Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Vai trò của viện kiểm sát trong áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra truy tố thực tiễn trên địa bàn thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (978.77 KB, 97 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ KIỀU DIỄM

VAI TRò CủA VIệN KIểM SáT TRONG áP DụNG CáC BIệN PHáP
NGĂN CHặN TRONG GIAI ĐOạN ĐIềU TRA, TRUY Tố:
THựC TIễN TRÊN ĐịA BàN THàNH PHố Hà NộI
Chuyờn ngnh: Lut hỡnh sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60 38 01 04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ THỊ PHƯỢNG

HÀ NỘI - 2014


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tơi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được cơng bố trong
bất kỳ cơng trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tơi đã
hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tơi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Nguyễn Thị Kiều Diễm




MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các biểu đồ
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI VIỆC ÁP DỤNG CÁC
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU
TRA, TRUY TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
VIỆT NAM .......................................................................................... 6
1.1.

Nhận thức về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam .............................................. 6

1.1.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự Việt Nam ......... 6
1.1.2. Khái niệm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
hình sự Việt Nam ................................................................................. 8
1.1.3. Khái niệm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam ............................................ 11
1.2.

Vai trị của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc áp dụng các

biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số
nước trên thế giới ............................................................................... 12

1.2.1. Pháp luật tố tụng hình sự của Trung Quốc.......................................... 13


1.2.2. Pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hịa Liên bang Đức .................... 14
1.2.3. Pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga ..................................... 15
1.3.

Quá trình hình thành và phát triển những qui định của pháp luật
tố tụng hình sự Việt Nam về vai trị của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn ...................................... 18

1.3.1. Giai đoạn từ năm 1960 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự
năm 1988 ............................................................................................. 18
1.3.2. Giai đoạn từ năm 1988 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự
năm 2003 ............................................................................................. 22
Chương 2: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
HIỆN HÀNH VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN ĐỐI VỚI VIỆC ÁP DỤNG CÁC BIỆN PHÁP NGĂN
CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA, TRUY TỐ VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI ..................26
2.1.

Quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về vai trị của
Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng các biện pháp ngăn
chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố .................................................. 26

2.1.1. Biện pháp bắt người ............................................................................ 26

2.1.2. Biện pháp tạm giữ ............................................................................... 31
2.1.3. Biện pháp tạm giam ............................................................................ 33
2.1.4. Các biện pháp ngăn chặn khác ............................................................ 39
2.2.

Thực tiễn về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc áp dụng
các các biện pháp ngăn chặn trên địa bàn thành phố Hà Nội................. 46

2.2.1. Những kết quả đạt được ...................................................................... 46
2.2.2. Những hạn chế, tồn tại ........................................................................ 56
2.2.3. Nguyên nhân những kết quả đạt được và những hạn chế, tồn tại .......... 61


Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC ÁP DỤNG
CÁC BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN
ĐIỀU TRA, TRUY TỐ ..................................................................... 65
3.1.

Những yêu cầu để nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra,
truy tố ................................................................................................... 65

3.1.1. Yêu cầu từ công cuộc cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay ............ 65
3.1.2. Yêu cầu từ thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự .............................. 67
3.2.

Các giải pháp cụ thể ............................................................................ 70

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật

khác có liên quan ................................................................................. 70
3.2.2. Hồn thiện tổ chức và phương thức hoạt động của Viện kiểm sát
nhân dân và chế độ đào tạo, tuyển chọn, bổ nhiệm Kiểm sát viên ........ 75
3.2.3. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm cơng tác tiến hành tố
tụng hình sự ......................................................................................... 78
3.2.4. Tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố
tụng và giữa cơ quan tiến hành tố tụng với các cơ quan liên quan ..... 79
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82
PHỤ LỤC BẢNG BIỂU................................................................................ 87


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

BLTTHS:

Bộ luật Tố tụng hình sự

BPNC:

Biện pháp ngăn chặn

CQCA:

Cơ quan cơng an

CQĐT:

Cơ quan điều tra


TA:

Tịa án

TTHS:

Tố tụng hình sự

VKS:

Viện kiểm sát

VKSND:

Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 2.1.

Tổng số đối tượng bị áp dụng các BPNC từ năm 2009 đến
năm 2013 trên địa bàn thành phố Hà Nội ................................... 87

Bảng 2.2.

Số lượng người bị bắt từ năm 2009 đến năm 2013 trên địa
bàn thành phố Hà Nội ................................................................. 87

Bảng 2.3.


Tổng số đối tượng bị tạm giữ trên địa bàn thành phố Hà Nội
từ năm 2009 đến năm 2013 ......................................................... 87

Bảng 2.4.

Tổng số đối tượng được trả tự do sau khi bị tạm giữ trên địa
bàn thành phố Hà Nội từ năm 2009 đến năm 2013 .................... 88

Bảng 2.5.

Tổng số đối tượng bị tạm giam trên địa bàn thành phố Hà
Nội từ năm 2009 đến năm 2013 .................................................. 88

Bảng 2.6.

Tổng số đối tượng bị áp dụng BPNC cấm đi khỏi nơi cư trú,
bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm chuyển
từ biện pháp tạm giữ trên địa bàn thành phố Hà Nội năm
2009 đến năm 2013 ..................................................................... 88

Bảng 2.7.

Tổng số đối tượng bị áp dụng BPNC cấm đi khỏi nơi cư trú,
bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm chuyển
từ biện pháp tạm giam trên địa bàn thành phố Hà Nội năm
2009 đến năm 2013 ..................................................................... 89


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1.


Biểu đồ thể hiện tỷ lệ áp dụng các biện pháp ngăn chặn qua
các năm.................................................................................... 47

Biểu đồ 2.2.

Biểu đồ thể hiện số người bị bắt ............................................. 48

Biểu đồ 2.3.

Biểu đồ thể hiện số người bị tạm giữ ...................................... 50

Biểu đồ 2.4.

Biểu đồ thể hiện số bị can tạm giam ....................................... 52

Biểu đồ 2.5.

Biểu đồ thể hiện việc áp dụng BPNC khác chuyển từ biện pháp
tạm giữ ................................................................................................54

Biểu đồ 2.6.

Biểu đồ thể hiện việc áp dụng BPNC khác thay thế biện pháp
tạm giam .............................................................................................55


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Một trong nhóm các quan hệ xã hội đặc trưng được pháp luật tố tụng

hình sự điều chỉnh đó là cơ quan quyền lực Nhà nước với tội phạm và người
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội. Nhà nước đã giao quyền cũng như
trách nhiệm cho các cơ quan đó được áp dụng các biện pháp cưỡng chế để tác
động đến đối tượng. Một điều thấy rất rõ là các biện pháp cưỡng chế được
áp dụng một chiều không phụ thuộc vào ý chí của bên bị áp dụng, chỉ cần
có những căn cứ điều kiện do pháp luật quy định. Các biện pháp ngăn chặn
trong tố tụng hình sự là những biện pháp cưỡng chế can thiệp nghiêm trọng
tới các quyền cơ bản của công dân. Việc áp dụng như thế nào để đảm bảo
hiệu quả cũng như bảo vệ được quyền cơng dân là rất quan trọng. Nó
khơng chỉ liên quan đến nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan tiến hành tố
tụng, bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa mà còn liên quan đến các quyền
cơ bản của công dân được pháp luật bảo vệ, liên quan đến trách nhiệm bồi
thường trong trường hợp oan sai.
Thực tiễn cho thấy, khơng ít các trường hợp áp dụng các biện pháp
ngăn chặn một cách lạm dụng, thiếu căn cứ, hoặc còn “non” về các điều kiện
áp dụng. Việc áp dụng chỉ nhằm mục đích trước mắt là phục vụ thuận tiện cho
việc điều tra vụ án, nhất là các biện pháp bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc có cả
trường hợp hợp pháp hóa tài liệu giấy tờ cần thiết để hồ sơ được phê chuẩn.
Mặc dù trên thực tế không thể phủ nhận rằng nhiều vụ án xảy ra nếu không áp
dụng các biện pháp ngăn chặn sẽ gây khó khăn trong việc điều tra, truy tố
như: người phạm tội bỏ trốn, phạm tội mới, tiêu hủy chứng cứ… Khơng xem
xét đến tính cần thiết để áp dụng; tính khơng cần thiết, khơng có căn cứ để
hủy bỏ hoặc thay thế bằng một biện pháp ngăn chặn khác vẫn xảy ra. Thực
1


trạng này khơng chỉ có trách nhiệm Cơ quan điều tra, mà trách nhiệm của
Viện kiểm sát nhân dân là rất quan trọng, thậm chí Viện kiểm sát chịu trách
nhiệm chính về việc áp dụng một số biện pháp ngăn chặn quan trọng. Vì pháp
luật tố tụng hình sự đã quy định một cách rõ ràng về vai trò của Viện kiểm sát

trong tố tụng hình sự, trong đó có việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn. Đối
với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn thì vai trị của Viện kiểm sát nhân
dân thể hiện rõ nhất là trong giai đoạn điều tra và truy tố. Việc làm tốt vai trị
đó trong hai giai đoạn này có ý nghĩa rất quan trọng, góp phần làm sáng tỏ
tồn bộ sự thật khách quan của vụ án hình sự, tạo cơ sở cho việc truy tố, xét
xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không làm oan người vô tội và
không bỏ lọt tội phạm; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Nhằm góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân
dân về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố,
thì việc nghiên cứu đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát trong áp dụng các biện
pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố: Thực tiễn trên địa bàn
thành phố Hà Nội” là cần thiết. Để từ đó xem xét, đánh giá đúng thực trạng
hiện nay, tìm ra những tồn tại và đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả của
công tác kiểm sát trên thực tế.
2. Tình hình nghiên cứu
Việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự cũng đã
được một số nhà nghiên cứu và những người làm công tác thực tiễn nghiên
cứu dưới dạng sách và các bài báo, bài viết đăng tải trên các tạp chí chuyên
ngành như Tạp chí kiểm sát, Tạp chí luật học, Tạp chí Tồ án,... cụ thể như:
Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự do PGS.TS Võ Khánh
Vinh chủ biên (NXB Công an nhân dân năm 2004); Thực hành quyền công
tố và kiếm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra của tác giả
Nguyễn Hữu Thể (NXB Tư pháp năm 2005); Quá trình phát triền của pháp
2


luật tố tụng hình sự Việt Nam về những biện pháp ngăn chặn của tác giả
Trịnh Văn Thanh (NXB Công an nhân dân năm 2005); Những biện pháp
ngăn chặn trong tố tụng hình sự của tác giả Nguyễn Mai Bộ (NXB Chính
trị quốc gia năm 1997);...

Hồn thiện các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự theo yêu cầu cải cách tư pháp của tác giả Phạm Mạnh Hùng – Viện kiểm
sát nhân dân tối cao (Tạp chí kiểm sát số 21 năm 2007); Một số ý kiến về hoàn
thiện các quy định về các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự của tác
giả Nguyễn Đình Bình (Tạp chí kiểm sát số 5 năm 2008); Các biện pháp ngăn
chặn trong tố tụng hình sự của tác giả Lê Thị Tuyết Nga (Tạp chí kiểm sát số
18 và 20 năm 2008); Cần sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2003 về biện pháp ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú của tác giả
Phạm Việt Hưng (Tạp chí kiểm sát số 7 năm 2010); Cần thay đổi biện pháp
ngăn chặn cấm đi khỏi nơi cư trú bằng biện pháp trình diện của tác giả
Hồng Việt Quang (Tạp chí kiểm sát số 7 năm 2011; Một số điểm mới về
những biện pháp ngăn chặn trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 của tác
giả Trịnh Tiến Việt – Trần Thị Quỳnh (Tạp chí tịa án số 8 năm 2004); Áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ
án hình sự của tác giả Mai Bộ (Tạp chí tịa án nhân dân số 5 năm 2009); Biện
pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm và một số kiến nghị tiếp tục
hoàn thiện biện pháp này theo tinh thần cải cách tư pháp của tác giả Lê Thị
Kim Âu (Tạp chí tịa án nhân dân số 4 năm 2011);....
Như vậy, vấn đề trên cũng rất nhiều người quan tâm nghiên cứu ở
những góc độ khác nhau, đều nhằm mục đích làm rõ các quy định của pháp
luật, việc áp dụng trên thực tế như thế nào, những vấn đề cần hồn thiện.
Vì vậy, nghiên cứu vai trị của Viện kiểm sát nhân dân về việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn là cần thiết, nhất là trong giai đoạn điều tra, truy tố,
3


giúp chúng ta nhận thức một cách có hệ thống vấn đề này về lý luận cũng
như thực tiễn.
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Mục đích: Luận văn nghiên cứu một cách tồn diện, có hệ thống vai

trị của Viện kiểm sát nhân dân khi áp dụng các các biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra, truy tố. Từ đó làm rõ cơ sở pháp lý để Viện kiểm sát
nhân dân thực hiện vai trị của mình.
- Nhiệm vụ: Luận văn có nhiệm vụ phân tích cơ sở pháp lý cũng như
thực tiễn vai trò Viện kiểm sát nhân dân đối với việc áp dụng các biện pháp
ngăn chặn trong tố tụng hình sự, bao gồm 06 biện pháp: bắt, tạm giữ, tạm
giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo
đảm. Từ đó thấy rõ vị trí, vai trị quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân và
chỉ ra những tồn tại cần khắc phục để đề xuất những giải pháp nâng cao hiệu
quả hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong áp dụng các biện pháp ngăn
chặn. Đồng thời góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao vai trò của
các cơ quan tư pháp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
- Phạm vi nghiên cứu: Để giải quyết vấn đề một cách cụ thể và thuận
lợi, trong quá trình nghiên cứu Luận văn sẽ chỉ nghiên cứu lý luận, các quy
định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về vai trị của Viện kiểm sát
nhân dân về việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra,
truy tố. Có nhiều ý kiến về việc phân chia các giai đoạn tố tụng hình sự, trong
phạm vi Luận văn xin được gộp giai đoạn khởi tố và điều tra làm một là giai
đoạn điều tra vì hai giai đoạn này có mối quan hệ mật thiết với nhau để tiện
cho việc nghiên cứu. Trên cơ sở đó chỉ ra mặt tích cực và hạn chế trong thực
tiễn áp dụng các biện pháp đó trong 05 năm (từ năm 2009 đến năm 2013),
trên phạm vi thành phố Hà Nội.

4


4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể của luận văn gồm: phương pháp nghiên
cứu tài liệu, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống

kê, phương pháp khảo sát thực tế, phương pháp so sánh, đối chiếu....
5. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu luận
văn gồm 3 chương.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA
VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN ĐỐI VỚI VIỆC ÁP DỤNG CÁC
BIỆN PHÁP NGĂN CHẶN TRONG GIAI ĐOẠN ĐIỀU TRA,
TRUY TỐ THEO PHÁP LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. Nhận thức về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc
áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố theo
pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam
1.1.1. Khái niệm các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự
Việt Nam
Các biện pháp cưỡng chế nhà nước được áp dụng thường xuyên trong
các trường hợp cần thiết mà pháp luật quy định. Trong lĩnh vực TTHS, các
biện pháp cưỡng chế mà Nhà nước cho phép các cơ quan tiến hành tố tụng,
người tiến hành tố tụng áp dụng trong các giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử
đối với những đối tượng nhất định như: những BPNC: tạm giữ, tạm giam,
cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm;
những biện pháp bảo đảm cho việc thu thập chứng cứ: khám xét, thu giữ, tạm
giữ, kê biên tài sản;...
Việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS nhằm bảo đảm xác định
sự thật vụ án, phát hiện, xử lý chính xác, kịp thời tội phạm, ngăn chặn và
phịng ngừa tội phạm. Để đạt được mục đích đó các cơ quan tiến hành tố tụng
trong từng giai đoạn TTHS áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS cho phù

hợp với chức năng, nhiệm vụ của mình.
Trong các biện pháp cưỡng chế TTHS thì BPNC là những biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc hơn cả vì nó tước bỏ tạm thời hoặc hạn chế một phần
quyền tự do của người bị áp dụng nhằm ngăn chặn việc phạm tội, tạo điều
6


kiện thuận lợi cho việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, tơn trọng các quyền,
lợi ích của cơng dân trong TTHS.
Việc áp dụng các BPNC trong TTHS có ý nghĩa rất quan trọng, cụ thể:
bảo đảm cho công tác đấu tranh phịng chống tội phạm có hiệu quả, bảo đảm
hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi; thể hiện quyền
lực của Nhà nước trong việc đấu tranh chống tội phạm; góp phần bảo vệ sự an
toàn, vững mạnh của chế độ Xã hội Chủ nghĩa, bảo vệ tài sản, tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm của công dân; đảm bảo thực hiện dân chủ, tôn
trọng và bảo đảm các quyền tự do của công dân được Hiến pháp năm 1992
ghi nhận, không để một công dân nào bị hạn chế các quyền công dân, bị bắt,
bị giam, giữ một cách trái pháp luật [34].
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của Đại học Luật Hà Nội đưa ra khái
niệm về biện pháp ngăn chặn như sau:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp cưỡng chế trong TTHS
được áp dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc đối với
những người chưa bị khởi tố (trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm
tội quả tang), nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội
của họ, ngăn ngừa họ tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có
hành động gây cản trở cho vc điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án
hình sự [42, tr.197].
Tác giả Nguyễn Mai Bộ cũng đã đưa ra khái niệm chung về BPNC:
Biện pháp ngăn chặn là những biện pháp cưỡng chế TTHS do
những cơ quan hoặc những người có thẩm quyền theo pháp luật quy

định áp dụng đối với bị can, bị cáo và có thể đối với những người
chưa bị khởi tố khi có căn cứ do pháp luật quy định nhằm ngăn
chặn tội phạm, đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố xét xử và thi
hành án hoặc không cho họ tiếp tục phạm tội mới. Các BPNC bao
7


gồm bắt người, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh,
đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm [10, tr.52].
Ngồi ra, cũng có tác giả đưa ra khái niệm:
Biện pháp ngăn chặn là biện pháp có tính bắt buộc của Nhà
nước do những người có thẩm quyền trong các cơ quan tiến hành tố
tụng và các cơ quan được quyền tiến hành tố tụng một số hoạt động
điều tra theo luật định áp dụng, tạm thời tước bỏ hoặc hạn chế một
phần quyền tự do thân thể của bị can, bị cáo và trong trường hợp
đặc biệt có thể áp dụng đối với người chưa bị khởi tố về hình sự
nhằm ngăn chặn tội phạm, đảm bảo cho công tác điều tra, truy tố,
xét xử và thi hành án hoặc không cho họ tiếp tục gây hại cho xã hội
[34, tr.40].
Như vậy, ta có thể hiểu rằng: Biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình
sự là biện pháp cưỡng chế mà người có thẩm quyền trong tố tụng hình sự áp
dụng đối với bị can, bị cáo, người bị truy nã hoặc người chưa bị khởi tố về
hình sự khi có những căn cứ luật định nhằm mục đích kịp thời ngăn chặn tội
phạm hoặc đảm bảo việc khơng gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét
xử, thi hành án hoặc khơng tiếp tục phạm tội.
1.1.2. Khái niệm vai trị của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng
hình sự Việt Nam
Theo Từ điển Tiếng Việt năm 2013, vai trò là: “Tác dụng, chức năng
trong sự hoạt động, phát triển của cái gì đó”[41].
VKSND có vai trị rất quan trọng trong hoạt động TTHS. Là một trong

những cơ quan tiến hành tố tụng cùng với CQĐT, TA, VKSND đã góp phần
quan trọng vào hoạt động TTHS. Thực hành quyền công tố và kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp là chức năng hiến định của ngành
kiểm sát nhân dân. Trong Hiến pháp 1992 (sửa đổi 2013) (Điều 107) và Luật
8


tổ chức VKSND 2002 (Điều 1) đều quy định: VKSND thực hành quyền công
tố và kiểm sát hoạt động tư pháp
Đối với các cơ quan tiến hành tố tụng khác, như CQĐT, TA chỉ chịu
trách nhiệm đối với phần việc thuộc phạm vi thẩm quyền của mình ở từng
giai đoạn tố tụng nhất định. VKSND thì khác, khơng những phải hồn thành
hoạt động thực hành quyền cơng tố của mình đúng pháp luật, mà còn phải
chịu trách nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các đối tượng luật định
nhằm phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật trong suốt q trình giải
quyết vụ án, từ khi có sự kiện phạm tội xảy ra cho khi thi hành xong bản án,
xóa án tích. Như vậy, ta có thể hiểu: Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong
tố tụng hình sự đó là việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn trong
các hoạt động tố tụng hình sự nhằm góp phần vào việc đảm bảo các quy định
của pháp luật được chấp hành nghiêm túc, quyền và lợi ích của các cơ quan
tố tụng, người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng không bị xâm phạm.
Ở giai đoạn điều tra, VKSND giữ một vị trí đặc biệt quan trọng xuyên
suốt quá trình điều tra, truy tố. Tác giả Lê Hữu Thể từng nhận định như sau:
VKSND giữ vai trò chủ đạo, quyết định trong các hoạt động
thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp ở giai
đoạn điều tra vụ án hình sự. VKSND có trách nhiệm áp dụng các
biện pháp do BLTTHS quy định nhằm bảo đảm cho điều tra, truy tố
được kịp thời, nhanh chóng, hiệu quả, khơng để lọt tội phạm và
người phạm tội, không làm oan người vô tội, đảm bảo cho hoạt động
điều tra được tiến hành đúng quy định pháp luật [38, tr. 102].

Mặt khác, điều đó thể hiện ở quyền truy tố thuộc VKSND, là cơ quan
chịu trách nhiệm về mặt chứng cứ của vụ án trước TA. Trong trường hợp mà
TA đình chỉ vụ án hay tun bị cáo khơng phạm tội thì đều đồng nghĩa với
việc VKSND đã truy cứu trách nhiệm hình sự một người nào đó khơng đúng
9


pháp luật. Trong giai đoạn điều tra, hai chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát điều tra luôn được thực hiện đan xen nhau, có tác dụng hỗ trợ lẫn
nhau. Mục đích của hoạt động thực hành quyền công tố là chứng minh tội
phạm và xác định người phạm tội; mục đích của hoạt động kiểm sát điều tra
là đảm bảo các hoạt động điều tra được đầy đủ, khách quan, tồn diện, đúng
pháp luật. Cơng tác kiểm sát điều tra có hiệu quả sẽ là điều kiện để đảm bảo
cho hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND được đúng đắn và ngược
lại, công tác thực hành quyền cơng tố có hiệu quả sẽ tạo điều kiện cho hoạt
động kiểm sát điều tra phát hiện kịp thời những vi phạm pháp luật trong khi
tiến hành điều tra. Vì vậy, khi VKSND thực hiện tốt chức năng của mình sẽ
đảm bảo: khơng để người nào bị khởi tố, bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị hạn
chế quyền cơng dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do, danh dự và
nhân phẩm một cách trái pháp luật; không để lọt tội phạm và không làm oan
người vơ tội; việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội phải
đúng pháp luật và có căn cứ; việc điều tra được tiến hành một cách khách
quan, tồn diện, chính xác và đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong
quá trình điều tra được phát hiện và khắc phục kịp thời [46].
Ở giai đoạn xét xử sơ thẩm các vụ án hình sự, VKSND thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của TA, hoạt động của những
người tham gia phiên tịa. Thơng qua đó nhằm đảm bảo việc TA chấp hành
đúng các quy định của pháp luật TTHS, đảm bảo bản án của TA đúng người,
đúng tội, đúng pháp luật cũng như quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố
tụng được tơn trọng.

Như vậy, để nâng cao hơn nữa vai trị của VKSND thì cán bộ
ngành kiểm sát phải nhận thức một cách đầy đủ, đúng đắn về vị trí, vai
trị của VKSND thì mới có thể sử dụng đúng, có hiệu quả các quyền

10


năng tố tụng trong hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt
động tư pháp của mình được.
1.1.3. Khái niệm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc áp
dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều tra, truy tố theo pháp
luật tố tụng hình sự Việt Nam
Trong quá trình tiến hành tố tụng, các cơ quan tiến hành tố tụng, người
tiến hành tố tụng trong phạm vi nhất định tùy vào giai đoạn tố tụng cũng như
các BPNC mà có quyền áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC. Việc áp dụng
các BPNC đều nhằm những mục đích cụ thể, chủ yếu phục vụ cho hoạt động
của các cơ quan tiến hành tố tụng. Từ giai đoạn khởi tố - điều tra, truy tố đến
giai đoạn xét xử, khi người có thẩm quyền áp dụng BPNC thì VKSND đều có
vai trị nhất định qua việc thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và
kiểm sát việc tuân theo pháp luật.
Trong giai đoạn điều tra thì người có thẩm quyền áp dụng các BPNC
chủ yếu là Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT, Viện trưởng, Phó Viện trưởng
VKSND; giai đoạn truy tố là Viện trưởng, Phó Viện trưởng VKSND và giai
đoạn xét xử là Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán. Khi người có thẩm
quyền áp dụng các BPNC thì tùy từng biện pháp mà VKSND có quyền phê
chuẩn trước khi thi hành hoặc sau đó và VKSND có quyền kiểm sát việc áp
dụng, thi hành các lệnh áp dụng đó, cũng như việc thay đổi, hủy bỏ BPNC.
Trên cơ sở đó, ta có thể hiểu vai trò của VKSND trong việc áp dụng
các BPNC là việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND
trong các hoạt động áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC của các cơ quan,

người có thẩm quyền theo pháp luật TTHS nhằm đảm bảo các các quy định
của pháp luật được áp dụng có căn cứ, tránh lạm dụng, cũng như đảm bảo các
quyền, lợi ích của công dân không bị xâm phạm.
So với giai đoạn xét xử thì vai trị của VKSND về việc áp dụng các
11


BPNC trong giai đoạn điều tra, truy tố thể hiện rõ hơn. Ở giai đoạn xét xử vai
trò của VKSND chỉ thể hiện ở việc thực hiện chức năng kiểm sát việc áp
dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC của TA, ví dụ: đối với biện pháp đặt tiền
hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm khi kiểm sát việc áp dụng, thay đổi hoặc
hủy bỏ biện pháp này của TA thì Kiểm sát viên có nhiệm vụ kiểm sát thẩm
quyền ra quyết định; căn cứ, điều kiện ra quyết định; thủ tục áp dụng. Nếu
quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm
khơng có căn cứ và trái pháp luật thì VKSND có quyền kiến nghị hoặc kháng
nghị khắc phục,... Cịn ở giai đoạn điều tra, truy tố VKSND có quyền thực
hiện hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát việc áp dụng các
BPNC của CQĐT.
Từ những phân tích trên ta rút ra được khái niệm về vai trò của
VKSND đối với việc áp dụng các BPNC trong giai đoạn điều tra, truy tố: Vai
trò của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn
trong giai đoạn điều tra, truy tố là việc thực hiện các các chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong các hoạt động áp dụng, thay
đổi, hủy bỏ các biện pháp ngăn chặn của các cơ quan, người có thẩm quyền
theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam trong giai đoạn điều tra, truy tố
nhằm đảm bảo các quy định của pháp luật được áp dụng có căn cứ cũng như
đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
1.2. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân đối với việc áp dụng các
biện pháp ngăn chặn trong pháp luật tố tụng hình sự ở một số nước
trên thế giới

Chế định các BPNC là một chế định quan trọng của pháp luật TTHS.
Việc quy định và áp dụng một cách đúng đắn, chính xác các BPNC là bảo
đảm cần thiết cho việc thực hiện tốt các nhiệm vụ của TTHS để phát hiện
chính xác, nhanh chóng, ngăn chặn và xử lý kịp thời, nghiêm minh đối với kẻ
12


phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Chế định các
BPNC là một chế định quan trọng của pháp luật TTHS. Pháp luật TTHS của
các nước trên thế giới đều có quy định về các BPNC và VKSND có vai trị
nhất định khi tiến hành áp dụng các BPNC.
1.2.1. Pháp luật tố tụng hình sự của Trung Quốc
Trong các nguyên tắc cơ bản của TTHS, Luật TTHS Trung Quốc quy
định rõ về chức năng của VKSND, đó là: VKSND thực hành quyền cơng tố
độc lập theo quy định của pháp luật, không cơ quan hành chính, tổ chức xã
hội hoặc cá nhân nào có quyền can thiệp. VKSND căn cứ quy định của luật
thực hiện giám sát việc tuân theo pháp luật trong TTHS [44, tr.6+7].
Luật TTHS Trung Quốc có một chương riêng quy định về các BPNC,
bao gồm bốn biện pháp: bảo lĩnh, cấm đi khỏi nơi cư trú, bắt giam, tạm giữ
người. Đối với việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ các BPNC, VKSND có vai trị
nhất định. Nếu xét thấy BPNC áp dụng cho bị can, bị cáo là không phù hợp,
cần kịp thời xóa bỏ hoặc thay đổi thì TA, VKSND, CQCA quyết định. Nếu
CQCA trả tự do cho người bị bắt hoặc thay đổi BPNC, phải thông báo cho
VKSND để phê chuẩn [44, tr.15].
Đối với biện pháp bắt giam, lệnh bắt phải được VKSND phê chuẩn
hoặc TA quyết định. CQCA là người thi hành lệnh bắt. Khi bắt một người bị
tình nghi, CQCA phải có một đề nghị phê chuẩn bắt gửi kèm theo hồ sơ vụ án
cho VKSND cùng cấp thẩm tra, phê chuẩn. Khi cần, VKSND có thể cử người
tham gia thảo luận với CQCA trong những vụ án nghiêm trọng. Sau khi thẩm
tra vụ án do CQCA đề nghị phê chuẩn bắt, VKSND phải căn cứ vào các tình

tiết để ra quyết định phê chuẩn hay khơng phê chuẩn. Trong trường hợp phê
chuẩn, CQCA phải thi hành ngay và kịp thời thông báo kết quả cho VKSND.
Trường hợp không phê chuẩn, VKSND phải nêu rõ lý do, nếu cần điều tra bổ
sung thì thơng báo cho CQCA [44, tr.16].

13


Về biện pháp tạm giữ, CQCA có thể tiến hành tạm giữ đối với tội phạm
quả tang hoặc người bị tình nghi trong những trường hợp luật định. Nếu thấy
cần phải bắt giam người đang bị tạm giữ thì phải đề nghị VKSND thẩm tra
phê chuẩn trong vòng 3 ngày kể từ khi tạm giữ. Trường hợp đặc biệt có thể
gia hạn đề nghị thẩm tra và phê chuẩn từ 01 đến 4 ngày. Trong thời hạn sau
khi nhận được đề nghị phê chuẩn bắt của CQCA, VKSND phải ra quyết định
phê chuẩn hay không phê chuẩn. Trường hợp không phê chuẩn thì CQCA
phải thả ngay người bị tạm giữ và thông báo kết quả cho VKSND [44, tr.17].
Đối với biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và bảo lĩnh thì ngồi TA và
CQCA, VKSND có quyền áp dụng biện pháp này trong những trường hợp
luật định như: bị bệnh nặng, khơng thể tự chăm sóc bản thân; phụ nữ mang
thai hoặc cho con bú; là người phụng dưỡng duy nhất của người khơng đủ khả
năng chăm sóc bản thân;... [44, tr.17].
1.2.2. Pháp luật tố tụng hình sự của Cộng hòa Liên bang Đức
Cơ quan tiến hành TTHS của Cộng hòa Liên bang Đức bao gồm: cơ
quan Cảnh sát, Cơng tố và Tịa án. Theo đó cơ quan Cơng tố đóng vai trị là
trung tâm của q trình tố tụng và được coi là cơ quan có trách nhiệm trong
lĩnh vực tư pháp hình sự [44, tr.81].
Theo BLTTHS của Cộng hịa Liên bang Đức thì BPNC bao gồm
các biện pháp sau: bắt, tạm giữ, tạm giam. Việc hủy bỏ hoặc thay thế các
BPNC do Thẩm phán xem xét, quyết định trên cơ sở đề nghị của Công tố
viên [44, tr.89].

Đối với biện pháp bắt thì Cơ quan Cơng tố có quyền đề nghị Thẩm
phán TA áp dụng khi có những căn cứ như: xác định bị can đã bỏ trốn hoặc
đang trốn tránh hoặc có khả năng bị can sẽ trốn tránh;... Và một trong các
trường hợp lệnh bắt bị hủy bỏ nếu Cơ quan Cơng tố có đề nghị trước khi
quyết định khởi tố. Cùng với đề nghị này, Cơ quan Cơng tố có thể ra lệnh trả

14


tự do cho bị can. Sau khi có quyết định truy tố, trong trường hợp khẩn cấp,
Thẩm phán có thể hủy bỏ lệnh bắt hoặc đình chỉ việc thi hành lệnh bắt
theo Điều 116 BLTTHS nếu Cơ quan Công tố đồng ý [44, tr.90].
Biện pháp tạm giữ được áp dụng sau khi bắt quả tang hoặc bị bắt khi bị
truy đuổi, nếu có căn cứ cho rằng người đó bỏ trốn hoặc nếu không thể xác
định được căn cước của người đó ngay. Trường hợp khẩn cấp Cơ quan Cơng
tố và các nhân viên cảnh sát có quyền thực hiện việc tạm giữ nếu có đủ căn cứ
cho việc ra lệnh bắt [44, tr.91].
Về biện pháp tạm giam, Cơ quan Cơng tố có quyền đề nghị Thẩm phán
ra quyết định áp dụng biện pháp này khi có những căn cứ nhất định như: khi
có căn cứ xác đáng bị can đó đã phạm tội;...; nếu có căn cứ cho thấy khả năng
trước khi có bản án kết tội, bị can sẽ tiếp tục thực hiện những hành vi phạm
tội đồng thời xét thấy việc tạm giam là cần thiết để ngăn ngừa nguy hiểm sắp
xảy ra [44, tr.91].
Ngồi ra cịn có biện pháp nộp tiền để bảo đảm thi hành án. Ngồi
Thẩm phán ra Cơ quan Cơng tố cũng có quyền ban hành lệnh nộp một
khoản tiền đủ cho tiền phạt có thể được tun và án phí trong trường hợp
khẩn cấp [44, tr.92].
1.2.3. Pháp luật tố tụng hình sự của Liên bang Nga
Trong BLTTHS Liên Bang Nga, các BPNC và cưỡng chế tố tụng được
quy định chung trong Chương VI “Những biện pháp cưỡng chế tố tụng” bao

gồm: Tạm giữ người bị tình nghi, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh của cá
nhân, giám sát của đơn vị quân đội, quản lý người bị tình nghi hoặc bị can là
người chưa thành niên, đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm, giam tại
nhà và biện pháp tạm giam [44, tr.52].
Các BPNC này được áp dụng khi có căn cứ cho rằng người bị tình
nghi, bị can: trốn tránh việc điều tra ban đầu, điều tra dự thẩm hoặc xét

15


xử; có thể tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội; có thể đe dọa người làm
chứng, những người khác tham gia tố tụng hình sự, tiêu hủy chứng cứ,
cũng như có những hành vi khác cản trở hoạt động tố tụng đối với vụ
án. BPNC cũng có thể được áp dụng để bảo đảm thi hành án hoặc để
bảo đảm khả năng dẫn độ [8, Điều 97].
Về thẩm quyền áp dụng BPNC, BLTTHS quy định rõ đó là Điều tra
viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và Toà án ra quyết định về
việc áp dụng BPNC, trong đó nêu rõ tội phạm mà người đó bị tình nghi hoặc
bị khởi tố và những căn cứ của việc áp dụng BPNC [8, Điều 101].
Về huỷ bỏ hoặc thay đổi BPNC, Điều 110 quy định rõ: BPNC bị huỷ
bỏ nếu việc áp dụng chúng là không cần thiết hoặc bị thay đổi bằng BPNC
khác nghiêm khắc hơn hoặc ít nghiêm khắc hơn nếu những căn cứ áp dụng
BPNC quy định tại Điều 99 Bộ luật này có thay đổi; việc huỷ bỏ hoặc thay
đổi BPNC được thực hiện theo quyết định của Điều tra viên, Dự thẩm viên,
Kiểm sát viên, Thẩm phán hoặc Toà án; trước khi vụ án được chuyển cho Tồ
án thì BPNC do Kiểm sát viên lựa chọn, áp dụng. Dự thẩm viên, Điều tra
viên áp dụng BPNC theo yêu cầu bằng văn bản của Kiểm sát viên và việc
thay đổi, huỷ bỏ chỉ được thực hiện khi Kiểm sát viên đồng ý.
Biện pháp tạm giữ người bị tình nghi do CQĐT ban đầu, Dự thẩm viên
hoặc KSV áp dụng đối với người bị tình nghi thực hiện tội phạm mà có thể bị

xử phạt tù, nếu có một trong những căn cứ quy định tại Điều 91. Người bị
tình nghi cũng sẽ được trả tự do theo quyết định của ĐTV, Dự thẩm viên hoặc
KSV khi có một trong ba căn cứ: việc nghi ngờ người đó thực hiện tội phạm
là khơng xác thực; khơng có căn cứ để áp dụng biện pháp tạm giam đối với
họ; việc tạm giữ họ vi phạm Điều 91 Bộ luật này [8, Điều 94].
Trong biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và biện pháp bảo lĩnh, người
được áp dụng biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và người nhận bảo lĩnh phải
cam đoan bằng văn bản có nội dung bảo thực hiện các nghĩa vụ như: có mặt
16


theo giấy triệu tập của Điều tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên, Thẩm
phán đúng thời gian quy định; không cản trở hoạt động tố tụng đối với vụ án
bằng những hình thức khác [8, Điều 102, Điều 103].
Việc quản lý người bị tình nghi hoặc bị can là người chưa thành niên
thể hiện ở việc bảo đảm người đó xử sự đúng mực do cha mẹ, người đỡ đầu,
người giám hộ hoặc những người nhận bảo lĩnh cho họ cũng như những
người có trách nhiệm của cơ quan chuyên trách về trẻ em thực hiện và những
người này phải cam đoan bằng văn bản. Khi áp dụng BPNC này bắt buộc
Điều tra viên, Dự thẩm viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán phải giải thích cho
những người nhận bảo lĩnh về bản chất của việc tình nghi hoặc buộc tội và
trách nhiệm của họ liên quan đến nghĩa vụ theo dõi, giám sát [8, Điều 105].
Điều 106 quy định việc đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm thể
hiện ở việc người bị tình nghi hoặc bị can hoặc những thể nhân hoặc pháp
nhân khác đặt ký quỹ tiền, những giấy tờ có giá trị thanh tốn hoặc tài sản có
giá trị cho cơ quan áp dụng BPNC này để bảo đảm sự có mặt của người bị
tình nghi, bị can theo giấy triệu tập của người tiến hành tố tụng và phòng
ngừa họ phạm tội mới. Nếu Dự thẩm viên áp dụng BPNC này thì phải có sự
đồng ý của Kiểm sát viên.
Giam tại nhà là việc hạn chế tự do đi lại của người bị tình nghi, bị can.

Biện pháp này chỉ có Tịa án mới có quyền áp dụng.
Đối với biện pháp tạm giam cũng vậy. Điều 108 có quy định trong
trường hợp cần phải áp dụng biện pháp tạm giam thì Kiểm sát viên hoặc Dự
thẩm viên, Điều tra viên nếu được Kiểm sát viên đồng ý ra công văn đề nghị
TA xem xét, quyết định. Trong bản đề nghị cần chỉ rõ lý do và căn cứ cần
thiết phải tạm giam người bị tình nghi hoặc bị can và khơng thể áp dụng
BPNC khác đối với họ. Kèm theo bản đề nghị là những tài liệu khẳng định
tính có căn cứ của sự cần thiết phải áp dụng biện pháp tạm giam. Đối với việc

17


×