Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Vấn đề bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.32 MB, 10 trang )

VẤN ĐÈ BẢO TỊN VÀ PHÁT HUY GIÁ TRỊ
VĂN HĨA CỦA LẺ HỘI TRUYỀN THỐNG
Đặng Văn Bài*
1.
Nhận diện di sán văn hóa là tiền đề khoa học cho hoạt động
bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống
1.1.
Lễ hội truyền thống là hiện tượng văn hóa dân gian tiêu biểu
mang tính phổ quát và tổng hợp.
Thứ nhất, lễ hội truyền thống mang đậm “hơi thở dân gian” vì nó
là sản phẩm sáng tạo của cộng đồng cư dân địa phương để phục vụ cho
chính nhu cầu sinh hoạt văn hóa của các cộng đồng cư dân đó.
Thứ hai, tính phổ quát của lễ hội truyền thống thể hiện ở chồ,
hiện tượng văn hóa đó có thể thấy ở tất cả các quốc gia dân tộc dù ở
cách nhau những khoảng khơng gian địa lý rất lớn và có những chế độ
chính trị khơng hồn tồn giống nhau. Trong một quốc gia như Việt
Nam chẳng hạn, thì bất cứ vùng miền nào, thậm chí làng nào cũng có
lễ hội truyền thống mang sắc thái riêng của mình, đồng thời cũng có lề
hội truyền thống mang tính liên vùng rộng lớn, gồm nhiều làng, ở
nhiều địa phương.
Điển hình nhất phải kể đến những lễ hội gắn với hiện tượng thờ
Tứ bất tử: Tản Viên Sơn Thánh, Chử Đồng Tử, Phù Đổng Thiên Vương
(Thánh Gióng) và Mầu Liễu Hạnh. Đặc biệt là lễ hội đền Hùng mang
tầm quốc gia dân tộc, có ảnh hưởng tới khắp mọi miền đất nước và trở
thành “Quốc lễ”.
Thứ ba, tính tổng hợp, đa dạng trong một lễ hội truyền thống thể
hiện ở các mặt sau đây:
’ PGS.TS. Phó Chù tịch Hội Di sản văn hóa Việt Nam.

38



- Lê hội truyên thông cùng một lúc thực hiện được hâu như tât cả
chức năng xã hội cơ hản của văn hóa là: nhận thức, giáo dục đào luyện
nhân cách văn hóa. định hướng hành vi văn hóa, vui chơi, giải trí. giao
tiếp... Thơng qua việc thực hiện các chức năng văn hóa như thế, lễ hội
truyền thống góp phần xác định thế ứng xử văn hóa cho các thế hệ cư
dân trong các cộng đồng làng xã Việt Nam. Đó là thái độ cùa từng cá
nhân đối với thiên nhiên, với cộng đồng, với thần linh và với chính bàn
thân mình.
- Trong lễ hội truyền thống, cộng đồng cư dân tham gia với nhiều
tư cách khác nhau: chủ thể sáng tạo văn hóa. chủ sở hữu di sản văn hóa,
người nắm giữ, trình diễn, thực hành văn hóa, người hường thụ văn hóa,
người có vai trị bảo tồn, truyền dạy và được hưởng lợi qua hoạt động
bảo tồn và phát huy giá trị lỗ hội truyền thống...
- Trong lễ hội truyền thống song song tồn tại hai dạng hoạt động
văn hóa và tâm linh vừa có tính thế tục lại vừa có tính thiêng liêng cao
cả. Vì thế, không gian lễ hội truyền thống cũng bao gồm hai thành tố
quan trọng gắn hó mật thiết với nhau để tạo ra sự hấp dẫn lan tỏa của lễ
hội: không gian linh thiêng (thần điện ơ đình, đền, miếu và phật điện ở
chùa phật) và khơng gian văn hóa là sân dinh, sân chùa, ao đình... Hai
khơng gian đó tương thích cho việc thực hành các nghi thức tế, lễ. rước,
trình diễn nghệ thuật, thể thao, đua tài, các trị chơi dân gian... Hơn nữa.
trong bất cử lỗ hội truyền thống nào ta cũng bắt gặp hoặc được nghe kế
lại những sự tích, huyền thoại dân gian ca ngợi chiến cơng của thần linh,
danh nhân văn hóa, anh hùng dân tộc có liên quan tới hoạt động lễ hội.
Đó cũng là những bản anh hùng ca xúc động, say đắm lịng người mà
huyền thoại Thánh Gióng là một minh chứng xác thực.
1.2.
Từ góc nhìn lịch sử - xã hội, ta thấy rõ cấu trúc xã hội và sức
mạnh Việt Nam từ xa xưa đến nay đều dược huy động tối đa nhằm giải

quyết hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng vào bậc nhất là:
- Khắc phục thiên tai (lũ lụt. hạn hán, mưa bão) đế xây dựng
giang sơn. đất nước.
- Chống lại các thế lực ngoại bang, bào vệ vừng chắc chủ quyền
lãnh thố quốc gia, độc lập dân tộc cũng như bản sắc văn hóa dân tộc.

39


Điêu đó thế hiện khát vọng cháy bóng ngàn đời nay của người
Việt Nam là luôn luôn cầu cho mưa thuận gió hịa, mùa màng tươi tốt.
“quốc thái dân an”, cả nước được sống trong “hịa bình, độc lập, tự do
và hạnh phúc”.
Vị trí địa - chính trị, địa - văn hóa cũng như điều kiện lịch sử của
một quốc gia da dân tộc như Việt Nam đòi hỏi phải có sự năng động và
sức sáng tạo văn hóa tuyệt vời, nhàm huy động tối đa sức mạnh của tinh
thần đại đoàn kết dân tộc, sức mạnh của "Phù Đổng Thiên Vương”, của
“văn hóa Diên Hồng” mới mong hồn thành được hai nhiệm vụ chiến
lược quan trọng cũng như khát vọng cao đẹp nói trên.
1.3. Từ góc độ di sản văn hóa có thể khẳng định, lễ hội truyền
thống - một yếu tố văn hóa phi vật thể đã và đang có nhũng đóng góp
quan trọng vào việc tạo lập, duy trì và phát huy "sức mạnh tinh thần Đại
Việt”, với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, "bầu ơi thương lấy bí cùng’'
và với lịng tự tơn dân tộc, ý thức liên kết cộng đồng...
Đe lễ hội truyền thống có được sức sống và vị trí trong đời sống
xã hội hàng ngàn năm qua. cha ông ta dã kiến tạo những thiết chế văn
hóa đặc thù (đình, đền, miếu thờ thần, chùa thờ Phật) và thổi “hồn
thiêng văn hóa” vào các thiết chế đó bàng các hình thức sinh hoạt lễ hội
truyền thống và tạo cơ chế vận hành phù hợp theo từng loại hình đế
chúng có sức lơi cuốn, vẫy gọi cho nhiều thế hệ người Việt. Hình tượng

nghệ thuật, cốt truyện, chủ đề và ý nghĩa của lễ hội được phát triển từ
thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp và tiếp tục được bổ sung các giá
trị văn hóa trong suốt q trình phát triển lịch sử của dân tộc. Tiếp cận
với hội Gióng, cố giáo sư Trần Quốc Vượng đã có nhận xét rất xác đáng
là: “Hội Dóng, từ một tín ngưỡng và nghi lỗ nông nghiệp cổ truyền cầu
Mưa, Thờ Thần Mặt Trời, với thời gian lịch sử đắp đổi, đã trở thành một
tín ngưỡng thờ anh hùng chống giặc và nghi lễ diễn xướng anh hùng ca”.
2.
sống xã hội

Vấn đề bảo tồn và phát huy lỗ hội truyền thống trong đòi

2.1.
Cộng đồng cư dân địa phương với tư cách là chú thể sáng
tạo văn hóa có vai trị quyết định trong việc bảo tồn và phát huy giá
trị lễ hội.

40


Định hướng lởn về bảo tồn và phát huy lễ hội đã được xác định rõ
tại điều 25 Luật Di sàn văn hỏa năm 2001. được sửa đổi, bổ sung năm
2009:
"Nhà nước tạo điều kiện duy trì và phát huy giá trị văn hóa cùa lễ
hội truyền thống thơng qua các biện pháp sau đây:
1. Tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lễ hội;
2. Khuyến khích việc tổ chức hoạt động văn hóa, văn nghệ dân
gian truyền thống gắn với lễ hội;
3. Phục dựng có chọn lọc nghi thức lễ hội truyền thống;
4. Khuyến khích việc hướng dẫn, phổ biến rộng rãi ở trong nước

và nước ngoài về nguồn gốc, nội dung, giá trị truyền thống tiêu biểu,
độc đáo của lễ hội.
Định hướng trên thế hiện rõ thái độ Irân trọng của Nhà nước đối
với giá trị văn hóa của lễ hội, đồng thời cũng đề cao vai trị và trách
nhiệm của tồn dân, trước hết là cộng đồng cư dân ờ nơi có lễ hội, trong
việc tham gia bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung và lễ
hội truyền thống nói riêng.
Thứ nhất, với tư cách là chủ thế sáng tạo văn hóa, cộng đồng cư
dân địa phương đồng lịng chung sức đóng góp nhân tài vật lực tạo dựng
đình, đền, chùa... để thờ thần, Phật - những hợp thể thiên nhiên - kiến
trúc, điêu khắc và hội họa có giá trị tiêu biểu về các mặt lịch sử, văn hóa
và khoa học. Đó là cơ sở vật chất phục vụ đắc dụng cho việc thực hành
các nghi thức lễ hội truyền thống.
Thứ hai, ngồi khơng gian hiện thực, hữu hình là cái vỏ vật chất
cụ thể ở đình, chùa, đền, m iếu..., với các hoạt động và nghi thức tế, lễ,
rước thần linh cùng các hình thức diễn xướng nghệ thuật trong lễ hội
văn hóa truyền thống mang tính chất tâm linh, cộng đồng cư dân địa
phương đã sáng tạo được "khơng gian ảo” linh thiêng, những biêu
tượng văn hóa đặc trưng khắc sâu vào tâm trí con người. Đó cũng là
những tấm gương đạo đức trong sáng và bài học lịch sử mà mn đời
con cháu vẫn noi theo. Hình tượng Thánh Gióng là biểu tượng văn hóa
và cũng là tấm gương sáng về tinh thần xả thân vỉ đất nước.

41


Nói cách khác, lễ hội văn hóa là của dân, do dân sáng tạo ra, mang
đậm nét văn hóa dân gian, thì họ phải được quyền chủ động trong việc
lựa chọn, tố chức lễ hội, phục dựng có chọn lọc các nghi thức lễ hội và
đặc biệt là quyền hưởng thụ văn hóa, quyền tham gia vào việc bảo tồn

và phát huy lễ hội. Các cơ quan quản lý nhà nước không nên can thiệp,
đặc biệt là không được áp đặt các biện pháp hành chính cứng nhấc.
Thứ ba, trong quá khứ, cộng đồng cư dân địa phương là người
vừa tổ chức lễ hội, vừa tham gia các hoạt động lễ hội một cách thực sự.
dân chủ và bình đắng, trên tinh thần giao lưu tình cảm (trong đó có giao
duyên), gắn kết cộng đồng, giao cảm với trời đất, thần linh mà họ tôn
thờ, đặt niềm tin và hy vọng nhận được sự che chở, bào hộ. Gần dây,
một số lễ hội truyền thống được tổ chức dập khuôn theo “kịch bản lễ
hội” do các cơ quan quản lý nhà nước ở địa phương đưa ra đã làm cho
tính chất dân gian truyền thống, khơng khí linh thiêng và sắc thái địa
phương trong lễ hội phần nào bị phai nhạt. Đặc biệt là chương trình khai
hội được tổ chức rất tốn kém, với cái gọi là “sân khấu hóa”, cùng với
các tiết mục trình diễn của các nghệ sỹ chun nghiệp, do đó vơ tình đã
biến cộng đồng cư dân địa phương thành khán giả, thành người đi xem
hội chứ không phải với tư cách người tham gia lễ hội. số kinh phí tổ chức
những buổi khai hội tốn hàng tỷ đồng như vậy nếu được đầu tư trực tiếp
cho các chủ thể văn hóa, người nẳm giữ di sản văn hóa phi vật thê đé họ
truyền dạy cho lớp trẻ tập luyện trong quá trình chuẩn bị lễ hội và tự trình
diễn trong lễ hội, thì chắc chắn sẽ đạt hiệu quả xã hội cao hơn.
Với quan điểm tiếp cận như trên, tơi nghĩ rằng, trong “chương
trình hành động” nhằm bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phi vật thể
nói chung và di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại hoặc di
sản phi vật thể cần bảo vệ khẩn cấp nói riêng, chúng ta nên dành phần
lớn kinh phí cho các hoạt động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của
cộng đồng cư dân các địa phương, tùy thuộc vào sáng kiến và nhu cầu
do họ chủ động đề xuất.
2.2.
Theo quy định tại Điều 25 Luật Di sản văn hóa năm 2001,
được sửa đổi, bổ sung năm 2009. trách nhiệm của các cơ quan quản lý
nhà nước trong việc bảo tồn và phát huy lễ hội truyền thống cần được

hiểu như sau:

42


Thứ nhất, xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật trong đó có các cơ che, chính sách cụ thể, để tạo điều kiện
thuận lợi cho cộng đồng cư dân địa phương tham gia vào việc báo tồn
và phát huy giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống.
Thứ hai, khuyến khích và hướng dẫn các chủ thể văn hóa trong
việc tổ chức các hoạt động văn hóa, văn nghệ dân gian truyền thống gắn
với lễ hội.
Thứ ba, kịp thời điều chỉnh, uốn nấn những hoạt động lễ hội
không đúng với những quy định pháp luật, trái với phong tục tập quán
tốt đẹp và lối sống văn hóa lành mạnh.
Thực tế cho thấy, phần lớn những sai sót, lệch lạc diễn ra trong lễ
hội thời gian gần đây đều xuất phát từ nguyên nhân cơ bản là cộng dồng
cư dân, chủ thể sáng tạo văn hóa chưa nhận diện đúng đan giá trị văn
hóa của lễ hội truyền thống (trong dó, hạt nhân văn hóa và tâm linh
đóng vai trị đặc biệt quan trọng) mà mình đang nắm giữ và là chủ sở
hữu đích thực. Vì thế, việc kiểm kê và lên danh mục di sản văn hóa phi
vật thể cần được bảo vệ ở các địa phương đã trở thành vấn đề cấp bách
đối với các cơ quan nghiên cứu và quản lý nhà nước về văn hóa ờ Trung
ương và địa phương.
2.2.1.
GS. Ngơ Đức Thịnh đã rất có lý khi khẳng định, đặc trưng
dề nhận biết nhất của văn hóa phi vật thể là ở chỗ “nó tiềm ẩn trong trí
nhớ và tâm thức của con người và chỉ bộc lộ ra thông qua hành vi và
hoạt động của con người trong một môi trường diễn xướng nhất định”,
mà môi trường diễn xướng điển hình nhất là mơi trường văn hóa - tâm

linh trong lễ hội truyền thống diễn ra tại các di tích là đình, đền, miếu
thờ thần cũng như chùa thờ Phật ở một làng quê cụ thể. Do đó, việc bảo
tồn và phát huy giá trị lễ hội truyền thống không thể tách rời q trình tu
bổ, tơn tạo khơng gian hữu hình, cái “vỏ vật chất” là các di tích lịch sử
văn hóa. Trong trường hợp nghiên cứu của chúng ta, khơng gian hữu
hình của hội Gióng chính là đền Phù Đống và đền Sóc Sơn. Đặc trưng
trên đặt ra yêu cầu phải gắn việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của
lễ hội truyền thống với hoạt động tu bổ, tơn tạo các di tích lịch sử văn
hóa, vì đó là những khơng gian văn hóa - tâm linh cho lễ hội truyền
thống được bảo lưu, thực hành và trao truyền cho các thế hệ tiếp theo.

43


Khơng gian văn hóa - tâm linh trong lề hội luôn gắn với một làng
quê cụ thể, đôi khi do nhiều làng họp lại, thậm chí là cả một vùng rộng
lớn, nhưng không phải bao giờ cũng trùng khớp với khơng gian hay địa
phận hành chính. Xin dẫn ra ở đây hai ví dụ cụ thê:
Thứ nhất, cố giáo sư Trần Quốc Vượng thật tài tình khi khoanh
vùng khơng gian phân bố các di tích có liên quan đến huyền tích Gióng
là k'một miền chân núi - châu thổ Bắc Bộ, được khoanh lại trong vùng
tam giác châu, với 3 đỉnh:
1. Làng Phù Đổng bôn bờ sông Đuống: quê hương và là nơi xuất
phát của Thánh Dóng, người khổng lồ 3 tuổi.
2. Khu vực Châu c ầ u (Vũ Ninh, nay thuộc Quế Võ, ở Lục Dầu
Giang: “chiến trường’' chống “giặc Ân” xâm lược, nơi Thánh Dóng giết
tướng giặc Ân là Thạch Linh (tinh đá).
3. Núi Sóc hay rặng núi Sót - đúng hơn là miền "trước núi” cùa
dải Tam Đảo hùng vĩ: nơi Thánh Dóng cưỡi ngựa bay về trời” .
Với cách khoanh vùng khơng gian văn hóa - tâm linh hội Gióng

của cố giáo sư Trần Quốc Vượng thì chúng ta khơng thể nói khơng gian
nào trong 3 đỉnh tam giác đó là chính hay là phụ. Ba khơng gian đó tuy
tồn tại tách biệt, độc lập và ngang hàng nhau về vai trị, vị trí và giá trị
văn hóa, nhưng vẫn gắn bó chặt chẽ với nhau đê làm nên một khơng
gian văn hóa - tâm linh chung của hội Gióng, vừa thực lại vừa hư, lung
linh và huyền ảo.
Thứ hai, tư liệu lịch sử cho biết, không gian nơi sàn sinh ra quan
họ - di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại, thời Lý - Trần
thuộc lộ Bắc Giang, thời Lê đổi thành xứ Kinh Bắc, năm 1831 vua
Minh Mạng đổi thành tỉnh Bắc Ninh (bao gồm cả Bắc Giang và Bắc
Ninh ngày nay), năm 1895 mới tách ra thành hai tỉnh Bắc Giang và Bắc
Ninh, năm 1963 sáp nhập hai tỉnh thành Hà Bắc, năm 1996 lại tách ra
thành hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang. Điều này chứng tỏ địa vực hành
chính, tên gọi có thể đổi thay nhiều lần, nhưng khơng gian văn hóa “tuy
linh hoạt, mềm mại” nhưng lại ổn định vững chắc và trường tồn, thậm
chí cịn vượt ra khỏi ranh giới hành chính.

44


Trong lễ hội quan họ có liền anh. liền chị, anh cả, anh hai, nhưng
khơng gian văn hóa quan họ dứt khốt khơng bao giờ tồn tại khái niệm
chính, phụ. ‘'không gian liền anh hay không gian liền chị” . UNESCO
tôn vinh quan họ Băc Ninh là di sản văn hóa phi vật thế đại diện của
nhân loại, tức là tơn vinh các chủ thể văn hóa cùa các làng quan họ. Đó
là vinh dự, là trách nhiệm đồng thời là niềm tự hào của nhân dân hai tinh
Bắc Ninh, Bắc Giang nói chung và các làng quan họ nói riêng.
Cần tôn trọng một nguyên tắc là: trong lĩnh vực văn hóa nói
chung và lễ hội truyền thống nói riêng, khơng có chỗ đứng cho khái
niệm “ lớn, nhỏ”, “hơn, kém”, đặc biệt là thái độ cục bộ địa phương.

Chúng ta khuyến khích và trân trọng sắc thái văn hóa, tính độc đáo
trong lễ hội truvền thống của các cộng đồng cư dân địa phương, nhưng
không chấp nhận sự tranh đua khơng lành mạnh.
2.2.2.

Qua những nội dung trình bày ở trên, chúng ta thấy, lễ hội

truyền thống có một dạng biểu hiện rất đặc thù là nó được thực hành
trong một khơng gian văn hóa truyền thống đã được xác định, gắn bó
với một cộng đồng cư dân cụ thể, mà đại diện cho cộng đồng đó là
những cá nhân tài năng, nắm giữ được những tri thức bản địa, kỹ năng,
bí quyết mà chỉ thơng qua họ, các giá trị vãn hóa của lễ hội truyền thống
mới dược bảo lưu, truyền dạy và thể hiện một cách hoàn bị, sinh động
nhất. Do đó, thái độ ứng xử của các cơ quan quản lý nhà nước về văn
hóa đối với các chủ thể sáng tạo - người nắm giữ di sản văn hóa phi vật
thể, cũng có ý nghĩa quyết định đối với sự tồn tại của lễ hội truyền thống.
Điều đó cũng được nói rõ tại khoản 1 Điều 26 của Luật Di sản văn hỏa
năm 2001, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 “Nhà nước tôn vinh và có
chính sách đãi ngộ đối với nghệ nhân có tài năng xuất sắc, nắm giữ và
có cơng bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa phi vật thể”.
Trong thực tế, hiện vẫn cịn quan niệm khơng chuẩn xác coi
nghệ thuật truyền thống hay nghệ thuật dân gian chỉ là hình thức nghệ
thuật bình dân, phổ thơng, sơ khai, chưa hồn chỉnh. Nhưng thực chất
thì cái gọi là “nghệ thuật hàn lâm” hay “nghệ thuật chuyên nghiệp” chỉ
hướng tới những nhóm hẹp đối tượng xã hội nhất định, còn cái bị xem
thường là nghệ thuật dân gian lại ln mang tính đa giá trị, đa chức
năng, hướng đến phục vụ nhu cầu của mọi tầng lớp cư dân trong xã hội.

45



Từ quan niệm, nhận thức chưa chuẩn xác đó đã dẫn đến thái độ ứng xử
chưa thật công bằng đối với các nghệ nhân dân gian so với các nghệ sỹ
trong lĩnh vực nghệ thuật chuyên nghiệp. Đó cũng là một trong những
nguyên nhân làm cho các giá trị văn hóa của lễ hội truyền thống bị dần
mai một theo thời gian.
Chúng ta cũng đà thống nhất quan điểm cho ràng, lễ hội truyền
thống là sản phẩm văn hóa của cộng đồng vừa mang tính tập thể, vừa có
dấu ấn sáng tạo cá nhân của nhiều thế hệ các chủ thể văn hóa. Giá trị
văn hóa của lễ hội truyền thống khơng được hình thành ngay một lúc
mà phát triển dần dần và liên tục được chọn lọc, bổ sung các giá trị văn
hóa mới tùy thuộc vào điều kiện lịch sử và nhu cầu cụ thể của cộng
đồng cư dân địa phương. Nhưng bất luận thế nào thì yếu tố văn hóa mới
chỉ được chấp nhận khi nó góp phần bồi đắp, làm phong phú thêm chứ
không được phép làm phai mờ hạt nhân văn hóa và tính thiêng trong lễ
hội truyền thống. Từ đó có hai thái độ ứng xử như sau:
Thứ nhất, trong sổ hơn 7 ngàn lễ hội dân gian hiện được thống kê,
chúng ta chỉ nên thận trọng chọn lọc phục dựng các nghi thức lễ hội
truyền thống thực sự tiêu biểu, đại diện cho vùng miền, cho cả quốc gia.
Thứ hai, mọi ý tưởng phục dựng lễ hội truyền thống cần được
xuất phát từ sáng kiến của cộng đồng, có sự chấp thuận của cộng đồng.
Các nhà nghiên cứu, người quản lý văn hóa chỉ đóng vai trị hướng dẫn
và gợi ý, mà khơng được áp đặt ý chí chủ quan cho cộng đồng.
Gần đây, chúng ta bắt gặp nhiều ý kiến phản biện xã hội, thậm chí
rất gay gẳt trong dư luận xã hội và qua mạng Vietnamnet, về hiện tượng
vẽ trên thân thể người và trên mình trâu trong lễ hội đền Lảnh Giang và
lễ cày ruộng Tịch Điền, chùa Đọi Sơn, nhất là các hiện tượng “sân khấu
hóa”, “hiện đại hóa” lễ hội truyền thống, dù là dưới hình thức thể
nghiệm. Chắc chan là các sáng kiến cách tân, đổi mới lễ hội nói trên đều
dội từ trên xuống mà chưa được dân chủ trao đổi, bàn bạc, tạo sự đồng

thuận với các chủ thể văn hóa. Tơi nghĩ ràng, những xu thế sáng tạo
nghệ thuật tân tiến nêu trên chỉ nên ứng dụng cho các lễ hội thuần túy
du lịch, mà không được đưa ra thể nghiệm trong các lễ hội truyền thống.
2.2.3.
Một khuynh hướng lệch lạc nữa cần được điều chỉnh là
hiện tượng thương mại hóa các hoạt động lễ hội truyền thống. Tại nhiều

46


Ic hội. phần hội đã lấn át phần lễ. hình thức vui chơi, giải trí. cầu tài. cầu
lộc, cầu thăng chức... làm lu mờ nhu cầu tâm linh và khát vọng văn hóa.
Thậm chí cả Thần. Phật cũng bị lợi dụng cho mục đích lợi nhuận.
Nguyên nhân chính dẫn tới tình trạng đó là. việc các cơ quan quản lý
văn hóa cấp trên thực hiện việc phân cấp triệt để, thực chất là "khoán
trang” trách nhiệm quản lý lễ hội cho cấp dưới.
Tóm lại, việc bảo tồn và phát huy lề hội truyền thống địi hói cơ
quan quản lý nhà nước phải tổ chức đồng bộ nhiều mặt hoạt động,
nhưng theo tơi. có hai việc cần làm ngay, làm nghiêm túc, đến nơi đến
chốn là:
Thứ nhất, ban hành cơ chế chính sách tương thích, hữu hiệu, tạo
ra cú hích tinh thần nhằm nâng cao ý thức cộng đồng cư dân về việc họ
chính là chủ thể sáng tạo văn hóa, là người hưởng thụ, bảo vệ và phát
huy giá trị văn hóa cùa lễ hội truyền thống.
Thứ hai, thơng qua các hoạt động lễ hội tổ chức tại làng xã dế
hướng dẫn cho những đại diện ưu tú của các cộng đồng cư dân nơi có lễ
hội những cách thức, biện pháp hữu hiệu để bảo vệ và phát huy giá trị
văn hóa của lễ hội, của chính bản thân họ và cho cộng đồng của họ.
Cơ quan quản lý nhà nước về văn hóa chi thực hiện chức năng
quản lý và hướng dần chứ không áp đặt. không làm thay. Xã hội hóa các

hoạt động lễ hội theo khn khổ pháp luật là con dường duy nhất đúng
để có thể bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội truyền thống trong đời sống
xã hội đương đại.
Đ.V.B

47



×