Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Hoàn thiện pháp luật về bầu cử những vấn đề lý luận và thực tiễn ths luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 102 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN DIỆU HƢƠNG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2013


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN DIỆU HƢƠNG

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Chuyên ngành
Mã số

: Lý luận và lịch sử nhà nƣớc và pháp luật
: 60 38 01

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: GS.TS NGUYỄN ĐĂNG DUNG


HÀ NỘI – 2013


MỤC LỤC
Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các ký hiệu, các chữ viết tắt
Danh mục các biể u đờ , hình vẽ
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA BẦU CỬ TRONG CHẾ ĐỘ

5

NHÀ NƢỚC VIỆT NAM

1.1.

Bầu cử là phương thức thành lập ra cơ quan nhà nước

5

1.2.

Bầu cử là hình thức quan trọng thực hiện nguyên tắc quyền lực

7


nhà nước thuộc về nhân dân
Chƣơng 2: THƢ̣C TRẠNG HỆ THỐNG PHÁP LU ẬT VỀ B ẦU

13

CỬ VÀ VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẦU CỬ HIỆN NAY

2.1.

Thực trạng hệ thống pháp luật về bầu cử ĐBQH và ĐB HĐND

13

2.1.1.

Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội qua cuộc bầu

13

cử các khóa XI, XII
2.1.2.

Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân qua

19

cuộc bầu cử đại biểu HĐND nhiệm kỳ 2004-2009
2.1.3.


Những vấn đề mặt pháp lý đặt ra đối với cuộc bầu cử chung đại

23

biểu Quốc hội khóa XIII và đại biểu Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ
2011-2016
2.1.4.

Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và luật bầu cử đại biểu Hội đồng
nhân dân sửa đổi, bổ sung năm 2010 qua thực tiễn áp dụng

28


2.2

Thực tra ̣ng áp du ̣ng pháp luâ ̣t về bầu cử trong thời gian qua

31

2.2.1.

Về tiêu chuẩn đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân

32

2.2.2.

Về quyền bầu cử, quyền ứng cử


35

2.2.3.

Về công tác hiệp thương trong bầu cử đại biểu Quốc hội và đại

41

biểu Hội đồng nhân dân
2.2.4.

Về phân chia đơn vị bầu cử, phân bổ người ứng cử ở các đơn vị

46

bầu cử, số dư người ứng cử
2.2.5.

Về ngày bầu cử và trình tự bầu cử

48

Chƣơng 3: PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ

49

BẦU CỬ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI

3.1.


Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về bầu cử

49

3.1.1.

Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bầu cử

49

3.1.2.

Đổi mới nhận thức, nâng cao ý thức người dân về bầu cử

51

Biểu đồ 3.1: Tư cách tham gia tại cuộc bầu cử Quốc hội gần nhất

54

3.1.3.

Tăng cường công tác tuyên truyền, vận động và hướng dẫn bầu cử

56

3.1.4.

Tăng cường công tác giám sát đối với bầu cử


62

3.2.

Một số giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về bầu cử

64

trong thời gian tới
3.2.1.

Bổ sung nguyên tắc bầu cử tự do

64

3.2.2.

Hoàn thiện các quy định về tiêu chuẩn, số lượng đại biểu

65

3.2.3.

Sửa đổi, bổ sung các quy định về quyền bầu cử, quyền ứng cử

68

Biểu đồ 3.2: Số lượng người tự ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử

69


3.2.4.

Cơ cấu lại nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức phụ trách bầu cử

71

3.2.5.

Đổi mới cách thức lập danh sách cử tri và số lượng cử tri ở mỗi

73


khu vực bỏ phiếu
3.2.6.

Đổi mới quy trình hiệp thương

75

Biểu đồ 3.3: Thành viên tham dự Hội nghị hiệp thương lựa chọn

77

ứng cử viên đại biểu Quốc hội
3.2.7.

Sửa đổi, bổ sung các quy định về phân chia đơn vị bầu cử, phân


80

bổ người ứng cử ở các đơn vị bầu cử, số dư người ứng cử
3.2.8.

Về ngày bầu cử và trình tự bầu cử

84

3.2.9.

Bổ sung các quy định về phiếu bầu và cách thức bầu cử

85

3.2.10.

Đổi mới phương thức bỏ phiếu

87

3.2.11.

Về cách xác định kết quả bầu cử

88

KẾT LUẬN

89


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91

PHỤ LỤC

94


DANH MỤC CÁC TƢ̀ VIẾT TẮT

1.

ĐB

: Đa ̣i biể u

2.

ĐBQH

: Đa ̣i biể u Quố c hô ̣i

3.

HĐND

: Hô ̣i đồ ng nhân dân


4.

MTTQ

: Mă ̣t trâ ̣n Tổ quố c

5.

QH

: Quố c hô ̣i

6.

UBTVQH

: Ủy ban Thường vụ Quốc hội


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, HÌNH VẼ

Tên biểu đồ

STT

Trang

3.1

Tư cách tham gia tại cuộc bầu cử đa ̣i biể u Quốc hội gần nhất


54

3.2

Số lượng người tự ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử

69

3.3

Thành viên tham dự Hội nghị hiệp thương lựa chọn ứng cử viên

77

đại biểu Quốc hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn:
Trong đời sống xã hội của nước ta, bầu cử có một vị trí và ý nghĩa chính trị
đặc biệt quan trọng. Kể từ khi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, ngày 6 tháng 01 năm
1946 để bầu ra Nghị viện nhân dân khai sinh Quốc hội của nước Việt Nam dân chủ
cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nước ta đã trải qua 13
cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội. Thực tiễn lịch sử đã cho thấy tất cả các cuộc bầu cử
đại biểu Quốc hội đều là những sự kiện chính trị có ý nghĩa trọng đại đối với đất
nước. Bầ u cử là mô ̣t trong những chế đinh
̣ pháp luâ ̣t quan tro ̣ng của ngành luâ ̣t Hiế n
pháp, là cơ sở pháp lý cho việc hình thành các cơ quan đại diện – cơ quan quyề n lực
Nhà nước. Bỏ phiếu bầu cử đại biểu Quốc hội và HĐND các c


ấp là phương thức

thực hiê ̣n thể chế dân chủ, thực hiện quyề n công dân và quyề n tham gia quả n lý đấ t
nước của người dân thông qua người đa ̣i diê ̣n

. Thông qua bầ u cử , nhân dân tim
̀

kiế m, chọn lựa những người sẽ thay mặt cho họ quyết định những vấn đề quan
trọng của đất nước . Có thể nói , bầ u cử là hình thức cho thấ y quyề n lực nhà nước
thuô ̣c về nhân dân và là yế u tố không thể thiế u đươ ̣c trong chế đô ̣ xã hô ̣i dân chủ
đương đa ̣i.
Chế độ bầu cử đã được hình thành t ừ những quy định trong các văn bản
pháp luật đầu tiên của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Từ đó đế n nay , cơ sở
lý luận về chế độ bầu cử ở nước ta đã dần được bổ sung , thay đổ i để phù hơ ̣p hơn
với thực tiễn . Tuy nhiên, chế đô ̣ bầ u cử ở nước ta hiê ̣n vẫn còn nhiề u vấ n đề đă ̣t ra
cầ n phải giải quyế t , khắc phục. Tỷ lê ̣ cử tri tham gia bỏ phiế u qua mỗi lầ n bầ u cử
khá cao, nhưng thực tế bầ u cử vẫn còn mang nă ̣ng tin
́ h hin
̀ h thức

(ví dụ như : viê ̣c

ứng cử và hình thức tham gia tranh cử của các ứng cử viên ; cách thức tổ chức bầ u
cử…). Những quy đinh
̣ của pháp luâ ̣t về bầ u cử ở nước ta vẫn còn nhiề u bấ t câ ̣p

,


chưa phát huy đươ ̣c cao nhấ t tính dân chủ và chưa thâ ̣t sự phù hơ ̣p với bố i cảnh hiê ̣n
nay, khi đấ t nước ta đang hô ̣i nhâ ̣p sâu vào nề n kinh tế

thế giới . Làm thế nào để

nhân dân thực sự trở thành chủ nhân c ủa quyề n lực nhà nư ớc và thông qua ch ế độ

1


bầu cử, ủy thác quyền lực ấy cho cơ quan quyề n lực nhà nư ớc cao nhấ t ? Xây dựng
nhà nước xã hội chủ nghĩa , của dân, do dân, vì dân đã và đang là xu hư ớng chủ đạo
và là mu ̣c tiêu hàng đầ u của Đảng , nhà nước và nhân dân Việt Nam . Vì vậy, viê ̣c
nghiên cứu cơ sở lý luâ ̣n và thực tiễn trong và ngoài nước để hoàn thiê ̣n chế đô ̣ bầ u
cử ở nước ta là vấ n đề quan tro ̣ng và cầ n thiế t trong giai đoạn hiện nay.
Từ những lý do nêu trên và với sự tâm hút của mình, tơi chọn đề tài:
“Hoàn thiện pháp luật về bầu cử - những vấn đề lý luận và thực tiễn” để làm luận
văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn:
Mục đích của luận văn là góp phần hồn thiện các qui định của pháp luật
hiện hành về bầu cử; việc vận dụng qui định của pháp luật về quy trình bầu cử trong
các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội trong những năm vừa qua, phân tích nguyên
nhân của những hạn chế trong qui định của pháp luật về bầu cử từ đó nêu lên một số
kiến nghị nhằm hoàn thiện qui định của pháp luật về bầu cử.
Để đạt được mục đích trên, luận văn có những nhiệm vụ sau đây:
Nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về chế độ bầu cử; cơ chế đại
diện, phương thức thực hiện quyền bầu cử, ứng cử; phương thức tiến hành bầu cử…
để góp phần hoàn thiện các văn bản pháp luật về bầu cử ĐBQH và bầu cử ĐB
HĐND.
Nghiên cứu, tổng kết thực tiễn việc tổ chức bầu cử các khóa QH làm cơ sở

cho việc hoàn thiện chế độ bầu cử ĐBQH và bầu cử ĐB HĐND.
Nghiên cứu các phương thức bầu cử và làm rõ những nét đặc thù trong chế
độ bầu cử ĐB của các nước để tham khảo và chọn lọc những kinh nghiệm lập pháp
cho Việt Nam;
Đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về chế độ bầu cử của Việt
Nam - Những bất cập, tồn tại và nguyên nhân.

2


Đưa ra những giải pháp khắc phục tồn tại và kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp
luật về bầu cử của Việt Nam trong thời gian tới.
3. Tình hình nghiên cứu:
Thời gian qua, đã có nhiều tác giả nghiên cứu về pháp luật bầu cử. Tuy
nhiên, các tác giả mới dừng lại ở mức độ nghiên cứu một khía cạnh nào đó trong
bầu cử, ví dụ “Đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Quốc hội”, “Qui trình bầu cử
đại biểu Quốc hội, thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả”, “Vai trò của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong bầu cử đại biểu Quốc hội ở nước ta hiện nay”…
Cịn một cơng trình nghiên cứu mang tính tồn diện về bầu cử (bao gồm cả bầu cử
đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân) trong giai đoạn hiện nay khi mà
Đảng và Nhà nước muốn tiến hành hai cuộc bầu cử này vào chung một thời điểm
thì chưa có, nó mới chỉ dừng lại ở các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn mang
tính kỹ thuật về bầu cử mà thơi.
4. Phạm vi nghiên cứu của luận văn:
Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận của chế độ bầu cử , đi sâu vào vi ̣trí , vai
trò của bầu cử trong chế độ nhà nước ta hiện nay và nghiên cứu thực tiễn của hoạt
đô ̣ng bầ u cử ở nước ta trong thời gian qua và tham khảo kinh nghiê ̣m mô ̣t số nước
trên thế giới . Từ đó , đưa ra nhâ ̣n xét , khuyế n nghi ̣về viê ̣c sửa đở i , bở sung, hồn
chỉnh cơ sở lý luận và quy trình bầu cử , nhằ m hoàn thiê ̣n chế đô ̣ bầ u cử đa ̣i biể u ở
nước ta trong thời gian tới.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn:
Phương pháp luâ ̣n của lu ận văn căn cứ vào quan điểm của Đảng về lý luận
xây dựng chế đô ̣ bầ u cử đa ̣i biể u th

ể hiện trong các Nghị quyết của Đảng, trong

Hiến pháp và pháp luật của Nhà nước.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể bao gồm: thống kê, diễn giải, phân tích,
tổng hợp, so sánh, nghiên cứu thực nghiệm, điề u tra xã hội học,...

3


6. Kết cấu của luận văn:
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương I: Vị trí, vai trò của bầ u cƣ̉ trong chế đô ̣ nhà nƣớc Viêṭ Nam
Chương II: Thƣ̣c tra ̣ng hê ̣ thố ng p háp luật về bầu cử và việc thực hiện
pháp luật bầu cử hiện nay
Chương III: Phƣơng hƣớng hoàn thiện pháp luật về bầu cử ở Việt Nam
trong thời gian tới.

4


Chƣơng 1
VỊ TRÍ, VAI TRỊ CỦA BẦU CỬ TRONG CHẾ ĐỘ
NHÀ NƢỚC VIỆT NAM
Bầu cử ở Việt Nam là quá trình các cử tri đưa ra quyết định của họ theo các
cách thức mà pháp luật quy định để chọn ra các đại biểu đại diện cho mình nắm giữ

các chức vụ trong cơ quan dân cử của chính quyền ở trung ương và địa phương
trong phạm vi lãnh thổ của Việt Nam. Việc bầu cử ở Việt Nam gồm bầu cử Quốc
hội (ở Trung ương) và bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp (ở địa phương).
1.1.

Bầu cử là phƣơng thức thành lập ra cơ quan nhà nƣớc

Bầu cử là một phương pháp thành lập ra bộ máy nhà nước. Thông qua bầu cử
nhân dân trực tiếp lựa chọn những cá nhân có đủ phẩm chất đạo đức và năng lực đại
diện cho ý chí, nguyện vọng của mình vào cơ quan đại diện của nhân dân.
Theo Giáo trình Luật Hiến pháp Việt Nam của Khoa Luật thuộc Đại học
Quốc gia Hà Nội thì:
Chế độ bầu cử được xác định bởi tổng thể các mối quan hệ xã hội
được hình thành trong quá trình tiến hành các cuộc bầu cử, từ lúc lập danh
sách cử tri, cho đến khi kết thúc việc xác định được danh sách những người
trúng cử. Qua những mối quan hệ xã hội đó cho phép khái quát được chế độ
bầu cử được hình thành qua các cuộc bầu cử của một đất nước là chế độ bầu
cử dân chủ không áp đặt, nhân dân tự nguyện thể hiện ý chí của mình tìm ra
được những người xứng đáng làm đại diện cho nhân dân, thay mặt nhân dân
quản lý và điều hành đất nước [17, tr. 300].
Trong lịch sử bầu cử của nước ta, kể từ khi cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên đến
nay đã khẳng định rõ: mỗi cuộc bầu cử đều mang một dấu ấn riêng, nhưng thực tiễn
đã chứng minh rằng các cuộc bầu cử đều có vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng
trong đời sống chính trị - xã hội của đất nước.

5


Một là, bầu cử luôn luôn là một sự kiện chính trị trọng đại của đất nước, là
ngày hội lớn của tồn dân.

Thơng qua các cuộc bầu cử, chính là dịp để cử tri cả nước phát huy quyền
làm chủ của mình, trực tiếp lựa chọn những đại biểu có đủ năng lực và phẩm chất
đạo đức, xứng đáng đại diện cho ý chí, nguyện vọng của mình tại cơ quan quyền lực
Nhà nước cao nhất.
Khi đánh giá về tầm quan trọng của cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã khẳng định:
Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể quốc dân tự do lựa chọn những người
có tài, có đức, để gánh vác cơng việc nước nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là
những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là cơng dân thì đều
có quyền đi bầu cử. Khơng chia gái trai, giàu nghèo, tơn giáo, nịi giống, giai cấp,
đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó... Do Tổng tuyển cử mà
toàn dân bầu ra Quốc hội. Quốc hội sẽ cử ra Chính phủ. Chính phủ đó thật là Chính
phủ của tồn dân.
Hai là, bầu cử có ý nghĩa qút định đến việc xây dựng Bộ máy Nhà nước, là
khâu đầu tiên để hình thành nên các cơ quan Nhà nước từ Trung ương đến địa
phương.
Ở nước ta, tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; nhưng nhân dân
thực hiện quyền lực này bằng cách bầu ra Quốc hội. Với tư cách là cơ quan duy
nhất do cử tri cả nước bầu ra, nên Quốc hội thay mặt cho nhân dân, được giao trách
nhiệm giải quyết mọi công việc quan trọng của đất nước như: xây dựng Hiến pháp
và pháp luật; đặc biệt là thành lập ra Chính phủ và các cơ quan Nhà nước khác.
Đồng thời, các cơ quan Nhà nước này đều chịu sự giám sát của Quốc hội. Chính vì
thế, các cơ quan Nhà nước của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đều trực
tiếp hay gián tiếp do nhân dân bầu ra thơng qua phương thức bầu cử. Nói cách khác,
bầu cử chính là hình thức dân chủ duy nhất để hình thành nên bộ máy Nhà nước ở
nước ta. Đó cũng là minh chứng cho việc ngay từ phiên họp đầu tiên của Hội đồng
Chính phủ lâm thời, ngày 3 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị

6



Chính phủ sớm tổ chức cuộc Tổng tuyển đầu tiên ở nước ta; bởi lẽ chỉ có thể thơng
qua bầu cử thì chính quyền mới được thành lập mới là chính quyền hợp pháp và
được nhân dân thừa nhận.
1.2.

Bầu cử là hình thức quan trọng thực hiện nguyên tắc quyền lực
Nhà nƣớc thuộc về nhân dân

Trong nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân là cội nguồn của quyền lực
nhà nước. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh ln luôn coi nhân dân là cội rễ của
quyền lực nhà nước: “Gốc có vững, cây mới bền/Xây lầu thắng lợi trên nền nhân
dân”. Người cho rằng, Nhà nước ta là Nhà nước của dân, Nhà nước phải hoạt động
vì dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của mình. “Nước ta là một
nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân.
Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến kiến
quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử
ra. Đoàn thể từ trung ương đến xã đều do dân tổ chức lên. Nói tóm lại, quyền hành
và lực lượng đều ở nơi dân”. Hiến pháp năm 1946 coi việc “Thực hiện một chính
quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” là một trong ba nguyên tắc của chính
thể mới và nền dân chủ nhân dân. Hiến pháp 1992 (sửa đổi năm 2001) hiện nay
cũng khẳng định “Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân…”. Trong nhà nước
pháp quyền, quyền lực nhà nước xuất phát từ nhân dân, nên nhà nước pháp quyền
Việt Nam phải là nhà nước do nhân dân Việt Nam thành lập. Tính pháp quyền cao
nhất của quyền lực nhà nước là ở chỗ: nhân dân tự do lựa chọn bầu ra những đại
biểu xứng đáng thay mặt nhân dân gánh vác việc nước. Bầu cử là một phương thức
hợp pháp hóa quyền lực nhà nước mang tính phổ biến và là xu thế tất yếu của thế
giới hiện đại. Trong các bài viết về Thường thức chính trị trên báo Cứu quốc năm
1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng viết: “Trong các cuộc bầu cử, công dân Việt

Nam từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt gái, trai, tôn giáo, mức tài sản, trình độ văn
hóa, khơng phân biệt nịi giống đều có quyền tham gia. Đó là một cách hợp lý để
nhân dân lao động thực hành quyền thống trị của mình” [10, tr. 219-220].

7


Pháp quyền xét dưới góc độ tổ chức bộ máy nhà nước có nghĩa nhân dân
chính là chủ thể của q trình tổ chức. Nhà nước pháp quyền khơng những là người
đại diện chân chính cho nhân dân của quốc gia đó, mà nó phải được cộng đồng quốc
tế thừa nhận. Nhà nước là người đại diện của nhân dân, cho nên, nhân dân phải có
tiếng nói quyết định vào việc thành lập ra các cơ quan nhà nước. Bầu cử là hoạt
động phổ thơng nhất và mang tính đơn giản nhất, thơng qua đó, nhân dân trực tiếp
thành lập các cơ quan quyền lực nhà nước: “Nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước
thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân là những cơ quan đại diện cho ý chí và
nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân
dân”. Từ các thiết chế đại diện do nhân dân bầu ra này, các cơ quan nhà nước khác
lần lượt được thành lập. Về bản chất, bầu cử không những là con đường kiến thiết
chế độ đại diện mà nó cũng chính là phương thức để nhân dân loại bỏ những người
đại diện. Do vậy, để nhân dân giám sát quyền lực nhà nước, chế ngự sự tha hóa, lạm
quyền của quyền lực nhà nước một cách có hiệu quả, đồng thời với việc đổi mới chế
độ bầu cử, cần xây dựng cơ chế cụ thể và hữu hiệu quyền bãi nhiệm đại biểu dân cử
của nhân dân. Nói cách khác, nhân dân có thể thay thế, thậm chí phế truất những
người đại diện do mình bầu ra bất cứ lúc nào, nếu họ khơng cịn sự tín nhiệm của
nhân dân, mà khơng phải đợi đến hết nhiệm kỳ: “Đại biểu Quốc hội bị cử tri hoặc
Quốc hội bãi nhiệm và đại biểu Hội đồng nhân dân bị cử tri hoặc Hội đồng nhân
dân bãi nhiệm khi đại biểu đó khơng còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân”
(Điều 7 Hiến pháp 1992). Chính vì tầm quan trọng của việc khẳng định chủ quyền
nhân dân, trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới bộ máy nhà nước ở
nước ta khơng thể khơng nói tới đổi mới chế độ bầu cử. Làm sao để “quyền hành và

lực lượng đều ở nơi dân”, để nhân dân thực sự tìm được những người xứng đáng và
đích thực thay mặt mình gánh vác việc nước - đó là những vấn đề cơ bản của việc
đổi mới chế độ bầu cử ở nước ta hiện nay [38, tr. 237].
Chế độ bầu cử là nền tảng của dân chủ, có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
việc kiến tạo chế độ dân chủ. Chế độ bầu cử là một trong những trụ cột trong cấu
trúc dân chủ ở bất cứ nhà nước nào. Dân chủ và bầu cử gắn bó mật thiết như hình

8


với bóng. Ở đâu có bầu cử tự do và trung thực, thì ở đó một chế độ dân chủ được
nảy nở và phát triển [3, tr. 27]. Dân chủ có nghĩa là nhân dân là nguồn gốc, là chủ
thể của quyền lực nhà nước; các cơ quan quyền lực phải được nhân dân bầu hoặc
bãi miễn thông qua bầu cử tự do, bình đẳng và bỏ phiếu kín.
Khơng những thế, rất nhiều các hiệp ước, hiến chương quốc tế, khu vực đều
khẳng định vai trò của bầu cử đối với thực thi dân chủ, bảo đảm quyền con người,
như Hiến chương Paris cho một châu Âu mới tuyên bố: “Ý chí của nhân dân thơng
qua bầu cử tự do, công bằng và định kỳ là nền tảng cho một nhà nước dân chủ”. Tại
các nước lớn ngày nay, dân chủ dựa trên ý tưởng rằng chủ quyền của nhân dân hợp
pháp hóa cả chính quyền lẫn quyền cộng đồng quyết định, trên những nguyên tắc
phục tùng đa số, bảo vệ thiểu số và trên hệ thống nghị trường đại diện. Hội nghị An
ninh và hợp tác châu Âu (CSCE) khẳng định rằng, dân chủ “có nền tảng là việc tôn
trọng con người và chế độ pháp quyền”, công nhận chế độ pháp quyền là một yếu tố
thiết yếu để đảm bảo việc tôn trọng nhân quyền và hoan nghênh “quyết tâm chung
của tất cả các quốc gia thành viên nhằm xây dựng các xã hội dân chủ trên nền tảng
tuyển cử tự do và chế độ pháp quyền”. Chế độ pháp quyền dường như không chỉ đòi
hỏi pháp luật phải có giá trị phổ quát, mà còn đòi hỏi việc thực thi pháp luật cũng
phải phổ quát như vậy, nghĩa là pháp luật phải có khả năng thực thi một cách bình
đẳng đối với tất cả các thành viên của cộng đồng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói “Tổng tuyển cử là một dịp cho toàn thể

quốc dân tự do lựa chọn những người có tài, có đức, để gánh vác công việc nước
nhà. Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có
quyền ra ứng cử; hễ là cơng dân thì đều có quyền đi bầu cử. Khơng chia gái trai,
giàu nghèo, tơn giáo, nịi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là cơng dân Việt Nam thì
đều có hai quyền đó. Vì lẽ đó, cho nên Tổng tuyển cử tức là tự do, bình đẳng, tức là
dân chủ đoàn kết” [10]. Đối với nước ta, dân chủ đại diện lại càng có vai trò đặc
biệt quan trọng, vì Hiến pháp mới chỉ khẳng định về dân chủ đại diện, mà chưa đề
cập rõ ràng về dân chủ trực tiếp. Vai trò của bầu cử đối với bộ máy nhà nước có thể
được ví như vai trò của nền móng trong việc xây dựng một ngơi nhà. Muốn có ngơi

9


nhà kiên cố và hiện đại, thì trước hết phải có nền móng vững chắc. Để có một Nhà
nước “của dân”, trước hết phải thiết kế và thực thi một chế độ bầu cử sao cho bộ
máy nhà nước đó “đúng” là kết quả của sự lựa chọn dựa trên ý chí của nhân dân.
Mối quan hệ giữa chế độ bầu cử với bản chất, mục đích của nhà nước là mối quan
hệ biện chứng: một mặt, một chế độ bầu cử đảm bảo đúng ý chí của nhân dân trong
việc lựa chọn và ủy quyền, thì bản thân việc lựa chọn và ủy quyền đó khơng những
đảm bảo nhà nước đó là nhà nước “của dân” mà đã bao hàm ý nghĩa nhà nước đó là
nhà nước “do dân và vì dân”; mặt khác, một nhà nước đích thực “của dân” sẽ là cơ
sở rất quan trọng để nó là một nhà nước “do dân và vì dân”. Ngược lại, nếu khơng
đảm bảo nhà nước đó là nhà nước đích thực của dân, nhân dân còn “đứng ngồi”,
hoặc chưa đóng vai trò qút định, thì dù nó tổ chức, hoạt động theo nguyên tắc
nào, mục đích “do dân và vì dân” của nhà nước đó cũng khó có thể đạt được. Điều
đó khơng những khơng đảm bảo cơ sở pháp quyền của nhà nước, mà mục đích nhà
nước sẽ khơng đảm bảo dân chủ, hoặc mục đích dân chủ có thể được đặt ra, nhưng
sẽ bị chệch hướng.
Như vậy, bầu cử là định chế quan trọng, mang tính nền tảng trong việc kiến
tạo cơ chế chính trị của mỗi quốc gia. Nhưng tại sao lại như vậy? Câu trả lời là: vì

kết quả bầu cử thể hiện ý chí của nhân dân, cơ chế chính trị được xây dựng trên nền
tảng của chế độ bầu cử, tức là được xây dựng trên nền tảng ý chí của nhân dân. Đây
là cơ sở, là điều kiện tiên quyết cho một chính quyền, hệ thống chính trị của dân, do
dân, vì dân và đó là mục tiêu cao cả của dân chủ.
Ở Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa, vai trò của chế độ bầu cử cịn
mang tính đặc thù. Thứ nhất, đối với các nước tư sản, bộ máy nhà nước được tổ
chức và hoạt động theo nguyên tắc phân chia quyền lực, do đó nhân dân khơng
những bầu ra Quốc hội, mà ở nhiều nước, nhân dân còn bầu ra Tổng thống. Do vậy,
bản thân chế độ bầu cử là cơng cụ nhằm kiểm sốt, đối trọng giữa các nhánh quyền
lực và nó có khả năng tạo ra cơ hội “sửa sai” cho nhân dân. Chẳng hạn, sau khi bầu
cử Tổng thống, nếu đường lối, chính sách do Tổng thống thực thi khơng hợp lịng
dân, đến kỳ bầu cử Quốc hội, cử tri sẽ dồn phiếu cho các đảng đối lập để “khắc

10


chế”, “đối trọng” đường lối của Tổng thống và ngược lại. Khác với các nước tư sản,
ở nước ta, khi nhân dân bầu ra Quốc hội, Hội đồng nhân dân thì cũng có nghĩa gần
như trao tồn bộ “ấn kiếm” cho các cơ quan này mà khơng có nhiều cơ hội “sửa sai”
như ở các nước tư sản. Về nguyên tắc, cử tri có quyền bãi nhiệm các đại biểu dân cử
khi họ khơng còn được sự tín nhiệm của nhân dân. Tuy nhiên, việc bãi nhiệm
thường tiến hành với từng đại biểu riêng biệt, hơn nữa, việc bãi nhiệm tuy đã có
trong các điều khoản của Hiến pháp, các đạo luật về tổ chức các cơ quan nhà nước,
nhưng chưa có cơ chế cụ thể để thực hiện, để áp dụng vào thực tiễn. Vả lại, kể cả
khi chúng ta xây dựng được cơ chế bãi nhiệm đại biểu dân cử, do thủ tục phức tạp
cần phải có của cơ chế và tính phức tạp của trách nhiệm chính trị, cơ chế này vẫn
mang tính phịng ngừa nhiều hơn. Thứ hai, vị trí, thẩm quyền của cơ quan dân cử
trong bộ máy nhà nước các nước xã hội chủ nghĩa có tính đặc biệt: Quốc hội là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà
nước ở địa phương. Đối với Việt Nam, thẩm quyền xây dựng Hiến pháp được trao

cho Quốc hội, cho nên, có thể hình dung rằng thơng qua bầu cử, nhân dân trao
những thẩm quyền quan trọng, như quyết định các vấn đề quan trọng nhất của cả
nước/địa phương cho cơ quan quyền lực nhà nước, trao cả quyền lập hiến cho Quốc
hội.
Bầu cử có vị trí vai trị rất quan trọng trong việc phê bình và lựa chọn chính
quyền nhà nước [8]. Bầu cử sẽ là một việc vơ nghĩa nếu như khơng có sự lựa chọn.
Ðể có được những lựa chọn đúng đòi hỏi những người dân phản đối chính quyền
phải được phép tự do cơng khai bày tỏ quan điểm của mình, tự do chỉ trích chính
sách và lơi kéo, tổ chức những người ủng hộ họ. Những cuộc bầu cử tự do và công
bằng không thể duy trì được ở những nơi mà các quan chức có quyền bưng bít các
lời chỉ trích.
Tóm lại, chế độ bầu cử là một định chế quan trọng của dân chủ, nền tảng của
mọi nhà nước pháp quyền. Việc thiết kế, thực thi chế độ bầu cử tiến bộ, phù hợp là
công việc quan trọng hàng đầu đối với bất cứ nhà nước pháp quyền nào, trong đó có
Việt Nam.

11


Thành công của các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội và bầu cử đại biểu Hội
đồng nhân dân đã thể hiện rõ ý thức chính trị, trách nhiệm của cử tri và nhân dân
đối với sự nghiệp cách mạng của đất nước; phản ánh tính dân chủ trong đời sống xã
hội của đất nước ta.
Các cuộc bầu cử đều diễn ra thuận lợi và đạt được những thắng lợi to lớn.
Hầu hết các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội của nước ta đều thu hút được đông đảo
cử tri tham gia bỏ phiếu, với tỉ lệ trên dưới 90%. Đây là một thực tế mà không phải
quốc gia nào cũng đạt được, kể cả ở những nước phát triển. Điều đó phản ánh được
ý thức chính trị rất cao của cử tri và nhân dân ta đối với sự nghiệp cách mạng của
đất nước. Mặt khác, cũng chính từ thành công của các cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội đã phán ánh được sự dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội ở nước ta.

Như vậy, bầu cử như là một trong những biện pháp cơ bản thể hiện sự chịu
trách nhiệm của nhà nước, cũng như một cách thức nhân dân đánh giá và mong
muốn về trách nhiệm của nhà nước trong tương lai. Thông qua việc bầu cử, nhân
dân có quyền hất bỏ những quyền lực nhà nước khơng đáp ứng, và muốn có một sự
thay đổi với mục tiêu đáp ứng được mong mỏi của người dân. Cơ sở của chế độ bầu
cử là quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước của các cơ quan
nhà nước, cũng như của các cá nhân được đảm nhiệm các công việc nhà nước là do
nhân dân trao cho thông qua hoạt động bầu cử của họ. Đây cũng là cơ sở cho việc
các cơ quan nhà nước cũng như các quan chức do nhân dân bầu ra khơng chỉ đơn
thuần có được quyền lực nhà nước, mà còn phải chịu trách nhiệm về việc thực thi
quyền lực được giao trước nhân dân [8].

12


Chƣơng 2
THƢ̣C TRẠNG HỆ THỐNG PHÁP LUẬT VỀ BẦU CỬ VÀ VIỆC
THỰC HIỆN PHÁP LUẬT BẦU CỬ HIỆN NAY
2.1. Thực trạng hệ thống pháp luật về bầu cử ĐBQH và ĐB HĐND
2.1.1. Thực trạng pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội qua cuộc bầu cử
các khóa XI, XII
Qua thực tiễn triển khai áp dụng luật bầu cử đại biểu Quốc hội các khóa
gần đây cho thấy, các quy định của luật thực định nhìn chung được áp dụng khá
đầy đủ trong thực tiễn, việc triển khai các công việc phục vụ cho công tác bầu cử
được thực hiện đúng tiến độ, bảo đảm tính dân chủ, tiết kiệm. Các cuộc bầu cử
đã đạt được những kết quả tích cực và thành công trên nhiều phương diện, từ các
công tác chuẩn bị, tổ chức triển khai thực hiện cho đến khi kết thúc cuộc bầu cử.
Qua việc thi hành pháp luật về bầu cử đại biểu Quốc hội tại các cuộc bầu cử gần
đây cho thấy, nhìn chung luật đã đi vào cuộc sống, công tác bầu cử đại biểu
Quốc hội đã bảo đảm được các tiêu chí và nguyên tắc theo quy định của luật,

nhất là đã đảm bảo được tính đại diện cho các thành phần, giai tầng trong xã hội;
số người ứng cử, tự ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử đã tăng lên, trình độ của những
người ứng cử khá đồng đều, chất lượng đại biểu trúng cử nhiệm kỳ sau được
nâng lên so với nhiệm kỳ trước. Sự thành công của các cuộc bầu cử gần đây cho
thấy hệ thống pháp luật về bầu cử về cơ bản đã dần đồng bộ, toàn diện và đang
từng bước được hoàn thiện. Tuy nhiên, với đặc thù của công tác bầu cử là hoạt
động không thường xuyên, năm năm mới thực hiện một lần nên việc áp dụng các
quy định của pháp luật về bầu cử qua các kỳ bầu cử đại biểu Quốc hội cịn cho
thấy có những vấn đề được quy định trong luật chưa thực sự phù hợp với sự vận
động của thực tiễn.
Trước những yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong tình hình mới,
quán triệt chủ trương của Đảng thể hiện trong Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ IX đã nêu: “Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội, đại biểu

13


Hội đồng nhân dân, hoàn thiện những quy định về bầu cử, ứng cử, về tiêu chuẩn
và cơ cấu các đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân trên cơ sở thật sự phát
huy dân chủ. Tăng thêm tỷ lệ đại biểu Quốc hội chuyên trách”, ngày 25 tháng 12
năm 2001 Quốc hội khóa X đã thơng qua Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997. Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm
2001 được sửa đổi cũng nhằm mục đích để phù hợp với nội dung sửa đổi, bổ
sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 và việc sửa đổi Luật tổ chức Quốc hội
và cụ thể hóa các quan điểm, chỉ thị của Đảng về đổi mới tổ chức và hoạt động
của Quốc hội; phát huy bản chất dân chủ, bảo đảm tính nhân dân, tính đại diện
và chất lượng đại biểu Quốc hội; làm cơ sở cho việc tăng tỷ lệ đại biểu Quốc hội
chuyên trách.
Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 2001 được Quốc hội thông qua là cơ
sở pháp lý quan trọng đối với cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và khóa

XII. Các quy định của Luật đã được các cơ quan có thẩm quyền liên quan đến
cơng tác bầu cử đại biểu Quốc hội từ trung ương đến địa phương vận dụng tổ
chức thành công các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, góp phần vào q trình kiện
tồn tổ chức và tăng cường hiệu quả hoạt động của Quốc hội qua các nhiệm kỳ
Quốc hội khóa XI và khóa XII.
Tuy nhiên, qua q trình áp dụng Luật bầu cử đại biểu Quốc hội để triển
khai công tác bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI và khóa XII cho thấy Luật cịn
có một số quy định vướng mắc, khó thực hiện trong triển khai cơng tác bầu cử.
Cụ thể như sau:
Về số người ứng cử tại mỗi khu vực bỏ phiếu
Điều 46 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định:
Căn cứ vào danh sách chính thức những người ứng cử được Đoàn
Chủ tịch Uỷ ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam giới thiệu, Hội
đồng bầu cử gửi tới các Uỷ ban bầu cử hữu quan danh sách những người
được giới thiệu về ứng cử tại địa phương. Hội đồng bầu cử lập và công bố

14


danh sách những người ứng cử theo từng đơn vị bầu cử trong cả nước
theo danh sách chính thức do Ban thường trực Uỷ ban trung ương Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam và Uỷ ban bầu cử gửi đến chậm nhất là hai mươi
lăm ngày trước ngày bầu cử. Trong danh sách những người ứng cử phải
ghi rõ họ, tên, ngày, tháng, năm sinh, quê quán, nơi thường trú, dân tộc,
tơn giáo, trình độ văn hố, chun mơn, nghề nghiệp, chức vụ, nơi làm
việc của người ứng cử. Danh sách những người ứng cử được xếp theo vần
chữ cái A, B, C... Số người trong danh sách ứng cử ở mỗi đơn vị bầu cử
phải nhiều hơn số đại biểu được bầu ở đơn vị đó. Người ứng cử chỉ được
ghi tên vào danh sách ứng cử ở một đơn vị bầu cử.
Quy định này dẫn đến tình trạng có đơn vị bầu cử số người ứng cử chỉ

nhiều hơn số đại biểu được bầu là một người. Nếu số người ứng cử chỉ nhiều hơn
số đại biểu được bầu là một người thì trong trường hợp bất khả kháng người ứng
cử bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị chết hoặc vì lý do bất khả kháng, phải xóa
tên trong danh sách bầu cử thì đơn vị bầu cử đó sẽ khơng có số dư hoặc đơn vị
bầu cử đó phải giảm số đại biểu được bầu để bảo đảm số dư theo đúng quy định
của luật. Trong thực tế bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI ở tỉnh Nam Định và
tỉnh Bình Định có trường hợp ứng cử viên bị kỷ luật, khởi tố hình sự sát ngày
bầu cử, không thể bổ sung kịp danh sách người ứng cử nên Hội đồng bầu cử đã
phải quyết định rút ở đơn vị đó một đại biểu để tránh tình trạng “bầu tròn”. Từ
thực tiễn bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, Hội đồng bầu cử đã có văn bản
hướng dẫn số dư tại mỗi đơn vị bầu cử phải ít nhất là hai người. Tuy nhiên, với
hướng dẫn như vậy lại là quá cứng nhắc, khó cho cử tri lựa chọn đại biểu và các
đại biểu do trung ương giới thiệu cũng sẽ khó trúng cử đối với những đơn vị bầu
cử có bốn người ứng cử và chỉ được bầu hai đại biểu (cuộc bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XII có 47/182 đơn vị bầu cử được bầu 2 đại biểu). Trong luật bầu cử
đại biểu Quốc hội năm 1997 cũng không quy định rõ đối với những trường hợp
bất khả kháng về nhân sự trong bầu cử thì sẽ do cơ quan nào có thẩm quyền xem
xét, quyết định. Vì vậy, việc quy định rõ Hội đồng bầu cử sẽ xem xét, quyết định

15


đối với những trường hợp khuyết người ứng cử vì lý do bất khả kháng sẽ tạo
thuận lợi trong quá trình thực hiện khi xảy ra sự việc này.
Việc quy định số lượng cử tri tại mỗi khu vực bỏ phiếu không phù hợp với
số dân cư: Điều 12 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 quy định:
Mỗi đơn vị bầu cử chia thành nhiều khu vực bỏ phiếu. Việc chia
khu vực bỏ phiếu do Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn quyết định và
do Uỷ ban nhân dân cấp trên trực tiếp phê chuẩn. Mỗi khu vực bỏ phiếu
có từ ba trăm đến hai nghìn cử tri. Ở miền núi, hải đảo và những nơi dân

cư khơng tập trung thì dù chưa có tới ba trăm cử tri cũng được thành lập
một khu vực bỏ phiếu…
Thực tế cùng với việc tăng dân số cả nước và ở từng địa phương, mật độ
dân số cũng tăng lên nhiều. Vì vậy, mức trần tối đa cử tri ở một khu vực bỏ
phiếu quy định như Luật bầu cử đại biểu Quốc hội năm 1997 là không hợp lý.
Qua thực tế bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII cho thấy, tại những địa phương
có mật độ dân số cao, nhiều khu dân cư có trên hai nghìn cử tri thì việc giới hạn
khu vực bỏ phiếu từ ba trăm đến hai nghìn cử tri đã gây nhiều khó khăn cho địa
phương trong việc thành lập khu vực bỏ phiếu (Hội đồng bầu cử đại biểu Quốc
hội khóa XII đã phải có cơng văn cho phép Bình Dương thành lập khu vực bỏ
phiếu có trên 2000 cử tri.)
Về chức năng nhiệm vụ và thành viên Tổ bầu cử: Tổ bầu cử là tổ chức
trực tiếp phụ trách công tác bầu cử ở cơ sở, thông thường, đơn vị hành chính cấp
xã có từ 12-15 tổ bầu cử. Điều 17, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội quy định:
Chậm nhất là ba mươi ngày trước ngày bầu cử, Chủ tịch Hội đồng
nhân dân xã, phường, thị trấn sau khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân và
Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp quyết định thành lập
ở mỗi khu vực bỏ phiếu một Tổ bầu cử từ năm đến mười một người, gồm
Tổ trưởng, Tổ phó, Thư ký và các uỷ viên là đại diện Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp và đại diện cử tri ở

16


địa phương. Đơn vị vũ trang nhân dân thành lập ở mỗi khu vực bỏ phiếu
của mình một Tổ bầu cử từ năm đến chín người, gồm Tổ trường, Tổ phó,
Thư ký và các uỷ viên là đại diện Chỉ huy đơn vị và đại diện quân nhân.
Trong trường hợp đơn vị vũ trang nhân dân và địa phương có chung một
khu vực bỏ phiếu thì Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn sau
khi thống nhất với Uỷ ban nhân dân, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ

quốc cùng cấp và Chỉ huy đơn vị vũ trang nhân dân quyết định thành lập
Tổ bầu cử từ năm đến mười một người, gồm đại diện Hội đồng nhân dân,
Uỷ ban nhân dân, Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc cùng cấp, đại diện Chỉ huy
đơn vị, đại diện quân nhân và đại diện cử tri ở địa phương….
Trên thực tế, nhiều Tổ bầu cử khơng có đủ số người đại diện của Hội đồng
nhân dân và Ủy ban nhân dân. Đây là thực tế vướng mắc trong đợt bầu cử đại
biểu Quốc hội khóa XI và khóa XII (ví dụ như ở tỉnh Bắc Ninh trong cuộc bầu
cử đại biểu Quốc hội khóa XII, khi thiếu thành phần đại diện Ủy ban nhân dân
trong Tổ bầu cử và Hội đồng bầu cử phải có hướng dẫn cụ thể đối với các trường
hợp này theo hướng đối với xã, phường, thị trấn có địa bàn lớn, có số dân đơng
phải thành lập nhiều Tổ bầu cử thì khơng nhất thiết trong thành phần các Tổ bầu
cử phải có đại diện Ủy ban nhân dân). Ngoài ra, Tổ bầu cử là tổ chức ở cơ sở và
là Tổ chức phụ trách trực tiếp công tác bầu cử trong khu vực bỏ phiếu, là tổ chức
liên hệ trực tiếp với cử tri địa phương, nhận tài liệu và phiếu bầu từ Ban bầu cử
để phát cho cử tri nhưng những nội dung này lại không được quy định cụ thể
trong Luật. Trách nhiệm của Tổ bầu cử đối với những khiếu nại, tố cáo về công
tác bầu cử do Tổ bầu cử phụ trách cũng không được đề cập, như vậy, thực tế sẽ
dẫn đến tình trạng Tổ bầu cử khơng có trách nhiệm gì trong giải qút khiếu nại
tố cáo đối với lĩnh vực mình phụ trách, và mọi khiếu nại, tố cáo về công tác bầu
cử của Tổ bầu cử lại dồn lên Ban bầu cử xem xét và giải quyết, trong khi đó, Ban
bầu cử cũng đã quá tải với công việc tổng hợp trực tiếp kết quả bầu cử từ hàng
trăm đến hàng nghìn các Tổ bầu cử khác nhau.
Về thời gian, thời điểm kết thúc cuộc bỏ phiếu

17


Điều 57 Luật bầu cử đại biểu Quốc hội 1997 quy định:
Việc bỏ phiếu bắt đầu từ bảy giờ sáng đến bảy giờ tối. Tuỳ tình
hình địa phương, Tổ bầu cử có thể quyết định cho bắt đầu sớm hơn nhưng

không được trước năm giờ sáng hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không
được quá mười giờ đêm. Trước khi bỏ phiếu, Tổ bầu cử phải kiểm tra hòm
phiếu trước sự chứng kiến của cử tri.
Trên thực tế, sau thời điểm kết thúc bỏ phiếu các tổ chức phụ trách bầu cử
phải có thời gian cần thiết bảo đảm thực hiện việc kiểm phiếu theo quy định.
Quy định như Điều 57 là có thể kết thúc muộn nhưng khơng được q mười giờ
đêm sẽ gây khó khăn cho cơng tác kiểm phiếu của tổ chức phụ trách bầu cử. Mặt
khác, trong Luật bầu cử đại biểu Quốc hội cũng chưa quy định điều kiện để
tuyên bố kết thúc bỏ phiếu sớm tại các khu vực bỏ phiếu gây vướng mắc cho các
tổ bầu cử. Thực tế, trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XII, một số địa
phương như Đà Nẵng, Hà Tây cũ… đã phải đề nghị Hội đồng bầu cử hướng dẫn
về trường hợp kết thúc sớm cuộc bỏ phiếu tại các tổ bầu cử. Hội đồng bầu cử
hướng dẫn theo hướng trong trường hợp ở khu vực bỏ phiếu đã có 100% cử tri đi
bỏ phiếu thì Tổ bầu cử có thể tun bố tồn bộ cử tri trong danh sách đã bỏ phiếu
xong và kết thúc cuộc bỏ phiếu tại khu vực bỏ phiếu đó.
Về xác nhận việc bỏ phiếu trên thẻ cử tri
Trong cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội khóa XI, ở tỉnh Bắc Ninh đã phải
tiến hành bầu cử lại ở khu vực bỏ phiếu số 3 (thôn Dương Lôi, xã Tân Hồng,
huyện Từ Sơn) do Tổ bầu cử đã khơng đóng dấu vào “đã bỏ phiếu” trên thẻ cử
tri. Quy định của Luật bầu cử đại biểu Quốc hội không đề cập đến nội dung này.
Như vậy sẽ dẫn đến tình trạng khó xác định được việc cử tri đó đã đi bầu hay
chưa và cũng khó cho Tổ bầu cử theo dõi danh sách cử tri.
Về thời điểm kết thúc nhiệm vụ của các tổ chức phụ trách bầu cử

18


×