Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Pháp luật về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (838.11 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

PH¸P LUậT Về PHá SảN DOANH NGHIệP
Có YếU Tố NƯớC NGOàI: KINH NGHIệM NƯớC NGOàI
Và NHữNG GợI ý ĐốI VớI VIệT NAM

LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

PH¸P LUậT Về PHá SảN DOANH NGHIệP
Có YếU Tố NƯớC NGOàI: KINH NGHIệM NƯớC NGOàI
Và NHữNG GợI ý ĐốI VớI VIệT NAM
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số: 60 38 01 08

LUẬT VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. BÙI XUÂN NHỰ

HÀ NỘI - 2015



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong bất kỳ
cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm
bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các
mơn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định
của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi
có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Hồng Nhung


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI ............................................................ 3
1.1.
Nhận thức chung về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài ...... 3
1.1.1. Khái niệm chung về phá sản doanh nghiệp .......................................... 3
1.1.2. Quan điểm về “Yếu tố nước ngồi” trong thuật ngữ phá sản

doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài ..................................................... 7
1.1.3. Phân biệt phá sản và giải thể ................................................................ 9
Đặc điểm của thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu
tố nước ngồi ..................................................................................... 13
1.2.1. Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi là sản phẩm tất yếu
của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế....... 13
1.2.2. Thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là
thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt .......................................................... 14
1.2.

Vai trị của pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài trong nền kinh tế thị trường ................................................. 19
1.3.1. Pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi là cơng cụ
bảo vệ hiệu quả nhất quyền và lợi ích hợp pháp của các doanh
nghiệp chủ nợ ..................................................................................... 19
1.3.2. Pháp luật phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi bảo vệ lợi
ích của các doanh nghiệp con nợ, tạo cơ hội để những doanh
nghiệp này rút khỏi thương trường một cách trật tự .......................... 20
1.3.3. Pháp luật về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi góp
phần làm lành mạnh hóa nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động sản xuất
kinh doanh hiệu quả ........................................................................... 22
1.3.


Chương 2: PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP CÓ YẾU TỐ
NƯỚC NGOÀI – THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
DOANH NGHIỆP CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI (DNCYTNN)
CỦA VIỆT NAM VÀ KINH NGHIỆM NƯỚC NGOÀI ................... 23
Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài ......................................................................................... 23

2.1.1. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố
nước ngồi tại Việt Nam .................................................................... 23
2.1.2. Quy định về việc mở thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố
nước ngồi tại một số quốc gia khác .................................................. 34
2.1.3. Tập quán và nguyên tắc áp dụng tập quán về việc mở thủ tục phá
sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi ............................................. 41
2.1.

Trình tự thủ tục tiến hành phá sản doanh nghiệp có yếu tố
nước ngoài ......................................................................................... 44
2.2.1. Luật áp dụng đối với thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố
nước ngồi .......................................................................................... 44
2.2.2. Phối hợp các thủ tục phá sản mở tại nhiều nước khác nhau .............. 51
2.2.3. Các trường hợp ngoại lệ về giải quyết phá sản có yếu tố nước ngồi ....... 56
2.2.

Kinh nghiệm giải quyết phá sản có yếu tố nước ngoài tại một
số quốc gia ......................................................................................... 68
2.3.1. Kinh nghiệm giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước
ngoài tại Pháp ..................................................................................... 68
2.3.2. Kinh nghiệm giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước
ngồi tại các nước thuộc liên minh Châu Âu (trừ Đan Mạch) ........... 70
2.3.3. Thực tiễn áp dụng Luật mẫu về tình trạng mất khả năng thanh
tốn có yếu tố nước ngồi theo Ủy ban của Liên Hợp quốc về
luật Thương mại Quốc tế (UNCITRAL) soạn thảo và thông qua ..... 71
2.3.

Chương 3: XU HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ PHÁ SẢN
DOANH NGHIỆP CĨ YẾU TỐ NƯỚC NGỒI CỦA VIỆT
NAM HÀI HỊA VỚI QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ ....73

3.1.
Cần thiết sửa đổi luật Phá sản ........................................................ 73


3.1.1. Trách nhiệm của người quản lý doanh nghiệp có yếu tố nước
ngồi lâm vào tình trạng phá sản........................................................ 73
3.1.2. Cơ chế giám sát của chủ nợ đối với quá trình giải quyết thủ tục
phá sản có yếu tố nước ngoài ............................................................. 74
3.1.3. Về việc thực hiện quản lý tài sản của doanh nghiệp có yếu tố
nước ngồi trong q trình giải quyết phá sản ................................... 76
Kiến nghị hồn thiện các văn bản hướng dẫn Luật Phá sản và
các văn bản pháp luật có liên quan ................................................ 78
3.2.1. Hồn thiện quy định về đăng ký quyền sở hữu, đăng ký quyền sử
dụng, đăng ký giao dịch bảo đảm đối với doanh nghiệp có yếu tố
nước ngồi........................................................................................... 78
3.2.2. Hướng dẫn về xử lý tài sản được cầm cố, thế chấp của doanh
nghiệp có yếu tố nước ngồi .............................................................. 79
3.2.3. Hướng dẫn về xử lý quyền sử dụng đất của doanh nghiệp có yếu
tố nước ngồi lâm vào tình trạng phá sản .......................................... 84
3.3.
Một số kiến nghị khác ...................................................................... 85
3.3.1. Tăng cường vai trò, trách nhiệm của cơ quan quản lý tài sản của
doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi lâm vào tình trạng phá sản ........ 85
3.3.2. Tăng cường kỷ luật tài chính kế tốn đối với doanh nghiệp có yếu
tố nước ngồi lâm vào tình trạng phá sản .......................................... 86
3.3.3. Giải tỏa yếu tố tâm lý của chủ doanh nghiệp/người quản lý doanh
nghiệp có yếu tố nước ngồi lâm vào tình trạng phá sản ................... 87
KẾT LUẬN .................................................................................................... 88
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 89
3.2.



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:

Bộ luật hình sự

BLTTDS:

Bộ luật tố tụng dân sự

DN:

Doanh nghiệp

DNCYTNN:

Doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi

HĐQT:

Hội đồng quản trị

HTX:

Hợp tác xã

TAND:


Tịa án nhân dân

TNHH:

Trách nhiệm hữu hạn


MỞ ĐẦU
Trong xu thế phát triển hiện nay, việc giao thoa kinh tế, văn hóa xã hội là
một xu thế tất yếu. Trong nội bộ nền kinh tế nước ta có một bộ phận doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi có mối liên hệ xun quốc gia về mặt tài sản.
Các doanh nghiệp Việt Nam cũng đầu tư ra nước ngồi khơng ít, do đó tồn tại
tài sản của doanh nghiệp hoạt động tại Việt Nam ở nước ngoài, quan hệ kinh tế,
thương mại quốc tế còn dẫn đến nhiều trường hợp đa dạng khác mà tài sản
doanh nghiệp phá sản không chỉ nằm trên lãnh thổ Việt Nam. Các doanh
nghiệp hình thành, hoạt động, phát triển ngày càng đa dạng kéo theo rất nhiều
những vấn đề liên quan cần được nghiên cứu, điều chỉnh một cách thích đáng.
Phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi là một vấn đề quan trọng cấp bách
nhưng chưa được quan tâm nghiên cứu đúng mức. Những vấn đề phát sinh liên
quan đến Phá sản Doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi có ảnh hưởng rất lớn đến
tồn bộ nền kinh tế xã hội của một hay nhiều quốc gia liên quan, thậm chí cịn
có thể ảnh hưởng đến quan hệ ngoại giao, tình chính chính trị trong nước và
giữa các quốc gia liên quan. Luật phá sản nhiều nước quy định hiệu lực của
việc áp dụng các thủ tục giải quyết phá sản theo luật phá sản của họ có hiệu lực
đối với cả các tài sản của doanh nghiệp mắc nợ ở trong và ngồi lãnh thổ nước
mình. Đồng Thời Luật phá sản của một số nước cũng quy định luôn việc công
nhận và áp dụng các phán quyết về phá sản của toà án nước ngoài.
Thực tế cho thấy, cùng với việc nghiên cứu, từng bước hoàn thiện pháp
luật về việc thành lập, hoạt động của doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài,
pháp luật về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi có một vị trí vơ cùng

quan trọng, cần được xem xét nghiêm túc và khoa học.
Luận văn thạc sỹ với đề tài: Pháp luật về phá sản Doanh nghiệp có
yếu tố nước ngồi: Kinh nghiệm nước ngoài và những gợi ý đối với Việt
Nam nhằm tìm hiểu, nghiên cứu về các Khái niệm về phá sản doanh nghiệp
1


và phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi; Thủ tục phá sản doanh nghiệp
có yếu tố nước ngồi và thẩm quyền của tịa án nước ngồi trong việc mở thủ
tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi cũng như Trình tự, thủ tục Phá
sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi sẽ góp phần làm phong phú thêm tài
liệu khoa học về lĩnh vực đang được rất nhiều nhà khoa học trong và ngoài
nước quan tâm, nghiên cứu.

2


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHÁ SẢN DOANH NGHIỆP
CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
1.1. Nhận thức chung về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi
1.1.1. Khái niệm chung về phá sản doanh nghiệp
1.1.1.1. Phá sản doanh nghiệp
Danh từ phá sản được bắt nguồn từ tiếng Latinh "RUIN" có nghĩa là là
"sự khánh tận" khái niệm này dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi
của một chủ doanh nghiệp mà biểu hiện trực tiếp và rõ nhất của sự mất cân đối
giữa thu và chi là tình trạng mất khả năng thanh tốn nợ đến hạn phải trả.
Hiện tượng phá sản trong nền kinh tế thị trường của các doanh nghiệp
là hiện tượng bình thường và là tất yếu của quy luật cạnh tranh trong sản xuất
kinh doanh.

Quy luật này diễn ra ở bất cứ quốc gia nào bất cứ doanh nghiệp nào có
cơ chế quản lý không phù hợp và không theo kịp nền kinh tế thị trường.
Hiện tượng phá sản chính là quy luật tất yếu của sự cạnh tranh nhằm
tạo ra các doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, thúc đẩy sự phát triển kinh tế
của tồn xã hội, tạo thêm khơng khí mới trong sản xuất kinh doanh.
Pháp luật của nhà nước trên thế giới có nhiều chế định khác nhau về
pháp luật phá sản đối với các loại hình doanh nghiệp. Thậm chí có nhiều quan
điểm khác nhau về định lượng và định tính trong việc xác định một doanh
nghiệp lâm vào tình trạng phá sản doanh nghiệp hay mất khả năng thanh toán
nợ đến hạn như luật phá sản của Malayxia, Hunggari, Trung Quốc... Song cho
dù có các chế định khác nhau như vậy nhưng pháp luật các nước đều có khái
niệm thống nhất là một doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản khi doanh
nghiệp đó khơng cịn khả năng thanh toán nợ đến hạn.

3


Theo quy định tại điều 4 Luật Phá sản nước Cộng Hịa Xã hội chủ
nghĩa Việt Nam số 51/2014/QH13 có hiệu lực từ ngày 01/01/2015: “Phá
sản là tình trạng của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh toán và bị
Tòa án nhân dân ra quyết định tuyên bố phá sản”.
“ Phá sản doanh nghiệp” là thuật ngữ chỉ tình trạng một con nợ khơng
có khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn, đồng thời đây cũng là thuật
ngữ chỉ thủ tục xử lý phá sản nhằm giải quyết tình trạng khó khăn đó trên cơ
sở một quyết định của cơ quan hành chính hoặc của tịa án.
Hiện nay, nghĩa thứ hai của thuật ngữ này khơng cịn được sử dụng
trong pháp luật hiện đại, đặc biệt là trong pháp luật của nước Pháp. Thay vì sử
dụng thuật ngữ “Phá sản”, pháp luật của nước Pháp thường sử dụng các thuật
ngữ khác như: “Thủ tục giải quyết tình trạng mất khả năng thanh toán”, “phục
hồi hoặc thanh lý doanh nghiệp” hoặc “Thủ tục giải quyết nợ tập thể”.

Trong xu thế phát triển của pháp luật hiện đại, thuật ngữ “Phá sản” còn
mang ý nghĩa là biện pháp áp dụng đối với cá nhân chủ doanh nghiệp, theo
đó, chủ doanh nghiệp sẽ không được phép tham gia hoạt động thương mại
hoặc tham gia lãnh đạo doanh nghiệp. Mặc dù vậy, Tư pháp quốc tế vẫn tiếp
tục sử dụng thuật ngữ “Phá sản” bởi lý do thuật ngữ này đơn giản và dễ được
thừa nhận ở nước ngoài.
1.1.1.2. Đặc điểm phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi
Phá sản có yếu tố nước ngồi (cross-border insolvency) có thể được
hiểu theo nghĩa hẹp là trường hợp con nợ bị lâm vào tình trạng phá sản có tài
sản ở nhiều nước. Theo nghĩa rộng, thuật ngữ “Phá sản có yếu tố nước ngoài”
được sử dụng đối với trường hợp phá sản mà có bất kỳ yếu tố nước ngồi nào
như: doanh nghiệp có hoạt động ở ngồi lãnh thổ quốc gia dù cho hoạt động
đó khơng có sự hỗ trợ tài sản hoặc trường hợp chủ nợ của doanh nghiệp ở
nước ngoài.

4


Theo quy định tại Luật Phá Sản năm 2014 có hiệu lực từ 01/01/2015,
chỉ có 02 điều nói về thủ tục phá sản có yếu tố nước ngồi (điều 116 và điều
117). Như vậy là chưa thể đủ để giải quyết những trường hợp phát sinh vô
cùng phức tạp trong thực tế về phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài.
Trong hội nhập kinh tế, kèm theo cơ hội giao thương với nước ngoài là những
vấn đề tranh chấp có yếu tố nước ngồi. Từ thực tế giải quyết các vụ phá sản
cho thấy, có 3 đặc điểm về phá sản doanh nghiệp có yếu tố liên quan nước
ngồi bao gồm:
- Chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân nước ngoài.
- Đại diện theo pháp luật của DN là người nước ngoài.
- Chủ nợ/con nợ là tổ chức, cá nhân nước ngoài.
Thứ nhất, đối với chủ đầu tư là tổ chức, cá nhân nước ngồi: có trường

hợp chủ đầu tư nước ngồi đã bị phá sản, khi đó, liên doanh Việt Nam rơi vào
cảnh bơ vơ, không rõ ai là ông chủ, ai sẽ đại diện cho phần vốn nước ngồi tại
liên doanh để tham gia vào q trình giải quyết phá sản.
Thứ hai, đối với DN liên doanh tự đề nghị Tòa án tuyên bố phá sản DN
của mình, người đại diện theo pháp luật là người nước ngoài, khi thấy thủ tục
giải quyết phá sản quá phức tạp thì đã về nước mà khơng báo cho ai. Lý do họ
đưa ra là khi Tòa tuyên bố mở thủ tục phá sản thì họ khơng được trả lương,
khơng có lương thì họ về nước. Cho đến nay, chưa có cơ chế cấm xuất cảnh
nào đối với những người này. Phía Việt Nam trong liên doanh cũng khơng có
quyền u cầu họ ở lại. Hiện các Tịa án khơng biết phải giải quyết trường
hợp này thế nào. Liệu có thể áp dụng thủ tục tố tụng dân sự để đình chỉ giải
quyết việc phá sản khi triệu tập hai lần mà người yêu cầu tuyên bố phá sản đối
với chính DN của họ khơng đến Tịa án để giải quyết?
Thứ ba, khi chủ nợ/con nợ là người nước ngoài, chi phí dịch tài liệu lấy
ở đâu khi mà DN đã lâm vào tình trạng phá sản? Nhiều trường hợp thông báo,

5


cơng văn của Tịa án gửi đi, nhưng chủ nợ/con nợ khơng nhận được, vì họ đã
chuyển trụ sở và không thông báo cho DN Việt Nam biết. Vấn đề là liệu có
thể áp dụng quy định khi Tịa án thơng báo hai lần mà khơng đến thì mất
quyền địi nợ (đối với chủ nợ) như thủ tục tố tụng dân sự, cũng như làm cách
nào thu hồi nợ đối với con nợ? Tuy nhiên, nếu áp dụng quy định này có thể
vấp phải phản ứng của phía nước ngồi khi họ đưa ra lý do rằng họ không biết
thông tin về vụ phá sản, chứ không phải biết mà khơng thực hiện. Trong
trường hợp này, có thể áp dụng thủ tục ủy thác tư pháp theo Bộ luật Tố tụng
dân sự hay không? Trên thực tế, nếu được áp dụng chế định ủy thác tư pháp,
thì việc thực hiện ủy thác cũng rất khó khăn và có thể khơng thực hiện được,
vì khơng có địa chỉ mới của các tổ chức, cá nhân này.

Chưa kể, thực tế cho thấy, tỷ lệ nợ nước ngoài thường khá cao, điều
này dẫn đến tình trạng khó có thể mở hội nghị chủ nợ, bởi hội nghị chủ nợ
yêu cầu có trên 50% số chủ nợ khơng có bảo đảm tham gia và đại diện cho ít
nhất 2/3 tổng số nợ. Bởi vậy, nếu khơng thể thơng báo cho chủ nợ nước
ngồi, vụ phá sản có thể sẽ lâm vào tình trạng bế tắc, khơng thể đình chỉ, cũng
khơng thể tiếp tục, khơng biết đến bao giờ mới có thể giải quyết.
Nghiên cứu một số vụ phá sản có yếu tố nước ngồi ở Việt Nam thời gian
qua, ngoài những đặc điểm nêu trên cịn có một số đặc điểm nổi bật như sau:
- Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi hình thành chủ yếu trong
q trình thực hiện cơng cuộc đổi mới, mở cửa, đặc biệt trong những năm
gần đây khi đất nước ta đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực.Trước
thời kỳ đổi mới, mở cửa, nền kinh tế nước ta khép kín, kinh tế đối ngoại chủ
yếu là các hoạt động kinh tế kế hoạch với một số nước xã hội chủ nghĩa. Sau
năm 1986, nhất là từ sau thời kỳ bình thường hố quan hệ với Mỹ và đẩy
mạnh quan hệ kinh tế với một số nền kinh tế lớn trên thế giới như Nhật Bản,
Tây Âu, các hoạt động kinh tế của nước ta diễn ra đa dạng về hình thức và

6


tăng mạnh mẽ từng năm về cán cân thương mại với các nước, đặc biệt là từ
sau khi Việt Nam đẩy mạnh hội nhập quốc tế, tham gia một số tổ chức, định
chế tài chính, kinh tế lớn ở khu vực và trên thế giới như Tổ chức Thương mại
thế giới, Hiệp hội các nước ASEAN…. Theo đó, các doanh nghiệp, các tổ
chức tài chính, kinh tế thế giới và khu vực đến Việt Nam nghiên cứu, hợp tác
và tiến hành các hoạt động kinh tế, tài chính, thương mại cũng ngày một tăng
lên; nguồn vốn đầu tư trực tiếp, gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam ngày
càng lớn, năm sau cao hơn năm trước. Đồng thời, các doanh nghiệp Việt Nam
ra đầu tư ra nước ngoài ngày càng nhiều.
- Tài sản trong các phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi có

nguồn gốc ở cả trong và ngồi nước, trong đó nhiều vụ án có nguồn gốc tài
sản từ nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức từ nước ngồi. Tài sản có
nguồn gốc từ nước ngồi như: Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; tài sản là các
phương tiện kỹ thuật như máy móc, thiết bị công nghệ, thiết bị kỹ thuật phực
vụ xây dựng, giao thơng, sản xuất cơng nghiệp có nguồn gốc từ nước ngồi.
- Đa số các vụ phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài việc phát
hiện, xử lý thường kéo dài; nhiều vụ việc chậm được xem xét, kết luận.
1.1.2. Quan điểm về “Yếu tố nước ngoài” trong thuật ngữ phá sản
doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi
Ở Việt Nam chưa có quy định pháp luật nào đưa ra định nghĩa
về “doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi”. Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2005 quy định "yếu tố nước ngoài" bao gồm:
1. Chủ thể tham gia quan hệ pháp luật là cơ quan, tổ chức, cá nhân nước
ngoài, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; 2. Căn cứ để xác lập, thay đổi,
chấm dứt quan hệ đó phát sinh tại nước ngoài, theo pháp luật nước ngoài; 3.
Tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngồi.
Điều 758 BLDS 2005 quy định có 3 loại yếu tố nước ngồi mà một

7


quan hệ dân sự có sự hiện diện của một trong ba loại yếu tố đó thì thuộc đối
tượng điều chỉnh của Tư pháp quốc tế. Đó là:
Thứ nhất, chủ thể là người nước ngoài, pháp nhân nước ngoài, người
Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Thứ hai, khách thể của quan hệ đó ở nước ngồi (di sản thừa kế ở nước ngoài).
Thứ ba, sự kiện pháp lý là căn cứ xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ
đó xảy ra ở nước ngoài.
Tuy nhiên, trên thực tế, theo quy định của Pháp luật Việt Nam hiện
hành, rất khó xác định được thế nào là “một doanh nghiệp có yếu tố nước

ngoài”. Ngay cả các cơ quan tư pháp của Việt Nam cũng thường xuyên gặp
phải sự lúng túng khi xác định “yếu tố nước ngoài” để phân định thẩm quyền
thụ lý của các cấp Tòa án. Bộ Luật tố tụng Dân sự năm 2003 của Việt Nam
quy định Tòa án Nhân dân cấp tỉnh được xét xử những án có yếu tố nước
ngồi, Tịa án Nhân dân cấp quận, huyện khơng được thụ lý án có yếu tố đó.
Quy định có vẻ là rất rõ nhưng khi áp dụng lại nảy sinh nhiều vướng mắc (VD
như trường hợp vụ kiện các đại lý ra TAND TP.Hà Nội để đòi tiền nợ của
công ty nước giải khát Coca-Cola, Pepsi, A&B… và đã có vướng mắc trong
việc xác định các cơng ty này có “yếu tố nước ngồi” hay khơng). Có quan
điểm cho rằng, những cơng ty dù có vốn nước ngoài, nhưng được thành lập và
hoạt động tại Việt Nam, theo pháp luật Việt Nam (tức là có “quốc tịch” Việt
Nam) nên phải được hiểu là doanh nghiệp Việt Nam chứ khơng phải là
“doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi”. Việc xác định “doanh nghiệp có yếu tố
nước ngồi” dựa vào quốc tịch của doanh nghiệp có thể coi là tiêu chí hợp lý
hơn vì điều này cịn liên quan đến vấn đề ủy thác điều tra và hợp thức hóa
lãnh sự. Nhưng cũng có quan điểm cho rằng, có vốn nước ngồi thì đương
nhiên là “doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi”. Cho đến thời điểm hiện nay,
Tịa án Nhân dân tối cao Việt Nam chưa có hướng dẫn cụ thể tiêu chí để xác
định “doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài”.

8


1.1.3. Phân biệt phá sản và giải thể
Nếu xét về hiện tượng, hình thức bên ngồi thì giải thể và phá sản có
điểm giống nhau đó là đều chia giá trị tài sản còn lại cho các chủ nợ, giải
quyết quyền lợi cho người lao động… Nhưng về mặt bản chất giữa giải thể và
phá sản là hai chế định có sự khác nhau căn bản dưới đây:
Thứ nhất: Lý do giải thể rộng hơn nhiều lý do một doanh nghiệp phá
sản. Điều này thể hiện ở chỗ nếu như cơ sở sản xuất kinh doanh có thể chấm

dứt hoạt động của mình khi thấy mục tiêu đề ra khơng thể đạt được hoặc đã
hồn thành song mục tiêu đó, hoặc bị thu hồi giấy phép hoạt động do vi phạm
nghiêm trọng pháp luật. Lý do phá sản chỉ có một nguyên nhân duy nhất gây
ra đó là sự mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp.
Thứ hai: Nếu như việc giải thể các cơ sở sản xuất kinh doanh là do
những người làm chủ doanh nghiệp tự mình quyết định hoặc do cơ quan có
thẩm quyền cho phép thành lập quyết định khi thấy không cần cần thiết. Việc
tuyên bố phá sản doanh nghiệp đó là nhiệm vụ và quyền hạn của tòa kinh tế
thuộc tòa án nhân dân cấp tỉnh.
Thứ ba: Thủ tục tiến hành giải thể cơ sở sản xuất kinh doanh là thủ tục
hành chính cịn thủ tục tun bố phá sản lại là thủ tục tư pháp thuần túy, do
tịa án có thẩm quyền tiến hành theo những quy định chặt chẽ của pháp luật
phá sản (thủ tục tư pháp đặc biệt đã được phân tích ở trên).
Thứ tư: Giải thể bao giờ cũng dẫn đến chấm dứt hoạt động và xóa tên
cơ sở sản xuất kinh doanh, trong khi đó, phá sản không phải bao giờ cũng dẫn
đến hệ quả như vậy. Một doanh nghiệp bị phá sản nhưng doanh nghiệp đó vẫn
giữ ngun tên doanh nghiệp của mình nếu có thể, nhãn hiệu hàng hóa vẫn có
thể được lưu hành trên thị trường, cơ sở sản xuất kinh doanh vẫn hoạt động
bình thường nếu như doanh nghiệp được một người khác mua lại toàn bộ
doanh nghiệp bao gồm cả khoản nợ đến hạn.

9


Thứ năm: Nhìn chung, thái độ của Nhà nước đối với chủ sở hữu hay
người quản lý điều hành cơ sở sản xuất kinh doanh trong hai trường hợp
trên cũng có phân biệt. Chẳng hạn pháp luật của nhiều nước quy định chủ
sở hữu hay người quản lý điều hành cơ sở sản xuất kinh doanh bị phá sản
không được hành nghề trong một thời gian nhất định còn trong trường hợp
giải thể pháp luật không đưa ra vấn đề hạn chế quyền tự do kinh doanh

(vấn đề này luật phá sản doanh nghiệp của Việt Nam quy định tại điều 50 –
Khoản 1 điều 50 luật Phá sản doanh nghiệp quy định: Giám đốc, chủ tịch
và các thành viên Hội đồng quản trị không được đảm đương các chức vụ đó
ở bất kỳ doanh nghiệp nào trong thời hạn từ 1-3 năm kể từ ngày doanh
nghiệp bị tuyên bố phá sản.
Như vậy, có thể thấy rằng, việc phân biệt giữa Phá sản Doanh nghiệp
và Giải thể Doanh nghiệp là cần thiết và có ý nghĩa quan trọng.
Về mặt nguyên nhân:
Theo Luật Doanh nghiệp 2005, có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến giải
thể doanh nghiệp như:
(i) Kết thúc thời hạn hoạt động đã ghi trong điều lệ công ty
mà không có quyết định gia hạn;
(ii) Theo quyết định của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp
tư nhân, của tất cả thành viên hợp danh đối với công ty hợp danh, của
Hội đồng thành viên, chủ sở hữu công ty đối với công ty trách nhiệm
hữu hạn, của Đại hội đồng cổ đông đối với công ty cổ phần;
(iii) Công ty khơng cịn đủ số lượng thành viên tối thiểu theo
quy định của Luật Doanh nghiệp trong thời hạn 6 tháng liên tục;
(iv) Bị thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh [17].
Giải thể vì hết thời hạn hoạt động mà khơng gia hạn thêm, vì bị thu hồi
giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hay đơn giản là do quyết định giải thể của

10


chủ doanh nghiệp. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, doanh nghiệp chỉ được giải
thể khi bảo đảm thanh toán hết các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác.
Trong khi đó, doanh nghiệp bị Tịa án có thẩm quyền tuyên bố phá sản
theo thủ tục luật định khi không có khả năng thanh tốn các khoản nợ đến hạn
và khi chủ nợ có yêu cầu. Hiểu một cách khác, phá sản xảy ra khi doanh

nghiệp khơng có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ
có yêu cầu.
Về mặt Thủ tục giải quyết
Khi giải thể, doanh nghiệp phải ban hành quyết định bằng văn bản có
đầy đủ nội dung luật định và phải được gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh,
tất cả các chủ nợ, người có quyền, nghĩa vụ và lợi ích liên quan, người lao
động trong doanh nghiệp và phải được niêm yết cơng khai tại trụ sở chính và
chi nhánh của doanh nghiệp.
Trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày thanh toán hết các khoản nợ,
doanh nghiệp phải gửi hồ sơ giải thể đến cơ quan đăng ký kinh doanh để xoá
tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. Trường hợp bị thu hồi Giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp phải giải thể trong thời hạn 6
tháng, kể từ ngày bị thu hồi Giấy này.
Đối với trường hợp phá sản, khi nhận thấy doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản, các chủ nợ, người lao động có quyền và/hoặc đại diện
hợp pháp của doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá
sản đối với doanh nghiệp. Khi có căn cứ chứng minh doanh nghiệp lâm vào
tình trạng phá sản, Tồ án sẽ ra quyết định mở thủ tục phá sản và thông báo
đến doanh nghiệp, chủ nợ, con nợ của doanh nghiệp và đăng trên báo địa
phương, báo trung ương.
Tùy tình hình thực tế của doanh nghiệp mà Tịa án có thể quyết định áp
dụng thủ tục phục hồi hoạt động kinh doanh đối với doanh nghiệp hoặc có thể

11


bỏ qua giai đoạn này nếu doanh nghiệp khơng cịn khả năng phục hồi hoặc
không cần thiết và chuyển sang giai đoạn thanh lý tài sản. Việc phân chia tài
sản của doanh nghiệp theo thứ tự sau: phí phá sản; nợ lương, trợ cấp thôi việc,
bảo hiểm xã hội; nợ khơng có bảo đảm. Sau khi phân chia, giá trị tài sản còn

lại sẽ thuộc về chủ doanh nghiệp tư nhân; các thành viên; các cổ đông của
công ty. Thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản sau khi áp dụng đầy đủ
hoặc một phần các thủ tục phá sản như nêu trên.
Như vậy, thủ tục giải quyết phá sản là thủ tục tư pháp theo quyết định của
Tòa án, giải thể là thủ tục hành chính do chính chủ doanh nghiệp tiến hành. Thời
gian giải quyết phá sản dài hơn rất nhiều so với giải thể doanh nghiệp.
Về hậu quả pháp lý và quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp khác
Trong khi giải thể là sự chấm dứt hồn tồn của một doanh nghiệp, phá
sản đơi khi khơng làm chấm dứt hoạt động của một doanh nghiệp nếu sau khi
nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, doanh nghiệp vẫn có thể phục hồi hoạt
động kinh doanh.
Về quyền thành lập, quản lý doanh nghiệp khác, chủ doanh nghiệp bị
giải thể có thể tiếp tục thành lập và quản lý một doanh nghiệp khác sau khi
thực hiện xong những nghĩa vụ tài sản của mình.
Ngược lại, cả chủ doanh nghiệp và người quản lý của doanh nghiệp
bị phá sản đều bị pháp luật cấm thành lập và quản lý một doanh nghiệp mới
trong thời hạn từ 1 đến 3 năm, trừ trường hợp phá sản do những trường hợp
bất khả kháng, ngồi sự kiểm sốt của doanh nghiệp; ví dụ: hỏa hoạn, chiến
tranh, thiên tai, dịch bệnh, bạo loạn, đình cơng, khủng hoảng kinh tế, chính
sách pháp luật của nhà nước thay đổi hoặc nhà nước nơi doanh nghiệp hợp
tác kinh doanh thay đổi chính sách của họ,… dẫn đến doanh nghiệp bị tổn
thất nặng nề, không thể tiếp tục duy trì hoạt động và buộc tiến hành làm thủ
tục phá sản.

12


Có thể nhận thấy rất rõ ràng, theo quy định của pháp luật hiện hành,
giải thể hay phá sản thì đều dẫn đến hệ quả là doanh nghiệp ngừng sản xuất
kinh doanh, chấm dứt sự tồn tại của Doanh nghiệp. Đồng nghĩa với việc kể từ

thời điểm phá sản hay giải thể, doanh nghiệp sẽ bị thu hồi con dấu và giấy
chứng nhận đăng ký kinh doanh. Tuy nhiên, doanh nghiệp muốn giải thể hay
tuyên bố phá sản thì đều phải thực hiện các nghĩa vụ tài sản của mình.
Có sự khác nhau cơ bản về lý do, thủ tục pháp lý, hậu quả, thái độ của
nhà nước đối với các hoạt động giải thể và phá sản doanh nghiệp.
Doanh nghiệp giải thể sẽ chấm dứt sự tồn tại vĩnh viễn. Tuy vậy, một
doanh nghiệp bị phá sản có thể được mua lại (đổi chủ sở hữu) và vẫn có thể
tiếp tục hoạt động.
Chủ doanh nghiệp sau khi phá sản hầu như khơng có quyền gì liên
quan đến tài sản của doanh nghiệp. Doanh nghiệp giải thể sau khi thực hiện
xong các nghĩa vụ tài sản vẫn có thể chuyển sang một ngành nghề kinh doanh
khác nếu có thể. Giám đốc doanh nghiệp giải thể có thể đứng ra thành lập,
điều hành công ty mới. Giám đốc doanh nghiệp phá sản phải ngừng giữ chức
giám đốc ở một doanh nghiệp khác trong một thời gian nhất định.
1.2. Đặc điểm của thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu
tố nước ngồi
1.2.1. Phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài là sản phẩm tất
yếu của nền kinh tế thị trường và quá trình hội nhập kinh tế quốc tế
Nghiên cứu quá trình hình thành và phát triển của các nền kinh tế trên
thế giới đã cho thấy rằng phá sản ra đời và tồn tại trong những điều kiện kinh
tế - xã hội nhất định. Điều này giải thích lý do vì sao phá sản là hiện tượng
bình thường, phổ biến trong nền kinh tế thị trường.
Phá sản đã xuất hiện từ lâu, nhưng với tư cách là một hiện tượng phổ
biến thì nó chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường. Trong nền kinh tế thị

13


trường, các quyền cơ bản của cơng dân trong đó có quyền tự do kinh doanh
được nhà nước tơn trọng, đề cao, bảo vệ. Quyền tự do kinh doanh có nội hàm

rất rộng, bao gồm các quyền như: tự do thành lập doanh nghiệp, quyết định
quy mô kinh doanh, lựa chọn ngành nghề kinh doanh, định đoạt các vấn đề
phát sinh trong kinh doanh, thiết lập các quan hệ kinh tế, lựa chọn các cơ
quan giải quyết tranh chấp, cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật…Như vậy,
tự do cạnh tranh như là một bộ phận cấu thành quan trọng của quyền tự do
kinh doanh đã tạo tiền đề pháp lý để các doanh nghiệp tham gia vào các cuộc
chiến với nhau nhằm giành giật thị trường, khách hàng, lợi nhuận. Cũng như
mọi cuộc chiến khác, cuộc chiến giữa các doanh nghiệp cũng mang lại hậu
quả nhất định và cũng không tránh khỏi có thể xảy ra trường hợp có một bộ
phận không nhỏ các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, nợ nần chồng chất,
khơng thể thanh tốn được các nghĩa vụ tài chính đến hạn nên buộc phải chấm
dứt sự tồn tại của mình và rút khỏi thị trường. Trong điều kiện như vậy, một
vấn đề đặt ra mà Nhà nước nào cũng phải quan tâm giải quyết là làm sao tạo
điều kiện để doanh nghiệp con nợ này rút khỏi thương trường một cách êm
thấm, có trật tự và ít gây hậu quả xấu cho các chủ thể có liên quan nói riêng
và cho xã hội nói chung. Và vì có hiện tượng phá sản nên pháp luật về phá
sản ra đời. Pháp luật về phá sản là tổng thể các văn bản do Nhà nước ban
hành, trong đó quy định về tình trạng phá sản, điều kiện áp dụng các thủ tục
phá sản (thủ tục phục hồi, thanh lý), địa vị pháp lý của các chủ thể tham gia tố
tụng phá sản, trình tự tiến hành việc giải quyết phá sản, thứ tự ưu tiên thanh
toán từ tài sản phá sản và các vấn đề khác có liên quan đến việc giải quyết
một vụ phá sản cụ thể.
1.2.2. Thủ tục giải quyết phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài
là thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt
Khác với thủ tục giải quyết một vụ kiện dân sự (tố tụng dân sự) hay thủ

14


tục giải quyết một vụ kiện kinh tế (tố tụng kinh tế), thủ tục giải quyết một vụ

phá sản nói chung (tố tụng phá sản) hay giải quyết một vụ phá sản doanh
nghiệp có yếu tố nước ngồi được coi là một loại tố tụng tư pháp đặc biệt. Do
tính chất đặc biệt này nên trong pháp luật tố tụng các nước, thủ tục phá sản
doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài bao giờ cũng được điều chỉnh bởi một hệ
thống văn bản pháp luật riêng biệt. Tính chất đặc biệt của thủ tục phá sản phá
sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài được thể hiện ở những điểm sau đây:
Thứ nhất, thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi là một
thủ tục địi nợ tập thể. Doanh nghiệp với tư cách là một chủ thể pháp luật có
thể tham gia vào rất nhiều quan hệ xã hội khác nhau, và do đó, có thể trở
thành chủ thể của nhiều quyền và nghĩa vụ pháp lý khác nhau. Ví dụ, khi ký
hợp đồng với doanh nghiệp khác và bị doanh nghiệp đó vi phạm hợp đồng thì
doanh nghiệp bị hại có quyền làm đơn kiện ra Tòa án một cách độc lập, riêng
lẻ để yêu cầu Tòa án can thiệp. Như vậy, đặc điểm nổi bật của tố tụng dân sự
và tố tụng kinh tế là ở chỗ trong tố tụng này, các chủ nợ thực hiện việc địi nợ
một cách độc lập, riêng lẻ, nói một cách nơm na, nợ của ai thì người đó kiện
ra Tòa án mà đòi. Khác với thủ tục đòi nợ thơng thường này, thủ tục phá sản
doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi là thủ tục mà ở đó, việc địi nợ và thanh
tốn nợ được tiến hành một cách tập thể. Trong quá trình giải quyết vụ việc
phá sản, các chủ nợ không thể tự xé lẻ để địi nợ riêng cho mình mà tất cả họ
đều phải được tập hợp lại thành một chủ thể pháp lý duy nhất, gọi là Hội nghị
chủ nợ. Hội nghị chủ nợ đại diện cho tất cả các chủ nợ để tham gia vào việc
giải quyết phá sản. Khi bị áp dụng thủ tục thanh lý thì tồn bộ tài sản của con
nợ được đưa vào một quỹ chung dùng để trả cho các chủ nợ theo một thứ tự
ưu tiên nhất định đã được Luật Phá Sản quy định trước. Nếu tài sản của con
nợ khơng đủ để thanh tốn tất cả các khoản nợ thì các chủ nợ được thanh toán
theo tỷ lệ giữa khoản nợ mà doanh nghiệp phá sản còn thiếu với số tài sản còn
lại của doanh nghiệp.

15



Thứ hai, thủ tục phá sản doanh nghiệp có yếu tố nước ngồi là thủ tục
địi nợ được tiến hành trong một hoàn cảnh đặc biệt, như một biện pháp cuối
cùng của q trình địi nợ. Nếu như thủ tục địi nợ thơng thường (địi nợ
thơng qua việc khiếu kiện ra Tịa án) có thể được tiến hành bất cứ lúc nào thì
thủ tục phá sản chỉ được áp dụng khi doanh nghiệp mắc nợ đã lâm vào một
tình trạng tài chính bi đát, dường như khơng có lối thốt mà người ta thường
gọi là tình trạng phá sản. Nói cách khác, thủ tục phá sản có yếu tố nước ngồi
là thủ tục pháp lý khơng dễ được xảy ra; nó chỉ xuất hiện như một giải pháp
cuối cùng mà các chủ nợ phải sử dụng để đòi nợ khi mà các phương thức địi
nợ thơng thường đã trở nên bất lực.
Thứ ba, thủ tục phá sản là thủ tục mà hậu quả của nó thường là sự
chấm dứt hoạt động của một thương nhân.
Trong tố tụng dân sự hoặc kinh tế, sau khi bản án của Tòa án đã có hiệu
lực pháp luật thì con nợ đương nhiên có nghĩa vụ phải chấp hành. Đó là lẽ
thơng thường. Điều đáng lưu ý của các loại tố tụng thông thường này là ở chỗ,
sau khi bản án của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì con nợ đương nhiên có
nghĩa vụ phải chấp hành. Đó là lẽ thơng thường. Điều đáng lưu ý của các loại
tố tụng thông thường này là ở chỗ, sau khi trả nợ xong thì con nợ vẫn tồn tại
và hoạt động một cách bình thường. Trong tố tụng phá sản thì tình hình lại
khác. Cái khác biệt của thủ tục này so với tố tụng dân sự, kinh tế là ở chỗ,
thông thường, để giúp các chủ nợ thu hồi được các món nợ của mình thì Tịa
án phải ra những quyết định pháp lý đặc biệt như quyết định áp dụng thủ tục
thanh lý (thực chất là quyết định nhằm chấm dứt sự tồn tại của doanh nghiệp)
để rồi nhân cơ hội đó mà bán tồn bộ tài sản của nó để trả cho các chủ nợ. Nói
cách khác, đặc thù của thủ tục phá sản là ở chỗ, kết quả thục hiện thường dẫn
đến sự chấm dứt hoạt động của chính bản thân con nợ.

16



Thứ tư, thủ tục phá sản không chỉ thuần túy là một thủ tục đòi nợ mà
còn là một thủ tục có khả năng giúp con nợ phục hồi.
Như đã nói ở phần trên, mặc dù thủ tục phá sản thực chất là một thủ tục
đòi nợ tập thể nhưng điều đó khơng có nghĩa là khi con nợ bị mở thủ tục phá
sản thì ngay lập tức, tài sản của nó sẽ bị dùng để thanh tốn cho các chủ nợ.
Hiện nay, ngoài mục tiêu thanh lý, pháp luật phá sản ở nhiều nước trên thế
giới còn đặt thêm một mục tiêu rất quan trọng nữa cho thủ tục phá sản, đó là
việc giúp con nợ phục hồi hoạt động sản xuất, kinh doanh của mình. Mục tiêu
này cần phải được đặt ra là vì Nhà nước nào cũng muốn tránh được càng
nhiều càng tốt những hậu quả xấu do việc phá sản gây ra. Việc tuyên bố phá
sản một doanh nghiệp sẽ không chỉ ảnh hưởng xấu đền quyền và lợi ích hợp
pháp của bản thân chủ nợ, con nợ, người lao động mà còn kéo theo nhiều hậu
quả bất lợi cho xã hội nói chung. Đối với các chủ nợ, trong trường hợp con nợ
gặp khó khăn, việc thanh lý ngay tài sản của con nợ để thu hồi nợ không phải
bao giờ cũng là giải pháp tối ưu cho họ vì khơng phải doanh nghiệp nào lâm
vào tình trạng phá sản cũng cịn đủ tài sản để thanh tốn hết các món nợ của
mình. Vì vậy, sẽ là tốt hơn nếu con nợ được giúp đỡ để thốt khỏi tình trạng
phá sản, tiếp tục hoạt động để có cơ hội tốt hơn cho việc trả nợ. Đối với người
lao động, việc doanh nghiệp nơi họ đang làm việc bị phá sản sẽ dẫn tới việc
hàng loạt người bị thất nghiệp và kéo theo đó là những hậu quả xấu về mặt xã
hội như đói nghèo, tệ nạn xã hội, tội phạm…Đối với môi trường kinh doanh,
việc phá sản của các doanh nghiệp, nhất là những doanh nghiệp lớn, có nhiều
đối tác làm ăn hoặc hoạt động trong những ngành nghề quan trọng đối với
quốc kế dân sinh rất dễ làm phát sinh tác động dây chuyền đến các lĩnh vực
kinh tế khác cũng như đến hoạt động của các doanh nghiệp khác trong nền
kinh tế. Vì vậy, việc tạo điều kiện phục hồi cho con nợ là một xu hướng ngày
càng được khẳng định trong pháp luật phá sản hiện đại.

17



Trong thủ tục phá sản, con nợ được tòa án tạo điều kiện tối đa cho việc
phục hồi hoạt động kinh doanh. Một trong những biện pháp để giúp con nợ
thốt khỏi tình trạng phá sản là pháp luật cho phép con nợ được chủ động xây
dựng phương án hòa giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất, kinh
doanh của mình. Kế hoạch này sẽ được trình lên Hội nghị chủ nợ để thông
qua và nếu được thơng qua thì về cơ bản, doanh nghiệp con nợ được khơi
phục lại vị trí pháp lý ban đầu, tiếp tục sản xuất, kinh doanh một cách bình
thường. Theo Luật phá sản của nhiều nước thì Tịa án chỉ ra quyết định áp
dụng thủ tục thanh lý đối với những con nợ trong trường hợp đã có căn cứ rõ
ràng chứng minh về việc con nợ đã không thể phục hồi hoặc con nợ đã không
thành công trong việc thực hiện phương án phục hồi.
Thứ năm, thủ tục phá sản là một thủ tục pháp lý có tính chất tổng hợp.
So với tố tụng dân sự và kinh tế thì tố tụng phá sản phức tạp hơn nhiều.
Tính phức tạp của thủ tục này thể hiện ở chỗ, khi giải quyết việc phá sản, Tòa
án phải thụ lý và xử lý rất nhiều cơng việc khác nhau về tính chất chứ khơng
chỉ đơn thuần là các cơng việc có tính chất tài sản như trong tố tụng dân sự và
kinh tế thơng thường. Tịa án khơng chỉ giải quyết các vấn đề liên quan đến
việc xác định xem doanh nghiệp có mất khả năng thanh tốn nợ hay khơng,
nợ bao nhiêu, nợ ai… Ngồi ra, Tịa án cịn phải giải quyết nhiều vấn đề khác
nữa như: việc phục hồi hoạt động của doanh nghiệp, việc quản lý tài sản của
doanh nghiệp mắc nợ, việc thành lập và điều hành hoạt động của thiết chế
quản lý và thanh lý tài sản, việc triệu tập và chủ trì hội nghị chủ nợ…Việc
phải xử lý một lúc nhiều công việc phức tạp như vừa nêu trên đã làm cho tố
tụng phá sản hoàn tồn khác với tố tụng dân sự, kinh tế thơng thường khơng
chỉ về quy mơ mà cịn cả về tính chất. Điều này lý giải tại sao tố tụng phá sản
luôn luôn được điều chỉnh bằng một hệ thống pháp luật riêng và trở thành một
thủ tục tố tụng tư pháp đặc biệt.


18


×