Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Vai trò của luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 125 trang )

Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật

Cao Thị Ngọc Hà

Vai trò của luật sư bào chữa
trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

Luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2010


Đại học Quốc gia Hà nội
Khoa luật

Cao Thị Ngọc Hà

Vai trò của luật sư bào chữa
trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Chuyên ngành : Luật hình sự
Mã số

: 60 38 40

luận văn thạc sĩ luật học

Người hướng dẫn khoa học: TS. Đỗ Thị Ngọc Tuyết

Hà nội - 2010



MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
MỞ ĐẦU

Chương 1:

1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT

8

SƯ BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN
HÌNH SỰ

1.1.

Xét xử phúc thẩm vụ án hình sự

8

1.1.1.

Khái niệm xét xử phúc thẩm vụ án hình sự


8

1.1.2.

Vai trị của xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trong tố tụng

16

hình sự
1.2.

Địa vị pháp lý và vai trị của Luật sư trong tố tụng hình sự
Chương 2:

SỰ THAM GIA CỦA LUẬT SƯ BÀO CHỮA TRONG

19
42

XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

2.1.

Vai trị của Luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án

42

hình sự
2.1.1.


Vai trò của Luật sư bào chữa trong chuẩn bị xét xử phúc

42

thẩm vụ án hình sự
2.1.2.

Vai trị của Luật sư bào chữa trong phiên tòa xét xử phúc

55

thẩm vụ án hình sự
2.2.

Thực trạng hoạt động của Luật sư bào chữa trong xét xử

63

phúc thẩm vụ án hình sự
2.2.1.

Kết quả hoạt động của Luật sư bào chữa trong xét xử phúc

63

thẩm vụ án hình sự
2.2.2.

Những ha ̣n chế trong ho ạt động bào chữa của Luật sư trong
xét xử phúc thẩm vụ án hình sự


76


2.2.3.

Nguyên nhân của những ha ̣n chế trong hoa ̣t đô ̣ng của Luâ ̣t

82

sư ta ̣i phiên toà phúc thẩ m vu ̣ án hiǹ h sự
2.2.3.1. Nguyên nhân chủ quan

82

2.2.3.2. Nguyên nhân khách quan
Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM

83
88

NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA

LUẬT SƯ BÀO CHỮA TRONG XÉT XỬ PHÚC THẨM
VỤ ÁN HÌNH SỰ

3.1.
3.2.

Đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo

Hồn thiện pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến vai trò

88
95

3.3.

của Luâ ̣t sư bào chữa trong xét xử phúc thẩ m vu ̣ án hiǹ h sự
Giải pháp về tổ chức

104

3.4.
3.5.

Giải pháp về con người
Đổi mới mối quan hệ giữa Luật sư bào chữa với cơ quan tiến

107
110

hành tố tụng
KẾT LUẬN

113

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

115
119


PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS

: Bộ luật hình sự

BLTTHS

: Bộ luật tố tụng hình sự

CQĐT

: Cơ quan điều tra

CQTHTT : Cơ quan tiến hành tố tụng
HĐXX

: Hội đồng xét xử

HLPL

: Hiệu lực pháp luật

KSV

: Kiểm sát viên


LSBC

: Luật sư bào chữa

TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTHS

: Tố tụng hình sự

VAHS

: Vụ án hình sự

VKS

: Viện kiểm sát

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XXPT

: Xét xử phúc thẩm



DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu
bảng

Tên bảng

Trang

2.1

Số vụ án có luật sư tham gia ở các loại tội phạm trên cả
nước qua các năm 2005-2008

65

2.2

Số vụ án có LSBC tham gia trong XXPT VAHS tại tỉnh
Nam Định qua các năm 2007-2009

67

2.3

Số vụ án có luật sư bào chữa tham gia trong XXPT
VAHS tại tỉnh Bắc Giang qua các năm 2007-2009

67


2.4

Số vụ án có LSBC tham gia theo chỉ định trong XXPT
VAHS tại tỉnh Nam Định qua các năm 2007-2009

68

2.5

Số vụ án có LSBC tham gia theo chỉ định trong XXPT
VAHS tại tỉnh Bắc Giang qua các năm 2007-2009

68

2.6

Số vụ án được Toà án chấp nhận theo đề xuất của LSBC
trong XXPT VAHS tại tỉnh Nam định qua các năm
2007-2009

69

2.7

Số vụ án được Toà án chấp nhận theo đề xuất của LSBC
trong XXPT VAHS tại tỉnh Bắc Giang qua các năm
2007-2009

69



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử vụ án hình sự (VAHS), trong đó có xét xử phúc thẩm (XXPT) là
giai đoạn trung tâm của hoạt động tố tụng nhằm tìm ra sự thật khách quan của vụ
án thông qua xét hỏi, tranh luận công khai. Thông qua phiên tịa, các chức năng
cơ bản của tố tụng hình sự (TTHS) là buộc tội (Viện kiểm sát (VKS)) và bào
chữa (Luật sư) được thực hiện một cách dân chủ và bình đẳng. Tuy nhiên, trong
thời gian qua, tình trạng vi phạm nguyên tắc bảo đảm quyền bào chữa vẫn xảy
ra, một số Thẩm phán còn hạn chế thời gian trình bày lời bào chữa của bị cáo
hoặc người bào chữa; mặc định về việc bị cáo là người có tội và chỉ chú ý tới
chứng cứ buộc tội do VKS đưa ra... Thực tế cho thấy, khi quyền bào chữa khơng
được đảm bảo thì sẽ mất đi sự cân đối, mất đi đối trọng cần thiết giữa hai chức
năng "buộc tội" và "gỡ tội". Vì vậy, sự tham gia của Luật sư bào chữa (LSBC)
tại phiên tịa nói chung và phiên tịa phúc thẩm nói riêng là hết sức quan trọng.
Sau phiên tòa sơ thẩm, Tòa án sẽ xem xét lại theo thủ tục phúc thẩm
đối với bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật (HLPL) bị kháng
cáo, kháng nghị. Đó là một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Nhà nước quan
tâm, nhằm đảm bảo việc xét xử được khách quan, công bằng; đồng thời nhằm
bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, đặc biệt là của bị cáo. Tuy
nhiên, trên thực tế vẫn có tình trạng vi phạm pháp luật, vi phạm nghiêm trọng
thủ tục tố tụng trong quá trình xét xử phúc thẩm, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
của bị cáo. Vì vậy, sự tham gia của LSBC sẽ là nhân tố quan trọng để hạn chế
những vi phạm này, kiểm tra và giám sát công tác xét xử có hiệu quả hơn;
đảm bảo tốt nhất việc thực hiện các quyền và lợi ích chính đáng của bị cáo.
Sự tham gia của LSBC cũng là căn cứ để Tịa án ra quyết định một
cách chính xác, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Nghị quyết 08/NQ-TW
của Bộ Chính trị đã nêu:


1


Việc phán quyết của Tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả
tranh tụng tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các
chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo,
nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn, người có quyền, lợi ích hợp pháp
để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục
và trong thời hạn pháp luật quy định... [2].
Bên cạnh đó, Nghị quyết số 49-NQ/TW còn đề ra những định hướng
rất quan trọng đối với việc xây dựng và hoàn thiện chế định luật sư cho phù
hợp với tình hình mới của đất nước trước xu hướng pháp triển và hội nhập, cụ
thể là:
Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm
chất chính trị, đạo đức, có trình độ chun mơn; hồn thiện cơ chế
đảm bảo để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng
thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo
điều kiện về mặt pháp lý để phát huy chế độ tự quản của tổ chức
luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành
viên của mình [4].
Như vậy, việc nâng cao vai trị của LSBC trong giai đoạn xét xử nói
chung và XXPT nói riêng là phù hợp với yêu cầu đối mới của Đảng và Nhà
nước ta.
Vai trò của LSBC trong XXPT được thể hiện chủ yếu trong quá trình
chuẩn bị XXPT; trong phần thủ tục bắt đầu phiên tòa, xét hỏi, và tranh luận tại
phiên tòa phúc thẩm. Phán quyết của Tịa án sẽ mang tính khách quan, chính xác
nếu được xem xét tồn diện ở cả khía cạnh buộc tội và gỡ tội. Vì vậy, vai trị của
Luật sư ở giai đoạn XXPT nói riêng và trong TTHS nói chung là rất quan trọng.
Sự tham gia có trách nhiệm của LSBC trong q trình XXPT góp phần đảm bảo
quyền, lợi ích của bị cáo nói riêng và quyền con người nói chung. Đồng thời,

trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN)

2


Việt Nam của dân, do dân, vì dân; việc đảm bảo quyền công dân - quyền con
người là nhiệm vụ trọng tâm và có ý nghĩa chiến lược quan trọng.
Với những ý nghĩa như trên, việc nghiên cứu "Vai trò của Luật sư bào
chữa trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự" là vấn đề mang tính cấp thiết.
Vì vậy, học viên đã mạnh dạn lựa chọn đề tài này làm luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Vai trò của LSBC trong XXPT VAHS là một trong những nội dung
quan trọng nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo nói riêng và
bảo đảm quyền cơng dân - quyền con người nói chung. Hiện nay cũng đã có
khá nhiều bài viết có liên quan đến vấn đề này. Chẳng hạn: "Vai trò của Luật
sư trong tố tụng hình sự" của T.S Nguyễn Văn Tuân; "Thực hiện quyền bào
chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự" của TS. Hồng Thị Minh Sơn;
"Vai trò của Luật sư trong xét xử sơ thẩm vụ án hình sự" của ThS. Ngơ Thị
Ngọc Vân; "Hành nghề Luật sư trong vụ án hình sự" và "Bút kí Luật sư" của
LS. Phan Trung Hồi...
Các cơng trình nghiên cứu của các tác giả thường dưới dạng bài viết
đăng trên các tạp chí khoa học pháp lý chuyên ngành, hoặc một phần trong
các bài giảng của giáo trình giảng dạy hoặc một phần trong sách chuyên
khảo... Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách
sâu sắc, hệ thống và tồn diện về "Vai trị của Luật sư bào chữa trong xét xử
phúc thẩm vụ án hình sự".
3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ các vấn đề lý luận và thực tiễn
về vai trò của LSBC trong XXPT VAHS; phân tích các qui định của pháp luật

về sự tham gia của LSBC tại phiên tòa phúc thẩm: vai trị của LSBC trong
q trình chuẩn bị XXPT VAHS và tại phiên tòa phúc thẩm VAHS...

3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để phục vụ mục đích nghiên cứu nêu trên, những nhiệm vụ nghiên
cứu sẽ là:
Về mặt lý luận: Xem xét có hệ thống những vấn đề cơ bản như: phân
tích khái niệm, đặc điểm của XXPT, địa vị pháp lí cũng như vai trị của Luật
sư trong TTHS, quyền và nghĩa vụ của Luật sư... Bên cạnh đó, nghiên cứu về
thực trạng chất lượng bào chữa của Luật sư trong XXPT VAHS. Cuối cùng
đưa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các qui định có liên quan đến
vai trị của LSBC tại phiên tịa phúc thẩm: bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo...
Về mặt thực tiễn: Khái quát thực trạng về vai trò của Luật sư trong
XXPT (số liệu của Luật sư là những số liệu khơng chính thống, chưa được
các cơ quan chức năng tổng kết. Vì vậy, luận văn giải quyết vấn đề thực trạng
trên cơ sở phân tích và bình luận một vấn đề, sau đó đưa ra số liệu cụ thể và
các ví dụ minh họa, đồng thời đưa ra những bất cập, hạn chế và nguyên nhân
của vấn đề này; từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp nhằm hồn thiện các qui
định có liên quan đến vai trò của Luật sư trong XXPT VAHS.
3.3. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực
tiễn về vai trò của Luật sư trong XXPT VAHS; cụ thể là: khái niệm, đặc trưng
của XXPT, quyền và nghĩa vụ của Luật sư, vai trò của LSBC trong phần thủ
tục bắt dầu phiên tòa, xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa. Luận văn còn kết
hợp với nghiên cứu thực trạng về sự tham gia của LSBC tại phiên tòa phúc
thẩm, xác định nguyên nhân tồn tại và hướng giải pháp khắc phục nhằm hồn
thiện vai trị của LSBC trong XXPT VAHS.

3.4. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung:
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những nội dung cơ bản về vai trò
của Luật sư tại phiên tòa phúc thẩm, các qui định của pháp luật về sự tham gia

4


của Luật sư tại phiên tịa phúc thẩm; từ đó xác định nội hàm cơ bản và hướng
hoàn thiện của các quy định có liên quan đến vai trị của Luật sư trong XXPT
nói riêng và trong TTHS nói chung.
Phạm vi về thời gian:
- Các vấn đề lý luận nghiên cứu từ năm 2003 đến nay (từ khi Bộ luật
tố tụng hình sự (BLTTHS) năm 2003 có hiệu lực).
- Về thực tiễn: nghiên cứu thực trạng vai trò của Luật sư thể hiện qua
các năm gần đây (2007 - 2009).
4. Cơ sở lý luận và các phƣơng pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về
bảo đảm quyền công dân, quyền con người; cũng như đảm bảo nguyên tắc xác
định sự thật của vụ án một cách khách quan, chính xác và tồn diện; không bỏ
lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng, tiếp
thu, kế thừa các thành tựu khoa học của chuyên ngành pháp lý, các nhà chuyên
môn, nhà khoa học, các luận điểm nghiên cứu của các nhà khoa học, các cơng
trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết chuyên ngành pháp lý
được đăng trên các tạp chí về vai trị của Luật sư trong TTHS nói chung.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp cơ bản
sau để làm rõ bản chất của đối tượng nghiên cứu:
- Phương pháp phân tích: Phương pháp này thể hiện trong luận văn là
những lý giải, phân tích những vấn đề cơ bản về vai trò của Luật sư trong

XXPT VAHS; cụ thể: khái niệm về XXPT, đặc trưng của XXPT; những qui
định của pháp luật về quyền và nghĩa vụ của Luật sư, về vai trò của LSBC
trong phần: chuẩn bị XXPT, phần bắt đầu, xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa
phúc thẩm; thực trạng về vai trò của LSBC tại phiên tịa phúc thẩm và các giải
pháp hồn thiện các quy định về vấn đề này.

5


- Phương pháp so sánh: Luận văn sử dụng phương pháp so sánh để
đối chiếu, so sánh về thực trạng vai trò của LSBC tại phiên tòa phúc thẩm qua
các năm, từ đó rút ra những mặt đạt được và những bất cập, hạn chế.
- Phương pháp thống kê xã hội học: Được thể hiện là những tài liệu
được tổng hợp qua thực tiễn áp dụng như tổng hợp các kết quả về sự tham gia
của Luật sư tại phiên tòa phúc thẩm, thực trạng của vấn đề này thể hiện qua
các số liệu cụ thể, làm cơ sở phân tích về ngun nhân và giải pháp. Bên cạnh
đó, phương pháp này còn thể hiện về các số liệu tài liệu nghiên cứu trên mạng
Internet cũng như tổng hợp các tri thức khoa học tương ứng của đề tài.
Ngoài ra, đề tài còn sử dụng các phương pháp tiếp cận khác như: lịch
sử, tổng hợp… đồng thời đề tài còn sử dụng các văn bản pháp luật của Nhà
nước như Luật Luật sư, Bộ luật hình sự (BLHS), BLTTHS…
5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của luận văn
Đây là đề tài nghiên cứu các quy định về vai trò của LSBC trong XXPT
VAHS trên phương diện lý luận và thực tiễn. Đề tài tập trung giải quyết được
các nội dung sau:
1) Phân tích và tổng hợp một cách có hệ thống những vấn đề lý luận
về vai trị của LSBC trong XXPT VAHS: khái niệm, đặc điểm, tính chất của
XXPT; quyền và nghĩa vụ của Luật sư, địa vị pháp lí và vai trị của Luật sư
trong trong TTHS nói chung và XXPT nói riêng.
2) Phân tích các qui định của pháp luật về vai trò của LSBC trong

XXPT VAHS, thể hiện ở phần bắt dầu phiên tòa, xét hỏi và tranh luận tại
phiên tòa phúc thẩm; khái quát thực trạng hoạt động của LSBC trong XXPT
VAHS (bình luận vấn đề và nêu một số ví dụ minh họa); qua đó đánh giá và
nhận xét về thực trạng của hoạt động này (những kết quả đạt được và những
bất cập, hạn chế).
3) Đề xuất các giải pháp nhằm hồn thiện các quy định về vai trị của
LSBC trong XXPT VAHS, góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng trên thực tế;

6


các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Luật sư trong XXPT VAHS (bảo đảm
quyền bào chữa của bị cáo, các giải pháp về tổ chức đoàn Luật sư, đội ngũ
Luật sư…).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Đề tài có thể có những đóng góp nhất định trên phương
diện lý luận về vai trò của LSBC trong XXPT VAHS.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn và
thống nhất những vấn đề cơ bản liên quan đến vai trị của luật sư trong XXPT
VAHS, phân tích những nguyên nhân của tồn tại và đưa ra những giải pháp
hữu hiệu nhằm hoàn thiện các quy định về vấn đề này. Ngồi ra, luận văn cịn
cú ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho các học sinh, sinh viên
trong hệ thống các trường đại học, cao đẳng, cho các nhà hoạt động thực tiễn
và tất cả những ai quan tâm đến vấn đề này.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận về vai trị của Luật sư bào chữa trong
xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.
Chương 2: Sự tham gia của Luật sư bào chữa trong xét xử phúc thẩm vụ

án hình sự.
Chương 3: Các giải pháp nhằm nâng cao vai trò của Luật sư bào chữa
trong xét xử phúc thẩm vụ án hình sự.

7


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA LUẬT SƢ BÀO CHỮA
TRONG XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1. XÉT XỬ PHÚC THẨM VỤ ÁN HÌNH SỰ

1.1.1. Khái niệm xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Khi xét xử VAHS, Tòa án nhân danh Nhà nước để ra bản án. Tuy nhiên,
trên thực tế cũng không thể loại trừ hết được các trường hợp xét xử có sai
lầm, làm oan người vơ tội hoặc bỏ lọt tội phạm. Để đảm bảo cho việc xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ được các quyền và lợi
ích hợp pháp của bị cáo và những người tham gia tố tụng; pháp luật TTHS qui
định về giai đoạn XXPT VAHS. Đây là giai đoạn nhằm sửa chữa, khắc phục
những thiếu sót, khuyết điểm và những vi phạm mà Tòa án cấp sơ thẩm đã
vấp phải. Đồng thời, thơng qua XXPT, Tịa án cấp trên hướng dẫn các Tòa án
cấp dưới thực hiện thống nhất pháp luật trên tồn quốc. XXPT cịn là phương
tiện để Tịa án cấp trên uốn nắn, sửa chữa những sai lầm của Tòa án cấp dưới.
Vậy, XXPT VAHS cần hiểu như thế nào?
Sau khi xét xử sơ thẩm, bản án hoặc quyết định của Tịa án cấp sơ
thẩm chưa có HLPL ngay trong thời hạn luật định. Nếu hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị mà khơng có kháng cáo, kháng nghị thì bản án của Tịa án
cấp sơ thẩm mới có HLPL và được thi hành. Ngược lại, nếu có kháng cáo,
kháng nghị trong thời hạn luật định hoặc ngoài thời hạn luật định nhưng có lý

do chính đáng và được Tịa án chấp thuận thì sẽ phát sinh thủ tục XXPT. Khi
đó, việc XXPT là bắt buộc để kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ của
bản án và quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị.
Tính hợp pháp của bản án thể hiện ở chỗ: Bản án đó phải phù hợp với
những qui định của BLHS trong việc định tội, quyết định hình phạt…; đồng

8


thời phải tuân thủ nghiêm những qui định của BLTTHS về thủ tục XXPT,
phiên tịa XXPT VAHS…
Tính có căn cứ của bản án thể hiện ở chỗ: những kết luận của bản án
phải phù hợp với các chứng cứ, tình tiết, sự kiện thực tế của vụ án trên cơ sở
thẩm tra, xem xét cơng khai tại phiên tịa.
Theo Điều 230 BLTTHS năm 2003 thì "xét xử phúc thẩm là việc Tòa
án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét lại quyết định sơ thẩm mà bản
án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng
cáo, kháng nghị". Điều 204 BLTTHS năm 1988 qui định: "Xét xử phúc thẩm
là việc Tòa án cấp trên xét lại những bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có
hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị". Như vậy, so với BLTTHS năm
1988 thì BLTTHS 2003 phản ánh đầy đủ hơn tính chất của XXPT. Tuy nhiên,
đối với các quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị thì vẫn qui định là
"xét lại". Việc qui định tính chất của XXPT VAHS là "xét xử lại vụ án mà
bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị
kháng cáo, kháng nghị" hoàn toàn phù hợp với nguyên tắc hai cấp xét xử
được thừa nhận trong BLTTHS năm 2003 (Điều 20). Theo đó, xét xử sơ thẩm
là cấp xét xử thứ nhất và XXPT là cấp xét xử thứ hai. Hiện nay, nguyên tắc
này được hầu hết các quốc gia trên thế giới thừa nhận. Có thể nói, ngun tắc
"hai cấp xét xử" sẽ khơng thể tồn tại, nếu trong TTHS chỉ có một cấp xét xử
là Tịa sơ thẩm. Bởi vì, giám đốc thẩm và tái thẩm chưa bao giờ được thừa

nhận là một cấp xét xử, mà chỉ được coi là thủ tục tố tụng đặc biệt có nhiệm
vụ "xét lại" những bản án, quyết định đã có HLPL. Hơn nữa, việc thực hiện
chế độ hai cấp xét xử đã được thừa nhận là một trong các nguyên tắc cơ bản
của TTHS. Nguyên tắc hai cấp xét xử không chỉ là một trong các nguyên tắc
tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án mà còn là một trong những bảo
đảm quan trọng để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, các
đương sự; là căn cứ để xác định tính chất, nhiệm vụ và quyền hạn của Tòa án
cấp phúc thẩm.

9


Trong phạm vi của luận văn, tác giả chỉ đề cập đến XXPT với tính
chất là xét xử lại những vụ án mà bản án, quyết định đối với vụ án đó chưa có
HLPL bị kháng cáo, kháng nghị.
Liên quan đến XXPT, chúng ta cũng cần hiểu: thế nào là bản án hoặc
quyết định sơ thẩm chưa có HLPL? Đây cũng là vấn đề hiện nay có nhiều ý
kiến khác nhau và trong một số trường hợp, việc xác định bản án hoặc quyết
định sơ thẩm đã có hiệu lực hay chưa không phải là điều dễ dàng. Tuy nhiên,
theo quan điểm của tơi thì các bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có HLPL
bao gồm các bản án, quyết định sơ thẩm còn trong thời hạn kháng cáo hoặc
kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Trên thực tế cũng có những bản án, quyết
định sơ thẩm bị kháng cáo ngoài thời hạn luật định (kháng cáo quá hạn)
nhưng người kháng cáo, kháng nghị có lí do chính đáng về việc này thì Tịa
án vẫn có thể xem xét; và nếu chấp thuận thì bản án hoặc quyết định đó vẫn
được coi là chưa có HLPL.
Như vậy, XXPT VAHS là một giai đoạn TTHS, trong đó Tịa án cấp
trên trực tiếp xét xử lại vụ án mà bản án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó
chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị nhằm kiểm tra tính có căn cứ và tính
hợp pháp của bản án hoặc quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm.

Xét xử phúc thẩm có các đặc trưng cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Về đối tượng của XXPT VAHS.
Đối tượng của XXPT trong khoa học TTHS cịn có nhận thức khơng
thống nhất tập trung ở hai loại quan điểm sau đây:
Quan điểm thứ nhất cho rằng, đối tượng của XXPT là những bản án
(quyết định) sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị
[38, tr. 262], [39, tr. 287].
Quan điểm thứ hai cho rằng, đối tượng của XXPT là những vụ án mà
bản án (quyết định) sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị [34, tr. 114].

10


Chúng tôi cho rằng, quan điểm thứ hai về đối tượng của XXPT chính
xác và có căn cứ hơn. Theo quy định các Điều 20, 24, Điều 30 Luật tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2002; Điều 18 và Điều 22 Pháp lệnh tổ chức Tòa án
quân sự năm 2002, thì đối tượng của phúc thẩm được xác định là những vụ án
mà bản án (quyết định) chưa có HLPL của Tòa án cấp dưới bị kháng cáo hoặc
kháng nghị.
Hoạt động xét xử của Tòa án là nhằm xác định sự thật khách quan về
vụ án. Để đạt được mục đích đó, Tịa án nói chung và Tịa án cấp phúc thẩm
nói riêng, phải xem xét, đánh giá tồn bộ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ
cũng như các chứng cứ mới được đưa ra tại phiên tòa, trong đó có bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có HLPL. Bản án, quyết định sơ thẩm chỉ là một
trong các văn bản tố tụng phản ánh kết quả giải quyết vụ án của Tòa án cấp sơ
thẩm và chỉ là một trong những nguồn chứng cứ có giá trị chứng minh về vụ
án được Tòa án cấp phúc thẩm xem xét cùng với các chứng cứ khác. Do đó,
đối tượng của xét xử nói chung và XXPT nói riêng chỉ có thể là các vụ án.
Từ phân tích trên, có căn cứ để khẳng định rằng đối tượng của XXPT

chỉ có thể là những vụ án mà bản án (quyết định) sơ thẩm đối với vụ án đó
chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị.
Thứ hai: XXPT chỉ có thể được tiến hành khi có kháng cáo của
những người tham gia tố tụng theo quy định tại Điều 231 BLTTHS, hoặc
kháng nghị của VKS theo quy định tại Điều 232 BLTTHS.
Có ý kiến cho rằng: giai đoạn phúc thẩm khơng phải là một giai đoạn
độc lập của q trình TTHS vì nó phụ thuộc vào việc có hay khơng có kháng
cáo, kháng nghị đối với bản án (quyết định) sơ thẩm trong thời hạn luật định.
Có thể dễ dàng nhận thấy rằng, ý kiến này đã sai lầm khi đồng nhất "giai đoạn
phúc thẩm" với "thủ tục xét xử phúc thẩm". Đối với một vụ án cụ thể, thủ tục
XXPT không phải là bắt buộc. Thủ tục XXPT chỉ phát sinh khi có kháng cáo,
kháng nghị đối với bản án (quyết định) sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

11


Trong trường hợp bản án sơ thẩm không bị kháng cáo hoặc kháng nghị, thì
mặc dù khơng phải tiến hành XXPT vụ án đó, nhưng đối với vụ án đó giai
đoạn phúc thẩm vẫn tồn tại và được bắt đầu ngay sau khi bản án sơ thẩm được
tuyên và kết thúc khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị và bản án có HLPL.
Thứ ba: Tịa án cấp phúc thẩm khi xét xử khơng chỉ kiểm tra tính hợp
pháp và tính có căn cứ của bán án hoặc quyết định sơ thẩm bị kháng cáo,
kháng nghị mà còn xét xử lại vụ án về nội dung. Bằng quyền hạn của mình,
Tịa án cấp phúc thẩm ngăn chặn việc đưa ra thi hành các bản án, quyết định
có vi phạm pháp luật, góp phần bảo vệ pháp chế XHCN.
Khi XXPT Tịa án cấp phúc thẩm xem xét nội dung kháng cáo, kháng
nghị. Nếu xét thấy cần thiết thì Tịa án cấp phúc thẩm có thể xem xét các phần
khác khơng bị kháng cáo, kháng nghị của bản án. Tòa án cấp phúc thẩm
không bị ràng buộc bởi những lý do kháng cáo hoặc kháng nghị, mà kiểm tra
toàn bộ vụ án đối với tất cả những người bị kết án, kể cả những người không

kháng cáo và không bị kháng nghị.
XXPT không cho phép người đã kháng cáo hoặc VKS đã kháng nghị
được bổ sung, thay đổi kháng cáo theo hướng làm xấu hơn tình trạng của bị
cáo; khơng cho phép Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng
làm xấu hơn tình trạng của bị cáo, nếu khơng có kháng cáo của người bị hại
hoặc kháng nghị của VKS, Tịa án cấp trên theo hướng đó. Đối với thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm, Hội đồng giám đốc thẩm, tái thẩm phải xem xét toàn
bộ vụ án mà không chỉ hạn chế trong nội dung của kháng nghị.
Thứ tư: Chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng trong XXPT bao gồm:
Tòa án cấp phúc thẩm, VKS cấp phúc thẩm; những người có quyền kháng cáo
theo quy định của pháp luật; những người có liên quan đến kháng cáo, kháng
nghị và những người tham gia tố tụng khác mà Tòa án cấp phúc thẩm thấy
cần thiết triệu tập tham gia phiên tịa. Ngồi ra, ở một mức độ nhất định, chủ
thể tham gia ở giai đoạn tố tụng này còn bao gồm cả Tòa án cấp sơ thẩm

12


(trong việc thông báo kháng cáo, kháng nghị, xác minh lý do kháng cáo quá
hạn) và VKS cấp sơ thẩm (trong việc kháng nghị bản án, quyết định sơ thẩm
chưa có HLPL);
Thứ năm: Phiên tịa phúc thẩm có một số đặc thù như: khi khai mạc
phiên tòa, thẩm phán chủ tọa phiên tịa khơng phải đọc quyết định đưa vụ án
ra xét xử; trước khi tiến hành xét hỏi, việc công bố cáo trạng của kiểm sát
viên (KSV) được thay thế bằng việc một thành viên Hội đồng xét xử (HĐXX)
phúc thẩm tóm tắt nội dung vụ án, quyết định của bản án sơ thẩm, nội dung
kháng cáo, kháng nghị; việc luận tội của KSV ở phần tranh luận được thay thế
bằng việc trình bày kết luận của VKS. Ngồi ra, XXPT cũng có những đặc
trưng riêng về thủ tục kháng cáo, kháng nghị và thông báo kháng cáo, kháng
nghị; về tính hợp pháp và có căn cứ của bản án (quyết định) sơ thẩm; đề nghị

chấp nhận hay bác kháng cáo, kháng nghị...
Thứ sáu: XXPT có những đặc điểm đặc trưng trong các quan hệ pháp
luật tố tụng giữa các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) như: giữa Tòa án
cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm (trong việc thông báo kháng cáo, kháng
nghị; xác minh lý do kháng cáo quá hạn...) giữa VKS cấp sơ thẩm và VKS
cấp phúc thẩm (trong việc kháng nghị bản án sơ thẩm); Tòa án cấp phúc thẩm
và VKS cấp phúc thẩm trong quá trình giải quyết vụ án...
Thứ bảy: Khi XXPT, những người tham gia tố tụng có các quyền
rộng rãi. Người kháng cáo hoặc kháng nghị không chỉ viện dẫn những chứng
cứ có trong hồ sơ vụ án mà cịn được xuất trình những tài liệu mới chưa được
xem xét tại Tòa án cấp sơ thẩm. Bản án của Tòa án cấp phúc thẩm phải căn cứ
vào cả chứng cứ cũ và mới.
XXPT VAHS bao gồm hai tiểu giai đoạn, đó là: giai đoạn chuẩn bị
XXPT và phiên tịa phúc thẩm.
Chuẩ n bi ̣xét xử phúc thẩm VAHS là bước đầ u tiên của giai đoa ̣n xét
xử phúc thẩ m . Đây là giai đoạn mà thẩm phán (chủ tọa phiên tòa ) nghiên cứu
13


hồ sơ và quyế t đinh
̣ những công viê ̣c về thủ tu ̣c cũng như nô ̣i dung để chuẩ n
bị tiến tới mở phiên toà xét xử . Việc nghiên cứu hồ sơ của Thẩm phán nhằm
kiểm tra xem hồ sơ có đủ các tài liệu, chứng cứ để xác định các căn cứ chấp
nhận hoặc bác kháng cáo, kháng nghị. Vì vậy trong quá trình nghiên cứu hồ
sơ để chuẩn bị XXPT, Thẩm phán cần chú ý làm rõ nội dung kháng cáo,
kháng nghị; tính hợp pháp và tính có căn cứ của bản án hoặc quyết định sơ
thẩm. Ngoài ra, thẩm phán cũng cần xem xét, giải quyết việc áp dụng hoặc
thay đổ i , huỷ bỏ biê ̣n pháp ng ăn chă ̣n đố i với bi ̣cáo (Điều 243 BLTTHS);
giải quyết việc bổ sung, thay đổi, rút kháng cáo, kháng nghị trước khi mở
phiên tòa… Trường hợp trước khi mở phiên tòa mà người kháng cáo rút toàn

bộ kháng cáo hoặc VKS rút toàn bộ kháng nghị thì việc XXPT phải được đình
chỉ. Nếu đơn kháng cáo gửi đến Tịa án phúc thẩm thì Tòa án cấp phúc thẩm
thụ lý rồi chuyển đơn về Tòa án cấp sơ thẩm làm thủ tục kháng cáo rồi
chuyển hồ sơ đến Tòa án XXPT.
Về việc xét kháng cáo quá hạn: Đơn kháng cáo quá hạn có thể được
chấp nhận nếu có lý do chính đáng. Đó là trường hợp mà người có quyền
kháng cáo khơng thể thực hiện được quyền của mình trong thời hạn luật định
vì lí do bệnh tật hay tai nạn… HĐXX phúc thẩm (gồm 3 thẩm phán) xét và
quyết định chấp nhận hoặc không chấp nhận việc kháng cáo quá hạn. Khi xét
đơn kháng cáo q hạn, Tịa án cấp phúc thẩm khơng phải mở phiên tịa.
Các cơng việc chuẩn bị khác cho việc mở phiên tòa XXPT của thẩm
phán bao gồm: Lên lịch xét xử và gửi cho VKS cùng cấp, trại tạm giam nơi
giam giữ bị cáo (nếu bị cáo bị tạm giam), Đoàn Luật sư (nếu phải chỉ định
luật sư); xác định những người cần được triệu tập đến phiên tòa; nếu thấy cần
thiết phải mời đại diện các cơ quan, tổ chức đến tham dự phiên tịa thì làm
giấy mời…
Phiên tịa phúc thẩm hình sự là phiên tịa do Tịa án có thẩm quyền
XXPT tiến hành để xét xử lại VAHS mà Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử, nhưng
có kháng cáo, kháng nghị. Về hình thức, phiên tịa phúc thẩm hình sự cũng

14


giống như phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, về HĐXX phúc thẩm, về những
người tham gia phiên tòa phúc thẩm và thủ tục phiên tịa có một số điểm khác
biệt so với phiên tòa sơ thẩm. Cụ thể:
HĐXX phúc thẩm gồm có 3 thẩm phán và trong trường hợp cần thiết
có thể có thêm 2 hội thẩm (trong khi HĐXX sơ thẩm chỉ bao gồm 1 thẩm
phán và 2 hội thẩm).
Những người tham gia phiên tòa phúc thẩm cũng là những người đã

tham gia phiên tòa sơ thẩm. Tuy nhiên, do tính chất của phúc thẩm nên có
những điểm khác nhau. Theo ngun tắc chung, Tịa án khơng cần triệu tập
tất cả những người đã tham gia phiên tòa sơ thẩm mà chỉ triệu tập những
người mà Tòa án cho là cần thiết và có liên quan đến việc kháng cáo, kháng
nghị.Tại phiên tịa phúc thẩm, sự có mặt của KSV là bắt buộc, nếu họ vắng
mặt thì HĐXX phải hỗn phiên tịa. Người bào chữa của bị cáo, người bảo vệ
quyền lợi của đương sự, người kháng cáo, người có quyền và nghĩa vụ liên
quan đến kháng cáo, kháng nghị được triệu tập và tham gia phiên tòa, Nếu họ
vắng mặt khơng có lí do chính đáng thì HĐXX vẫn có thể tiến hành xét xử
nhưng khơng được ra bản án hoặc quyết định khơng có lợi cho bị cáo hoặc
đương sự vắng mặt.
Tại phiên tòa phúc thẩm, tất cả những tài liệu, chứng cứ đã được Tòa
án cấp sơ thẩm nghiên cứu, thẩm tra, đánh giá cũng như các tài liệu, chứng cứ
mới, chưa được biết đến, chưa được trình bày, đánh giá ở cấp sơ thẩm đều
được đưa ra xem xét, thẩm tra, đánh giá và kết luận. Xét hỏi là giai đoạn điều
tra công khai nhằm kiểm tra, đánh giá các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ
án cũng như các chứng cứ, tài liệu được bổ sung tại phiên tòa làm căn cứ cho
việc giải quyết kháng cáo, kháng nghị. Sau khi xét hỏi và tranh luận tại phiên
tòa, HĐXX phúc thẩm sẽ nghị án và đưa ra một trong các quyết định sau đây:
- Không chấp nhận kháng cáo, kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
BLTTHS không qui định cụ thể nhưng căn cứ vào tính chất của phúc thẩm thì

15


Tịa án cấp phúc thẩm có quyền quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm khi
nhận định bản án sơ thẩm đã xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
- Sửa bản án sơ thẩm.
- Hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án để điều tra lại hoặc xét
xử lại.

- Hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ điều tra
Tùy từng trường hợp cụ thể và căn cứ cụ thể mà HĐXX phúc thẩm có
thể ra một trong các quyết định trên.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá các chứng cứ cũ và mới cũng như thẩm
tra các chứng cứ, tài liệu có liên quan đến nội dung kháng cáo, kháng nghị;
HĐXX phúc thẩm sẽ cân nhắc các quan điểm, yêu cầu, đề xuất để đưa ra một
bản án khách quan, toàn diện, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Như vậy, XXPT VAHS là một giai đoạn rất quan trọng trong quá trình
giải quyết một VAHS đảm bảo khách quan, cơng bằng và đúng pháp luật.
Ngồi việc kiểm tra tính có căn cứ và hợp pháp của bản án và quyết định sơ
thẩm bị kháng cáo kháng nghị; XXPT còn kiểm tra, sửa chữa những sai phạm
của Tòa án cấp sơ thẩm nhằm đưa ra một bản án đúng đắn, không bỏ lọt tội
phạm, không làm oan người vơ tội. Đồng thời, XXPT cũng có vai trị hướng
dẫn áp dụng pháp luật thống nhất trên tồn quốc.
1.1.2. Vai trò của xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trong tố tụng
hình sự
Trong TTHS, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự có vai trị đặc biệt quan
trọng trong việc giải quyết đúng đắn , khách quan vụ án hình sự ; bảo vệ lợi ích
Nhà nước, quyề n và lơ ̣i ích hơ ̣p pháp của tở chức , cơng dân.
Như đã phân tích ở trên, tính chất của XXPT là xét xử lại vụ án mà
bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL bị kháng cáo, kháng nghị. Như
vậy, khi kết thúc giai đoạn xét xử sơ thẩm, những người tham gia phiên tòa

16


xét xử sơ thẩm cũng như VKS có thể khơng đồng tình với quyết định của Tịa
án cấp sơ thẩm. Họ cho rằng, Tòa án đã kết án oan người vô tội; bỏ lọt tội
phạm, vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng, kết án sai tội danh… hoặc họ
nhận thấy khung hình phạt chưa phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho

xã hội của hành vi phạm tội… Vì vậy, pháp luật TTHS qui định những người
có quyền kháng cáo (bị cáo, người bị hại, người bào chữa, nguyên đơn dân
sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và đại diện hợp
pháp của những người này) và VKS có quyền kháng nghị. Qua đó, họ có thể
đưa ra quan điểm của mình về những điểm mà họ cho là bất hợp lí trong vụ án
để Tòa án cấp phúc thẩm xem xét và đưa ra phán quyết cuối cùng. Thông qua
việc xem xét lại nội dung kháng cáo, kháng nghị tại phiên tòa; cũng như việc
thẩm tra lại các chứng cứ cũ và chứng cứ mới; Tòa án cấp phúc thẩm sẽ cân
nhắc để đưa ra một phán quyết công bằng, hợp tình, hợp lý. Hơn thế nữa,
XXPT cịn giúp cho Tịa án cấp trên kiểm tra những sai phạm mà Tòa án cấp
dưới đã vấp phải. Thực tế cho thấy, có nhiều vụ án mà Tòa án cấp sơ thẩm vi
phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng đã bỏ lọt tội phạm hoặc kết án sai tội danh.
Thơng qua XXPT, Tịa án cấp phúc thẩm đã kiểm tra tính hợp pháp và có căn
cứ các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có HLPL; đồng thời khắc phục và sửa
chữa những vi phạm đó, giúp cho vụ án được giải quyết đúng đắn, khách
quan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo có quyền kháng cáo đối với bản án sơ
thẩm, bổ sung, thay đổi hoặc rút kháng cáo; có quyền tự bào chữa hoặc nhờ
người khác bào chữa cho mình trước Tịa án cấp phúc thẩm, được nói lời sau
cùng; Tịa án và các cơ quan có trách nhiệm bảo đảm cho bị cáo thực hiện
quyền này và phải cử người bào chữa cho bị cáo. Các quyền này của bị cáo
không chỉ thể hiện bản chất nhân đạo và dân chủ của TTHS, mà cịn là
phương tiện để bị cáo có thể bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình. Mặt
khác, XXPT cho phép phát hiện và ngăn chặn kịp thời việc thi hành các bản
án sơ thẩm không hợp pháp hoặc có sai lầm nghiêm trọng trong áp dụng pháp

17


luật (xử phạt oan, sai người vơ tội). Nhờ đó các quyền và lợi ích hợp pháp của

cơng dân, đặc biệt là bị cáo được bảo vệ kịp thời và có hiệu quả. Như vậy,
XXPT là một trong các phương tiện hữu hiệu để bảo vệ kịp thời và có hiệu
quả lợi ích của Nhà nước, của xã hội, các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng
dân, đặc biệt là của bị cáo.
Theo quy định của BLTTHS hiện hành của nước ta, thì người kháng
cáo hoặc VKS có quyền bổ sung, thay đổi kháng cáo, kháng nghị nhưng
không được làm xấu hơn tình trạng của bị cáo (Điều 238). Tịa án cấp phúc
thẩm có thể tăng hình phạt hoặc áp dụng điều khoản BLHS về tội nặng hơn,
nếu VKS kháng nghị hoặc người bị hại kháng cáo yêu cầu theo hướng đó.
Tịa án cấp phúc thẩm khơng được sửa bản án sơ thẩm theo hướng làm xấu
hơn tình trạng của bị cáo, nếu khơng có kháng cáo của người bị hại hoặc
kháng nghị của VKS theo hướng đó. Điều đó cho thấy bản chất dân chủ và
tiến bộ của TTHS nói chung và xét xử VAHS nói riêng.
XXPT cịn có vai trị quan trọng trong việc đảm bảo ngun tắc "Hai
cấp xét xử" trong TTHS. Đây là một nguyên tắc được pháp luật của hầu hết
các nước thừa nhận và áp dụng trong lĩnh vực tư pháp hình sự. Theo nguyên
tắc này, sau khi xét xử sơ thẩm, nếu bản án hoặc quyết định sơ thẩm chưa có
HLPL bị kháng cáo hoặc kháng nghị, thì vụ án được xét xử lại ở Tòa án cấp
trên. Khi xét xử lại vụ án, Tịa án cấp phúc thẩm khơng chỉ xem xét về mặt áp
dụng luật mà còn giải quyết về nội dung vụ án. Như vậy, nguyên tắc hai cấp
xét xử không chỉ là một trong các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ
thống Tịa án (trong đó có Tịa án cấp phúc thẩm) mà cịn là một trong những
bảo đảm quan trọng để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo, các
đương sự.
Xét xử phúc thẩ m c ịn có vai trị quan trọng trong việc giáo dục nâng
cao ý thức pháp luâ ̣t cho công dân

, ý thức tuân thủ pháp luật và chủ động

tham gia đấ u tranh phòng chố ng tô ̣i pha ̣m . Thông qua việc xét xử các vụ án,


18


Tòa án cấp phúc thẩm hướng dẫn cho các Tòa án cấp dưới và các CQTHTT
khác trong việc nhận thức và áp dụng đúng đắn, thống nhất pháp luật; góp
phần nâng cao chất lượng xét xử các VAHS, tăng cường hiệu quả giáo dục
pháp luật và củng cố niềm tin vào cơng lý cho quần chúng nhân dân, đấu
tranh phịng và chống tội phạm. Thông qua xét hỏi , tranh luâ ̣n trước phiên toà
và bản án được tuyên công khai , Toà án giúp cho những người tham dự phiên
toà nâng cao ý thức pháp luật , biế t đươ ̣c những gì là trái pháp luâ ̣t , những gì là
hợp pháp ... và qua đó nhìn nhận pháp luật đúng đắn

, tuân thủ pháp luâ ̣t và

tham gia đấ u tranh phòng chố ng tô ̣i pha ̣m .
1.2. ĐỊA VỊ PHÁP LÍ VÀ VAI TRỊ CỦA LUẬT SƢ TRONG TỐ TỤNG
HÌNH SỰ

Hoạt động bào chữa và nghề Luật sư xuất hiện từ

rấ t sớm trong lich
̣

sử, gắ n liề n với thiế t chế Toà án trong sự xuấ t hiê ̣n của tổ chức bô ̣ máy Nhà
nước và viê ̣c thừa nhâ ̣n quyề n đươ ̣c bào chữa của đương sự
. Ở Việt Nam,
nghề luật sư đã tồn tại từ trước Cách mạng Tháng tám với sắc lệnh ngày
25/5/1930 của thực dân Pháp về việc tổ chức Hội đồng luật sư ở Hà Nội và
Sài Gòn. Chỉ hơn một tháng sau khi Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh với tư cách là người đứng đầu chính quyền mới
đã ký Sắc lệnh số 46/SL ngày 10-10-1945 về tổ chức đoàn thể luật sư. Sắc lệnh
số 46/SL ngày 10-10-1945 duy trì tổ chức luật sư cũ trong đó có sự vận dụng
linh hoạt các quy định pháp luật cũ về luật sư nhưng không trái với nguyên
tắc độc lập và chính thể dân chủ cộng hịa. Hiến pháp nước Việt Nam dân chủ
cộng hòa năm 1946 khẳng định quyền bào chữa là một trong những quyền cơ
bản của công dân. Điều 67 của Hiến pháp quy định "Người bị cáo được quyền
tự bào chữa lấy hoặc mượn luật sư" (Điều 67 của Hiến pháp năm 1946).
Pháp lệnh tổ chức luật sư ngày 18/12/1987 là văn bản pháp luật có ý
nghĩa lịch sử trong việc khơi phục nghề luật sư và mở đầu cho quá trình phát
triển nghề luật sư ở nước ta trong thời kỳ đổi mới. Điều 2 ghi:

19


×