp lý cho
hoạt động của các DNNN.
Về mặt kinh tế thì với việc chuyển đổi những DNNN mà nhà nước cần
nắm giữ 100% vốn sang công ty TNHH một thành viên thì khơng chỉ để thực
hiện được mục tiêu thống nhất thực hiện một Luật doanh nghiệp tránh tình
trạng nhiều luật gây rườm rà bởi DNNN cũng là một loại hình doanh nghiệp

13


nên khơng thể có một Luật riêng khi áp dụng, mà cịn nhằm mục đích đổi mới
tổ chức quản lý, cơ chế hoạt động, tạo ra sự bình đẳng trong đầu tư kinh
doanh với các loại hình doanh nghiệp khác. DNNN trở thành một thực thể
kinh tế độc lập, có quyền tự chủ trong kinh doanh và tự chịu trách nhiệm
trong hoạt động kinh doanh của mình. Như vậy, DNNN sẽ hoạt động có hiệu
quả hơn mà khơng phải phụ thuộc vào các mệnh lệnh hành chính.
Chuyển đổi DNNN sang cơng ty TNHH là một địi hỏi mang tính tất
yếu của việc xây dựng một nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế.
Việc thực hiện chuyển đổi là bước đi quan trọng trong việc thực hiện lộ trình
cam kết khi gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO của Việt Nam. Để xây
dựng một nền kinh tế thị trường thì chúng ta phải tạo ra một khung pháp lý

bình đẳng cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, khơng thể vì DNNN thuộc sỡ
hữu của nhà nước mà được ưu tiên cho những quy định riêng khi tiến hành
đầu tư kinh doanh.
Tuy nhiên, khi tham gia tổ chức thương mại thế giới các quốc gia như
Mỹ hay liên minh Châu Âu không yêu cầu chúng ta cắt giảm số lượng
DNNN, mà họ chỉ yêu cầu tạo ra sự bình đẳng trong hoạt động của các loại
hình doanh nghiệp. Chính vì vậy, ngun nhân chủ yếu của việc chuyển đổi là
do DNNN trong thời gian qua hoạt động chưa hiệu quả, chưa xứng đáng với
nguồn lực cũng như khả năng của mình. Có nhiều lý do và cách giải thích vì
sao DNNN hoạt động kém hiệu quả có thể chỉ ra một số nguyên nhân chủ yếu
đó là:
Khơng xác định được chủ sở hữu đích thực trong DNNN. Theo quy
định Hiến pháp 1992: “Đất đai, rừng núi, sơng hồ, nguồn nước, tài ngun
trong lịng đất, nguồn lợi ở vùng biển, thềm lục địa và vùng trời, phần vốn và
tài sản do Nhà nước đầu tư vào các xí nghiệp, cơng trình thuộc các ngành và
lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, khoa học, kỹ thuật, ngoại giao, quốc phòng,

14


an ninh cùng các tài sản khác mà pháp luật quy định là của Nhà nước, đều
thuộc sở hữu toàn dân.” (điều 17). Như vậy theo quy định trên, DNNN thuộc
sở hữu toàn dân (bởi lý do Nhà nước là người đại diện cho sở hữu toàn dân
nên từ năm 1991các văn bản pháp luật nước ta đồng loạt gọi tên các xí nghiệp
quốc doanh thành DNNN). Việc quy định như vậy dường như không rõ ràng
bởi Nhà nước cũng là một phạm trù trừu tượng, người dân chỉ cảm nhận được
Nhà nước qua các cơ quan của nó, được đại diện bởi những công chức cụ thể
và hành vi của họ. Trong một DNNN có nhiều bộ phận có quyền can thiệp
vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, chính vì vậy các giao dịch liên
quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh cần phải được sự đồng thuận của tất cả

các bộ phận này, do đó gây tốn kém thời gian cũng như tiền bạc đã làm cho
các DNNN phản ứng chậm chạp với sự thay đổi của thị trường và kém tính
cạnh tranh. Do việc xác định quyền tài sản không được rõ ràng nên mọi người
đều tìm mọi cách kiểm sốt tài sản doanh nghiệp Nhà nước trong khả năng
của mình. Nếu như theo luật DNNN năm 1995 quy định người điều hành
doanh nghiệp (Thành viên Thường trực Hội đồng quản trị, Giám đốc) được
xếp lương cơ bản theo ngạch bậc viên chức Nhà nước và hưởng lương,
thưởng theo chế độ phân phối tiền lương, tiền thưởng trong DNNN do Chính
phủ quy định gắn với hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Đến luật DNNN
năm 2003 quy định những người điều hành doanh nghiệp được hưởng chế độ
lương theo năm. Mức tiền lương và tiền thưởng tương ứng với hiệu quả hoạt
động của công ty, do người quyết định bổ nhiệm quyết định hoặc theo hợp
đồng đã ký. Tiền lương được tạm ứng hàng tháng, quyết tốn hàng năm. Tiền
thưởng hàng năm được tính dựa vào kết quả kinh doanh năm của công ty, chi
trả một phần vào cuối năm, phần còn lại được chi trả sau khi kết thúc nhiệm
kỳ; riêng tiền thưởng năm cuối nhiệm kỳ được tính dựa trên kết quả năm đó
và kết quả tăng trưởng của cả nhiệm kỳ. Trong thực tế, mức lương của các

15


cấp điều hành DNNN rất bất hợp lý so với những người có vị trí tương tự ở
các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi, doanh nghiệp tư nhân. Nếu chỉ
tính thu nhập chính thức của những người điều hành DNNN thì để đảm bảo
cho cuộc sống là rất khó khăn, nhưng thực tế thì với cơ chế phân quyền và
chế tài trách nhiệm không rõ ràng đã làm cho những người điều hành doanh
nghiệp có lợi ích và quyền lực rất lớn, ngược lại trách nhiệm và nghĩa vụ thì
chưa cụ thể với tính khả thi khơng cao. Hay nói cách khác cấp điều hành
doanh nghiệp có rất nhiều lợi ích, trách nhiệm thì chung chung. Kết quả là rất
nhiều người điều hành doanh nghiệp chỉ tập trung làm lợi cho cá nhân, thay vì

làm lợi cho doanh nghiệp.
Mặt khác, DNNN khơng có sự tách bạch trong quản lý và sở hữu của
Nhà nước, các DNNN khơng có quyền tự chủ trong kinh doanh. Các DNNN
hoạt động dường như phụ thuộc vào các quyết định mang tính chất hành
chính. Chẳng hạn, theo quy định, người điều hành doanh nghiệp được chủ
động tổ chức hoạt động kinh doanh, toàn quyền tuyển dụng, bổ nhiệm tất cả
những vị trí (trừ cấp phó của họ). Nhưng thực tế việc tuyển dụng, đề bạt, bổ
nhiệm hiện tại, họ phải chịu sức ép rất lớn từ phía cơ quan chủ quản. Nhiều
khi vì những chỉ tiêu, những mục đích của địa phương hay của bộ ngành mà
các doanh nghiệp phải đầu tư vào những dự án, những cơng trình khơng thực
sự vì mục tiêu phát triển, vì hiệu quả của doanh nghiệp. Nhìn chung, những
người điều hành DNNN chịu rất nhiều ràng buộc khi bố trí, sắp xếp nhân sự,
tổ chức hoạt động kinh doanh.
Trên đây là một số nguyên nhân dẫn đến việc DNNN hoạt động không
hiệu quả, cụ thể là từ năm 2005 đến 2008, thành phần kinh tế Nhà nước trong
GDP liên tục giảm. Năm 2005 đạt 38,4%, mục tiêu năm 2010 là 36%. Ngược
lại, thành phần kinh tế ngoài Nhà nước trong GDP lại tăng lên. Năm 2005 chỉ
đứng ở mức 45,6% thì năm 2008 đạt 47%, và năm nay ước đạt 48% [1,29].

16


Như vậy, việc cải cách DNNN là một yêu cầu tất yếu. Chủ trương cổ
phần hóa DNNN được triển khai, tuy nhiên do thời hạn áp dụng Luật doanh
nghiệp Nhà nước sắp đến hạn do vậy những doanh nghiệp chưa thực hiện cổ
phần hóa trước ngày 01/7/2010 thì sẽ chuyển sang loại hình cơng ty TNHH
một thành viên. Có thể nói việc chuyển đổi DNNN sang cơng ty TNHH một
thành viên tạo nên một bước đệm cho một cú bứt phá trong tiến trình cổ phần
hóa DNNN sau nhiều năm bị đình trệ.
DNNN có vai trị quan trọng trong nền kinh tế quốc dân khi mà nắm giữ

một lượng tài sản khổng lồ của đất nước, nguồn nhân lực có trình độ cao, việc
hoạt động có hiệu quả hay khơng của DNNN có vai trị quan trọng đối với sự
phát triển của đất nước. Hơn nữa, bước vào xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế
bằng việc gia nhập WTO thì Việt Nam phải tạo nên một “sân chơi” bình đẳng
cho các doanh nghiệp đó là một yêu cầu chung, như vậy việc chuyển đổi
DNNN sang công ty TNHH một thành viên là một việc làm cần thiết.
1.3- Quá trình chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành viên
Trong suốt 20 năm vận hành nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, u cầu tạo mơi trường kinh doanh bình đẳng, khơng phân biệt thành
phần kinh tế luôn được đặt ra và chúng ta vận hành theo hướng đó. Triển khai
tinh thần đó trong việc chuyển đổi các DNNN tại Hội nghi Ban chấp hành
Trung Ương Đảng khóa VIII đã chỉ rõ “chuyển các DNNN hoạt động kinh
doanh sang hoạt động theo cơ chế công ty TNHH hoặc cơng ty cổ phần, bổ
sung hình thức cơng ty TNHH chỉ có một sáng lập viên để áp dụng đối với
các doanh nghiệp kinh doanh 100% vốn Nhà nước”. Tại Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ IX khẳng định tiếp tục thực hiện chủ trương này “chuyển cac
DNNN kinh doanh sang cơ chế công ty TNHH hoặc công ty cổ phần”. Hội
nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX đã đưa ra nghị quyết
về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả DNNN và khẳng

17


định “DNNN phải không ngừng được đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu
quả, giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, làm công cụ vật chất quan trọng để
Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô, làm lực lượng nịng cốt góp phần
chủ yếu để kinh tế Nhà nước thực hiện vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa” và “chuyển các doanh nghiệp mà Nhà
nước giữ 100% vốn sang hình thức cơng ty TNHH một chủ sở hữu là Nhà
nước hoặc công ty cổ phần gồm các cổ đông là các DNNN”.

Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khóa X đã thơng qua Luật doanh nghiệp nhằm
thể chế hóa chủ trương đổi mới của Đảng trong việc cải thiện môi trường đầu
tư. Luật doanh nghiệp 1999 cũng quy định DNNN chuyển đổi sang công ty
TNHH một thành viên cũng thuộc sự điều chỉnh của luật này. Trên cơ sở các
quy định của Luật doanh nghiệp, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành chỉ thị số
20/1999/CT-TTg ngày 20/07/1999 về triển khai thực hiện Luật doanh nghiệp.
Trong chỉ thị này, Thủ tướng đã yêu cầu Bộ kế hoạch và đầu tư chủ trì, phối
hợp với Văn phịng Chính phủ, Bộ tư pháp, Bộ tài chính, Ban Đổi mới quản
lý doanh nghiệp Trung ương, Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính Phủ và
các Bộ, nghành khác có liên quan nghiên cứu, soạn thảo Nghị định của Chính
phủ quy định trình tự và thủ tục chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một
thành viên.
Ngày 14/09/2001 Chính phủ ban hành Nghị định số 63/2001/NĐ-CP về
chuyển đổi DNNN, doanh nghiệp tổ chức chính trị, tổ chức chính trị xã hội
thành Cơng ty TNHH một thành viên. Cùng với Nghị định này hàng loạt các
văn bản pháp luật liên quan đến việc chuyển đổi DNNN thành Công ty TNHH
một thành viên cũng được ban hành cụ thể là Chỉ thị số 27/2001/CT-TTg
ngày 22/11/2001 của Thủ tướng Chính phủ về việc triển khai thực hiện
chuyển đổi DNNN, doanh nghiệp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã
hội thành Công ty TNHH một thành viên; Ngày 28/01/2002 Bộ kế hoạch và

18


đầu tư đã ban hành Thông tư 01/2002/TT-BKH về việc hướng dẫn quy trình
chuyển đổi DNNN thành Cơng ty TNHH một thành viên; Ngày 11/6/2002 Bộ
lao động - thương binh và xã hội cũng đã ban hành Thông tư số 09/2002/TTBLĐTBXH hướng dẫn thực hiện cơ chế quản lý lao động tiền lương và thu
nhập đối với Công ty TNHH một thành viên Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ; đồng thời Bộ tài chính cũng ban hành Thơng tư số 26/2002/TT-BTC
ngày 22/03/2002 hướng dẫn xử lý tài chính khi chuyển đổi DNNN, doanh

nghiệp của tổ chức chinh trị, tổ chức chính trị - xã hội thành Cơng ty TNHH
một thành viên, cũng trong thời điểm này, Bộ tài chính ban hành Thông tư
58/2002 TT-BTC ngày 28/6/2002 hướng dẫn quy chế tài chính của Cơng ty
TNHH một thành viên thuộc sở hữu Nhà nước, tổ chức chính trị, tổ chức
chính trị - xã hội. Những văn bản pháp luật trên là cơ sở pháp lý quan trọng
trong quá trình chuyển đổi DNNN sang Công ty TNHH một thành viên và
thực tế thì bước đầu đã có một số DNNN thực hiện việc chuyển đổi này.
Sau một thời gian thực hiện, Luật doanh nghiệp 1999 đã thực hiện tốt
nhiệm vụ của mình đó là tạo ra mơi trường kinh doanh thuận lợi và thơng
thống hơn, tăng thêm lịng tin của người đầu tư trong việc thành lập doanh
nghiệp và hoạt động kinh doanh, trở thành công cụ pháp lý quan trọng trong
việc huy động và tập chung vốn, nhưng đồng thời nó cũng đảm bảo sự quản
lý của Nhà nước đối với hoạt động của Doanh nghiệp. Quốc hội khóa XI đã
thông qua Luật doanh nghiệp 2005 thay thế Luật doanh nghiệp 1999, nó cũng
đã tiếp nối được những tinh thần của Luật doanh nghiệp 1999, đặc biệt trong
lĩnh vực cải cách DNNN thì Luật doanh nghiệp 2005 cũng đưa ra những cải
cách mới nhằm mục đích tạo mơi trường pháp lý chung cho hoạt động của các
loại hình doanh nghiệp. Luật doanh nghiệp 2005 đặt ra yêu cầu áp dụng
khung quản trị thống nhất cho tất cả các loại hình doanh nghiệp, khơng phân
biệt loại hình kinh tế. Vì đây là một cơng việc khơng hề đơn giản, chính vì

19


vậy Luật doanh nghiệp 2005 đã đưa ra lộ trình chuyển đổi trong vòng bốn
năm kể từ thời điểm Luật có hiệu lực pháp luật từ ngày 01/7/2006 cho đến
ngày 01/7/2010. Căn cứ vào quy định trên của Luật doanh nghiệp 2005, hàng
loạt văn bản pháp luật liên quan đến việc chuyển đổi DNNN thành công ty
TNHH một thành viên cũng được ban hành thay thế cho những văn bản cũ
trước đó đã hết hiệu lực pháp luật. Một số văn bản pháp luật quan trọng liên

quan đến việc chuyển đổi trong giai đoạn này phải kể đến: Nghị định số
95/2006/NĐ-CP (08/9/2006) của Chính phủ về chuyển đổi Cơng ty Nhà nước
thành Công ty TNHH một thành viên, bên cạnh Nghị định này cịn có một số
Thơng tư cũng được ban hành thay thế Thông tư cũ như: Thông tư số
25/2007/TT-BTC (ngày 02/4/2007) của Bộ Tài chính hướng dẫn xử lý tài
chính khi chuyển đổi cơng ty Nhà nước sang Công ty TNHH một thành viên;
Thông tư 24/2007/TT-BTC (27/3/2007) của Bộ Tài chính hướng dẫn quy chế
tài chính của Cơng ty TNHH một thành viên thuộc sở hữu Nhà nước, tổ chức
chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Nghị định 86/2007/NĐ-CP (28/5/2007)
của Chính phủ quy định về quản lý lao động và tiền lương trong công ty
TNHH một thành viên do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ ra đời đã tạo cơ
sở pháp lý để bảo vệ quyền lợi cho người lao động. Ngồi ra, cịn nhiều văn
bản khác liên quan đến vấn đề chuyển đổi cũng được ban hành trong giai
đoạn này. Những văn bản pháp luật nêu trên đã tạo hành lang pháp lý cho q
trình chuyển đổi, chính vì thế rất nhiều DNNN đã thực hiện thành cơng việc
chuyển đổi của mình. Tuy thế, năm 2010 là năm cuối cùng trong lộ trình thực
hiện việc chuyển đổi mà vẵn có hơn 1000 doanh nghiệp thuộc đối tượng phải
chuyển đổi nhưng vẫn chưa tiến hành chuyển đổi [2,34] , do vậy Chính phủ
đã thay thế nghị định số 95/2006/NĐ-CP ngày 08/9/2006 bằng Nghị định số
25/2010/NĐ-CP (19/3/2010) về chuyển đổi công ty Nhà nước thành Công ty
TNHH một thành viên và tổ chức quản lý Công ty TNHH một thành viên do

20


Nhà nước làm chủ sở hữu. Nhằm cụ thể hóa Nghị định số 25/2010/NĐ-CP,
ngày 24/05/1010 Bộ tài chính cũng ban hành Thơng tư 79/2010/TT-BTC
hướng dẫn xử lý tài chính khi chuyển đổi công ty Nhà nước thành công ty
TNHH một thành viên thay thế Thông tư số 25/2007/TT-BTC ngày
02/4/2007. Sự ra đời của Nghị định 25/2010/NĐ-CP của Chính phủ đã đưa ra

những quy định mới, tạo sự thuận tiện, dễ dàng hơn cho các DNNN trong quá
trình chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên, nhằm thực hiện đúng
với lộ trình chuyển đổi mà Luật doanh nghiệp đã quy định và phù hợp với
cam kết gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của nước ta.
Như vậy, có thể thấy việc chuyển đổi DNNN là một nhiệm vụ vơ cùng
quan trọng nhưng đồng thời nó cũng là nhiệm vụ rất khó khăn trong q trình
phát triển kinh tế - xã hội của nước ta, bằng chứng là nó đã nhận được rất
nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, hàng loạt các văn bản pháp luật
quy định về vấn đề này đã được ban hành tạo ra cơ sở pháp lý cho quá trình
chuyển đổi.

21


Chương 2- Thực trạng pháp luật về chuyển đổi DNNN sang cơng ty
TNHH một thành viên
2.1- Trình tự, thủ tục chuyển đổi DNNN sang công ty TNHH một thành
viên:
Chuyển đổi DNNN sang Công ty TNHH một thành viên là một việc làm
cần thiết trong nền kinh tế thị trường cũng như trong việc hội nhập kinh tế
quốc tế, chính vì vậy như phần trên đã nói, có rất nhiều văn bản pháp luật làm
cơ sở pháp lý cho quá trình chuyển đổi. Vì vậy, việc chuyển đổi phải tuân
theo trình tự thủ tục theo luật định.
2.1.1- Đối tượng chuyển đổi:
Tại điều 2, Nghị định 95/2006/NĐ-CP quy định đối tượng chuyển đổi
bao gồm: Công ty nhà nước độc lập; Công ty nhà nước là cơng ty mẹ trong
mơ hình cơng ty mẹ - công ty con; Công ty mẹ của Tập đồn kinh tế do Thủ
tướng Chính phủ quyết định thành lập (gọi chung là công ty mẹ); Công ty
thành viên hạch tốn độc lập của Tổng cơng ty nhà nước; Đơn vị thành viên
hạch tốn phụ thuộc tổng cơng ty nhà nước được Thủ tướng Chính phủ cho

phép.
Cịn tại điều 7, Nghị định 25/2010/NĐ-CP quy định đối tượng chuyển
đổi bao gồm: Công ty nhà nước độc lập; Công ty nhà nước là cơng ty mẹ tập
đồn kinh tế nhà nước; công ty mẹ trong tổng công ty nhà nước; công ty mẹ
trong tổng cơng ty thuộc tập đồn kinh tế nhà nước; cơng ty mẹ trong mơ hình
cơng ty mẹ - công ty con (gọi chung là công ty mẹ); Cơng ty thành viên hạch
tốn độc lập của tổng cơng ty nhà nước, tập đoàn kinh tế nhà nước; Đơn vị
thành viên hạch tốn phụ thuộc tổng cơng ty nhà nước, cơng ty mẹ của tập
đồn kinh tế nhà nước, công ty mẹ của tổng công ty nhà nước; Công ty nông
nghiệp, công ty lâm nghiệp, nông trường quốc doanh, lâm trường quốc doanh.

22


Như vậy, Nghị định 25/2010/NĐ-CP đã mở rộng thêm đối tượng thuộc
diện phải chuyển đổi đó là cơng ty mẹ trong tổng công ty nhà nước; công ty
mẹ trong tổng cơng ty thuộc tập đồn kinh tế nhà nước, cơng ty thành viên
hạch toán độc lập của, đặc biệt Nghị định đã quy định thêm đối tượng là Công
ty nông nghiệp, Công ty lâm nghiệp, nông trường quốc doanh, lâm trường
quốc doanh cũng thuộc diện chuyển đổi sang Công ty TNHH một thành viên,
đây là một quy định hoàn toàn phù hợp, bởi vì đây là những đối tượng cũng
chiếm một phần vốn lớn của Nhà nước nhưng lại hoạt động chưa mang lại
hiệu quả cao và thời gian trước những loại hình này chưa được đưa vào đối
tượng thuộc diện chuyển đổi.
2.1.2- Chủ sở hữu:
Theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Cơng văn 1065/TTGĐMDN, doanh nghiệp sau chuyển đổi được giữ nguyên tên như khi là công ty
nhà nước. Đồng thời, trong Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp phải
bổ sung thêm loại hình doanh nghiệp là công ty TNHH. Một điểm khác biệt
nữa của Nghị định 25/2010/NĐ-CP so với Nghị định 95/2006/NĐ-CP đó
chính là quy định về chủ sở hữu đối với Công ty TNHH một thành viên sau

chuyển đổi:
Tại điều 3, Nghị định 95/2006/NĐ-CP quy định chủ sở hữu công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên là: “ Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn
nhà nước là chủ sở hữu công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên chuyển
đổi từ công ty nhà nước độc lập… Công ty mẹ là chủ sở hữu đối với công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên chuyển đổi từ cơng ty thành viên hạch
tốn độc lập và đơn vị thành viên hạch toán phụ thuộc của tổng công ty nhà
nước hoặc công ty con, đơn vị hạch tốn phụ thuộc của cơng ty mẹ”. Còn theo
quy định của điều 3, Nghị định 25/2010/NĐ-CP quy định:” Nhà nước là chủ
sở hữu đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do mình nắm giữ

23


tồn bộ vốn điều lệ. Chính phủ thống nhất tổ chức thực hiện quyền và nghĩa
vụ đối với công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do Nhà nước nắm giữ
tồn bộ vốn điều lệ. Mỗi cơng ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên được
chuyển đổi từ công ty nhà nước hoặc thành lập mới chỉ do một tổ chức được
phân công, phân cấp dưới đây thực hiện các quyền và nghĩa vụ của chủ sở
hữu…”
Như vậy, tại Nghị định 25/2010/NĐ-CP pháp luật quy định Nhà nước
là chủ sở hữu đối với Công ty TNHH một thành viên do Nhà nước nắm giữ
toàn bộ vốn điều lệ. Ngoài ra, Nhà nước phân công, phân cấp quyền và nghĩa
vụ của sở hữu cho một tổ chức nhất định. Trước đây, Nghị định 95/2006/NĐCP quy định Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước là chủ sở hữu
của các công ty Nhà nước chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên,
trừ các công ty trực tiếp phục vụ quốc phòng, an ninh và thực hiện nhiệm vụ
cơng ích thiết yếu của các Bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh theo quyết định của Thủ
tướng Chính phủ. Tuy nhiên, sau một thời gian trao quyền thì Cơng ty này đã
hoạt động chưa mang lại hiệu quả như mong muốn, chính vì vậy trong Nghị
định 25/2010/NĐ-CP Nhà nước khơng giao dàn trải nữa mà chỉ giao cho

Tổng Công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn Nhà nước (SCIC) một phần nhỏ
trong số cac DNNN sau chuyển đổi, việc quy định của Nghị định
25/2010/NĐ-CP là phù hợp và chính xác với điều kiện thực tiễn. Bởi lẽ, sau
một thời gian dài DNNN hoạt động kinh doanh không mang lại hiệu quả, một
trong những nguyên nhân đó là chủ sở hữu khơng được xác định rõ ràng.
Chính vì vậy, Nghị định 95/2006/NĐ-CP đã quy định cho Tổng công ty Đầu
tư và Kinh doanh vốn Nhà nước đứng ra quản lý vốn của DNNN với mục
đích thống nhất hoạt động quản lý DNNN. Về lý thuyết, đây là một quy định
hợp lý vì mục tiêu của việc thành lập SCIC đó là: Nhà đầu tư chiến lược của
Chính phủ; Cổ đơng năng động của doanh nghiệp; Nhà đầu tư vốn tài chính

24


chuyên nghiệp và doanh nghiệp được quản trị theo chuẩn mực quốc tế. Tuy
nhiên, trên thực tế việc giao toàn bộ DNNN cho SCIC quản lý lại không đạt
được hiệu quả như mong đợi. Vốn Nhà nước liên quan đến nhiều cơ quan
Nhà nước hơn nữa số lượng DNNN lại nhiều chính vì vậy SCIC với quy mơ
cịn nhỏ khơng thể quản lý hết được, nên chỉ giao cho SCIC quản lý một phần
DNNN là phù hợp hơn.
2.1.3- Điều kiện chuyển đổi
Nghị định 95/2006/NĐ-CP quy định những DNNN thuộc diện chuyển
đổi là doanh nghiệp mà thuộc ngành, lĩnh vực, địa bàn mà Nhà nước cần nắm
giữ 100% vốn và những doanh nghiệp có mức vốn điều lệ khơng thấp hơn 30
tỷ đồng đối với Công ty Nhà nước độc lập hoặc đơn vị hạch tốn phụ thuộc
của tổng cơng ty, của Công ty mẹ và 500 tỷ đồng đối với cơng ty mẹ. Cịn tại
Nghị định 25/2010/NĐ-CP quy định thì ngoài những doanh nghiệp Nhà nước
cần nắm giữ 100% vốn thì những doanh nghiệp mà có vai trị đặc biệt quan
trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh, chiến lược phát triển, nắm giữ các
bí quyết kinh doanh, cơng nghệ, thơng tin của tổng cơng ty, tập đồn mà tổng

cơng ty, tập đoàn cần nắm giữ 100% vốn điều lệ cũng là đối tượng thuộc diện
chuyển đổi sang công ty TNHH một thành viên; bên cạnh đó Nghị định
25/2010/NĐ- CP còn quy định thêm những doanh nghiệp thuộc diện cổ phần
hóa nhưng chưa triển khai thực hiện cổ phần hóa hoặc đang thực hiện theo
trình tự, thủ tục chuyển đổi doanh nghiệp thành công ty cổ phần nhưng dự
kiến đến ngày 01 tháng 7 năm 2010 chưa có quyết định xác định giá trị doanh
nghiệp của cấp có thẩm quyền cũng phải chuyển đổi sang công ty TNHH một
thành viên. Có thể thấy Nghị định 25/2010/NĐ-CP quy định rộng hơn về điều
kiện chuyển đổi so với Nghị định 95/2006/NĐ-CP, với mục đích chuyển tất
cả các DNNN sang hoạt động theo luật chung là Luật Doanh nghiệp. Quy
định này là phù hợp, làm cơ sở xác định những doanh nghiệp nào cần có vốn

25


×