Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Phiên họp kiểm tra việc giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải tại tòa án cấp sơ thẩm theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.29 MB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM NHƢ HOÀNG HẢI

PHIÊN HỌP KIỂM TRA VIỆC GIAO NỘP, TIẾP CẬN,
CÔNG KHAI CHỨNG CỨ VÀ HÒA GIẢI TẠI TÒA ÁN
CẤP SƠ THẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ 2015

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018

i


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM NHƢ HOÀNG HẢI

PHIÊN HỌP KIỂM TRA VIỆC GIAO NỘP, TIẾP CẬN,
CÔNG KHAI CHỨNG CỨ VÀ HÒA GIẢI TẠI TÒA ÁN
CẤP SƠ THẨM THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ
TỤNG DÂN SỰ 2015
Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 60.38.01.03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS NGÔ HUY CƢƠNG

HÀ NỘI - 2018

ii


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin
cậy và trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả
các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

PHẠM NHƢ HOÀNG HẢI

iii


MỤC LỤC

Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp
cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại cấp sơ thẩm. ..................................... 1
1.1.Khái niệm, đặc điểm , bản chất phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ và hòa giải tại cấp sơ thẩm. .................................................. 1

1.1.1.Khái niệm Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải tại cấp sơ thẩm ................................................................................... 1
1.1.2.Đặc điểm và bản chất của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
cơng khai chứng cứ và hịa giải tại cấp sơ thẩm. ............................................... 14
1.2.Nội dung phiên họp kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa
giải tại cấp sơ thẩm: ............................................................................................ 19
1.2.1.Nội dung việc kiểm tra giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hịa
giải: ..................................................................................................................... 19
1.2.2.Q trình vận hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai
chứng cứ và hịa giải tại cấp sơ thẩm. ................................................................ 23
1.3.Vai trò của phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
và hòa giải tại cấp sơ thẩm. ................................................................................. 27
1.3.1.Đối với tiến trình tố tụng: .......................................................................... 27
1.3.2.Đối với quan hệ pháp luật dân sự có tranh chấp: ..................................... 30
1.3.3.Đảm bảo quyền con người dưới khía cạnh pháp luật tố tụng dân sự ....... 32
1.4. Quan điểm về Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng
cứ và hòa giải tại cấp sơ thẩm trước đây. ........................................................... 34

iv


Chƣơng 2: Pháp luật về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng
khai chứng cứ và hịa giải tại cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ Luật Tố
Tụng dân sự 2015 và thực tiễn áp dụng .......................................................... 40
2.1.Quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại cấp sơ thẩm. ......................... 40
2.1.1.Những quy định chung ............................................................................... 40
2.1.2.Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ .............. 44
2.1.3.Phiên hòa giải tại cấp sơ thẩm .................................................................. 47
2.2.Những vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật về Phiên họp Kiểm tra

việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại cấp sơ thẩm theo quy
định của Bộ Luật Tố Tụng dân sự 2015. ............................................................ 53
Chƣơng 3: Kiến nghị và hoàn thiện pháp luật về phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hịa giải tại cấp sơ thẩm ............ 66
3.1.Hồn thiện chung về Pháp luật tố tụng dân sự ............................................. 66
3.2.Hoàn thiện chế định về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng
khai chứng cứ và hịa giải tại cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ Luật Tố Tụng
dân sự 2015. ........................................................................................................ 69
3.3.Kiến nghị nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải tại cấp sơ thẩm theo quy định
của Bộ Luật Tố Tụng dân sự 2015...................................................................... 73
DANH MUC TÀI LIỆU THAM KHAO......................................................... 89

v


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Sự đột phá của thể chế kinh tế về quyền tự do kinh doanh của công dân
đã tạo điều kiện cho các chủ thể được tham gia các quan hệ giao lưu dân sự một
cách chủ động và mạnh mẽ hơn. Từ sự tham gia mạnh mẽ này, các giao dịch
dân sự liên quan xuất hiện, đồng thời những tranh chấp xung quanh nó xảy ra là
điều khơng thể tránh khỏi. Để giải quyết được những xung đột về quyền và lợi
ích này giữa các bên, buộc phải hình thành một cơ chế giải quyết tranh chấp
chung đó là cơ chế tố tụng tại tòa án. Tuy nhiên, nếu như vận hành cả tiến trình
tố tụng vào tất cả các vụ việc, trong một vài trường hợp, đó khơng phải là cách
thức tối ưu nhất, do đó, để khơng phải kéo giải quá trình giải quyết tranh chấp
này cũng như tạo được hiệu quả tốt nhất, cơ chế hòa giải trong giai đoạn đầu
của tố tụng được hình thành.
Bắt đầu từ những năm đầu trong quá trình hình thành và phát tiển của dân

tộc Việt nam, giải quyết các tranh chấp bằng phương thức hòa giải đã trở thành
một trong những bước đi hiệu quả cho việc giải quyết tranh chấp , mâu thuẫn
giữa các bên trong quan hệ có xung đột quyền và lợi ích đồng thời góp phần gìn
giữ sự hịa thuận cho từng gia đình, bình n cho từng xóm làng và kỷ cương,
trật tự cho quốc gia và toàn xã hội trong mỗi giai đoạn. Phương thức này đã tồn
tại và không ngừng phát triển, phát huy vai trị to lớn cho tồn xã hội đến ngày
nay.
Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã thừa kế và phát huy
một cách hiệu quả truyền thống đẩy mạnh giải quyết tranh chấp bằng phương
thức hòa giải. Giống như lời chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Xét xử đúng là
tốt, nhưng nếu không phải xét xử thì càng tốt hơn”.Cho đến nay, hịa giải đã trở
thành nguyên tắc, thủ tục trong tố tụng dân sự nhằm bảo đảm quyền tự định
đoạt của đương sự trong việc giải quyết các tranh chấp và thể hiện trách nhiệm
1


của Nhà nước trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân và tổ
chức.
Bên cạnh đó, vấn đề hịa giải thơng qua những tài liệu, chứng cứ được
đem ra sử dụng trong cơ chế tố tụng cũng là một điểm riêng của phương thức
giải quyết tranh chấp này. Tài liệu và chứng cứ phục vụ cho việc chứng minh,
bảo vệ cho quyền và lợi ích của đương sự là yếu tố tiên quyết khi giải quyết
tranh chấp tại tòa. Đặc biệt với nguyên tắc xét xử dựa trên hồ sơ vụ án. Những
chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án sẽ quyết định phần lớn kết quả của việc
giải quyết tranh chấp. Trong giai đoạn hịa giải, kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
cơng khai chứng cứ là bước đệm để các bên có thể thống nhất ý kiến nhằm giải
quyết tranh chấp một cách nhanh chóng, dễ dàng nhất.
Về mặt lý luận cho thấy vẫn còn nhiều bất cập về kỹ thuật pháp lý, cũng
như tư tưởng pháp lý liên quan tới việc hịa giải và cơng khai chứng cứ, tài liệu
trong các văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam, nhất là trong Bộ luật tố tụng

Dân sự 2015. Thực tiễn việc hịa giải và cơng khai chứng cứ ở Việt Nam thời
gian qua cho thấy: Hòa giải hầu hết được xem như thủ tục, mà khơng có tự thỏa
thuận tự nguyện, chủ động giữa các bên. Trong khi đó, xu hướng cải cách tư
pháp hiện nay, ngành tư pháp khuyến khích các bên tự nguyện, thiện chí hịa
giải. Những tranh chấp về quyền và lợi ích giữa các bên ngày càng tăng, vì vậy,
sự khơng hiểu biết trong một chừng mực nào đó về pháp luật hịa giải có thể dẫn
đến những hậu quả đáng tiếc về quyền lợi, cũng như về mối quan hệ dân sự
đang diễn ra. Trong các vấn đề pháp lý cần có trong việc giải quyết tranh chấp
dân sự, sự thỏa thuận hay thiện chí thống nhất ý chí giải quyết tranh chấp bằng
phương thức hịa giải có ý nghĩa rất quan trọng.
Nghị quyết 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược
xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng
đến năm 2020 đã chỉ rõ cần phải “Cải cách mạnh mẽ các thủ tục tố tụng tư pháp
theo hướng dân chủ, bình đẳng, cơng khai, minh bạch, chặt chẽ, nhưng thuận
2


tiện, bảo đảm sự tham gia và giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp;
bảo đảm chất lượng tranh tụng tại các phiên toà xét xử, lấy kết quả tranh tụng
tại toà làm căn cứ quan trọng để phán quyết bản án, coi đây là khâu đột phá để
nâng cao chất lượng hoạt động tư pháp… “. Tiếp theo đó, Nghị quyết 49NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến
năm 2020 đã chỉ rõ: “…Xây dựng cơ chế xét xử theo thủ tục rút gọn đối với
những vụ án có đủ một số điều kiện nhất định”; “Tiếp tục hoàn thiện thủ tục tố
tụng dân sự…”, “Nghiên cứu chế định thừa phát lại (thừa hành viên); trước
mắt, có thể tổ chức thí điểm tại một số địa phương”. Thực hiện đường hướng về
cải cách thủ tục tố tụng tư pháp nói trên, cần phải có sự nghiên cứu và đánh giá
hết sức thận trọng về những ưu điểm, nhược điểm của pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam hiện hành trong mối liên hệ với truyền thống lập pháp, đặc điểm văn
hoá, tâm lý dân tộc và thành tựu khoa học tố tụng trên thế giới.
Với những lý do nêu trên, tôi quyết định chọn đề tài "Phiên họp kiểm tra

việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại cấp sơ thẩm theo
quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015" làm đề tài luận văn thạc sĩ với
mong muốn giúp cho mọi người hiểu rõ và sâu sắc hơn về bản chất, thủ tục
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại Việt Nam
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục đích của Luận văn là làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó
đưa ra giải pháp để khắc phục và hoàn thiện phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải tại cấp sơ thẩm theo quy định
của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
2.2. Mục tiêu cụ thể
Để thực hiện mục tiêu trên, Luận văn đề ra các mục tiêu cụ thể sau:
3




Phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận về phiên họp kiểm tra việc

giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hịa giải;
Phân tích những nội dung cơ bản của pháp luật về phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải tại Việt Nam;


Đánh giá những ưu điểm và những hạn chế của pháp luật Việt Nam

hiện hành về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại
Việt Nam;



Đưa ra giải pháp để khắc phục và hoàn thiện vấn đề phiên họp

kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải tại Việt Nam.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Tính mới của đề tài: Luận văn là cơng trình khoa học ở cấp độ thạc sĩ
đề cập đến vấn đề kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hịa
giải tại Việt Nam phân tích ưu điểm, nhược điểm thủ tục hành chính, bản chất
về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hịa giải và khắc
phục nhược điểm, hồn thiện pháp luật kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải tại Việt Nam trong xã hội dân sự tương lai.
Đóng góp đề tài về mặt khoa học cũng nhƣ thực tiễn:
Xây dựng quan điểm pháp lý tiến bộ và hiện đại về phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải và vai trò của phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải tại Việt Nam
trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật khác của hệ thống pháp luật dân
sự, tố tụng Việt Nam
Chỉ rõ bất cập, quy định không phù hợp với thực tiễn, gây khó khăn,
phiền hà, ảnh hưởng đến hoạt động thường ngày của cá nhân, tổ chức làm giảm
hiệu quả và nguồn vốn GDP thúc đẩy kinh doanh.

4


Đề xuất quan điểm tiến bộ và hiện đại về pháp luật phiên họp kiểm tra
việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải trong hoạt động giải
quyết tranh chấp tại Việt Nam.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn: Các quan điểm, tư tưởng luật học
về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ; Các văn bản
pháp luật ở Việt Nam điều chỉnh về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai

chứng cứ và hòa giải tại Việt Nam; Thực tiễn việc xây dựng, sửa đổi về phiên
họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải tại Việt
Nam theo quy định của pháp luật hiện nay, những ưu điểm và mặt hạn chế khi
áp dụng vào thực tiễn.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những nội dung cơ
bản về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa
giải trong hoạt động xét xử tại tòa án cấp sơ thẩm theo quy định pháp luật.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để làm rõ các vấn đề cần nghiên cứu nêu trên, Luận văn sử dụng nhiều
phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau, như phương pháp tổng hợp và
phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp so sánh và đối chiếu, kết hợp
nghiên cứu lý luận và thực tiễn … Các phương pháp nghiên cứu trong Luận văn
được thực hiện trên nền tảng của phương pháp duy vật lịch sử, duy vật biện
chứng; trên cơ sở các quan điểm, đường lối về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã
hội của Đảng Cộng sản Việt Nam.
6. Tình hình nghiên cứu.
Hoạt động xét xử tại tòa án cấp sơ thẩm là một nội dung quan trọng trong
hệ thống pháp luật cũng như thực tế tại Việt Nam. Hàng ngày, rất nhiều các
5


tranh chấp trong quan hệ dân sự các bên không thể tự mình giải quyết mà phải
có một bên thứ ba đứng ra giải quyết tranh chấp đó là Tịa án nhưng trên thực tế
việc kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải chưa được
cụ thể hóa vả về bản chất và thủ tục. Vì vậy nội dung về “kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải tại Việt Nam” là vấn đế rất mới
mẻ, cần được nghiên cứu để hạn chế các vướng mắc trong việc kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải tại Việt Nam.
Từ trước đến nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học liên
quan đến vấn đề hòa giải một cách trực tiếp và gián tiếp:

-

Về sách và giáo trình: Các cuốn giáo trình tiêu biểu là Giáo trình

Luật Tố tụng dân sự Việt Nam - Đại học Quốc gia Hà Nội. Khoa Luật ; Bùi Thị
Thanh Hằng chủ biên. Giáo trình luật tố tụng dân sự Việt Nam do Khoa luật Đại
học Quốc gia Hà Nội biên soạn là giáo trình được được xây dựng theo nội dung
của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004 (sửa đổi, bổ sung năm 2011); Giáo trình
Luật Tố tụng Dân sự Việt Nam - Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Cơng
Bình chủ biên, Nxb Tư Pháp, Tái bản lần thứ 4 2007. Nội dung cuốn giáo trình
gồm hai phần chính: Phần những vấn đề chung về luật tố tụng dân sự, phần thủ
tục giải quyết vụ việc dân sự; Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng Dân sự Việt
Nam 2015, Nhà xuất bản Lao Động xuất bản cuốn sách này (Dành cho thẩm
phán, hội thẩm, thẩm tra viên, kiểm sát viên, luật sư và các học viên tư pháp)”
do Thạc sỹ luật Đoàn Tấn Minh và luật gia Nguyễn Ngọc Điệp là những người
có nhiều kinh nghiệm trong công tác xét xử đối với án dân sự biên soạn … .
-

Về Cơng trình nghiên cứu cấp Bộ của Viện Nghiên cứ Khoa học

xét xử, tòa án nhân dân tối cao: “Một số vấn đề về cơ sở lý luận và thực tiễn của
việc xây dựng Bộ luật Tố tụng dân sự” (1996) đã đề cập đến vấn đề lý luận và
thực tiễn chung của việc xây dựng Bộ luật tố tụng dân sự, trong đó đã đánh giá
thực trạng của chế định hòa giải từ năm 1945 đến này và hướng hoàn thiện chế
định này.
6


-


Về Luận án, Luận văn và các cơng trình nghiên cứu khoa học:

"Chế định hòa giải trong pháp luật tố tụng dân sự, Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn", Luận án tiến sĩ Luật học -Trần Văn Quảng, Trường Đại học Luật Hà
Nội, 2004.Một số vấn đề về chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án dân sự theo quy định
của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, Luận văn thạc sĩ luật học - Nguyễn Thị
Ngọc Mai, Khoa luật ĐHQG HN, 2014; Thụ lý và chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ
án dân sự, Luận văn thạc sĩ luật học - Nguyễn Thị Việt Nga, Khoa luật ĐHQG
HN, 2012; Chuẩn bị xét xử phúc thẩm vụ án dân sự, Luận văn thạc sĩ, Nguyễn
Thị Thúy Hòa, Đại học Luật Hà Nội, 2010; Các cấp xét xử trong tố tụng dân sự
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ - Lê Thị Hà, Đại học Luật hà Nội, 1997; Một số
nhận xét đối với công tác xét xử sơ thẩm của tịa án địa phương thơng qua cơng
tác xét xử phúc thẩm - Toàn án nhân dân tối cao TP Hồ Chí Minh, Tịa án nhân
dân tối cao, Số 1/2015, tr.41-44; Hồn thiện chế định hịa giải trong tố tụng dân
sự, Đào Thị Mai Hường, Tạp chí TAND, số 1, 1998; Hòa giải và tự thỏa thuận
trong tố tụng dân sự, kinh tế và lao động", Phan Hữu Thư, Tạp chí Dân chủ và
pháp luật, số 2, 1999; Vai trò và thủ tục hòa giải trong xét xử các tranh chấp
lao động, Lê Văn Luật, Tạp chí TAND, số 16, 2004; Việc áp dụng các quy định
về hòa giải trong tố tụng dân sự, Nguyễn Thị Thanh Hương, Tạp chí Kiểm sát,
số 5, 2006; Tịa án ra quyết định phụ thuộc vào sự thỏa thuận của các đương
sự, Nguyễn Quốc Phong, Báo Cơng lý, số 72, ngày 06/9/2008; Hịa giải trong
tố tụng dân sự của Việt Nam và Nhật Bản nhìn từ góc độ so sánh, Dương
Quỳnh Hoa, Tạp chí Nhà nước và pháp luật số 02, 2008; Các giai đoạn tố tụng
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam 2015, Khóa luận cử nhân –
Phạm Văn Anh, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017 …
Tuy nhiên vấn đề về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công
khai chứng cứ và hòa giải là quy định mới của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015,
hiện chưa có một cơng trình nghiên cứu nào về phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải.


7


Luận văn này là cơng trình đầu tiên nghiên cứu về kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại cấp sơ thẩm theo quy định của Bộ
luật Tố tụng dân sự Việt nam với cấp độ luận văn thạc sĩ luật học.
7. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, Luận văn gồm 3 chương
Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về phiên họp kiểm tra việc
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại Việt Nam
Chương 2: Thực trạng pháp luật và thực tiễn tiến hành phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại cấp sơ thẩm
theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015
Chương 3: Kiến nghị hoàn thiện các quy định pháp luật về phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại Việt Nam

8


Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về phiên họp kiểm tra việc giao
nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải tại cấp sơ thẩm.
1.1. Khái niệm, đặc điểm, bản chất phiên họp kiểm tra việc giao nộp,
tiếp cận, cơng khai chứng cứ và hịa giải tại cấp sơ thẩm.
1.1.1. Khái niệm Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng khai
chứng cứ và hịa giải tại cấp sơ thẩm
Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận và công khai chứng cứ cho
đến nay vẫn cịn là một chế định hồn tồn mới so với pháp luật tố tụng dân sự
Việt Nam nói riêng và pháp luật tố tụng dân sự nói chung. Một phiên họp kiểm
tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ được tiến hành theo quy định

của pháp luật tố tụng tại hầu hết các nước trên thế giới, tuy nhiên, hiện nay vẫn
chưa có một mơ hình thống nhất và cụ thể về phiên họp này. Cách thức vận
hành, quy định chung về phiên họp được xem xét và xây dựng tùy thuộc vào
tinh thần pháp luật tố tụng dân sự của mỗi quốc gia. Phiên họp này dù được tổ
chức như thế nào cũng đều mang hơi hướng và bản chất của một giai đoạn
trong tiến trình tố tụng dân sự. Do đó, vai trị và vị trí của phiên họp trong quá
trình tiến hành tố tụng là khơng thể khơng nhắc đến.
Dưới góc độ khoa học pháp lý, tố tụng dân sự (Civil Procedure) [46, 59]
được hiểu đơn giản là một quá trình được thực hiện theo trình tự, thủ tục giải
quyết các vụ việc dân sự, trình tự, thủ tục thi hành án dân sự nhằm tìm được tỉ
lệ quyền lợi cân bằng hợp lý nhất giữa các bên chủ thể xảy ra tranh chấp. Như
một lẽ thơng thường, trong q trình giao lưu dân sự, các chủ thể trong xã hội
dân sự ln có sự tương tác với nhau thông qua vật hoặc các quyền và nghĩa
vụ. Những sự tương tác này tác động trực tiếp và mạnh mẽ tới quyền và lợi ích
của các bên, điều này dẫn đến những bất đồng và mâu thuẫn về quyền và lợi
ích chính đáng của mỗi bên. Để có thể giải quyết bất đồng, buộc người ta phải
tìm ra một cơng cụ và phương thức nào đó để chấm dứt sự bất đồng cũng như
1


giải quyết được việc phân chia quyền lợi trong quan hệ tranh chấp như thế nào
cho hợp lý. Tố tụng dân sự ra đời nhằm thực hiện vai trò này [30]. Bởi hoạt
động này có sự tham gia của một chủ thể thứ ba nằm ngoài quan hệ dân sự
tranh chấp, với mục đích giải quyết các tranh chấp nên một chuẩn mực về các
hành vi phải được ban hành nhằm định hướng cho các chủ thể tham gia các
bước thực hiện để đi tới được cơng lý và bình đẳng. Các chuẩn mực hành vi
này được thực hiện trong một thời gian dài từ khi các bên nêu ra sự việc tranh
chấp với bên thứ ba giải quyết cho đến khi kết quả của việc phân xử, giải quyết
được thể hiện ra thực tế (tiêu biểu là thể hiện qua bản án), đây được xem như
một khung xương cho hoạt động xét xử, giải quyết các tranh chấp dân sự.

Trong q trình này, có thể phân loại được loạt các hành vi tương tự, có liên
quan và các hành vi khác biệt có liên quan tạo nên các giai đoạn của hoạt động
tố tụng.
Các giai đoạn tố tụng nói chung và phiên họp kiểm tra, giao nộp, tiếp
cận chứng cứ và hịa giải nói riêng ra đời được xem như sự định hướng và phối
hợp của các bên trong việc giải quyết các tranh chấp dân sự trong mỗi khoảng
thời gian nhất định. Mỗi giai đoạn sẽ có vai trò và giá trị riêng nhằm nêu vấn
đề tranh chấp hoặc làm rõ quyền, nghĩa vụ của các bên cũng như đưa ra được
kết quả cuối cùng cho sự phân xử. Việc phân chia các giai đoạn như vậy giúp
cho hoạt động xét xử tìm ra cơng lý một cách đúng đắn và nhanh chóng nhất.
Từng giai đoạn, vụ việc được nêu ra một cách rõ ràng, sau đó được chứng
minh cũng như làm rõ quyền lợi giữa các bên đồng thời thống nhất các giải
pháp mà các bên đưa ra để thỏa thuận nhằm bù đắp hoặc giải quyết các tranh
chấp đó [45, 28].
Xét xử tại cấp sơ thẩm bao gồm cả phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao
nộp, cơng khai chứng cứ và hịa giải là bước xét xử giải quyết vụ án dân sự lần
đầu tại Tòa án. Tất cả các vụ án dân sự nếu đã phải đưa ra xét xử thì đều phải
2


trải qua cấp xét xử sơ thẩm, và để đến được với hoạt động xét xử sơ thẩm tại
tòa, việc tiến hành phiên họp kiểm tra việc tiếp cận, giao nộp, cơng khai chứng
cứ và hịa giải và thủ tục bắt buộc phải được tiến hành . Đặc điểm của phiên
tịa sơ thẩm nói chung và phiên tịa sơ thẩm dân sự nói riêng là được tiến hành
trong một thời điểm, thời gian nhất định. Phiên tòa là nơi diễn ra một cách tập
trung các hoạt động tố tụng của những người tiến hành tố tụng và những người
tham gia tố tụng như Thẩm phán, Hội thẩm, Thư ký Tòa án, đương sự và người
bảo vệ quyền lợi của đương sự v.v...
Trong q trình giải quyết vụ án, Tịa án sử dụng chứng cứ thu được từ
nhiều hoạt động khác nhau phục vụ việc giải quyết vụ án. Bên cạnh việc Tòa án

sử dụng chứng cứ thu được qua hoạt động thụ lý hồ sơ vụ án, thơng qua hịa
giải, xét xử tại phiên tòa dân sự sơ thẩm, phiên tòa phúc thẩm để giải quyết vụ
án cũng như hoạt động thu giữ chứng cứ do đương sự cung cấp các chứng cứ
cũng được bổ sung [54]. Đối với chứng cứ, hoạt động đầu tiên của Tòa án là
hoạt động tiếp nhận tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn nộp kèm theo đơn khởi
kiện (chưa thụ lý vụ án). Đó là việc "Người khởi kiện phải gửi kèm theo đơn
khởi kiện tài liệu, chứng cứ để chứng minh cho những u cầu của mình là có
căn cứ và hợp pháp”. Sau đó, các chứng cứ này sẽ được đưa vào quá trình tố
tụng làm căn cứ bảo vệ quyền và lợi ích cho các bên đương sự.
Trước khi bước tới giai đoạn chuẩn bị xét xử và xét xử, với ngun tắc
“việc dân sự cốt ở đơi bên”, quy trình tố tụng luôn dành ra một khoảng thời
gian pháp lý nhằm trước hết là giúp các đương sự xác định lại tình trạng tranh
chấp của quan hệ pháp luật, bên cạnh đó, các đương sự cũng cần được biết vị
thế của mình trong quan hệ tranh chấp hiện tại như thế nào thông qua những tài
liệu, chứng cứ mà các bên cung cấp trong hồ sơ khởi kiện [33]. Điều này đảm
bảo cho việc các bên nắm chắc hơn về tình trạng xung đột lợi ích, thúc đẩy
việc giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn dựa trên
3


những căn cứ đã được xác định. Hoạt động này được gọi với tên là kiểm tra
giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và là một hoạt động tố tụng đặc thù
được thực hiện dưới hình thức một phiên họp.
Sau khi giúp các đương sự nắm bắt được tình trạng xung đột trong quan
hệ tranh chấp, tòa án sẽ là chủ thể thứ ba đúng ra tổ chức cho các bên đương sự
có sự trao đổi, trình bày ý kiến và đưa ra phương thức giải quyết tranh chấp
này một cách nhanh chóng. Dựa trên những căn cứ pháp lý trong hồ sơ, chứng
cứ, các bên có thể trình bày quan điểm, ý kiến của mình về quyền và lợi ích
trong quan hệ xung đột lợi ích trên, đồng thời đưa ra các phương án giải quyết
có thể thống nhất được. Hoạt động này được gọi là hoạt động hòa giải.

1.1.1.1.Phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ
tại cấp sơ thẩm.
Tại bất kỳ phiên tòa xét xử nào, Hội đồng xét xử với nguyên tắc quyết
định theo đa số sẽ phải nghe các bên đương sự trình bày, nghe các bên tranh
luận về chứng cứ và dựa vào pháp luật để bảo vệ cho những u cầu của mình.
Vì vậy, Tịa án nhân dân phải kiểm tra xác minh toàn bộ các tài liệu, chứng cứ
của vụ án một cách toàn diện, khách quan, trên cơ sở đó đưa ra những nhận
định, quyết định về chủ trương giải quyết vụ án được đúng đắn, chính xác.
Bởi vậy, trước đó Tịa án trong cơng tác sau khi thụ lý vụ án phải tập
trung vào những vấn đề cơ bản trước khi tiến hành phiên tòa sơ thẩm, đó là cần
giải quyết và xem xét những tài liệu, chứng cứ của vụ án đã được giao nộp và
thẩm tra xác minh kỹ lưỡng chưa và những quyền, nghĩa vụ cụ thể của các bên
đương sự được giải quyết như thế nào cho hợp lý, hợp pháp, nhanh chóng và
hiệu quả [44, 36].

4


Đối với tố tụng dân sự, giao nộp tài liệu chứng cứ vừa là quyền và nghĩa
vụ của đương sự và công khai, tiếp cận chứng cứ cũng là quyền và nghĩa vụ
của các bên. Việc giao nộp chứng cứ là một trong những nội dung quan trọng
của tranh tụng cho nên đương sự phải giao nộp đầy đủ và công khai các tài liệu
chứng cứ, trừ trường hợp quy định được giữ bí mật, đồng thời, đây cũng là cơ
sở để chứng cứ được cơng khai và bên cịn lại dễ dàng tiếp cận chứng cứ. Xuất
phát từ quan điểm đó khi tiến hành tố tụng đương sự có quyền và nghĩa vụ giao
nộp, tiếp cận, công khai, tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và các bên đương sự
thơng qua các hoạt động: Trong q trình Tịa án giải quyết vụ việc dân sự
đương sự phải giao nộp tài liệu chứng cứ liên quan đến vấn đề tranh chấp;
Trường hợp tài liệu, chứng cứ đã được giao nộp chưa bảo đảm đủ cơ sở để giải
quyết vụ việc thì Thẩm phán yêu cầu đương sự giao nộp bổ sung tài liệu,

chứng cứ [40]. Đương sự phải giao nộp, nếu đương sự không giao nộp hoặc
giao nộp không đầy đủ tài liệu, chứng cứ do Tòa án yêu cầu mà khơng có lý do
chính đáng thì Tịa án căn cứ vào tài liệu, chứng cứ mà đương sự đã giao nộp
và Tòa án đã thu thập để giải quyết vụ việc dân sự
Theo quy định tại Điều 93 BLTTDS 2015, "Chứng cứ trong vụ việc dân
sự là những gì có thật được đương sự và cơ quan, tổ chức, cá nhân khác giao
nộp, xuất trình cho Tồ án trong q trình tố tụng hoặc do Tồ án thu thập
được theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và được Toà án sử dụng
dùng làm căn cứ để xác định các tình tiết khách quan của vụ án cũng như xác
định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ và hợp pháp”. [49]
Từ khái niệm trên có thể khẳng định, chứng cứ trong phiên họp phải bảo
đảm 03 thuộc tính là tính khách quan (là những gì có thật); tính liên quan (được
dùng làm căn cứ để xác định yêu cầu hay sự phản đối của đương sự là có căn cứ
và hợp pháp hay khơng cũng như những tình tiết khác cần thiết cho việc giải
quyết đúng đắn vụ việc dân sự) và tính hợp pháp (được giao nộp hoặc thu thập
5


theo trình tự, thủ tục do BLTTDS quy định). Như vậy, những gì được xác định
là chứng cứ thì chúng phải đảm bảo 03 thuộc tính của chứng cứ được nêu trên.
Cũng vì đó, vai trị của chứng cứ trở nên vơ cùng quan trọng cho q trình giải
quyết vụ án.
Khi người khởi kiện nộp đơn trong đó có nộp tài liệu, chứng cứ thì điều
này đã tạo nên căn cứ để Tòa án phải tiến hành thu thập và lập biên bản giao
nhận chứng cứ. Ngồi ra khơng chỉ trước giai đoạn thụ lý vụ án, trong giai
đoạn chuẩn bị xét xử chứng cứ cũng sẽ dần được bổ sung và hồn thiện. Và
bên cạnh đó, ý kiến của đương sự và thỏa thuận, không thỏa thuận không chỉ
giới hạn trong các ý kiến đã trình bày ở bản tự khai, biên bản ghi lời khai.
Chứng cứ còn được lấy từ một nguồn khác đó là thơng qua các hoạt động tố
tụng tại cấp sơ thẩm, Toà án phải trực tiếp xác định những tình tiết của vụ án

bằng cách (1) hỏi và nghe lời trình bày của nguyên đơn, bị đơn, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người đại diện hợp pháp, người bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và những người tham gia tố tụng
khác; (2) xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ đã thu thập được [51].
Như vậy, phiên họp khơng chỉ là q trình xem xét, kiểm tra tài liệu,
chứng cứ đã thu thập được, ý kiến mà đương sự, người tham gia tố tụng khác
đã trình bày mà nó cịn là q trình xem xét, kiểm tra tài liệu, chứng cứ được
cung cấp tại phiên họp và những ý kiến mà đương sự, người tham gia tố tụng
khác bổ sung nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự và làm rõ
các tính tiết khách quan của vụ án. Chính vì vậy, phiên hợp kiểm tra giao nộp,
tiếp cận, công khai chứng cứ là kết quả hiển nhiên của quá trình thu thập chứng
cứ, tạo lập và hoàn thiện hồ sơ giải quyết vụ án.
Ở tòa án Anh, nghĩa vụ chứng minh hồn tồn thuộc về các đương sự.
Vai trị của thẩm phán giải quyết vụ án tại tòa án Anh đối với vấn đề chứng cứ
hồn tồn khác ở tịa án Việt Nam. Tịa án có quyền đưa ra u cầu về những
6


vấn đề cần được cung cấp chứng cứ, bản chất của các chứng cứ được yêu cầu,
cách thức chứng cứ được trình trước tịa (Điều 32.1 CPR). Khác với tịa án
Việt Nam, tịa án Anh sẽ khơng tự mình thu thập chứng cứ cho các đương sự,
mặc dù tịa có thể hỗ trợ các đương sự bằng cách cho áp dụng một số biện pháp
khẩn cấp tạm thời như ban hành lệnh tìm kiếm để buộc một bên cho phép bên
kia vào nơi cư trú/làm việc của mình để tìm chứng cứ. Như vậy, luật tố tụng
Anh trao cho các bên hoàn toàn quyền chủ động cũng như nghĩa vụ trong việc
thu thập và cung cấp chứng cứ cho tòa án giải quyết tranh chấp. Vì vấn đề
chứng cứ rất quan trọng và phức tạp nên thông thường, các đương sự không
thể biết cách thu thập và cung cấp chứng cứ một cách hiệu quả, đúng luật nếu
khơng có sự trợ giúp pháp lý chuyên nghiệp [35].
Khi tham gia tố tụng tại tịa án Anh, các bên sẽ phải cơng bố chứng cứ,

tài liệu mình có, bằng cách cho biết tài liệu đó tồn tại hoặc đã từng tồn tại.
Điều 31.2 CPR Việc công bố tài liệu phải được thực hiện theo trình tự luật
định. Tịa án sẽ ra lệnh yêu cầu các bên phải công bố chứng cứ, trong đó đưa ra
tiêu chuẩn về việc cơng bố. Tiêu chuẩn này có thể được tịa án điều chỉnh, hoặc
các bên có thể thỏa thuận về giới hạn và phân chia tiêu chuẩn đó. Mỗi bên phải
gửi cho bên kia danh sách các tài liệu được công bố. Điều 31.10 CPR Thông
thường, các bên không những phải công bố các chứng cứ có lợi cho mình, mà
cả các chứng cứ có lợi cho đối phương và các tài liệu khác mà các quy tắc tố
tụng bắt buộc phải công bố. Điều 31.6 CPR Đây là một điểm khác biệt đáng
chú ý so với q trình tố tụng tại tịa án Việt Nam khi mà các đương sự khơng
có nghĩa vụ phải công bố chứng cứ, nhất là chứng cứ bất lợi cho mình thì ở tịa
án Anh, đương sự khơng thể giấu giếm chứng cứ mà phải công bố tất cả theo
hướng dẫn của luật và của tòa án.
Theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự Hoa Kỳ, Các bên đương sự
phải tự mình tìm kiếm, thu thập mọi chứng cứ cần thiết để bảo vệ quyền lợi
7


của mình như thu thập các chứng cứ viết, các vật chứng, đề xuất toà án triệu
tập những người làm chứng cần thiết… Theo pháp luật tố tụng dân sự Hoa Kỳ,
các bên đương sự có quyền và nghĩa vụ trao đổi chứng cứ với nhau và quyền
được biết toàn bộ các chứng cứ của bên kia [37]. Nếu một bên từ chối không
cung cấp chứng cứ hoặc không trả lời về vấn đề nào đó thì thẩm phán sẽ ban
hành lệnh buộc người từ chối phải cung cấp chứng cứ hoặc áp dụng các biện
pháp chế tài cần thiết. Nếu người không cung cấp chứng cứ là bị đơn thì thẩm
phán sẽ quyết định giải quyết vụ kiện hồn tồn trên chứng cứ do ngun đơn
xuất trình trước tồ án. Trong trường hợp thẩm phán thấy rằng chứng cứ mà
các đương sự xuất trình chưa đầy đủ để giải quyết vụ việc thì thẩm phán yêu
cầu các bên đương sự cung cấp thêm chứng cứ chứ thẩm phán không bao giờ
tự mình thu thập chứng cứ. Sau khi các bên thu thập được đầy đủ thơng tin,

chứng cứ thì họ phải gặp nhau theo lệnh của thẩm phán, chủ toạ phiên tồ. Tại
đây, thẩm phán có thể tiến hành hoà giải để các đương sự thoả thuận với nhau
về việc giải quyết vụ việc hoặc thống nhất những vấn đề cần tranh tụng tại
phiên toà (những vấn đề các đương sự cịn mâu thuẫn, những thơng tin, tài liệu
nào mà các bên không đồng ý là chứng cứ hoặc một bên không đồng ý là
chứng cứ để đưa ra trước tồ trong vụ việc đó, triệu tập người làm chứng,
người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan… tham gia phiên tồ) [30].
Tại Nga, q trình tố tụng giải quyết vụ án dân sự cũng phải tiến hành
một “Phiên tịa sơ bộ” theo Điều 152. Phiên tồ sơ bộ: 1.Phiên tồ xét xử sơ bộ
có mục đích nhằm củng cố vê mặt tố tụng những hành vi mà các bên dã thực
hiện trong quá trình chuẩn bị xét xử, xác định những tình tiết có ý nghĩa để giải
quyết đúng đắn vụ án, xác định tính đầy dủ của các chứng cứ, xem xét những
sự kiện đã quá thời hạn tố tụng và quá thời hiệu. 2. Phiên toà xét xử sơ bộ phải
được tiến hành theo chế độ một Thẩm phán. các bên được thông báo về thời
gian và địa điểm tiến hành phiên tòa sơ bộ. Trong phiên tồ sơ bộ, các bên có
quyền đưa ra chứng cứ, lập luận, yêu cầu. [4]
8


Cũng như ở giai đoạn tố tụng khác, đây là hoạt động tố tụng đặc thù nên
chúng được tách biệt, không thuộc phạm vi của hoạt động thu thập chứng cứ
cũng như phạm vi của hoạt động hòa giải như thường được quy định tại Bộ
luật Tố tụng dân sự. Vì lẽ đó, một vụ án dân sự được đem ra giải quyết ở tịa
án, khi có sự trình bày, thảo luận giữa các đương sự về vấn đề tranh chấp, tài
liệu, chứng được đã được đưa ra tòa và lời khai của đương sự cũng như tài liệu,
chứng cứ được nộp trong giai đoạn khởi kiện, tại phiên họp Tịa án cùng các
đương sự phải có sự kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ đã được xem xét
(đã thu thập trong giai đoạn thụ lý vụ án và chuẩn bị xét xử) để bước đầu định
hướng giải quyết tranh chấp giữa các đương sự.
Để bảo đảm mọi chứng cứ được cơng khai, các đương sự đều có quyền

được biết các tài liệu chứng cứ của vụ án để thực hiện quyền tranh tụng, quyền
bảo vệ hoặc tự bảo vệ các lợi ích chính đáng của mình, cho nên ngoài nghĩa vụ
giao nộp tài liệu chứng cứ cho Tịa án thì ngun đơn cũng phải gửi bản sao
cho đương sự khác. Do vậy, phải có phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận,
công khai chứng cứ trước khi có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên để
hạn chế việc phát sinh thêm thủ tục không cần thiết, nên đã ghép phiên họp
kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ với phiên hịa giải.
Trường hợp vụ án dân sự khơng được hịa giải hoặc khơng tiến hành hịa giải
được thì Thẩm phán tiến hành phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, cơng
khai chứng cứ mà khơng tiến hành hịa giải.
1.1.1.2.Hịa giải tại cấp sơ thẩm.
Hòa giải là việc Tòa án nhân dân hướng dẫn các đương sự tự thoả thuận,
thương lượng để giải quyết vụ án theo đúng đường lối, chính sách và pháp luật.
Trong q trình giải quyết vụ án dân sự, hòa giải là một thủ tục cần thiết và bắt
buộc ( trừ một số vụ án như khiếu nại danh sách cử tri, tuyên bố mất tích,
chết). Hòa giải là hành vi thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc
9


xích mích một cách ổn thỏa. Hịa giải cũng là giải quyết các tranh chấp, bất
đồng giữa hai hay nhiều bên tranh chấp bằng việc các bên dàn xếp, thương
lượng với nhau có sự tham gia của bên thứ ba (khơng phải là bên tranh chấp).
Hịa giải cịn được hiểu ở góc độ rộng hơn là một q trình, trong đó bên thứ
ba giúp hai bên tranh chấp ngồi lại với nhau để cùng giải quyết vấn đề của
họ.[2] Hòa giải cũng được coi là sự tiếp nối của quá trình thương lượng, trong
đó các bên cố gắng làm điều hoà những ý kiến bất đồng [25, 18].
Theo Từ điển tiếng Việt thì hịa giải là “thuyết phục các bên đồng ý
chấm dứt xung đột hoặc xích mích một cách ổn thỏa”. Khái niệm này đề cập
đến hành động và mục đích của hịa giải nhưng chưa nêu được các yếu tố như
bản chất, nội dung và chủ thể của hòa giải. [23]

Trong Từ điển pháp lý của Rothenberg, hòa giải (reconciliation) là
“hành vi thỏa hiệp giữa các bên sau khi có tranh chấp, mỗi bên nhượng bộ
một ít” [62, tr.410]. Còn Từ điển luật học của Black cho rằng, hòa giải là “sự
can thiệp; sự làm trung gian hòa giải; hành vi của người thứ ba làm trung
gian giữa hai bên tranh chấp nhằm thuyết phục dàn xếp hoặc tranh chấp giữa
họ”.[61, tr.152]
Hịa giải có ý nghĩa lớn, nó là cho những tranh chấp, xung đột, mâu
thuẫn, xích mích được giập tắt hoặc không vượt qua giới hạn sự nghiêm trọng,
giúp cho các bên tránh được một sự xung đột được giải quyết bằng bạo lực
hoặc chiến tranh. Giúp các bên hiểu biết lẫn nhau, giữ gìn cục diện ổn định…
Chính vì vai trị to lớn này nên trong quy định pháp luật, các nước thường đặt
ra vấn đề hòa giải trong giải quyết các tranh chấp. Và ở góc độ quốc tế, hịa
giải cũng là một trong những nguyên tắc hàng đầu trong việc giải quyết tranh
chấp quốc tế được quy định tại Hiến Chương Liên Hiệp quốc.

10


Hòa giải là một chế định quan trọng trong tố tụng dân sự. Là hoạt động
do Tòa án tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết vụ án dân sự (VADS). Việc hòa giải có ý nghĩa hết sức quan trọng,
nó vừa đảm bảo tiết kiệm chi phí cho Nhà nước và cơng dân, giảm bớt giai
đoạn tố tụng kéo dài, vừa giải quyết triệt để các mâu thuẫn giữa các đương
sự… Do đó, nếu chế định hịa giải khơng được quan tâm trong việc giải quyết
VADS thì quyền và lợi ích của các bên đương sự sẽ không được bảo đảm [45].
Sau khi thụ lý vụ án, để giải quyết vụ án tịa án tiến hành giải thích pháp
luật, giúp đỡ các đương sự giải quyết mâu thuẫn, thỏa thuận với nhau về việc
giải quyết các vấn đề của VADS có tranh chấp. Hoạt động này của tòa án được
gọi là hòa giải VADS. Hòa giải vụ án dân sự là hoạt động tố tụng do tòa án
tiến hành nhằm giúp đỡ các đương sự thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án

dân sự.
Cơ sở của hòa giải VADS là quyền tự định đoạt của các đương sự. Để
giải quyết VADS bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, tịa án khơng
chỉ xét xử mà cịn hịa giải VADS. Điều 10 Bộ luật Tố tụng Dân sự (BLTTDS)
quy định, tịa án có trách nhiệm tiến hành hịa giải và tạo điều kiện thuận lợi để
các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án dân sự theo quy
định của Bộ luật này.
Tại khoản 1 Điều 180 BLTTDS quy định trách nhiệm hòa giải của tòa
án: “Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Toà án tiến hành hoà giải
để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án
khơng được hồ giải hoặc khơng tiến hành hoà giải được quy định tại Điều
181 và Điều 182 của Bộ luật này”. Do vậy, hòa giải tiến hành với việc giải
quyết hầu hết VADS, trừ những trường hợp khơng hịa giải được hoặc pháp
luật quy định khơng được hòa giải [49].
11


Trước khi tiến hành phiên hòa giải, tòa án phải thông báo cho các đương
sự, người đại diện hợp pháp của đương sự về thời gian, địa điểm tiến hành
phiên hòa giải, nội dung các vấn đề cần hòa giải. Khi tiến hành hòa giải, Thẩm
phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan
đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình,
phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành để họ tự nguyện thoả thuận
với nhau về việc giải quyết vụ án.
Khi đã có đầy đủ điều kiện để tiến hành hịa giải thì thẩm phán được
phân cơng giải quyết vụ án có cán bộ thư ký tịa án giúp việc ghi biên bản sẽ
tiến hành giải phiên hòa giải. Thẩm phán công bố nội dung vụ án tranh chấp,
phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến
việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền và nghĩa vụ của mình. Thẩm
phán phân tích hậu quả pháp lý của việc hịa giải thành hoặc khơng thành để

các bên đương sự tự nguyện thương lượng thỏa thuận với nhau về việc giải
quyết vụ án.
Sau khi được thẩm phán hướng dẫn và nghe giải thích pháp luật có liên
quan đến vụ án đang tranh chấp, đến lượt nguyên đơn, bị đơn, người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan phát biểu quan điểm của họ về vấn đề đang tranh chấp
và đưa ra định hướng giải quyết. Đối với những ý kiến của đương sự đưa ra
cách giải quyết bất hợp lý như khởi kiện tài sản khơng có căn cứ, u cầu bồi
thường quá đáng thì thẩm phán chủ trì phải kịp thời phân tích, thẳng thắn chỉ
cho họ biết yêu cầu của họ đưa ra là không hợp lý để họ cân nhắc lại.
Khi đương sự thỏa thuận được với nhau về các vấn đề phải giải quyết
trong vụ án thì tồ án lập biên bản hịa giải thành, trong đó nêu rõ nội dung
tranh chấp và những nội dung đã được đương sự thỏa thuận. Biên bản này chưa
có giá trị pháp lý, nó chỉ là tài liệu văn bản xác nhận một sự kiện và nó là cơ sở
để tịa án ra quyết định cơng nhận sự thỏa thuận của đương sự. Biên bản hòa
12


×