Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tham ô tài sản trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (810.11 KB, 86 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TÔ XUÂN TÙNG

MéT Sè VấN Đề Lý LUậN Và THựC TIễN
Về TộI THAM Ô TàI SảN TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM

LUN VN THC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TÔ XUÂN TÙNG

MéT Sè VấN Đề Lý LUậN Và THựC TIễN
Về TộI THAM Ô TàI SảN TRONG LUậT HìNH Sự VIệT NAM
Chuyờn ngnh: Lut hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS. LÊ THỊ SƠN

HÀ NỘI - 2015


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Tô Xuân Tùng


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN ...... 6
1.1.

Khái niệm tội tham ô tài sản ............................................................. 6

1.1.1. Định nghĩa tội tham ô tài sản ............................................................... 6
1.1.2. Đặc điểm của tội tham ô tài sản ........................................................... 8
1.2.

Lịch sử quy định về tội tham ơ tài sản trong luật hình sự
Việt Nam ........................................................................................... 13


1.2.1. Thời kỳ trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985 ................................ 13
1.2.2. Thời kỳ từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời đến nay .................. 18
Kết luận chƣơng 1 ......................................................................................... 26
Chƣơng 2: QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
HIỆN HÀNH VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN ................................... 28
2.1.

Các dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản .................................. 28

2.1.1. Khách thể của tội tham ô tài sản ........................................................ 28
2.1.2. Chủ thể của tội tham ô tài sản ............................................................ 36
2.1.3. Mặt khách quan của tội tham ô tài sản ............................................... 41
2.1.4. Mặt chủ quan của tội tham ơ tài sản................................................... 45
2.2.

Hình phạt đối với tội tham ơ tài sản ............................................... 46

2.2.1. Hình phạt chính .................................................................................. 46
2.2.2. Hình phạt bổ sung .............................................................................. 52
Kết luận chƣơng 2 ......................................................................................... 52


Chƣơng 3: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT
HÌNH SỰ VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ TỘI THAM Ơ TÀI
SẢN VÀ PHƢƠNG HƢỚNG HOÀN THIỆN............................... 55
3.1.

Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về
tội tham ơ tài sản .............................................................................. 55


3.2.

Phƣơng hƣớng hồn thiện quy định về tội tham ô tài sản ........... 64

Kết luận chƣơng 3 ......................................................................................... 71
KẾT LUẬN .................................................................................................... 73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 75


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

CNXH

: Chủ nghĩa xã hội

TNHH

: Trách nhiệm hữu hạn

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa



DANH MỤC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 3.1: Số vụ và số người bị đưa ra xét xử về tội tham ô tài
sản trong giai đoạn từ năm 2004 đến năm 2014

55


MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng: Tham ơ là căn bệnh "Tứ chứng
nan y" của mọi Nhà nước; là hành động xấu xa nhất của con người; tham ô
là ăn cắp của công thành của riêng, ăn bớt của bộ đội, tiêu ít mà khai nhiều
là lợi dụng của chung, của Chính phủ để làm quỹ riêng cho địa phương
mình, đơn vị mình; tham ơ có hại đến sự nghiệp xây dựng đất nước, có hại
đến cơng việc cải thiện đời sống nhân dân, đạo đức cách mạng, tham ô tài
sản là tội phạm được Nhà nước ta quy định từ rất sớm, ngay sau khi giành
chính quyền. Điều đó thể hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta là
cương quyết đấu tranh chống tội phạm này, bởi vì cùng một lúc nó xâm hại
đến hai khách thể quan trọng là hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức
và quan hệ sở hữu tài sản [27, tr.39].

Trải qua hơn 20 năm Đảng và Nhà nước ta thực hiện đường lối đổi
mới, trước hết là đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ tập trung, quan liêu bao
cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đất nước ta đã
thu được những thành tựu đặc biệt quan trọng: Kinh tế phát triển nhanh, đời
sống chính trị được tăng cường, quan hệ kinh tế được mở rộng, tiến tới xây
dựng một Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Bên cạnh những
thành tựu đạt được thì những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường ngày
càng bộc lộ rõ, đó là sự phân hoá giàu nghèo, lối sống thực dụng chạy theo
đồng tiền, nạn tham nhũng ngày càng phức tạp và rất nghiêm trọng trong
nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, làm xói mịn niềm tin của
nhân dân vào chủ nghĩa xã hội. Do đó, đấu tranh phịng chống những tội
phạm về tham nhũng trong đó có tội tham ô tài sản là nhiệm vụ quan trọng và

1


cấp thiết của Đảng và Nhà nước ta. Pháp luật hình sự là một trong những
cơng cụ sắc bén và hữu hiệu Nhà nước ta trong công tác đấu tranh chống và
phịng ngừa tội phạm nói chung và tội tham ô tài sản nói riêng nhằm bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn
lãnh thổ, quyền làm chủ của nhân dân, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, duy trì trật tự, an tồn xã hội.
Tội tham ơ tài sản ở nước ta ngày càng phổ biến, gây ra hậu quả
nghiêm trọng không chỉ trong lĩnh vực kinh tế mà cịn cả trong lĩnh vực chính
trị - xã hội. Vì vậy, việc nghiên cứu các quy định của pháp luật hình sự Việt
Nam hiện hành về tội tham ơ tài sản từ phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng
để qua đó đưa ra giải pháp hồn thiện pháp luật và những giải pháp nâng cao
hiệu quả của việc áp dụng những quy định này là cần thiết, đó cũng là lý do để
tôi lựa chọn đề tài "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tham ơ tài sản
trong Luật hình sự Việt Nam" làm luận văn thạc sĩ luật học.

2. Tình hình nghiên cứu
Tội tham ô tài sản đã được quy định khá sớm trong luật hình sự Việt
Nam. Những năm gần đây càng ngày xuất hiện càng nhiều những vụ án tham
ô tài sản có tính chất nổi cộm, quy mơ ngày càng lớn, với mức độ tinh vi,
phức tạp có sự câu kết chặt chẽ, thủ đoạn hơn, nguy hiểm hơn. Tuy nhiên,
những nghiên cứu về tội phạm này còn khá khiêm tốn.
Ở nước ta, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học ở những mức
độ khác nhau, những khía cạnh, phương diện khác nhau về tội tham ô tài sản.
Loại tội này được đề cập, phân tích trong một số giáo trình và sách tham
khảo: Giáo trình luật hình sự việt nam, nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà Nội
năm 2003, của tập thể tác giả do TSKH. Lê Cảm làm chủ biên; Giáo trình
luật hình sự Việt Nam của tập thể tác giả do GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa chủ

2


biên, Nhà xuất bản Công an nhân dân năm 2006; Bình luận khoa học bộ luật
hình sự phần các tội phạm tập V của tác giả Đinh Văn Quế, nhà xuất bản
thành phố Hồ Chí Minh năm 2003; “Tư tưởng Hồ Chí Minh với vấn đề chống
tham nhũng” của tác giả Bùi Mạnh Cường, nhà xuất bản lao động và xã hội
năm 2003. Hay một số bài viết trên các Tạp chí chuyên ngành như “Bàn về
chủ thể của tội tham ô tài sản” tác giả Trương Thị Thanh Hằng đăng trong
Tạp chí Kiểm sát số 06/2006; “Những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội tham
ô tài sản trong cơ chế thị trường” của tác giả Đinh Văn Quế đăng trong Tạp
chí Kiểm sát số 22/2006. Luận văn thạc sỹ “Tội tham ơ tài sản trong bộ luật
hình sự Việt Nam- Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của tác giả Trần
Quang Sơn năm 2007; Luận văn thạc sỹ “Đấu tranh phịng chống tội tham ơ
tài sản ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” của tác giả Vũ Thị Thanh Hà
năm 2009. Những cơng trình này, tuy đã giúp làm sáng tỏ quy định của luật
hình sự về tội tham ô tài sản nhưng mới chỉ dừng lại phương diện lý luận

trong các bài viết, một phần, mục trong các giáo trình, sách tham khảo hoặc
chỉ ra được một vài hạn chế trong quy định của luật về tội tham ô tài sản,
chưa đi sâu vào khái qt, phân tích, đánh giá những khó khăn vướng mắc khi
áp dụng luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, chưa có hệ thống. Bên cạnh
đó, một vài nghiên cứu trong số đó đã trở nên lạc hậu khơng có tính thời sự.
Vì vậy, vấn đề đặt ra trước mắt đối với các nhà khoa học là cần phải tiếp tục
nghiên cứu một cách có cập nhật, hệ thống, toàn diện, sâu sắc hơn nữa đối với
loại tội phạm này.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
- Các vấn đề lý luận về tội tham ô tài sản
- Quy định của BLHS hiện hành về tội tham ô tài sản

3


- Thực tiễn áp dụng các quy định của BLHS hiện hành về tội tham ô tài
sản và phương hướng hoàn thiện các quy định này
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu quy định của luật hình sự Việt Nam về tội tham ơ
tài sản từ góc độ lý luận và thực tiễn áp dụng trong giai đoạn 2004- 2014.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Luận văn có mục đích là đưa ra một số kiến nghị hồn thiện quy định
của Bộ luật hình sự hiện hành về tội tham ô tài sản và nâng cao hiệu quả áp
dụng quy định này.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ các vấn đề chung về tội tham ô tài sản bao gồm khái niệm
tội tham ô tài sản và lịch sử quy định về tội tham ô tài sản trong luật hình
sự Việt Nam;

- Phân tích, đánh giá quy định của Bộ luật hình sự hiện hành về tội
tham ơ tài sản
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của Bộ luật hình
sự hiện hành về tội tham ô tài sản.
- Đề xuất phương hướng hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các
quy định về tội tham ô tài sản trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Phương pháp luận: Phương pháp duy vật biện chứng và lịch sử.
* Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Phương pháp phân tích, lịch sử, so
sánh, và phương pháp tổng hợp.

4


6. Kết quả và những đóng góp của luận văn
Luận văn đưa ra được phương hướng hoàn thiện quy định của Bộ luật
hình sự hiện hành về tội tham ơ tài sản trên cơ sở làm rõ những vấn đề
chung về tội tham ô tài sản như khái niệm tội tham ô tài sản và khái quát lịch
sử quy định về tội tham ơ tài sản trong luật hình sự Việt Nam; phân tích,
đánh giá quy định của bộ luật hình sự hiện hành về tội tham ơ tài sản và
đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của bộ luật hình sự hiện hành về tội
tham ơ tài sản giai đoạn 2004-2014.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có ý nghĩa quan trọng về phương diện
lý luận và thực tiễn là một tài liệu tham khảo cần thiết và bổ ích dành cho
khơng chỉ các nhà lập pháp, mà còn cho các nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng
dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao học và sinh viên thuộc
chuyên ngành Tư pháp hình sự tại các cơ sở đào tạo luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1: Những vấn đề chung về tội tham ô tài sản;
Chương 2: Quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam hiện hành về tội
tham ô tài sản;
Chương 3: Thực tiễn áp dụng quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam
hiện hành về tội tham ô tài sản và phương hướng hoàn thiện.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TỘI THAM Ô TÀI SẢN

1.1. Khái niệm tội tham ô tài sản
1.1.1. Định nghĩa tội tham ô tài sản
Về tội tham ô tài sản đã có nhiều định nghĩa khác nhau được đưa ra, như:
Tội tham ơ tài sản là tội do người có chức vụ quyền hạn
thực hiện, là tội phạm thuộc nhóm tội tham nhũng nên khách thể
của tội phạm phải là những hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ
chức còn quan hệ sở hữu chỉ là đối tượng tác động của tội phạm
(thông qua quan hệ sở hữu mà xâm phạm đến hoạt động của cơ
quan, tổ chức) [52, tr.41]; hoặc: Tội tham ô tài sản là hành vi lợi
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách
nhiệm quản lý [31, tr.17]; hoặc: Tội tham ơ tài sản là hành vi lợi
dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm
quản lý trong những trường hợp luật định [56, tr.3].
Theo tôi những định nghĩa nêu trên là chưa đầy đủ bởi chưa phản ánh
đầy đủ các đặc điểm của tội tham ô tài sản. Tội tham ô tài sản cũng mang đặc
điểm chung của tội phạm nên khi định nghĩa về tội tham ô tài sản cần dựa trên
định nghĩa chung về tội phạm được quy định tại BLHS 1999:
Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định

trong Bộ luật hình sự, do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý hoặc vơ ý, xâm phạm độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm chế độ chính trị,
chế độ kinh tế, nền văn hố, quốc phịng, an ninh, trật tự, an toàn xã

6


hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp
pháp khác của cơng dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự
pháp luật xã hội chủ nghĩa [37, Điều 8].
Từ quy định này có thể định nghĩa một cách khái quát hơn: tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội, có lỗi, trái pháp luật hình sự do người có năng
lực trách nhiệm hình sự thực hiện. Đây là cơ sở cho việc xác định khái niệm
các loại tội phạm cụ thể trong phần các tội phạm của bộ luật hình sự và là cơ
sở cho việc nhận thức, áp dụng đúng đắn những điều luật quy định về từng tội
phạm cụ thể trong đó có Tội tham ơ tài sản được quy định tại chương XXI
“Các tội phạm về chức vụ”.
BLHS 1999 quy định: “Các tội phạm về chức vụ là những hành vi xâm
phạm hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ thực
hiện trong khi thực hiện cơng vụ” [37, Điều 277].
Cịn theo quy định của Điều 278 BLHS 1999 thì:
Tội tham ơ tài sản là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn
chiếm đoạt tài sản mà mình có trách nhiệm quản lý có giá trị từ hai
triệu đồng trở lên hoặc dưới hai triệu đồng nhưng gây hậu quả nghiêm
trọng hoặc đã bị xử lí kỷ luật về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã
bị kết án về một trong các tội quy định từ điều 278 đến điều 284
BLHS, chưa được xóa án tích mà cịn vi phạm [37, Điều 278].
Qua những phân tích trên có thể định nghĩa Tội tham ô tài sản là

hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong BLHS, xâm phạm hoạt
động đúng đắn và sở hữu của cơ quan, tổ chức do người có chức vụ, quyền
hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản mà mình có trách
nhiệm quản lý.

7


1.1.2. Đặc điểm của tội tham ô tài sản
Theo quy định của Luật hình sự Việt Nam thì đặc điểm của tội tham ô
tài sản bao gồm các đặc điểm sau:
Thứ nhất, tội tham ô tài sản là hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm phạm
hoạt động đúng đắn và sở hữu của cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội
Hành vi nguy hiểm cho xã hội được hiểu theo nghĩa chung nhất là hành
vi gây ra thiệt hại hoặc đe dọa gây ra thiệt hại cho quan hệ xã hội được luật
hình sự bảo vệ.
Trước hết, tội tham ô tài sản xâm phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ
quan nhà nước, tổ chức xã hội. Hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức là
những hoạt động theo chức năng, nhiệm vụ do pháp luật hoặc điều lệ quy
định, những hoạt động này nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ đã đề ra.
Có thể nói, những hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức bị xâm phạm bởi
tội tham ơ tài sản, chính là những hoạt động theo quy định của pháp luật hoặc
của điều lệ buộc phải làm mà không làm, cấm không được làm thì lại làm.
Những quy định cụ thể này bị xâm hại bởi từng hành vi phạm tội cụ thể trong
từng trường hợp. Khi tội tham ô tài sản xâm phạm đến các hoạt động đúng
đắn của cơ quan, tổ chức thì chức năng, nhiệm vụ và mục đích đã đề ra của
các cơ quan, tổ chức này sẽ không đạt được. Điều đó làm ảnh hưởng xấu đến
việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng
về an ninh, trật tự, an toàn xã hội... Chính vì vậy, tham ơ được coi là một căn
bệnh nguy hiểm, nó gây ra tác hại nhiều mặt, cản trở sự phát triển của xã hội.

Đảng và Nhà nước coi tham nhũng là một trong bốn nguy cơ, cần đấu tranh
để loại trừ ra khỏi đời sống xã hội. Tham ô là một trong những hành vi tham
nhũng và cùng với hành vi nhận hối lộ, là hành vi chủ yếu của tham nhũng,
đặc trưng, điển hình của tệ tham nhũng.

8


Đồng thời, tội tham ơ tài sản cịn xâm phạm đến sở hữu của cơ quan
nhà nước hoặc tổ chức xã hội, tức là xâm phạm đến các quyền chiếm hữu, sử
dụng, định đoạt tài sản của cơ quan, tổ chức. Người phạm tội tham ô tài sản
xâm phạm đến quan hệ sở hữu thông qua hành vi chiếm đoạt tài sản do mình
quản lý. Thơng qua hành vi chuyển dịch bất hợp pháp tài sản từ chủ sở hữu là
cơ quan, tổ chức thành tài sản của mình hoặc của người khác mà mình quan
tâm đã làm cho chủ sở hữu mất đi khả năng thực hiện các quyền chiếm hữu,
sử dụng và định đoạt về tài sản của chủ sở hữu.
Thứ hai, tội tham ô được thực hiện do người có chức vụ, quyền hạn
trong quản lý tài sản
Chủ thể của tội phạm là con người cụ thể đã thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong tình trạng có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ
tuổi luật định. Cũng như các tội phạm khác, chủ thể của tội tham ô tài sản
cũng phải đảm bảo các dấu hiệu chung như: có năng lực trách nhiệm hình sự
và đạt độ tuổi luật định. Ngồi ra, người thực hiện hành vi tham ơ tài sản cịn
phải là người có chức vụ, quyền hạn trong quản lý tài sản. Những người
khơng có chức vụ, quyền hạn này chỉ có thể là đồng phạm tham ơ với vai trò
là người xúi giục, tổ chức hay giúp sức.
Như vậy, đặc điểm đặc trưng về chủ thể của tội tham ô tài sản là đặc
điểm có chức vụ, quyền hạn trong quản lý tài sản.
Theo quy định tại Điều 277 BLHS1999 thì Người có chức vụ là người
do bổ nhiệm, do bầu cử, do hợp đồng hoặc do một hình thức khác, có hưởng

lương hoặc khơng hưởng lương, được giao thực hiện một cơng vụ nhất định
và có quyền hạn nhất định trong khi thực hiện công vụ. Như vậy, người có
chức vụ, quyền hạn có những đặc điểm sau đây:
- Là người được giữa chức vụ thường xuyên hoặc tạm thời trong cơ

9


quan nhà nước, tổ chức xã hội. Chức vụ này có thể do bổ nhiệm hoặc do bầu
cử, hợp đồng hay các hình thức khác như ủy quyền, thừa ủy quyền, thừa lệnh,
đại diện… có hưởng lương hoặc khơng hưởng lương.
- Là người thực hiện một trong các chức năng: đại diện quyền lực Nhà
nước, tổ chức điều hành quản lý hành chính hoặc chức năng tổ chức sản xuất
kinh doanh theo công việc đã được giao cho họ.
- Là những người thực hiện trách nhiệm nhất định theo thẩm quyền
chun mơn mà họ đảm nhiệm.
Bên cạnh đó, người có chức vụ, quyền hạn phải là người có trách
nhiệm quản lý tài sản, nếu họ khơng có trách nhiệm quản lý tài sản thì khơng
thể là chủ thể của tội tham ô tài sản được. Đây là điều kiện cần và đủ để một
người có thể trở thành chủ thể của tội tham ô tài sản và cũng là dấu hiệu để
phân biệt với một số tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt.
Người có trách nhiệm đối với tài sản là người được giao nhiệm vụ trực
tiếp quản lý tài sản như: Thủ quỹ, thủ kho, kế toán, người được giao vận
chuyển tài sản của cơ quan, tổ chức hoặc đơn vị mình... Ngồi ra, cịn những
người tuy khơng được giao trực tiếp quản lý tài sản nhưng lại có trách nhiệm
trong việc quyết định việc thu chi, xuất nhập, mua bán, trao đổi tài sản như:
Giám đốc công ty, Chủ nhiệm hợp tác xã, người đứng đầu trong các cơ quan,
tổ chức là chủ tài khoản hoặc là người có quyền quyết định về tài sản của cơ
quan, tổ chức mình.
Thứ ba, tội tham ơ là hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt

tài sản
Một trong những đặc điểm nổi bật của tội tham ô tài sản là hành vi lợi
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền
hạn chiếm đoạt tài sản là trường hợp người phạm tội có chức vụ, quyền hạn

10


đã làm trái với nhiệm vụ được giao. Hành vi làm trái với nhiệm vụ được giao
có thể là làm không đúng, không đầy đủ, không kịp thời, trái với quy định của
Nhà nước hoặc Điều lệ, Quy chế của cơ quan, tổ chức. Hành vi lợi dụng chức
vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản là cách thức thực hiện hành vi nguy hiểm
cho xã hội do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện một cách cố ý, xâm
phạm đến hoạt động đúng đắn của cơ quan, tổ chức và quan hệ sở hữu.
Người có chức vụ, quyền hạn đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được
giao trong phạm vi thẩm quyền của mình để chiếm đoạt tài sản trong khi thi
hành cơng vụ. Nếu khơng có chức vụ, quyền hạn thì họ khó có thể thực hiện
việc chiếm đoạt tài sản. Hay nói cách khác, chức vụ, quyền hạn là điều kiện
thuận lợi để người phạm tội dựa vào đó thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
Hành vi lợi dụng chức vụ, quyền hạn khi chiếm đoạt tài sản có thể thực hiện
bằng nhiều thủ đoạn gian dối khác nhau. Những thủ đoạn gian dối thường gặp
ở tội tham ô tài sản là: lập chứng từ giả, sửa chữa, tẩy xóa sổ sách, giấy tờ, tài
liệu... những thủ đoạn gian dối đó đều sử dụng chức vụ, quyền hạn được giao
như là điều kiện, phương tiện để dễ dàng biến tài sản được giao quản lý thành
tài sản của mình.
Người phạm tội lợi dụng chức vụ, quyền hạn để chiếm đoạt tài sản mà
mình có trách nhiệm quản lý thì mới bị coi là phạm tội tham ô tài sản. Nếu
hành vi chiếm đoạt tài sản do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện khơng
liên quan gì đến chức vụ, quyền hạn của họ thì dù họ có chức vụ, quyền hạn
cũng khơng bị coi là người phạm tội tham ô tài sản.

Thứ tư, tội tham ô tài sản là loại tội cố ý
Trong luật hình sự Việt Nam, nguyên tắc có lỗi được coi là nguyên tắc
cơ bản. Người phải chịu trách nhiệm hình sự khơng chỉ đơn thuần là vì người
này đã có hành vi khách quan gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại cho quan

11


hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ mà cịn vì đã có lỗi trong việc thực hiện
hành vi khách quan đó. Lỗi chính là thái độ tâm lý của con người đối với hành
vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó gây ra,
được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý.
Tội tham ô tài sản là tội phạm có tính chất chiếm đoạt nên cũng như đối
với các tội có tính chất chiếm đoạt khác, người phạm tội thực hiện hành vi của
mình với lỗi cố ý (trực tiếp), tức là, người phạm tội nhận thức rõ hành vi của
mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong
muốn hậu quả xảy ra. Người phạm tội tham ô tài sản thấy trước rằng hành vi
lợi dụng chức vụ, quyền hạn và hành vi chiếm đoạt tài sản của cơ quan, tổ
chức sẽ gây ra thiệt hại cho các quan hệ xã hội và thấy trước hậu quả của các
hành vi này nhưng vẫn mong muốn hậu quả của các hành vi này xảy ra. Tội
tham ơ tài sản chỉ có thể được thực hiện với lỗi cố ý (trực tiếp).
Thứ năm, về tính trái pháp luật hình sự của tội tham ô tài sản.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ được coi là tội phạm nếu nó được
quy định trong luật hình sự. Điều này khơng chỉ được quy định tại Điều 8 Bộ
luật hình sự 1999 mà tại Điều 2 Bộ luật hình sự 1999 đã quy định “Chỉ người
nào phạm một tội đã được BLHS quy định mới phải chịu TNHS…”. Đây là
đặc điểm của bất kỳ tội phạm nào trong đó có tội Tham ơ tài sản.
Tính trái pháp luật hình sự là dấu hiệu về mặt hình thức pháp lý cịn
phản ánh tính nguy hiểm cho xã hội là dấu hiệu về mặt nội dụng chính trị, xã
hội của tội phạm. Hai dấu hiệu này có mối quan hệ biện chứng của mối quan

hệ nội dung và hình thức. Tính trái pháp luật hình sự tuy có tính độc lập tương
đối những vẫn là dấu hiệu được xác định bởi dấu hiệu tính nguy hiểm cho xã
hội. Chỉ trên cơ sở thừa nhận tính nguy hiểm cho xã hội, kết hợp tính nguy
hiểm cho xã hội và tính trái pháp luật hình sự mới có thể nhận thức được tính

12


trái pháp luật hình sự một cách đầy đủ. Một hành vi tham ơ tài sản chỉ có thể
được xử lý hình sự khi hành vi đó trái pháp luật hình sự. Quy định này của
luật hình sự là cơ sở và đảm bảo quyền tự do dân chủ của công dân khỏi bị
xâm phạm bởi hành vi xử lý tùy tiện mà còn thúc đẩy cơ quan lập pháp kịp
thời sửa đổi, bổ sung luật phù hợp với sự thay đổi tình hình kinh tế, chính trị,
văn hố - xã hội.
1.2. Lịch sử quy định về tội tham ô tài sản trong luật hình sự Việt Nam
1.2.1. Thời kỳ trước khi có Bộ luật hình sự năm 1985
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời.
Nhằm xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ
cán bộ, công chức với những phẩm chất như: cần, kiệm, liêm, chính, chí công,
vô tư, đồng thời xử lý nghiêm những cán bộ, cơng chức cố tình lợi dụng địa
vị, chức vụ trong bộ máy chính quyền để mưu lợi cá nhân, tham ô, lãng phí…,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 64/SL ngày 23/11/1945 thành lập
Ban Thanh Tra đặc biệt, trong đó có nội dung trao cho Ban Thanh Tra quyền:
Điều tra, hỏi chứng, xem xét các giấy tờ, tài liệu của Ủy ban
nhân dân hoặc của các cơ quan của Chính phủ cần thiết cho cơng
tác giám sát; đình chức, bắt giam bất cứ nhân viên nào trong Ủy ban
nhân dân hay Chính phủ đã phạm lỗi trước khi mang ra Hội đồng
Chính phủ hay Tịa án đặc biệt xét xử [13, tr.25].
Văn bản pháp lý này tuy không quy định từng tội danh tham nhũng
nhưng quy định “nhân viên nào trong Ủy ban nhân dân hay Chính phủ phạm

lỗi” đã bao gồm cả hành vi phạm tội tham ô tài sản của cán bộ, công chức.
Như vậy, Sắc lệnh số 64 là văn bản pháp lý đầu tiên tạo cơ sở cho việc đấu
tranh chống tham nhũng ở nước ta nói chung và tội tham ơ tài sản nói riêng.
Đây là cơ sở đặt nền móng cho việc xây dựng và hoàn thiện quy định về tội tham ô tài

13


sản, đồng thời nó cịn có ý nghĩa quan trọng trong việc răn đe, xử lý nghiêm minh
những hành vi tham nhũng trong đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước lúc bấy giờ.
Tuy nhiên, “khái niệm “phạm lỗi” trong Sắc lệnh số 64 cịn q chung
chung, chưa có sự phân biệt giữa hành vi vi phạm “nhỏ” với hành vi phạm tội,
giữa hành vi vi phạm kỷ luật với các hành vi phạm tội tham nhũng” [13, tr. 37].
Điều đó địi hỏi Nhà nước phải ban hành bổ sung văn bản pháp luật quy định
rõ về các hành vi được coi là tội phạm. Trước tình hình thực tiễn như vậy,
ngày 27/11/1946, Nhà nước ban hành Sắc lệnh số 223 quy định xử lý các
hành vi phạm tội hối lộ, phù lạm, biển thủ công quỹ. Những hành vi “phù
lạm, biển thủ công quỹ” trong Sắc lệnh số 223 chính là những hành vi có
những dấu hiệu của tham ô tài sản và lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
trong Bộ luật hình sự Việt Nam hiện nay. Điều 1 Sắc lệnh 223 quy định:
“…công chức phù lạm hoặc biển thủ công quỹ, hay của công dân đều bị phạt
khổ sai từ 5 năm đến 20 năm và phạt bạc gấp đôi tang vật… phù lạm hay biển
thủ… Người phạm tội cịn có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư
gia sản. Các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên” [14, tr.1]. Mặc
dù được ban hành trong những năm đầu thành lập Nhà nước nhưng Sắc lệnh
này đã thể hiện thái độ lên án đối với những hành vi lợi dụng chức vụ xâm
phạm đến sở hữu, hoạt động đúng đắn của cơ quan nhà nước. Trong quy định
trên tuy chưa có sự mơ tả dấu hiệu pháp lý đặc trưng của hành vi “phù lạm
hoặc biển thủ công quỹ” nhưng hành vi này có dấu hiệu tương ứng với tội
tham ô tài sản trong BLHS hiện hành và lần đầu tiên, loại tội phạm này đã

được quy định thành một tội riêng. Đây là một bước phát triển mới trong lịch
sử lập pháp hình sự.
Để tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh chống và phịng ngừa tội tham
ơ tài sản ngày càng gia tăng và diễn biến phức tạp trong thời gian tiếp theo đòi
hỏi Nhà nước từng bước hồn thiện quy định tội tham ơ tài sản, ngày

14


21/10/1970 Nhà nước ta đã ban hành Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài
sản xã hội chủ nghĩa (XHCN). Trong Pháp lệnh này, tại Điều 8 tội tham ô tài sản
xã hội chủ nghĩa đã được quy định như sau:
1. Kẻ nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
XHCN thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây:
a) Tái phạm nguy hiểm;
b) Có tổ chức;
c) Có móc ngoặc;
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;
đ) Tham ô tài sản với số lượng lớn hoặc tài sản có giá trị đặc biệt;
e) Dùng tài sản tham ơ vào việc kinh doanh, bóc lột, đầu cơ,
đút lót hoặc vào những việc phạm tội khác; thì bị phạt tù từ 5 năm
đến 15 năm.
3. Phạm tội trong trường hợp số tài sản bị xâm phạm có giá
trị rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng, hoặc gây hậu quả
đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung
thân hoặc bị xử tử hình [33, tr.8].
Quy định trên của Pháp lệnh cho thấy: so với Sắc lệnh 223, kỹ thuật
lập pháp hình sự của Nhà nước ta đã có sự phát triển đáng kể. Quy định về
tội phạm này đã tiến bộ hơn quy định tương ứng trong Sắc lệnh 223 thể hiện

ở chỗ dấu hiệu pháp lý của tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa đã được nhà
làm luật mô tả cụ thể. Điều 8 của pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài
sản xã hội chủ nghĩa đã mô tả được đầy đủ các dấu hiệu pháp lý cơ bản của
tội tham ô tài sản, như chủ thể của tội phạm này đã được quy định cụ thể
phải là người “có chức vụ, quyền hạn” có quan hệ nhất định đến tài sản

15


XHCN, trong khi đó chủ thể của tội phạm tương ứng được quy định chung
chung trong Sắc lệnh 223 là “công chức”; Đối tượng tác động của tội tham ô
tài sản được quy định là tài sản xã hội chủ nghĩa chứ không chỉ là tài sản
dưới dạng “công qũy hay của công dân” như trong quy định của Sắc lệnh
223; Dấu hiệu hành vi khách quan của tội này được quy định là hành vi lợi
dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản. Về hình phạt pháp lệnh trừng
trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa khơng cịn quy định cứng nhắc
như quy định của Điều 1 Sắc lệnh 223, khơng có sự phân chia thành các
khoản cịn Điều 8 Pháp lệnh đã có sự phân hóa thành 03 khoản tương ứng
với 03 khung hình phạt khác nhau, bao gồm 01 khung cơ bản và 02 khung
tăng nặng tùy thuộc vào tính chất của hành vi và thiệt hại mà tội phạm gây
ra. Ngoài ra, đối với người phạm tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa có thể
bị áp dụng hình phạt phụ theo quy định tại Pháp lệnh.
Điều 20. Hình phạt phụ
Kẻ nào phạm những tội quy định ở chương II, ngoài những
hình phạt chính đã ghi ở mỗi điều, cịn có thể bị phạt thêm như sau:
1. Phạm một trong những tội quy định ở các điều 4, 5, 6, 7,
8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 17, 19 thì có thể bị cấm đảm nhiệm
những chức vụ có liên quan trực tiếp đến tài sản xã hội chủ
nghĩa từ 2 năm đến 5 năm.
2. Phạm một trong những tội quy định ở các điều 4, 5, 6, 7, 9,

10, 17 trong trường hợp có tính chất chun nghiệp, thì có thể bị
phạt quản chế, cư trú bắt buộc hoặc cấm cư trú ở một số địa phương
từ 1 năm đến 5 năm.
3. Phạm một trong những tội quy định ở các điều 4, 5, 6, 7, 8,
9, 10, 11, 12, 13, 15, 16, 17 thì tuỳ theo tính chất nghiêm trọng của

16


tội phạm hoặc nguồn thu lợi bất chính mà có thể bị phạt tiền từ 50
đồng đến 5.000 đồng hoặc bị tịch thu một phần hay là toàn bộ tài
sản [33, Điều 20].
Sự phát triển về lập pháp hình sự nêu trên đã tạo ra nhiều thuận lợi cho
việc nhận thức và áp dụng các quy định pháp luật trong thực tiễn điều tra, truy
tố và xét xử, đồng thời nó góp phần tích cực trong đấu tranh phịng chống tội
tham ô tài sản.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, miền Nam được hồn tồn giải
phóng, đất nước thống nhất và có nhiều sự đổi mới về bộ máy chính quyền,
kinh tế, chính trị, văn bản pháp luật mới nên ngày 15/03/1976, Hội đồng
Chánh phủ Cách mạng lâm thời ban hành sắc luật số 03-SL/76 quy định các
tội phạm và hình phạt. Trong đó, tội tham ơ tài sản được quy định tại điểm b
Điều 4 của Sắc luật:
Điều 4. Tội xâm phạm đến tài sản công cộng
…b) Phạm các tội chiếm đoạt khác như trộm cắp, tham ô, lừa
đảo, bội tín, cướp giật, cưỡng đoạt, chiếm giữ trái phép thì bị phạt
tù từ sáu tháng đến bảy năm. Trường hợp nghiêm trọng thì bị phạt
tù đến mười lăm năm. Phạm tội trộm cắp, tham ô, lừa đảo mà số tài
sản chiếm đoạt rất lớn hoặc có nhiều tình tiết nghiêm trọng hoặc
gây hậu quả đặt biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù đến hai mươi năm,
tù chung thân hoặc bị xử tử hình.

So với pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa thì
Sắc luật số 03 không mô tả dấu hiệu pháp lý của tội tham ô, không quy định
cụ thể về các tình tiết tăng nặng và khơng quy định hình phạt bổ sung nên
ngày 8 tháng 3 năm 1978, Toà án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao, Bộ Nội vụ đã ban hành Thông tư liên bộ số 61 hướng dẫn thi hành

17


pháp luật thống nhất, nhằm tiến tới vận dụng thống nhất Pháp lệnh ngày
21/10/1970 trong cả nước.
1.2.2. Thời kỳ từ khi Bộ luật hình sự năm 1985 ra đời đến nay
Cùng với sự phát triển của đất nước và của khoa học pháp lý nói chung,
khoa học luật hình sự nói riêng nhằm đáp ứng yêu cầu Nhà nước quản lý xã
hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế XHCN, Nhà nước ta
đã ban hành Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 1985. Trong Bộ luật này, tội tham
ô tài sản được quy định tại Điều 133, Chương IV: Phần các tội xâm phạm sở
hữu XHCN với tên gọi: Tội tham ô tài sản XHCN. Như vậy tội tham ô tài sản
XHCN được quy định là một tội danh trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu
XHCN. Theo đó, tính nguy hiểm cho xã hội của tội tham ơ tài sản XHCN vẫn
được tiếp tục đánh giá chủ yếu ở sự gây thiệt hại cho quan hệ sở hữu XHCN.
Quy định này là sự kế thừa các văn bản pháp luật hình sự trước đó và được
hồn thiện hơn để phục vụ đấu tranh có hiệu quả chống tội tham ơ tài sản
trong giai đoạn đổi mới tồn diện đất nước. Những điểm mới nổi bật đáng lưu
ý là Điều 133 BLHS năm 1985 quy định cụ thể dấu hiệu chủ thể đặc biệt của
tội tham ô tài sản là người có chức vụ, quyền hạn trong quản lý trực tiếp tài
sản và phạm vi đối tượng tác động của tội tham ô là tài sản XHCN mà người
phạm tội có trách nhiệm trực tiếp quản lý. Khoản 1 Điều 133 BLHS 1985 quy
định: “Người nào lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản xã hội chủ
nghĩa mà mình có trách nhiệm trực tiếp quản lý, thì bị phạt tù từ một năm

đến bảy năm” [34, tr.133]. Nếu theo quy định tại pháp lệnh trừng trị các tội
xâm phạm tài sản XHCN, người có chức vụ, quyền hạn chỉ cần có hành vi
chiếm đoạt tài sản XHCN khơng phân biệt tài sản XHCN đó do ai trực tiếp
quản lý hay có trách nhiệm quản lý, thì trong BLHS 1985, phạm vi chiếm
đoạt đã thu hẹp vì những hành vi nào chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa do
người có chức vụ, quyền hạn trực tiếp quản lý thì mới phạm tội tham ơ tài

18


×