Tải bản đầy đủ (.pdf) (100 trang)

Một số vấn đề lý luận về lỗi của cá nhân trong luật hình sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1 MB, 100 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ KIỀU OANH

MéT Số VấN Đề Lý LUậN Về LỗI CủA Cá NHÂN
TRONG LT H×NH Sù VIƯT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

TRẦN THỊ KIỀU OANH

MéT Số VấN Đề Lý LUậN Về LỗI CủA Cá NHÂN
TRONG LT H×NH Sù VIƯT NAM
Chun ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS. TSKH LÊ VĂN CẢM

HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN


Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Kiều Oanh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU

1

Chƣơng 1: KHÁI NIỆM, HÌNH THỨC VÀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA
LỖI CỦA CÁ NHÂN VỚI NĂNG LỰC TRÁCH NHIỆM
HÌNH SỰ VÀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ

9


1.1.

9

Khái niệm và ý nghĩa lỗi của cá nhân trong Luật Hình sự

1.1.1. Khái niệm lỗi hình sự và người có lỗi trong việc thực hiện
tội phạm

9

1.1.2. Ý nghĩa lỗi của cá nhân trong Luật Hình sự

15

1.2.

Các hình thức lỗi và các dạng lỗi của cá nhân trong Luật
Hình sự

17

1.2.1. Hình thức lỗi cố ý của cá nhân

17

1.2.2. Hình thức lỗi vơ ý của cá nhân

31


1.2.3. Trường hợp lỗi phức tạp (Hay còn gọi là hỗn hợp lỗi) của cá nhân

40

1.3.

Mối liên hệ giữa năng lực trách nhiệm hình sự, tuổi chịu
trách nhiệm hình sự với lỗi của cá nhân

42

1.3.1. Mối liên hệ giữa năng lực trách nhiệm hình sự với lỗi của cá nhân

42

1.3.2. Mối liên hệ giữa tuổi chịu trách nhiệm hình sự với năng lực
trách nhiệm hình sự và lỗi của cá nhân

43

Chƣơng 2: LỖI CỦA CÁ NHÂN TRONG LỊCH SỬ LẬP PHÁP HÌNH
SỰ VIỆT NAM VÀ Ở MỘT SỐ NƢỚC TRÊN THẾ GIỚI

46

2.1.

46

Lỗi của cá nhân trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam



2.1.1. Lỗi của cá nhân trong pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ Nhà
nước phong kiến (Trước Cách mạng tháng Tám năm 1945)

46

2.1.2. Lỗi của cá nhân trong pháp luật hình sự Việt Nam thời kỳ sau
Cách mạng tháng Tám năm 1945 đến trước khi ban hành Bộ
luật Hình sự năm 1985

49

2.1.3. Lỗi của cá nhân trong pháp luật hình sự Việt Nam kể từ khi
ban hành Bộ luật Hình sự năm 1985 đến trước khi ban hành Bộ
luật Hình sự năm 1999

51

2.1.4. Lỗi của cá nhân trong pháp luật hình sự Việt Nam kể từ khi
ban hành Bộ luật Hình sự năm 1999 đến trước khi ban hành Bộ
luật Hình sự năm 2015

53

2.1.5. Lỗi của cá nhân trong Bộ luật Hình sự năm 2015

56

2.2.


71

Lỗi của cá nhân trong pháp luật hình sự một số nƣớc

2.2.1. Lỗi của cá nhân theo quy định của pháp luật hình sự Liên bang Nga

71

2.2.2. Lỗi của cá nhân theo quy định của pháp luật hình sự nước
Cộng hịa nhân dân Trung Hoa

73

2.2.3. Lỗi của cá nhân theo quy định của pháp luật hình sự Vương
quốc Thụy Điển

74

Chƣơng 3: ĐỊNH HƢỚNG TIẾP TỤC HỒN THIỆN LỖI CỦA
CÁ NHÂN TRONG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
TƢƠNG LAI

76

3.1.

Sự cần thiết và những yêu cầu của việc tiếp tục hoàn thiện
những quy định của Bộ luật Hình sự về lỗi của cá nhân


76

3.1.1. Sự cần thiết của việc tiếp tục hoàn thiện những quy định của
Bộ luật Hình sự về lỗi của cá nhân

76

3.1.2. Những yêu cầu của việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của
Bộ Luật Hình sự về lỗi của cá nhân

79

3.2.

Định hƣớng tiếp tục hồn thiện các quy định của Bộ luật
Hình sự về lỗi của cá nhân

81

KẾT LUẬN

89

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

91


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLHS:


Bộ Luật hình sự

CTTP:

Cấu thành tội phạm

LHS:

Luật Hình sự

PLHS:

Pháp luật hình sự

TNHS:

Trách nhiệm hình sự


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu
Từ khi ra đời đến nay, PLHS luôn được xem là một trong những công
cụ sắc bén, hữu hiệu trong công tác đấu tranh phịng, chống tội phạm, góp
phần đắc lực vào việc bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ Việt Nam, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức.
Để thực sự là cán cân pháp lý, phân định rõ ràng giữa tội phạm và phi tội
phạm, từ đó đưa ra những chính sách PLHS chính xác, đáp ứng yêu cầu của thực
tiễn thì BLHS đã và đang được xây dựng, hoàn thiện dựa trên những nguyên tắc

tiến bộ nhất được không chỉ pháp luật của Việt Nam mà cịn cả pháp luật thế giới
cơng nhận. Một trong những nguyên tắc cơ bản, tiến bộ đó là nguyên tắc TNHS
trên cơ sở có lỗi. Mà theo GS.TSKH Lê Văn Cảm thì “Lỗi trong LHS là một chế
định trung tâm và có thể nói là vơ cùng phức tạp” [11, tr. 532].
Lỗi là thái độ tâm lý của cá nhân đối với hành vi và hậu quả của hành
vi đó, cho nên lỗi là yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm, phản ánh tính
chất, mức độ nguy hiểm của hành vi và sự nguy hiểm của người phạm tội. Vì
thế, lỗi cho phép xác định: tội phạm khơng chỉ là kết quả của hành vi nguy
hiểm cho xã hội (biểu hiện ra bên ngồi) mà cịn là sự nhận thức, là hệ quả
của thái độ tâm lý của cá nhân (biểu hiện ở bên trong).
Theo PLHS Việt Nam, người phải chịu TNHS không chỉ đơn thuần là
người đã có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội mà cịn vì họ đã có
lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó. Bởi thế, PLHS Việt Nam
khơng chấp nhận việc “Truy tội khách quan” (có nghĩa là chỉ dựa trên cơ sở
hành vi khách quan để truy cứu TNHS mà không xét đến lỗi của họ).
Với bản chất là dấu hiệu của tội phạm, lỗi của cá nhân trong việc thực

1


hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị LHS cấm phải được các cơ quan bảo vệ
pháp luật và Tồ án khẳng định có lỗi hay khơng có lỗi (chứ khơng có trường
hợp “nghi ngờ lỗi”), đồng thời, ở một mức độ nào đó cho phép các cơ quan
này phân biệt hành vi nào có tính chất tội phạm và hành vi nào khơng có tính
chất tội phạm, tương ứng như vậy sẽ quyết định người đó có phải chịu TNHS
hay khơng. Ngồi ra, lỗi cịn là cơ sở pháp lý cho việc định tội danh, quyết
định hình phạt một cách chính xác, cơng bằng và hợp lý.
Kế thừa và phát triển dấu hiệu lỗi của cá nhân được quy định trong các
BLHS trước đây, BLHS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo
Luật số 12/2017/QH14 (Sau đây gọi tắt là BLHS năm 2015) tiếp tục ghi nhận

dấu hiệu lỗi của cá nhân trong khái niệm tội phạm (Khoản 1 Điều 8), đồng
thời cũng đã xác định và phân biệt hai hình thức lỗi của cá nhân là cố ý phạm
tội và vô ý phạm tội (Điều 10 và Điều 11). Điều đó cho phép khẳng định: mỗi
tội phạm chỉ được thực hiện bằng hình thức lỗi cố ý hoặc lỗi vô ý. Tuy nhiên,
đã từ lâu và thậm chí cho đến tận bây giờ xung quanh các vấn đề về chế định
này vẫn còn nhiều cuộc tranh luận của các nhà luật học, và hiện nay vẫn còn
rất nhiều ý kiến khác nhau trong khoa học LHS cũng như trong thực tiễn lập
pháp và áp dụng PLHS. Chính vì vậy, dưới góc độ nhận thức - khoa học, việc
nghiên cứu chế định lỗi để đưa ra mơ hình lý luận của nó trong PLHS Việt
Nam hiện hành khơng chỉ có ý nghĩa lý luận - thực tiễn, mà cịn có ý nghĩa xã
hội - pháp lý quan trọng [11, tr. 532].
Xuất phát từ những lý do nêu trên, việc nghiên cứu một cách sâu sắc và
toàn diện chế định lỗi của cá nhân trong LHS là vơ cùng quan trọng và cần
thiết. Chính vì vậy, tác giả lựa chọn đề tài: “Một số vấn đề lý luận về lỗi của
cá nhân trong LHS Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp. Đồng thời, việc lựa
chọn nghiên cứu đề tài này cũng nhằm phân biệt “lỗi của cá nhân” với “lỗi
của pháp nhân”, bởi vì trong BLHS năm 2015 - PLHS gần đây nhất của Việt

2


Nam, nhà làm luật đã bổ sung một chế định hoàn toàn mới - chế định TNHS
của pháp nhân thương mại.
2. Tình hình nghiên cứu
Trong khoa học LHS Việt Nam, dưới những góc độ khác nhau, đã có
nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về lỗi. Vấn đề này đã được nghiên
cứu về mặt lý luận trong Giáo trình LHS Việt Nam của các cơ sở đào tạo
chuyên ngành luật.
Ngoài ra, cịn nhiều cơng trình nghiên cứu ở những khía cạnh khác
nhau như:

1) Lê Văn Cảm (2005), Sách chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề
cơ bản trong khoa học LHS (Phần chung), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội,
Hà Nội;
2) Nguyễn Ngọc Hòa (2005), Tội phạm và cấu thành tội phạm, NXB
Công an nhân dân, Hà Nội;
3) Nguyễn Ngọc Hòa (2004), Cấu thành tội phạm: Lý luận và thực tiễn,
NXB Tư pháp, Hà Nội;
4) Đào Trí Úc (2000), LHS Việt Nam, Quyển I: “Những vấn đề chung”,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội;
5) Võ Khánh Vinh (1994), Nguyên tắc cơng bằng trong Luật hình sự
Việt Nam, NXB Cơng an nhân dân;
6) Đỗ Xuân Giang (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các
dấu hiệu của lỗi cố ý và vô ý theo LHS Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học,
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội;
7) Nguyễn Thị Lan Anh (2011), Những vấn đề lý luận và thực tiễn về
lỗi vô ý trong LHS Việt Nam, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học
Quốc gia Hà Nội;
8) Nguyễn Thị Nhuần (2001), Lỗi cố ý trong LHS Việt Nam, Luận văn
Thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội; vv…

3


Vấn đề lỗi cũng được nghiên cứu trong các bài báo, tạp chí như:
1) Nguyễn Ngọc Hịa (1996), Đánh giá mức độ lỗi ở các tội cố ý xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, Tạp chí Luật học, (1);
2) Lê Cảm (1998), Hoàn thiện lỗi trong PLHS Việt Nam hiện hành Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tạp chí Tịa án nhân dân, (12);
3) Đào Trí Úc (1999), Nhận thức đúng đắn hơn nữa các nguyên tắc về
trách nhiệm cá nhân và về lỗi trong việc xử lý TNHS, Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, (9);

4) Trần Quang Tiệp (1999), Một số vấn đề lỗi trong LHS Việt Nam,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, (11);
5) Nguyễn Văn Hương (2002), Lỗi cố ý gián tiếp và tội phạm có cấu
thành hình thức, Tạp chí Luật học, (4);
6) Đỗ Đức Hồng Hà (2005), Các tình tiết định khung tăng nặng trong
tội giết người phản ánh mức độ lỗi và các đặc điểm về nhân thân người phạm
tội, Tạp chí Tòa án nhân dân, (18);
7) Đỗ Văn Chỉnh (2009), Các tình tiết tăng nặng TNHS phản ánh cách
thức thực hiện tội phạm và mức độ lỗi của người phạm tội, Tạp chí Tịa án
nhân dân, (1);
8) Hồng Quảng Lực (2012), Bàn về nhận thức yếu tố lỗi trong xét xử
án hình sự, Tạp chí Tịa án nhân dân, (24);
9) Văn Thị Hồng Nhung (2013), Xác định lỗi như thế nào để xét xử cho
đúng, Tạp chí Tịa án nhân dân, (20); vv…
Đến thời điểm này, mặc dù đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về lỗi
của cá nhân dưới các hình thức khác nhau như đã nêu ở trên, nhưng kể từ khi
BLHS năm 2015 được thông qua mà trong đó có ghi nhận vấn đề TNHS của
pháp nhân thì dưới góc độ lý luận vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu một
cách tồn diện, có hệ thống và sâu sắc về lỗi của cá nhân. Vì vậy, cần thiết

4


phải tiếp tục nghiên cứu đồng bộ, toàn diện về vấn đề này, đồng thời trên cơ
sở đó xây dựng hệ thống lý luận về lỗi của cá nhân nhằm tạo ra một BLHS
không chỉ là công cụ pháp lý giúp các cơ quan chức năng đấu tranh, trấn áp
tội phạm mà còn là cơ sở pháp lý để mọi người dân tự bảo vệ mình, bảo vệ lợi
ích của nhà nước, của xã hội.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích

Tác giả nghiên cứu đề tài với những mục đích sau:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về lỗi của cá nhân trong LHS Việt Nam;
- Phân tích một cách tương đối sâu sắc và đánh giá tương đối toàn diện
sự thể hiện lỗi của cá nhân trong BLHS năm 2015; nghiên cứu PLHS ở một
số nước trên thế giới.
- Đề xuất các giải pháp theo hướng tiếp tục hoàn thiện luật thực định về
lỗi của cá nhân trong PLHS Việt Nam tương lai.
3.2. Nhiệm vụ
Để có thể đạt được mục đích trên, trong phạm vi đề tài, tác giả tập
trung vào những nhiệm vụ sau:
- Nghiên cứu những vấn đề chung về lỗi của cá nhân trong LHS; Các
hình thức lỗi và các dạng lỗi của cá nhân trong LHS; Phân biệt lỗi cố ý với lỗi
vô ý của cá nhân, lỗi cố ý trực tiếp với lỗi cố ý gián tiếp của cá nhân, lỗi cố ý
gián tiếp với lỗi vô ý do quá tự tin của cá nhân và lỗi vô ý do cẩu thả của cá
nhân với sự kiện bất ngờ; Mối liên hệ giữa năng lực TNHS, tuổi chịu TNHS
với lỗi của cá nhân.
- Nghiên cứu lỗi của cá nhân trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam,
trong đó nêu rõ sự thể hiện của lỗi của cá nhân trong BLHS năm 2015; nghiên
cứu lỗi của cá nhân theo quy định của PLHS một số nước.
- Trên cơ sở phân tích sự cần thiết, những yêu cầu của việc hoàn thiện

5


những quy định của BLHS về lỗi của cá nhân, luận văn đề xuất các kiến nghị,
giải pháp tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS về vấn đề này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về mặt lý luận lỗi của cá nhân với tính
chất là yếu tố quan trọng nhất thuộc mặt chủ quan của CTTP được quy định

trong BLHS năm 2015.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu một số vấn đề lý luận về lỗi của cá nhân dưới góc
độ của LHS. Tuy nhiên, do đây là một chế định khó và phức tạp, bên cạnh đó
thời gian nghiên cứu khơng được nhiều cũng như năng lực nghiên cứu, kỹ
năng phân tích và giải quyết vấn đề của tác giả còn hạn chế, nên trong Luận
văn này, tác giả chỉ có thể làm sáng tỏ những khía cạnh mà theo quan điểm
của tác giả là quan trọng và chủ yếu hơn cả.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở các quan điểm của chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước về tội
phạm cũng như đường lối xử lý tội phạm và đấu tranh phòng chống tội phạm.
- Cơ sở lý luận của Luận văn cũng dựa trên thành tựu của các chuyên
ngành khoa học pháp lý và triết học, những luận điểm khoa học trong các
cơng trình nghiên cứu, sách chun khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của
một số nhà khoa học LHS Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Trong quá trình nghiên cứu, luận văn này dựa trên việc sử dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
- Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể

6


như: phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp so sánh,
phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, … trong sự nhìn nhận tổng thể
và khách quan, khơng phiến diện một chiều.
6. Những đóng góp về mặt khoa học và ý nghĩa của luận văn
6.1. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn

Đây là cơng trình chuyên khảo đầu tiên ở cấp luận văn Thạc sĩ luật học
nghiên cứu một cách tương đối hệ thống, toàn diện, đầy đủ về lỗi của cá nhân
trong LHS Việt Nam. Những điểm mới của luận văn là:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về lỗi của cá nhân trong LHS Việt
Nam.
- Phân tích một cách sâu sắc và đánh giá toàn diện về sự thể hiện
của lỗi của cá nhân trong BLHS năm 2015; nghiên cứu PLHS ở một số
nước trên thế giới.
- Nêu ra những hạn chế, bất cập về mặt lập pháp, từ đó đề xuất các giải
pháp khả thi để hoàn thiện pháp luật về lỗi của cá nhân nhằm nâng cao hiệu
quả áp dụng trong thực tiễn.
6.2. Ý nghĩa của luận văn
- Về mặt lý luận: Dưới dạng của một Luận văn Thạc sĩ thì đây là cơng
trình nghiên cứu chun khảo đồng bộ đầu tiên đề cập một cách tương đối có
hệ thống và tương đối tồn diện những vấn đề lý luận về lỗi của cá nhân theo
PLHS Việt Nam.
- Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần xác định đúng đắn những điều
kiện cụ thể của từng trường hợp áp dụng lỗi của cá nhân trong thực tiễn điều
tra, truy tố, xét xử của các cơ quan tiến hành tố tụng, giúp việc áp dụng chúng
trong thực tiễn đảm bảo chính xác, đồng bộ và thống nhất.
Ngồi ra, luận văn cịn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết
cho các nhà khoa học, luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao

7


học chuyên ngành Tư pháp Hình sự, cũng như phục vụ cho công tác lập pháp và
hoạt động thực tiễn áp dụng PLHS trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm
và công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn chia làm 3 chương. Cụ thể:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về lỗi của cá nhân trong LHS Việt Nam.
Chương 2: Lỗi của cá nhân trong lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam và
ở một số nước trên thế giới.
Chương 3: Định hướng tiếp tục hoàn thiện lỗi của cá nhân trong PLHS
Việt Nam tương lai.

8


Chƣơng 1
KHÁI NIỆM, HÌNH THỨC VÀ MỐI LIÊN HỆ GIỮA
LỖI CỦA CÁ NHÂN VỚI NĂNG LỰC TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
VÀ TUỔI CHỊU TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ
1.1. Khái niệm và ý nghĩa lỗi của cá nhân trong Luật Hình sự
1.1.1. Khái niệm lỗi hình sự và ngƣời có lỗi trong tội phạm
1.1.1.1. Khái niệm và bản chất xã hội - pháp lý của lỗi hình sự
a. Khái niệm và những cơ sở lý luận của lỗi hình sự
Từ thời cổ đại, LHS đã xuất hiện với tư cách là một trong những ngành
luật cơ bản nhất. Song thời kỳ này, LHS chưa được xác định với tính chất là
ngành khoa học như hiện nay.
Trong khoa học LHS cũng như trong triết học và tâm lý học, lý luận về
lỗi được xây dựng trên những cơ sở lý luận khác nhau nên đã có các quan
điểm khác nhau. Theo đó, triết học đã ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình phát
triển của khoa học LHS nói chung và chế định lỗi của cá nhân nói riêng. Vì
vậy, các trường phái tồn tại trong lịch sử triết học cũng đóng vai trị nhất định
đối với khoa học LHS và lỗi của cá nhân. Cụ thể như sau:
Từ những năm 70 của thế kỷ XVII, về mặt thần học, khoa học LHS
Đức đã nêu khái niệm lỗi. Theo đó, lỗi là người đã thực hiện tội phạm có dự

mưu phải chịu trách nhiệm về tội ác của mình (Pufendorf).
Bước vào thế kỷ XVIII, các nhà khai sáng đã nêu lên quan điểm pháp
lý hình sự có liên quan ở một mức độ nhất định đến cơ sở phương pháp luận
của lỗi là: Vấn đề TNHS và hình phạt khơng thể gắn liền với khái niệm lỗi về
mặt đạo đức và thước đo duy nhất và đích thực của tội phạm là sự thiệt hại;
hình phạt cần được áp dụng chỉ khi nào có sự cần thiết tuyệt đối chứ không
phải là sự chịu trách nhiệm vì lỗi. Tiêu biểu cho quan điểm này là nhà luật
học nổi tiếng người Italia Tr.Beccaria.

9


Nhà triết học người Đức I.Kant dựa trên quan điểm triết học duy tâm chủ quan cho rằng: Tự do ý chí là ở chỗ trong tất cả các hành vi của chủ thể
chính nó là pháp luật; sự buộc tội về hình sự là một dạng của trách nhiệm đạo
đức, mà cơ sở của nó là coi chủ thể là nguyên nhân tự do của một hành vi
được thực hiện.
Hêghen đã từng khẳng định: “Tự do là nhận thức được cái tất yếu, tất
yếu sẽ mù quáng khi con người chưa nhận thức được nó” [29, tr.192]. Khi
dựa trên quan điểm chủ nghĩa duy tâm khách quan, ông cho rằng: sự hiện diện
của lý trí và ý chí chính là điều kiện chung của sự buộc tội; lỗi là ở trong sự
khẳng định rằng, chủ thể là người biết suy nghĩ đã nhận thức và đã mong
muốn... Bên cạnh đó, những đại diện xuất sắc của trường phái triết học duy
tâm đã xây dựng thành hệ thống lý luận các nguyên tắc, chế định… trong đó
đã đề cập đến nguyên tắc cá thể hóa và phân hóa TNHS. Trường phái này cho
rằng, cần phân biệt ý định độc ác (cố ý) với sự không thận trọng (vô ý) như là
hai hình thức lỗi chủ yếu [16, tr. 21].
Những người đại diện cho trường phái cổ điển trong khoa học LHS cho
rằng: lỗi và trách nhiệm hoàn toàn dựa trên ý chí tự do tuyệt đối của con
người, mà người này trong những điều kiện hồn tồn như nhau có thể lựa
chọn bất kỳ quyết định nào không trái với mình. Đại diện của trường phái này

là nhà hình sự học A.Bernher và nhà hình sự học A.Phơbách. Nhà hình sự học
người Đức A.Bernher coi cơ sở của việc buộc tội về hình sự là ý chí hoặc tự
do của con người, được thể hiện trong sự hành động tùy tiện của cá nhân và
phù hợp với động cơ, quyết tâm và ý định bên trong của người đó. Cịn nhà
hình sự học A.Phơbách thời kỳ đầu coi là sự buộc tội khơng phụ thuộc vào tự
do ý chí, nhưng sau đó đã thay đổi quan điểm và thừa nhận tự do ý chí là điều
kiện của sự buộc tội do lỗi [5, tr. 90].
Chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, khẳng định tội phạm với tư cách là một

10


phạm trù lịch sử, một hiện tượng xã hội. Hành vi của con người được xem là
hợp pháp khi con người lựa chọn một hành vi phù hợp với những chuẩn mực
của xã hội để đạt được mục đích, thỏa mãn nhu cầu của mình. Ngược lại,
hành vi của con người được xem là bất hợp pháp khi con người lựa chọn hành
vi sai lệch với các chuẩn mực xã hội, trái pháp luật và trong trường hợp này
con người phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình. Theo Các Mác bản chất
của con người là sự tổng hòa các mối quan hệ xã hội. Con người là một thực
thể sinh vật có ý thức, thơng qua nhận thức của mình, con người tiếp nhận và
tạo nên mối quan hệ đối với xung quanh, qua đó con người xác định hành vi
của mình. Vì vậy, khi xác định một hành vi có phải là tội phạm khơng thì cần
thiết phải xét đến trạng thái tâm lý bên trong của chủ thể đã thực hiện hành vi
đó (tức là trách nhiệm chỉ đặt ra khi có lỗi).
Những người đại diện cho trường phái xã hội học đưa ra nguyên tắc về
sự hợp lý của việc áp dụng các biện pháp tự vệ xã hội để thay thế cho nguyên
tắc buộc tội chủ quan. Theo đó, lỗi của chủ thể được coi là tình trạng nguy
hiểm của người đó; ba phạm trù như lỗi, tình trạng năng lực và tình trạng
khơng có năng lực là các tiêu chí của tính nguy hiểm cho xã hội, vv...
Dưới góc độ tâm lý học, để đánh giá thái độ chủ quan của cá nhân,

ngoài việc dựa vào biểu hiện khách quan của hành vi thì cịn phải căn cứ vào
diễn biến, trạng thái tâm lý bên trong của người đó (tức là yếu tố lỗi sẽ được
đề cập khi nghiên cứu về cấu trúc tâm lý bên trong của hành vi phạm tội).
Hành vi phạm tội là trường hợp cá biệt của hành vi con người và là hành vi có
ý thức, thể hiện sự nhận thức và ý chí của chủ thể. Ý chí của hoạt động tâm lý
con người ln được xuất phát từ nhận thức, con người quyết định hành động
trên cơ sở nhận thức đó.
Theo GS. TSKH Lê Văn Cảm, về cơ bản trong khoa học LHS vẫn tồn tại
03 trường phái lý luận chủ yếu về lỗi, gồm: Lý luận lỗi về tình trạng nguy hiểm

11


- khi lỗi của người phạm tội được hiểu là tính nguy hiểm của nhân thân người
đó, cịn hành vi thì lại được coi là sự biểu hiện của chính tình trạng nguy hiểm
ấy (các tác giả theo trường phái xã hội học); Lý luận về đánh giá lỗi - khi lỗi
của chủ thể được xác định bằng sự phán xét có tính chất đánh giá của riêng Tịa
án mà khơng cần tính đến thái độ tâm lý của người đó khi thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị LHS cấm (N.Đ.Đurmanôv, A.A.Gertxenzôn, vv...); Lý
luận lỗi về mặt tâm lý - khi lỗi của một người được hiểu là thái độ tâm lý đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội mà người đó thực hiện và hậu quả do hành vi
đó gây nên (V.A.Vlađimirơv, A.X.Nhikifơrơv, V.F.Kritrenkơ, vv...) [5, tr. 91].
Trong khoa học LHS Việt Nam vẫn còn các quan điểm khác nhau về
lỗi. Những quan điểm về lỗi được thể hiện dưới đây là trong số những quan
điểm khác nhau đó:
Theo Từ điển Luật học: Lỗi được hiểu là thái độ tâm lý của một người
phạm tội đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và hậu quả nguy hiểm cho xã
hội thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vô ý [3, tr. 72].
Theo đại đa số các nhà hình sự học thì lỗi là thái độ tâm lý của một
người đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và hậu quả do hành vi

đó gây ra được biểu hiện dưới hình thức cô ý hoặc vô ý [5, tr. 91].
Theo Khoa luật Trường Đại học Quốc gia Hà Nội: Lỗi là thái độ tâm lý
của chủ thể đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội và đối với hậu quả của hành
vi ấy gây ra cho xã hội thể hiện dưới dạng cố ý hoặc vô ý [24, tr. 197].
Theo GS. TSKH Lê Cảm: Lỗi hình sự là mặt chủ quan của tội phạm và
là một trong những điều kiện bắt buộc của TNHS, đồng thời là thái độ tâm lý
của người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS đối với hành vi nguy
hiểm cho xã hội bị LHS cấm mà người đó thực hiện và hậu quả do hành vi ấy
gây nên dưới hình thức cố ý hoặc vô ý [6, tr. 422].
Theo PGS. TS Nguyễn Ngọc Hòa: Lỗi là sự phủ định chủ quan đòi hỏi

12


của xã hội. Chủ thể bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
nếu họ đã lựa chọn hành vi đó trong khi có đủ điều kiện lựa chọn xử sự khác
phù hợp với đòi hỏi của xã hội [20, tr. 87 - 88].
Theo Tiến sĩ Phạm Văn Beo: Lỗi là thái độ tâm lý của con người đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội của mình và đối với hậu quả do hành vi đó
gây ra được biểu hiện dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý [3, tr. 201].
Mặc dù cịn tồn tại sự khác nhau nhất định trong cách tiếp cận, tên gọi
của vấn đề, nhưng về cơ bản các các nhà khoa học đều thống nhất cho rằng
lỗi là yếu tố thuộc mặt chủ quan của tội phạm, là sự kết hợp giữa yếu tố lý trí
và yếu tố ý chí, trong đó yếu tố lý trí thể hiện khả năng nhận thức hoặc khơng
nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi, còn yếu tố ý chí
thể hiện năng lực điều khiển hành vi hoặc kiềm chế việc thực hiện hành vi đó
để thực hiện một xử sự khác khơng trái với lợi ích của xã hội. Đồng thời, lỗi
trong LHS chính là sự biểu hiện của mối quan hệ giữa cá nhân người phạm tội
với xã hội mà nội dung của nó là sự phủ định chủ quan đòi hỏi của xã hội
được thể hiện thơng qua sự địi hỏi cụ thể của LHS.

Như vậy, tổng quan từ tất cả các quan điểm khác nhau trên đây về lỗi
và căn cứ vào các quy định về lỗi trong PLHS Việt Nam hiện hành, dưới góc
độ khoa học LHS có thể định nghĩa khái niệm: Lỗi hình sự là thái độ tâm lý
được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý của người có năng lực TNHS và
đủ tuổi chịu TNHS đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội bị LHS cấm và đối
với hậu quả của hành vi do mình thực hiện.
b. Bản chất xã hội - pháp lý của lỗi hình sự
Từ những phân tích trên đây cho thấy bản chất xã hội - pháp lý của lỗi
hình sự được thể hiện như sau:
Luật Hình sự chỉ ràng buộc TNHS đối với thái độ tâm lý được thể hiện
dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý. Điều đó cũng có nghĩa là LHS sẽ khơng ràng

13


buộc TNHS với bất kỳ thái độ tâm lý nào của con người đối với hành vi mà
người đó thực hiện và đối với các hậu quả do hành vi ấy gây nên, trừ thái độ
tâm lý được thể hiện dưới hình thức cố ý và vơ ý.
Hai hình thức lỗi của cá nhân thể hiện thái độ tâm lý của chính người
phạm tội đối với các giá trị quan trọng của xã hội, các lợi ích của con
người, của xã hội và của Nhà nước được PLHS bảo vệ. Trong đó, ở lỗi cố ý
của cá nhân, thái độ tâm lý của người phạm tội thể hiện ở định hướng có ý
thức của hành vi nhằm đạt được mục đích đặt ra, cịn ở lỗi vơ ý, thái độ tâm
lý của người phạm tội thể hiện ở sự không thận trọng, lơ là trong việc thực
hiện hành vi.
Nội dung của lỗi bao gồm yếu tố lý trí và yếu tố ý chí. Đây là hai yếu tố
cần thiết để tạo nên lỗi. Hai yếu tố này vừa thể hiện năng lực nhận thức thực
tại khách quan vừa thể hiện hành vi trên cơ sở nhận thức thực tại khách quan.
Trong trường hợp xử sự gây thiệt hại bị coi là có lỗi thì q trình lý trí và ý
chí phải có những đặc điểm nhất định phản ánh được rằng, xử sự đó là kết quả

của sự tự lựa chọn và quyết định của chủ thể trong khi chủ thể có đủ điều kiện
để lựa chọn một xử sự khác phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Cùng với các tình
tiết cụ thể của vụ án thể hiện trong tâm lý của người phạm tội thông qua xử sự
trái pháp luật của người đó, mà trong sự tổng hợp của chúng tạo thành hình
thức của lỗi - cố ý hoặc vô ý [5, tr. 93].
1.1.1.2. Khái niệm người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm
Việc nghiên cứu bản chất pháp lý của khái niệm người có lỗi trong việc
thực hiện tội phạm có ý nghĩa khoa học - thực tiễn và có ý nghĩa chính trị - xã
hội rất quan trọng nhằm tăng cường pháp chế, góp phần bảo vệ các quyền và
tự do của con người, bởi từ trước đến nay, trong lý luận LHS Việt Nam, vấn
đề người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm là vấn đề rất ít khi được đề cập
đến. Bên cạnh đó, Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được

14


coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có
bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật” [33, Điều 31, khoản 1].
Điều đó có nghĩa, Tịa án sẽ không coi một người là tội phạm khi người đó
khơng có lỗi - khơng cố ý hoặc vơ ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội
bị LHS cấm. LHS coi một người là tội phạm khi người đó có đầy đủ năm dấu
hiệu sau đây: là người có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS, thực hiện hành
vi dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý, hành vi này phải nguy hiểm cho xã hội và bị
LHS cấm. Do đó, chỉ khi nào một người có đầy đủ năm dấu hiệu trên thì mới
bị xem là có lỗi trong tội phạm. Năm dấu hiệu này có mối quan hệ biện chứng
và thống nhất, chặt chẽ và hữu cơ với nhau, bởi vì dù chỉ thiếu một trong năm
dấu hiệu thì người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khơng phải chịu
TNHS, mà chỉ có thể phải chịu trách nhiệm pháp lý nếu hành vi đó là vi phạm
pháp luật được quy định trong ngành luật tương ứng.
GS. TSKH Lê Văn Cảm đã từng đưa ra quan điểm của mình về khái

niệm người có lỗi trong tội phạm. Giáo sư cho rằng: người có lỗi trong tội
phạm là người có năng lực TNHS, đủ tuổi chịu TNHS và thực hiện hành vi
nguy hiểm cho xã hội bị LHS cấm dưới hình thức cố ý hoặc vơ ý [5, tr. 93].
Đồng thời GS. TSKH Lê Văn Cảm cũng đã khẳng định luận điểm: “Chỉ
người nào có lỗi trong tội phạm mới có thể bị Tịa án coi là người có tội và
phải chịu biện pháp cưỡng chế về hình sự” [5, tr. 94].
Cịn tác giả khi căn cứ vào nội dung cũng như những đặc điểm cơ bản
của các khái niệm như lỗi hình sự, tội phạm, năng lực TNHS, tuổi chịu TNHS
và trên cơ sở lý luận về CTTP có thể đưa ra định nghĩa khoa học: Người có
lỗi trong việc thực hiện tội phạm là người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu
TNHS đã cố ý hoặc vô ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị LHS cấm.
1.1.2. Ý nghĩa lỗi của cá nhân trong Luật Hình sự
Trong LHS Việt Nam, chế định lỗi của cá nhân là một chế định trung
tâm và rất phức tạp. Vì thế, dưới góc độ nhận thức khoa học, việc nghiên cứu

15


lỗi của cá nhân có ý nghĩa lý luận thực tiễn và ý nghĩa xã hội pháp lý quan
trọng. Cụ thể như sau:
Một trong những nguyên tắc cơ bản của LHS là nguyên tắc có lỗi. Đây
là nguyên tắc tiến bộ của LHS trong nhà nước pháp quyền và là nguyên tắc cơ
bản được thừa nhận chung của LHS quốc tế nhằm loại trừ việc “Buộc tội
khách quan”. Việc thừa nhận ngun tắc có lỗi góp phần loại bỏ tình trạng tùy
tiện, vô pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình sự khi truy cứu TNHS một
người về việc thực hiện hành vi bị LHS cấm nhưng lại không xác định được
lỗi của người đó.
Tính có lỗi là một trong những đặc điểm cơ bản của tội phạm. Đây là
dấu hiệu chủ quan bắt buộc của tội phạm và là một trong những điều kiện
không thể thiếu được của TNHS. Điều đó có nghĩa là, một người phải chịu

TNHS khơng chỉ do họ đã có hành vi khách quan gây ra thiệt hại cho xã hội,
mà cịn vì họ đã có lỗi trong việc thực hiện hành vi khách quan đó. Một người
có hành vi gây thiệt hại cho xã hội sẽ bị coi là có lỗi nếu hành vi đó là kết quả
của sự tự lựa chọn và quyết định của người đó trong khi họ có đủ điều kiện
khách quan và chủ quan để lựa chọn hoặc quyết định một xử sự khác phù hợp
với đòi hỏi của xã hội.
Với vai trò là đặc điểm bắt buộc của tội phạm và là điều kiện chủ quan
không thể thiếu của TNHS, thì khi xác định được lỗi của cá nhân trong việc
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị LHS cấm sẽ giúp cho Tòa án và
các cơ quan bảo vệ pháp luật phân biệt được hành vi có tính chất tội phạm với
hành vi khơng có tính chất tội phạm. Đồng thời, với tính chất là đối tượng
phải chứng minh, lỗi của cá nhân trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho
xã hội bị LHS cấm phải được các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án khẳng
định một trong hai khả năng sau: nếu có lỗi thì người đó đã phạm tội do cố ý
hoặc vơ ý, tức người đó là chủ thể của tội phạm nên phải chịu TNHS. Còn

16


nếu khơng rõ ràng có lỗi thì người đó khơng bị coi là chủ thể của tội phạm,
tức là không có tội nên khơng phải chịu TNHS.
Bên cạnh đó, lỗi cho thấy ở một mức độ đáng kể tính chất nguy hiểm
cho xã hội của hành vi và của người phạm tội, giúp các cơ quan bảo vệ pháp
luật và Tịa án cá thể hóa TNHS và hình phạt một cách chính xác. Đồng thời
các hình thức lỗi là cơ sở pháp lý để định tội đối với những trường hợp mà
việc phân hóa TNHS dựa trên các hình thức lỗi, khi một hình thức lỗi nhất
định nào đó được nhà làm luật quy định là dấu hiệu bắt buộc của CTTP cụ thể
tương ứng trong phần các tội phạm của BLHS.
Ngoài ra, liên quan đến chế định lỗi của cá nhân vẫn còn rất nhiều tranh
luận và ý kiến khác nhau giữa các nhà luật học cũng như trong khoa học LHS,

trong thực tiễn lập pháp và áp dụng PLHS, cho nên việc nghiên cứu một cách
sâu sắc và toàn diện về chế định này là rất cần thiết và quan trọng, nhằm góp
phần tiếp tục hồn thiện chế định lỗi của cá nhân trong PLHS Việt Nam hiện
hành và từ đó kiến giải mơ hình lý luận của nó trong tương lai.
1.2. Các hình thức lỗi và các dạng lỗi của cá nhân trong Luật Hình sự
1.2.1. Hình thức lỗi cố ý của cá nhân
1.2.1.1. Khái niệm và bản chất của lỗi cố ý của cá nhân
Điều 10 BLHS năm 2015 quy định cố ý phạm tội là phạm tội trong
những trường hợp sau đây: 1. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình
là nguy hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn
hậu quả xảy ra; 2. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy
hiểm cho xã hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy khơng
mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu quả xảy ra [34]. Theo đó:
Về lý trí: Trong lỗi cố ý của cá nhân, người phạm tội khi quyết định
thực hiện hành vi đã nhận thức được đầy đủ đặc điểm thể hiện tính chất nguy
hiểm cho xã hội của hành vi và thấy trước hậu quả nguy hiểm cho xã hội do

17


hành vi gây ra.
Một hành vi được xem là nguy hiểm cho xã hội khi hành vi đó gây nên
(hoặc có khả năng thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể cho các quan hệ xã hội
được PLHS bảo vệ [5, tr. 24]. Nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội
của hành vi và thấy trước hậu quả của hành vi là hai nội dung có mối liên hệ
vô cùng mật thiết, tác động qua lại với nhau. Thấy trước hậu quả của hành vi
là kết quả và sự cụ thể hóa sự nhận thức tính chất nguy hiểm cho xã hội của
hành vi. Ngược lại, nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi
là cơ sở cho việc thấy trước hậu quả của hành vi.
Nói nhận thức bao giờ cũng là nhận thức của con người về thực tại

khách quan, còn thấy trước là sự suy đốn có căn cứ về diễn biến tương lai
của sự việc. Và để đoán được, thấy được cái tương lai thì phải nhận thức được
cái hiện tại. Trong phạm tội cố ý, người phạm tội thấy trước hành vi của mình
ở trong trường hợp này, chứ khơng phải hành vi tương tự trong hoàn cảnh
tương tự sẽ dẫn đến hậu quả nguy hại. Do đó, hành vi của người phạm tội có
tính chất nguy hiểm cho xã hội.
Về ý chí: Trong lỗi cố ý của cá nhân, người phạm tội mong muốn hậu
quả phát sinh hoặc tuy khơng mong muốn nhưng có ý thức để mặc cho hậu
quả xảy ra.
Người phạm tội khi thực hiện hành vi đã mong muốn hậu quả xảy ra có
nghĩa là hậu quả của hành vi phạm tội mà người phạm tội đã thấy trước hồn
tồn phù hợp với mục đích và mong muốn của người đó. Hậu quả đó có thể
nằm trong mục đích hành động của người phạm tội, cũng có thể là một
phương tiện cần thiết để người phạm tội đạt được mục đích của tội phạm.
Để mặc cho hậu quả xảy ra là trường hợp người phạm tội không mong
muốn gây ra hậu quả tác hại, nhưng họ đã coi thường hậu quả, cho rằng hậu
quả ấy không ảnh hưởng gì đến họ hoặc họ biết hậu quả tác hại sẽ xảy ra

18


nhưng cứ để mặc cho thiệt hại xảy ra. Điều đó cũng có nghĩa, hậu quả nguy
hiểm cho xã hội xảy ra hay khơng xảy ra đều khơng có ý nghĩa gì đối với
người phạm tội.
Từ những sự phân tích trên đây có thể đưa ra định nghĩa khoa học: Lỗi
cố ý của cá nhân là trường hợp một người đã nhận thức rõ tính nguy hiểm cho
xã hội cũng như hậu quả do hành vi của mình gây nên và mong muốn hậu quả
xảy ra hoặc mặc dù không mong muốn nhưng vẫn có ý thức để mặc cho hậu
quả xảy ra.
1.2.1.2. Các điều kiện của lỗi cố ý của cá nhân

Theo Từ điển Tiếng Việt thơng dụng thì điều kiện được hiểu là “Điều
nêu ra như một đòi hỏi trước khi thực hiện một việc gì đó, hình thành một cái
nào đó” [40, tr. 57].
Khi xem xét đến điều kiện của lỗi cố ý của cá nhân, tác giả căn cứ vào
hình thức của lỗi của cá nhân (bao gồm lỗi cố ý và lỗi vô ý) để tiếp cận ở khía
cạnh, đó là điều kiện để một người bị coi là có lỗi nói chung và điều kiện để
một người bị coi là có lỗi cố ý nói riêng.
Bản chất của lỗi đó chính là sự phủ định chủ quan đòi hỏi của xã hội.
Một người bị coi là có lỗi khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội khi
hành vi đó là kết quả của sự tự lựa chọn của họ trong khi họ có đủ các điều
kiện khách quan và chủ quan để có thể quyết định xử sự phù hợp với địi hỏi
của xã hội. Đó chính là sự tước tự do trong ý thức chủ quan của chủ thể nguyên nhân dẫn đến hành vi mất tự do trên thực tế - hành vi trái với đòi hỏi
của xã hội, trái với LHS. Từ đó ta có thể rút ra những điều kiện để một người
bị coi là có lỗi như sau: Thứ nhất, chủ thể phải có năng lực tự do - năng lực
nhận thức được đòi hỏi của xã hội và năng lực điều khiển được hành vi phù
hợp với địi hỏi của xã hội. Đây chính là vấn đề năng lực TNHS. Chỉ những
chủ thể có năng lực tự do thì mới có thể có lỗi. Người khơng có năng lực tự

19


×