Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Quy chế pháp lý của công ty du lịch ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

GIẢ THỊ TỐ SƢƠNG

QUY CHế PHáP Lý CủA CÔNG TY DU LịCH
ở VIệT NAM

LUN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

GIẢ THỊ TỐ SƢƠNG

QUY CHế PHáP Lý CủA CÔNG TY DU LịCH
ở VIệT NAM
Chuyờn ngành: Luật kinh tế
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS PHẠM HỮU NGHỊ

HÀ NỘI - 2017


[



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

GIẢ THỊ TỐ SƢƠNG


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ PHÁP LÝ
CỦA CÔNG TY DU LỊCH................................................................ 7
1.1.

Khái quát về kinh doanh du lịch, kinh doanh lữ hành và
công ty du lịch ..................................................................................... 7

1.1.1.


Khái quát về kinh doanh du lịch và kinh doanh lữ hành .................... 7

1.1.2. Khái quát về công ty du lịch .............................................................. 13
1.2.

Quy chế pháp lý của công ty du lịch ............................................... 18

1.2.1. Khái niệm quy chế pháp lý của công ty du lịch ................................. 18
1.2.2. Yêu cầu đặt ra đối với quy chế pháp lý của công ty du lịch .............. 20
1.2.3. Nội dung quy chế pháp lý của công ty du lịch ................................... 21
Tiểu kết Chƣơng 1 ......................................................................................... 30
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA CÔNG TY
DU LỊCH Ở VIỆT NAM ................................................................. 31
2.1.

Các quy định về điều kiện kinh doanh lữ hành, giấy phép
kinh doanh lữ hành .......................................................................... 31

2.1.1. Về điều kiện kinh doanh lữ hành ....................................................... 31
2.1.2. Về giấy phép kinh doanh.................................................................... 38
2.2.

Các quy định về quyền và nghĩa vụ của công ty du lịch ............... 48

2.2.1. Quyền của công ty du lịch .................................................................. 48
2.2.2. Nghĩa vụ của công ty du lịch.............................................................. 54
2.3.

Các quy định về chấm dứt động kinh doanh du lịch lữ hành ...... 60


Tiểu kết Chƣơng 2 ......................................................................................... 65


Chƣơng 3: ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC
THI PHÁP LUẬT VỀ CÔNG TY DU LỊCH Ở VIỆT NAM ................ 66
3.1.

Định hƣớng nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về công ty
du lịch ở Việt Nam ............................................................................ 66

3.1.1. Nâng cao nhận thức của xã hội về phát triển du lịch ......................... 66
3.1.2.

Khuyến khích phát triển du lịch, đưa du lịch trở thành ngành
kinh tế mũi nhọn ................................................................................. 67

3.1.3.

Phát triển du lịch bền vững................................................................ 69

3.1.4.

Đào tạo, bồi dưỡng và phát triển nguồn nhân lực du lịch ................. 75

3.1.5. Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về du lịch ............................. 76
3.2.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về công
ty du lịch ở Việt Nam ....................................................................... 77


3.2.1. Đảm bảo công ty du lịch thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin....... 77
3.2.2. Tuyên truyền, hướng dẫn và tổ chức triển khai thực hiện các quy
định pháp luật về công ty du lịch ....................................................... 80
3.2.3. Tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra việc chấp hành pháp
luật trong kinh doanh lữ hành của công ty du lịch ............................. 82
Tiểu kết Chƣơng 3 ......................................................................................... 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 88


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Việt Nam là một quốc gia thuộc khu vực Đông Nam Á có lịch sử
trường kì kháng chiến, nền văn hóa lâu đời, văn hóa đa dạng sắc tộc, cảnh
quan thiên nhiên hùng vĩ cùng với các di tích khảo cổ đặc sắc nổi tiếng khơng
những trong khu vực mà cịn trên thế giới. Chính vì vậy, du lịch ở Việt Nam
rất có tiềm năng phát triển và đang được Đảng, Nhà nước hết sức quan tâm.
Trong xu hướng toàn cầu hóa và hội nhập, du lịch được xem là một ngành
kinh tế “khơng khói” đem lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần lớn vào thu nhập
của nền kinh tế quốc dân cũng như đem lại hiệu quả trong quá trình phát triển
văn hóa, quảng bá hình ảnh đất nước ra thế giới và khu vực.
Nắm bắt được tầm quan trọng của du lịch, Đảng và Nhà nước đã có chủ
trương đổi mới hành lang pháp lý trở nên thông thống hơn thơng qua Luật
Du lịch 2005 ra đời để đáp ứng nhu cầu gia nhập Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển, văn hóa và dân trí nâng cao,
thúc đẩy kinh doanh du lịch phát triển. Theo đó, các doanh nghiệp kinh doanh
du lịch (trong đó có cơng ty du lịch) được thành lập ngày càng nhiều, đáp ứng
nhu cầu dịch vụ du lịch, hoạt động rộng rãi và ngày càng phát triển, góp phần
là cầu nối giữa các hình thức kinh doanh khác, giúp du lịch phát triển một

cách bền vững.Việc nhận thức rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn đối với
công ty du lịch là cần thiết.
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, pháp luật về kinh doanh du lịch và công
ty du lịch tương đối đầy đủ, tuy nhiên đã khơng cịn phù hợp với thực tiễn sau
thời gian dài áp dụng. Luật du lịch vẫn chưa đáp ứng được hết những yêu cầu
và đòi hỏi của nền kinh tế du lịch đang trên đà phát triển hiện nay, dẫn đến
việc quản lí nhà nước đối với hoạt động đăng kí kinh doanh, cấp giấy phép

1


kinh doanh du lịch cịn có nhiều khó khăn. Các quy định của pháp luật còn
chưa thống nhất, hạn chế, chồng chéo và chưa có sự quan tâm đúng mức đến
các cơng ty du lịch, dẫn đến tình trạng chất lượng dịch vụ du lịch chưa cao,
cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nghiệp, chưa đảm bảo được
quyền lợi của khách du lịch. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Quy chế pháp
lý của công ty du lịch ở Việt Nam” làm Luận văn tốt nghiệp cao học luật,
với mong muốn đóng góp một số ý kiến và kiến nghị để nâng cao hiệu quả
thực thi pháp luật về công ty du lịch trong hoạt động kinh doanh du lịch thời
gian tới, đặc biệt trong bối cảnh Luật du lịch 2017 sắp có hiệu lực.
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có một số cơng trình nghiên cứu khoa học trong nước về hoạt động
kinh doanh du lịch, công ty du lịch như:
Phùng Thị Thanh Hiền (2008),“Quy chế pháp lý của thương nhân
trong kinh doanh du lịch tại Việt Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội. Đây là cơng trình nghiên cứu duy nhất về chủ thể
của hoạt động kinh doanh du lịch ở Việt Nam tính đến thời điểm hiện tại. Là
một cơng trình mang tính hệ thống, đầy đủ, tuy nhiên cơng trình trên chỉ
nghiên cứu một cách bao qt nhất về quy chế pháp lý của thương nhân thực
hiện hoạt động kinh doanh du lịch mà chưa có sự đi sâu vào một chủ thể hoạt

động kinh doanh du lịch nhất định.
Lê Công Bằng (2014), “Pháp luật về kinh doanh lữ hành”, Luận văn
thạc sĩ luật học trường Đại học luật TP.HCM.
Nguyễn Thị Thanh Loan (2010),“Pháp luật về kinh doanh lữ hành – Thực
trạng và hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ luật học trường Đại học luật TP.HCM.
Nguyễn Thị Kim Dung (2007),“Pháp luật về kinh doanh du lịch – Thực
trạng và hoàn thiện”, Luận văn thạc sĩ luật học trường Đại học luật TPHCM.
Ba luận văn trên đều chỉ nghiên cứu khái quát Luật Du lịch 2005, so
2


sánh, đánh giá Luật Du lịch 2005 với Pháp lệnh Du lịch 1999, nội dung chủ
yếu của ba luận văn này là các loại hình kinh doanh du lịch và kinh doanh lữ
hành, chưa có sự đầu tư nghiên cứu pháp luật về chủ thể thực hiện hoạt động
kinh doanh du lịch hay kinh doanh lữ hành.
Ngoài ra, một số đề tài nghiên cứu không chuyên pháp lý liên quan đến
đề tài công ty du lịch như: Báo cáo kết thúc mơn Tổng quan du lịch của nhóm
Hải Đường (2013), “Các loại hình kinh doanh du lịch”, Trường Đại học
Nơng lâm TPHCM; Phạm Cao Thái (2010),“Pháp luật và thực thi pháp luật
trong hoạt động lữ hành, hướng dẫn viên du lịch ở Việt Nam hiện nay”, Luận
văn thạc sĩ du lịch trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội. Vì
khơng phải là các cơng trình nghiên cứu luật học nên các cơng trình nghiên
cứu trên vẫn còn nhiều hạn chế về mặt lý luận cũng như hạn chế về mặt đánh
giá thực trạng điều chỉnh của pháp luật đối với công ty du lịch.
Nguyễn Trùng Khánh (2011),“Phát triển dịch vụ lữ hành du lịch trong
điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế: Kinh nghiệm của một số nước Đơng Á và
gợi ý chính sách cho Việt Nam”, Luận án tiến sĩ kinh tế Viện Khoa học Xã
hội Việt Nam. Cơng trình này nghiên cứu về lý luận và thực tiễn phát triển
dịch vụ lữ hành du lịch Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế từ khía
cạnh kinh tế học và chưa đi sâu nghiên cứu về chủ thể quan trọng trong hoạt

động kinh doanh lữ hành dưới góc độ pháp lý.
Phùng Thị Thanh Hiền (2016),“Một số hạn chế của pháp luật về kinh
doanh du lịch ở Việt Nam”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số định kì tháng
5/2016. Bài viết đã có cái nhìn khá đa chiều về những bất cập của quy định
pháp luật về hoạt động kinh doanh du lịch. Tác giả có nêu ra một số hạn chế
về đăng kí kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh lữ hành nội địa, về vấn
đề kí quỹ, về việc cấp thẻ hướng dẫn viên quốc tế cho công ty lữ hành quốc
tế. Tuy nhiên, bài viết chỉ dừng lại ở việc nhận định một số hạn chế trong quy
3


phạm pháp luật về kinh doanh lữ hành mà không đề cập cụ thể và chuyên sâu
đến điều kiện thành lập, hoạt động và chấm dứt hoạt động của công ty du lịch.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về lý luận và thực tiễn một cách có hệ thống
những vấn đề lý luận về quy chế pháp lý của cơng ty du lịch ở Việt Nam. Từ
đó, nêu lên những kiến nghị, giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về
quy chế pháp lý của công ty du lịch trong hoạt động kinh doanh du lịch ở Việt
Nam hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, Luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất, làm sáng tỏ khái niệm, yêu cầu và nội dung của quy chế pháp
lý của công ty du lịch.
Thứ hai, phân tích, đánh giá thực trạng quy chế pháp lý của công ty du
lịch lữ hành ở Việt Nam.
Thứ ba, nêu định hướng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật về công ty du lịch ở Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu những vấn đề pháp lý về điều kiện thành

lập, thực trạng quy chế pháp lý liên quan đến cơng ty du lịch – một loại hình
doanh nghiệp khá đặc biệt đang được thành lập ngày càng nhiều hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Trong phạm vi cho phép, Luận văn tập trung nghiên cứu về quy chế
pháp lý của công ty du lịch hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh du lịch lữ
hành. Từ đó, Luận văn nghiên cứu lý luận pháp luật chuyên sâu về quy chế
pháp lý kinh doanh lữ hành và công ty du lịch. Thực trạng của pháp luật Việt
Nam liên quan đến công ty du lịch. Luận văn đưa ra một số định hướng và
4


giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi những quy định của pháp luật liên quan
đến công ty du lịch.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu để nghiên cứu các vấn
đề cụ thể trong lĩnh vực công ty du lịch như sau:
Phương pháp mô tả: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu ở phần
mô tả các quy định của pháp luật về điều kiện thành lập, trình tự thủ tục thành
lập, chấm dứt hoạt động,… của công ty du lịch. Phương pháp sẽ được sử
dụng theo hai hướng là sao lại và phản ánh.
Phương pháp so sánh pháp luật: Luận văn sẽ có sự so sánh pháp luật
của Việt Nam với một số nước trên thế giới có nền kinh tế du lịch phát triển
quy định về lĩnh vực công ty du lịch, nhằm đưa ra những kiến nghị phù hợp.
Phương pháp phân loại: Phương pháp này được sử dụng để phân loại
các chủ thể hoạt động kinh doanh du lịch và phân biệt công ty du lịch với các
chủ thể khác hoạt động kinh doanh lữ hành như cá nhân, doanh nghiệp nhà
nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi.
Phương pháp phân tích: Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu
các quy định của pháp luật liên quan đến công ty du lịch trên cơ sở phân tích,
chứng minh, đánh giá tính bất cập, hạn chế của các quy phạm liên quan đến

lĩnh vực này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Đã có một số cơng trình nghiên cứu khoa học, các tài liệu, sách báo,
giáo trình liên quan đến hoạt động kinh doanh du lịch, kinh doanh lữ hành và
chủ thể thực hiện hoạt động kinh doanh du lịch. Tuy nhiên, vẫn chưa có một
cơng trình nghiên cứu nào đi sâu phân tích và nghiên cứu về lý luận và thực
tiễn áp dụng quy chế pháp lý của loại hình tổ chức hoạt động kinh doanh du
lịch đang rất phát triển hiện nay, đó là cơng ty du lịch. Chính vì vậy, luận văn
5


là đề tài nghiên cứu đầu tiên ở Việt Nam về quy chế pháp lý của công ty du
lịch. Kết quả nghiên cứu của đề tài luận văn có giá trị tham khảo đối với các
cơ sở đào tạo và nghiên cứu về luật học.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được kết cấu thành 3 chương, bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quy chế pháp lý của công ty du lịch.
Chương 2: Thực trạng quy chế pháp lý của công ty du lịch ở Việt Nam.
Chương 3: Định hướng, giải pháp nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về công ty du lịch ở Việt Nam.

6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUY CHẾ PHÁP LÝ
CỦA CÔNG TY DU LỊCH
1.1. Khái quát về kinh doanh du lịch, kinh doanh lữ hành và công
ty du lịch

1.1.1. Khái quát về kinh doanh du lịch và kinh doanh lữ hành
Khái quát về kinh doanh du lịch
Hoạt động kinh doanh du lịch có vai trị hết sức quan trọng đối với sự
phát triển chung của nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, việc nhận thức về khái
niệm và nội dung du lịch và kinh doanh du lịch cho đến nay vẫn chưa thống
nhất. Các nhà nghiên cứu, các chuyên gia nghiên cứu về du lịch vẫn đưa ra
nhiều quan điểm khác nhau về du lịch và kinh doanh du lịch.
Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) đã định nghĩa khái niệm du lịch
như sau: “Du lịch được hiểu là tổng hợp các mối quan hệ, hiện tượng và các
hoạt động kinh tế bắt nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của cá nhân hay
tập thể ở bên ngoài nơi cư trú thường xuyên của họ với mục đích hịa bình.
Nơi họ đến khơng phải là nơi làm việc của họ”.
Khoa Du Lịch và Khách Sạn của trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà
Nội đã tổng hợp những lý luận và thực tiễn của hoạt động du lịch trên thế giới
và Việt Nam đã đưa ra một khái niệm du lịch khá đầy đủ cả về góc độ kinh tế
nói chung và kinh doanh du lịch nói riêng:
Du lịch là một ngành kinh doanh bao gồm các hoạt động tổ chức hướng
dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hóa và dịch vụ của những doanh nghiệp,
nhằm đáp ứng các nhu cầu về đi lại lưu trú, ăn uống, tham quan, giải trí, tìm
hiểu và các nhu cầu khác của khách du lịch. Các hoạt động đó phải đem lại lợi
ích kinh tế chính trị - xã hội thiết thực cho nước làm du lịch và bản thân
doanh nghiệp [51, tr.20].
7


Tại Việt Nam, mặc dù du lịch là một lĩnh vực khá mới mẻ nhưng các
nhà nghiên cứu của Việt Nam cũng đưa ra các khái niệm xét trên nhiều góc
độ nghiên cứu khác nhau. Trong đó, Luật Du lịch Việt Nam (được Quốc hội
thông qua tại kỳ họp thứ 7, Khóa XI năm 2005) đã nêu khái niệm về du lịch
như sau: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người

ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan,
tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian nhất định” [35].
Từ các khái niệm trên ta thấy rằng có rất nhiều khái niệm về du lịch và
đều được định nghĩa theo nghĩa rộng. Khái niệm du lịch theo quy định của
pháp luật của Việt Nam được giới hạn hẹp hơn với bốn mục đích chính là
tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng. Hay nói cách khác du lịch phát sinh
từ nhu cầu của người đi, thực hiện sự di chuyển ra ngoài nơi cư trú thường
xuyên, từ nơi này đến nơi khác bằng bất kì phương tiện nào với mục đích
tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng có thời gian cụ thể và có sự trở về
nơi xuất phát ban đầu.
Hoạt động kinh doanh du lịch là tổng hòa mối quan hệ giữa các hiện
tượng kinh tế với kinh tế của hoạt động du lịch, hình thành trên cơ sở phát
triển đầy đủ sản phẩm hàng hóa du lịch và q trình trao đổi mua bán hàng
hóa du lịch trên thị trường.
Sự vận hành kinh doanh du lịch là lấy tiền tệ làm môi giới, tiến hành
trao đổi sản phẩm du lịch giữa khách du lịch và công ty du lịch, sự vận hành
này lấy vận động mâu thuẫn giữa hai mặt cung cấp và nhu cầu du lịch làm đặc
trưng chủ yếu.
Khác với các loại hàng hóa thơng thường sản phẩm hàng hóa trao đổi
giữa hai bên cung cầu trong du lịch không phải là vật cụ thể, cái mà du khách
có được là sự cảm giác, thể nghiệm hoặc hưởng thụ, vì thế trong quá trình
trao đổi sản phẩm du lịch, giao lưu hàng hóa và giao lưu vật là tách rời nhau.
8


Sự trao đổi sản phẩm du lịch và tiền tệ do hai bên cung cầu du lịch tiến hành
không làm thay đổi quyền sở hữu sản phẩm du lịch, trong q trình chuyển
đổi cũng khơng xảy ra sự chuyển dịch sản phẩm, du khách chỉ có quyền
chiếm hữu tạm thời sản phẩm du lịch tại nơi du lịch. Cùng một sản phẩm du
lịch chỉ tạm thời chuyển dịch quyền sử dụng, còn quyền sở hữu vẫn nằm

trong tay người kinh doanh du lịch.
Như vậy, kinh doanh du lịch là việc thực hiện liên tục một, một số hoặc
tất cả các cơng đoạn của q trình đầu tư, cung ứng dịch vụ du lịch, đáp ứng
nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng của con người ngồi nơi cư
trú thường xuyên của mình trong khoảng thời gian nhất định, nhằm mục đích
sinh lời [17, tr.15].
Đặc điểm kinh doanh du lịch
Du lịch, dịch vụ là ngành kinh tế có hiệu quả cao, tỷ lệ lợi nhuận trên
vốn rất cao, thời gian thu hồi vốn nhanh, song đòi hỏi vốn đầu tư ban đầu lớn.
Hoạt động kinh doanh du lịch, dịch vụ mang tính thời vụ, phụ thuộc
nhiều vào điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã hội, điều kiện về tài nguyên
du lịch nhân văn cũng như tính độc đáo, hấp dẫn của phong cảnh tự nhiên.
Đối tượng phục vụ trong ngành thường xuyên thay đổi và rất phức tạp,
nó phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: thu nhập, thời gian rảnh rỗi, trình độ văn
hóa, độ tuổi, giới tính, nghề nghiệp…
Kinh doanh du lịch, dịch vụ là ngành kinh tế tổng hợp gồm nhiều hoạt
động khác nhau như dịch vụ vận chuyển du lịch, lữ hành, cư trú và ăn uống,
thông tin du lịch. Các hoạt động này có quy trình cơng nghệ khác nhau.
Sản phẩm của hoạt động kinh doanh du lịch là tập hợp các dịch vụ cần
thiết để thỏa mãn nhu cầu của khách du lịch trong chuyến du lịch, mang tính
vơ hình. Việc cung cấp sản phẩm du lịch chính là cung cấp dịch vụ trong
chuyến du lịch. Sản phẩm du lịch có tính chất tổng hợp, là sự kết hợp của
9


nhiều dịch vụ như: dịch vụ vận chuyển, dịch vụ lưu trú, dịch vụ ăn uống... của
các nhà sản xuất riêng lẻ thành một sản phẩm mới hồn chỉnh. Khơng giống
như ngành sản xuất vật chất khác, sản phẩm du lịch không bảo quản, lưu kho,
lưu bãi được và giá của sản phẩm lữ hành có tính linh động cao. Quá trình sản
xuất và tiêu thụ sản phẩm du lịch, dịch vụ vẫn diễn ra đồng thời, trong cùng

một địa điểm.
Các loại hình kinh doanh du lịch
Du lịch là ngành kinh doanh tổng hợp, bao gồm nhiều bộ phận tạo
thành, giữa bộ phận này có mối quan hệ phụ thuộc và bổ sung cho nhau.
Hoạt động kinh doanh du lịch là hoạt động kinh doanh dịch vụ mang
tính tổng hợp, bao gồm các ngành nghề sau: kinh doanh lữ hành; kinh doanh
lưu trú du lịch; kinh doanh vận chuyển khách du lịch; kinh doanh phát triển
khu du lịch, điểm du lịch; kinh doanh dịch vụ du lịch khác.
Khái quát về kinh doanh lữ hành
Trước hết, cần phải có cái nhìn cụ thể về hoạt động lữ hành và lữ hành
trong tổng quan du lịch. Thuật ngữ “lữ hành” có nhiều cách hiểu, quan niệm
khác nhau. Lữ hành là một từ Hán Việt, theo Đại từ điển Tiếng Việt thì lữ
hành là đi đường xa [51, tr.1067]. Có thể hiểu, lữ hành là sự di chuyển ra khỏi
nơi cư trú với mục đích kinh doanh hoặc tham quan, giải trí.
Khái niệm chung giữa các ngành cho thấy, du lịch và lữ hành có nghĩa khá
tương đồng nhau. Tại các nước phát triển đặc biệt tại các nước Bắc Mỹ thì thuật
ngữ “lữ hành” và “du lịch” được hiển một cách tương tự như du lịch [31, tr.46].
Vì vậy, các hoạt động đi lại, di chuyển và các hoạt động khác có liên quan tới
các chuyến đi có mục đích du lịch có thể sử dụng thuật ngữ “lữ hành du lịch”
để nói về việc đi du lịch.
Tiếp cận du lịch ở một phạm vi hẹp, lữ hành là việc xây dựng, tổ chức,
bán, thực hiện các chương trình du lịch, trong đó có lịch trình chuyến đi, nơi
10


đến nơi đi, các dịch vụ trong chuyến hành trình. Cách tiếp cận này nhằm để
phân biệt hoạt động lữ hành với các hoạt động du lịch khác như vận chuyển,
lưu trú, nhà hàng, vui chơi giải trí, nghĩa là giới hạn lữ hành chỉ bao gồm
những hoạt động tổ chức các chương trình du lịch. Cách tiếp cận khác hợp lý
và cần thiết hơn là “Lữ hành là việc xây dựng, bán, tổ chức thực hiện một

phần hoặc toàn bộ chương trình cho khách du lịch” [35, Điều 4]. Cách tiếp
cận này là hợp lý và cần thiết để điều chỉnh hoạt động lữ hành, kinh doanh lữ
hành một cách phù hợp.
Kinh doanh lữ hành tồn tại phổ biến hai loại hình: Kinh doanh lữ hành (Tour
Operators Business) và Kinh doanh đại lý lữ hành (Travel Agency Business).
Trước hết cần phải hiểu, kinh doanh lữ hành (Tour operators business)
là việc thực hiện các hoạt động nghiên cứu thị trường, thiết lập các chương
trình du lịch trọn gói hay từng phần, quảng cáo và bán các chương trình này
trực tiếp hay gián tiếp qua các trung gian hoặc văn phòng đại diện tổ chức các
chương trình và hướng dẫn du lịch. Kinh doanh lữ hành là hoạt động kinh
doanh thuộc một trong các loại hình kinh doanh du lịch.
Sự hình thành và phát triển của kinh doanh lữ hành là một tất yếu khách
quan của sự phát triển du lịch. Nó xuất phát từ mâu thuẫn trong mối quan hệ
cung cầu du lịch và đặc điểm của sản xuất và tiêu dùng du lịch. Kinh doanh lữ
hành có vai trị giữ vị trí trung gian, thực hiện phân phối sản phẩm du lịch và
sản phẩm của các ngành kinh tế khác đến với khách du lịch. Tổ chức Du lịch
Thế giới (UNWTO) đã đánh giá Đơng Á - Thái Bình Dương là một khu vực
phát triển năng động và thu hút nhiều khách du lịch quốc tế [27, tr.1].
Đặc trưng của hoạt động kinh doanh lữ hành
Thứ nhất, sản phẩm của kinh doanh lữ hành chính là các chương trình
du lịch trọn gói (package tour) hay từng phần, khách hàng phải trả tiền trọn
gói các dịch vụ trong chương trình du lịch trước khi đi du lịch. Chương trình
11


du lịch là lịch trình, các dịch vụ và giá bán chương trình được định trước cho
chuyến đi của khách du lịch từ nơi xuất phát đến điểm kết thúc chuyến đi.
Chương trình du lịch trọn gói được coi là sản phẩm đặc trưng trong kinh
doanh lữ hành. Một chương trình du lịch trọn gói có thể được thực hiện nhiều
lần vào những thời điểm khác nhau.

Thứ hai, kinh doanh lữ hành mang tính thời vụ rõ nét. Ở các thời vụ
khác nhau trong năm, nhu cầu của du khách cũng khác nhau. Chẳng hạn, vào
mùa hè nhu cầu du lịch nghỉ biển tăng rất cao nhưng vào mùa đông thì ngược
lại, vào mùa xuân nhu cầu du lịch lễ hội cũng tăng mạnh làm cho hoạt động
kinh doanh lữ hành có tình thời vụ. Vì vậy, trong kinh doanh lữ hành đòi hỏi
các nhà quản trị phải nắm bắt được tính thời vụ nhằm có những biện pháp hạn
chế tính thời vụ, duy trì nhịp độ phát triển đều đặn và nâng cao hiệu quả kinh
doanh lữ hành.
Thứ ba, đặc điểm về mối quan hệ giữa sản xuất và tiêu dùng trong kinh
doanh lữ hành. Quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm lữ hành diễn ra
trong cùng một thời gian. Trong kinh doanh lữ hành, công ty du lịch chỉ tiến
hành phục vụ khách du lịch khi có sự có mặt của khách trong q trình phục
vụ. Có thể xem khách hàng là yếu tố đầu vào trong quá trình kinh doanh lữ
hành. Vì thế trong kinh doanh lữ hành sản phẩm không thể sản xuất trước.
Quá trình sản xuất và tiêu dùng sản phẩm lữ hành diễn ra trong cùng một
không gian. Các sản phẩm lữ hành không thể vận chuyển mang đến tận nơi để
phục vụ khách hàng. Khách hàng chỉ có thể thoả mãn nhu cầu khi vận động
gặp gỡ. Như vậy, khách hàng là bộ phận tham gia trực tiếp không thể tách rời
từ quá trình sản xuất.
Yếu tố ảnh hưởng đến kinh doanh lữ hành
* Yếu tố khách quan
Chế độ chính sách, chủ trương, đường lối của Nhà nước có tác động
12


trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của công ty du lịch theo hướng tích cực,
tạo điều kiện thuận lợi cho công ty hoạt động kinh doanh, hoặc gây rất nhiều
khó khăn tác động tiêu cực cho cơng ty.
Các điều kiện kinh tế, xã hội, chính trị,… tác động khơng nhỏ tới hoạt
động kinh doanh của công ty du lịch. Nhu cầu được an toàn là một trong

những nhu cầu được khách du lịch quan tâm đầu tiên. Vì vậy, một nền chính
trị ổn định là điều mà khách du lịch có thể nhìn ngay thấy và họ sẽ đến khi nơi
ấy đảm bảo sự an toàn cho họ.
Chịu ảnh hưởng của luật pháp quốc tế do hoạt động kinh doanh lữ hành
quốc tế có nhiều sự khác biệt với các ngành khác, đặc biệt có mối quan hệ đa
quốc gia. Vì vậy, ngồi việc thực hiện đúng pháp luật trong nước nó cịn phải
thực hiện theo luật pháp và thơng lệ quốc tế.
* Yếu tố chủ quan
Uy tín của công ty du lịch trên thị trường tốt hay xấu sẽ ảnh hưởng tới
hoạt động kinh doanh của công ty, tác động tới việc thu hút khách du lịch.
Trình độ chun mơn, am hiểu đường lối chính sách của Nhà nước của đội
ngũ cán bộ công nhân viên là nhân tố cơ bản tác động trực tiếp tới hoạt động
kinh doanh của công ty. Các mối quan hệ của công ty với bên ngoài là hết sức
cần thiết (với đối tác, với khách hàng...), nó sẽ là yếu tố thúc đẩy sự đi lên của
công ty trong kinh doanh.
1.1.2. Khái quát về công ty du lịch
Thứ nhất, khái niệm, các loại hình cơng ty du lịch
Trong nền kinh tế thị trường, công ty là một chủ thể chiếm một vị trí
hết sức quan trọng. Sự tồn tại của các loại hình cơng ty cũng có ý nghĩa hết
sức to lớn đối với nền kinh tế Việt Nam.
Điều 1832 Bộ luật Dân sự Pháp quy định:
Công ty là một khế ước thơng qua đó hai hay nhiều người thỏa thuận
13


với nhau sử dụng tài sản hoặc khả năng của mình vào một hoạt động chung
nhằm chia lợi nhuận hoặc kiếm lời có thể thu được thơng qua hoạt động đó.
Cơng ty có thể được thành lập trong những trường hợp do luật định bằng hành
vi tự nguyện của một người. Các thành viên công ty cam kết cùng chịu lỗ.
Cơng ty du lịch là một loại hình cơng ty hoạt động kinh doanh du lịch

trong các lĩnh vực: kinh doanh lữ hành; kinh doanh lưu trú du lịch; kinh
doanh vận chuyển khách du lịch; kinh doanh phát triển khu du lịch, điểm du
lịch; kinh doanh dịch vụ du lịch khác.
Ở phạm vi của Luận văn, tác giả đi sâu nghiên cứu về công ty du lịch
hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh lữ hành, chính là các cơng ty chuyên tổ
chức, xây dựng, bán và thực hiện các chương trình du lịch trọn gói cho du
khách, tiến hành các hoạt động trung gian là bán sản phẩm của các nhà cung
cấp sản phẩm du lịch hoặc thực hiện các hoạt động kinh doanh tổng hợp khác,
đảm bảo phục vụ các nhu cầu của du khách từ khâu đầu tiên cho đến khâu
cuối cùng trong quá trình du lịch của họ.
Dựa trên đặc điểm chung của cơng ty, có thể thấy ba đặc điểm cơ bản
của công ty du lịch là:
1. Sự liên kết của nhiều chủ thể trong hoạt động kinh doanh du lịch của
công ty (cá nhân hoặc tổ chức).
2. Sự liên kết được thực hiện thông qua một số sự kiện pháp lý (Điều
lệ, Hợp đồng hoặc Quy chế).
3. Nhằm thực hiện một mục đích chung là tạo ra lợi nhuận thông qua
hoạt động kinh doanh du lịch, tổ chức, xây dựng và bán các chương trình du
lịch phục vụ khách du lịch.
Nếu theo ba đặc điểm trên đây thì sẽ có rất nhiều loại cơng ty với các
mục đích khác nhau, hình thức và cơ cấu tổ chức khác nhau. Song khơng
phải bất cứ loại hình cơng ty nào cũng có thể hoạt động trong lĩnh vực kinh
14


doanh du lịch và hưởng quy chế pháp lý của công ty du lịch. Công ty du
lịch thường tồn tại dưới hình thức cơng ty cổ phần, cơng ty trách nhiệm
hữu hạn, công ty hợp danh, công ty liên doanh, doanh nghiệp nhà nước.
Trong lĩnh vực kinh doanh lữ hành quốc tế, công ty lữ hành quốc tế thường
được thành lập chủ yếu dưới hình thức cơng ty trách nhiệm hữu hạn và

cơng ty cổ phần vì hiệu quả kinh doanh mang lại. Ở hai loại hình cơng ty
cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn, các thành viên trong công ty du
lịch chỉ chịu trách nhiệm hữu hạn trong phần vốn góp của mình đối với các
khoản nợ của công ty, cơ cấu tổ chức quản lý rõ ràng, phân chia lợi nhuận
cụ thể. Vì vậy, các cơng ty du lịch hiện nay đa số chọn hai hình thức công
ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn khi thành lập công ty và hạn
chế việc chọn loại hình cơng ty hợp danh trong lĩnh vực kinh doanh lữ
hành quốc tế. Bở kinh doanh du lịch là ngành nghề kinh doanh có điều
kiện, phải tiến hành kí quỹ khi đăng ký doanh nghiệp, những rủi ro trong
kinh doanh du lịch mà cơng ty du lịch có thể gặp phải tương đối lớn, việc
chọn lựa loại hình cơng ty hợp danh khơng được các cơng ty đón nhận
nhiều. Ngoài ra, doanh nghiệp nhà nước kinh doanh du lịch và công ty liên
doanh chỉ chiếm số lượng nhỏ và đang có xu hướng ngày càng giảm.
Mỗi quốc gia có một cách phân loại phù hợp với điều kiện thực tế của
hoạt động du lịch tại đó. Thơng thường người ta thường dựa vào các tiêu thức
sau đây để phân loại công ty du lịch: sản phẩm du lịch chủ yếu của công ty du
lịch; phạm vi hoạt động chủ yếu của công ty du lịch; quy mô và phương thức
hoạt động của công ty du lịch; quan hệ của công ty du lịch với du khách; quy
định của các cơ quan quản lý du lịch.
Tại Việt Nam, dựa trên cơ sở phạm vi hoạt động của công ty, các công
ty du lịch được chia làm hai loại là: công ty lữ hành quốc tế và công ty lữ
hành nội địa. Công ty lữ hành nội địa là công ty xây dựng, quảng cáo, bán và
15


tổ chức thực hiện các chương trình du lịch cho khách du lịch nội địa. Công ty
lữ hành quốc tế là công ty xây dựng, quảng cáo, bán và tổ chức thực hiện các
chương trình du lịch cho khách du lịch quốc tế. Công ty lữ hành quốc tế được
kinh doanh lữ hành nội địa. Công ty lữ hành nội địa không được kinh doanh
lữ hành quốc tế.

Trong kinh doanh lữ hành quốc tế, Luật Du lịch phân biệt loại hình:
kinh doanh lữ hành đón khách vào Việt Nam (inbound) và kinh doanh lữ hành
đưa khách ra nước ngoài (outbound). Quy định này nhằm đẩy mạnh hơn nữa
chun mơn hóa trong kinh doanh lữ hành.
Các công ty du lịch sử dụng kinh nghiệm, nghiên cứu nhu cầu, thị
trường, đối tác, kết hợp nhiều các dịch vụ du lịch khách như khu du lịch, nhà
hàng, khách sạn, vận chuyển du lịch, đặt vé để tạo ra các chương trình du lịch
trọn gói hợp lý và hấp dẫn. Với tư cách là chủ thể bán các sản phẩm du lịch,
các công ty du lịch sử dụng hướng dẫn viên du lịch để hướng dẫn khách du
lịch biết cũng như sử dụng hiệu quả các tài nguyên du lịch qua đó vừa khai
thác hợp lý các tài nguyên du lịch cũng như bảo vệ, tôn tạo, bảo đảm phát
triển du lịch bền vững.
Thứ hai, vai trị của cơng ty du lịch đối với nền kinh tế du lịch
Hiện nay đi du lịch trở thành một hiện tượng phổ biến, một nhu cầu
thiết yếu với mọi người. Du khách đi du lịch sẽ được tiếp cận, gần gũi với
thiên nhiên hơn, được sống trong mơi trường tự nhiên trong sạch, được tận
hưởng khơng khí trong lành. Đi du lịch, du khách được mở mang thêm tầm
hiểu biết về văn hoá, xã hội cũng như lịch sử của đất nước. Công ty du lịch sẽ
giúp khách hàng thoả mãn nhu cầu đó. Khi mua các chương trình du lịch trọn
gói, khách du lịch đã tiết kiệm được cả thời gian và chi phí cho việc tìm kiếm
thơng tin, tổ chức sắp xếp bố trí cho chuyến du lịch của họ. Khách du lịch sẽ
được thừa hưởng những tri thức và kinh nghiệm của chuyên gia tổ chức du
16


lịch tại các cơng ty du lịch, các chương trình vừa phong phú hấp dẫn vừa tạo
điều kiện cho khách du lịch thưởng thức một cách khoa học nhất.
Ngoài vai trị đối với khách du lịch, cơng ty du lịch cịn đóng vai trị hết
sức quan trọng đối với nhà cung ứng sản phẩm du lịch. Công ty du lịch cung
cấp các nguồn khách lớn, đủ và có kế hoạch. Mặt khác, trên cơ sở hợp đồng

đã ký kết giữa hai bên các nhà cung cấp đã chuyển bớt một phần rủi ro có thể
xảy ra với các cơng ty du lịch. Các nhà cung cấp thu được nhiều lợi ích từ các
hoạt động quảng cáo khuyếch trương của các công ty du lịch. Đặc biệt đối với
các nước đang phát triển như Việt Nam, khi khả năng tài chính cịn hạn chế
thì các mối quan hệ các cơng ty du lịch trên thế giới là phương pháp quảng
cáo hữu hiệu thị trường du lịch quốc tế.
Vai trò quan trọng nhất của công ty du lịch đối với nền kinh tế đó là trở
thành thành phần khơng thể thiếu trong ngành Du lịch. Công ty du lịch là một
tế bào, một đơn vị cấu thành nên ngành Du lịch, có vai trò thúc đẩy hay hạn
chế sự phát triển của ngành Du lịch. Cơng ty du lịch kinh doanh có hiệu quả
sẽ tạo điều kiện tốt cho toàn ngành Du lịch nói riêng và tồn bộ nền kinh tế
nói chung. Sự phát triển của các cơng ty du lịch đóng góp to lớn cho sự phát
triển của ngành Du lịch nói chung và hoạt động kinh doanh lữ hành nói riêng,
góp phần thúc đẩy phát triển nền kinh tế du lịch của cả quốc gia.
Mỗi doanh nghiệp kinh doanh đều nằm trong mối quan hệ tổng thể
với các doanh nghiệp khác trên thị trường. Và công ty du lịch cũng khơng
nằm ngồi quy luật ấy. Cơng ty kinh doanh du lịch thúc đẩy các doanh
nghiệp và các ngành khác phát triển thể hiện ở chỗ công ty du lịch sử dụng
đầu ra của các ngành sản xuất khác để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh
doanh của mình.
Đối với sự phát triển đời sống của cư dân địa phương, cơng ty du lịch
có vai trị hết sức quan trọng. Khi lữ hành phát triển sẽ mở ra nhiều tuyến
17


điểm du lịch, đặc biệt là các điểm đến các địa phương. Điều này sẽ giúp dân
cư địa phương mở mang tầm hiểu biết, giúp họ có cơ hội kinh doanh và quan
trọng hơn là vấn đề giải quyết công ăn việc làm cho người dân ở đây [33].
Thứ ba, các hoạt động chủ yếu của công ty du lịch.
Công ty du lịch thực hiện các nhiệm vụ quan trọng là tổ chức các hoạt

động trung gian và tổ chức các chương trình du lịch trọn gói, trực tiếp tổ chức
các chương trình du lịch trọn gói cho khách.
Tổ chức các hoạt động trung gian, bán và tiêu thụ các sản phẩm của
nhà cung cấp dịch vụ du lịch. Hệ thống các điểm bán, các đại lý du lịch tạo
thành mạng lưới phân phối sản phẩm của các nhà cung cấp dịch vụ du lịch.
Trên cơ sở đó rút ngắn hoặc xoá bỏ khoảng cách giữa khách du lịch và các
cơ sở kinh doanh du lịch.
Tổ chức các chương trình du lịch trọn gói, các chương trình này
nhằm liên kết các sản phẩm du lịch như vận chuyển, lưu trú, vui chơi giải
trí... thành một sản phẩm thống nhất hồn hảo đáp ứng mọi nhu cầu của
khách du lịch. Các chương trình du lịch sẽ xố bỏ những khó khăn, lo ngại
của khách du lịch, đồng thời tạo cho họ sự an tâm tin tưởng vào sự thành
công của chuyến du lịch.
Tổ chức cung cấp các dịch vụ đơn lẻ cho khách trên hệ thống cơ sở vật
chất kỹ thuật hiện có để đảm bảo phục vụ tất cả các nhu cầu của khách từ
khâu đầu tiên tới khâu cuối cùng.
1.2. Quy chế pháp lý của công ty du lịch
1.2.1. Khái niệm quy chế pháp lý của công ty du lịch
Theo Từ điển Luật học do Viện khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp biên
soạn năm 2006, quy chế là một văn bản hoặc tồn thể các văn bản có
chứa quy phạm pháp luật hoặc quy phạm xã hội do cơ quan, tổ chức, cá nhân
có thẩm quyền ban hành theo thủ tục, trình tự nhất định, có hiệu lực bắt buộc
18


thi hành đối với các thành viên của cơ quan, tổ chức thuộc phạm vi điều chỉnh
của quy chế. Quy chế thường được ban hành để quy định những vấn đề về tổ
chức, hoạt động của một cơ quan, tổ chức, cộng đồng; về thủ tục, trình tự tiến
hành một hoạt động nghiệp vụ cụ thể; địa vị pháp lý, trách nhiệm, thẩm
quyền, phương thức tham gia hoạt động chung của một loại đối tượng nhất

định [49, tr.642]. Quy chế cũng có thể hiểu là chế độ được quy định bởi một
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền trong một phạm vi nhất định, được ban hành
có văn bản và có hiệu lực thi hành trong phạm vi cơ quan, tổ chức đó. Đồng
thời, quy chế là quy phạm điều chỉnh các vấn đề liên quan đến chế độ chính
sách, công tác tổ chức hoạt động, công tác nhân sự, phân công và phân cấp
nhiệm vụ, quyền hạn, định mức, đơn giá áp dụng. Quy chế đưa ra yêu cầu cần
đạt được và có tính định khung mang tính ngun tắc.
Pháp lý là những lí lẽ, lẽ phải theo pháp luật, giá trị pháp lí bắt nguồn từ
một sự việc, hiện tượng xã hội như giá trị pháp lý của Hiệp định Giơnevơ năm
1954 về Việt Nam là các quyền dân tộc cơ bản, quyền tự quyết của nhân dân
Việt Nam; những nguyên lý, phạm trù, khái niệm, lý luận về pháp luật [49].
Khái niệm pháp lý (juridique) xuất phát từ tiếng La-tin “Jus” nghĩa là
các quy định của pháp luật. Theo giải thích của Đại từ Tiếng Việt thì “pháp lý
là căn cứ, cơ sở lý luận của pháp luật, đặt dưới quyền lực của pháp luật bắt
buộc phải thi hành” [43]. Pháp lý có những thuộc tính khác biệt so với pháp
luật như:Tính liên quan đến hệ thống các quy phạm pháp luật, mọi lí lẽ, cơ sở
hay căn cứ đều dựa trên các quy tắc hay đúng hơn là dựa vào pháp luật, tính
lệ thuộc vào pháp luật. Pháp lý hay các lí lẽ của pháp luật chính là cơ sở lí
luận, là sự vận dụng, áp dụng có khoa học về pháp luật,về phương pháp
nghiên cứu pháp luật một cách có hệ thống. Với ý nghĩa này, pháp lý được
xem là hệ quả tất yếu của pháp luật. Nếu cho rằng pháp luật là một cái khung
thì pháp lý chính là những lí lẽ khoa học vận động trong cái khung đó.
19


Quy chế pháp lý bao gồm những nguyên lý, phạm trù, khái niệm và lý
luận về pháp luật quy định về những vấn đề tổ chức, hoạt động của một cơ
quan, tổ chức, cộng đồng; hay về trình tự, thủ tục tiến hoạt hoạt động của một
doanh nghiệp cụ thể; hay về địa vị pháp lý, trách nhiệm, thẩm quyền, phương
thức tham gia hoạt động chung của một cơ quan, tổ chức, cá nhân nhất định.

Từ những điều trình bày trên đây, tác giả đưa ra định nghĩa quy chế
pháp lý của công ty du lịch: Quy chế pháp lý của công ty du lịch là tổng thể
các quy định pháp lý về điều kiện kinh doanh, đăng ký kinh doanh, về
quyền và nghĩa vụ của công ty du lịch và chấm dứt hoạt động kinh doanh
của công ty du lịch.
1.2.2. Yêu cầu đặt ra đối với quy chế pháp lý của công ty du lịch
Việc xây dựng quy chế pháp lý cho công ty du lịch trong hoạt động
kinh doanh lữ hành là hết sức cần thiết. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi,
khuyến khích về đất đai, tín dụng đối với cá nhân đầu tư vào một số lĩnh vực
du lịch. Cần có các quy định về các lĩnh vực nhà nước thực hiện và các lĩnh
vực nhà nước hỗ trợ để phát triển du lịch, trong đó chú trọng đầu tư cơ sở hạ
tầng, cơng tác xúc tiến, quảng bá quốc gia, bảo vệ tài nguyên, môi trường du
lịch, cho phép thành lập quỹ hỗ trợ phát triển du lịch...
Thông qua việc xây dựng quy chế pháp lý của công ty du lịch ở Việt
Nam, vấn đề xã hội hóa trong lĩnh vực du lịch nói chung và du lịch lữ hành
nói riêng được đảm bảo bằng các chính sách khuyến khích mọi tổ chức, cá
nhân, đầu tư phát triển du lịch, khuyến khích dân cư tham gia hưởng lợi từ du
lịch, du lịch được xem như là cơng cụ để xóa đói giảm nghèo
Xây dựng quy chế pháp lý về công ty du lịch để xác định nội dung phù
hợp với tình hình phát triển hiện nay. Cụ thể, bổ sung quy định về điều kiện
kinh doanh lữ hành, về đại lý lữ hành, hợp đồng lữ hành; quy định về đảm
bảo an toàn cứu hộ cho khách du lịch tham gia chương trình du lịch, nâng cao
chất lượng dịch vụ du lịch.
20


×