Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Tỉnh Tuyên Quang trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 1954

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 139 trang )

MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Lịch sử địa phương là một bộ phận rất quan trọng của lịch sử dân tộc.
Nghiên cứu lịch sử địa phương góp phần làm cho lịch sử dân tộc phong
phú hơn, sinh động hơn.
Tuyên Quang là tỉnh miền núi nằm ở phía Bắc của Tổ quốc Việt Nam,
có vị trí chiến lược quan trọng về chính trị, kinh tế và quốc phịng an ninh.
Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, Tuyên Quang có vai trị, vị trí
quan trọng.Tại Tân Trào – Thủ đơ Khu giải phóng đã diễn ra nhiều sự kiện
lịch sử gắn liền với vận mệnh dân tộc: Hội nghị toàn quốc của Đảng quyết
định chủ trương lãnh đạo toàn dân Tổng khởi nghĩa giành chính quyền và cử
ra Ủy ban khởi nghĩa tồn quốc; Quốc dân Đại hội họp tại đìnhTân Trào
thành lập Ủy ban dân tộc giải phóng Việt Nam, tức Chính phủ lâm thời do Hồ
Chí Minh làm Chủ tịch.
Suốt chín năm trường kì kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược,
nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang ln làm trịn nghĩa vụ thiêng liêng:
Xây dựng, bảo vệ An tồn khu (ATK); bảo vệ Chủ tịch Hồ Chí Minh, Trung
ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, Mặt trận cùng nhiều bộ, ban, ngành Trung
ương; bảo vệ cơ quan đầu não của cách mạng Lào.
Tìm hiểu, nghiên cứu về “Tuyên Quang trong kháng chiến chống thực
dân Pháp (1945-1954)” sẽ là cơ sở dựng lại bức tranh toàn cảnh về cuộc
kháng chiến chống Pháp của nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, đồng
thời cũng làm nổi bật được vai trò, vị trí, những đóng góp của nhân dân
Tun Quang trong cuộc kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp xâm
lược.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

1





Nghiên cứu đề tài này còn giúp chúng ta hiểu rõ hơn về tầm nhìn chiến
lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc xây dựng, củng cố căn cứ địa Việt
Bắc, trong đó Tuyên Quang được coi là một trong những địa bàn thuộc trung
tâm An toàn khu Trung ương.
Với niềm tự hào người con tỉnh Tuyên Quang nơi “ nghĩa địa khổng lồ
... chôn vùi quân Pháp xâm lược”,thông qua nghiên cứu đề tài này chúng tôi
muốn hiểu biết rõ hơn về lịch sử truyền thống yêu nước – cách mạng của quê
hương, đồng thời làm cơ sở cho việc giảng dạy lịch sử địa phương ở trường
phổ thơng và giúp cho tơi trong q trình nghiên cứu khoa học sau này.
Vì những lí do trên chúng tơi quyết định chọn vấn đề:
“Tỉnh Tuyên Quang trong kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 – 1954)”

làm đề tài Luận văn Thạc sĩ khoa học Lịch sử.
2. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Vấn đề “Tuyên Quang trong kháng chiến chống thực dân Pháp” đã
được đề cập đến trong một số tác phẩm với các góc độ khác nhau.
Trong các tác phẩm viết về lịch sử dân tộc: Cuốn “Cuộc kháng chiến
thần thánh của nhân dân Việt Nam”- Nhà xuất bản Sự thật – Hà Nội - đã trình
bày về cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta, trong đó đã nhắc đến
Tuyên Quang với một số trận đánh lớn; cuốn “Lịch sử kháng chiến chống
thực dân Pháp (1945-1954)” của Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử quân sự xuất
bản năm 1994 cũng đã trình bày khá đầy đủ về cuộc kháng chiến chống Pháp
của nhân dân ta trên các mặt, phong trào đấu tranh ở Tuyên Quang cũng được
nhắc tới với những chiến dịch lớn và những hoạt động nổi bật trong cuộc
kháng chiến; cuốn “Lịch sử nghệ thuật chiến dịch Việt Nam (1945 – 1975)”
của Bộ Quốc phòng – Viện Lịch sử quân sự xuất bản năm 1995 đã đề cập đến
nhiều lĩnh vực hoạt động quân sự trong cuộc kháng chiến và cũng có khá


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

2




nhiều tư liệu liên quan đến đề tài; các cuốn giáo trình lịch sử Việt Nam viết về
giai đoạn 1945-1954 dù ở góc độ khác nhau song đều có đề cập đến vai trò
của Tuyên Quang trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Trong các tác phẩm lịch sử địa phương: Cuốn “Lịch sử Đảng bộ tỉnh
Tuyên Quang 1945-1975” của Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh xuất bản năm
2000 đã đề cập đến vai trò của Tuyên Quang trong cuộc kháng chiến chống
Pháp xâm lược, tuy nhiên cuốn sách mới chỉ đi sâu vào qúa trình xây dựng
Đảng, cịn chính quyền và các tổ chức mặt trận, đoàn thể chỉ đề cập sơ lược;
cuốn “Tuyên Quang lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 – 1954
“(sơ thảo) của Bộ chỉ huy quân sự tỉnh Tuyên Quang xuất bản năm 1994, đã
trình bày về cuộc kháng chiến chống Pháp ở Tuyên Quang, tuy nhiên chưa đề
cập toàn diện đến tất cả các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội mà còn
thiên về hoạt động quân sự; các cuốn lịch sử Đảng bộ các huyện, thị như thị
xã Tuyên Quang, huyện Sơn Dương, Yên Sơn, Hàm Yên, Chiêm Hóa, Na
Hang cũng đã cung cấp nhiều tư liệu quý về cuộc kháng chiến chống Pháp,
song các sự kiện trên mới chỉ phản ánh cuộc chiến đấu ở từng địa phương,
chưa khái quát được diễn biến chung trên tất cả các mặt trận; cuốn “Tuyên
Quang nơi ngọn nguồn chiến thắng sông Lô” của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Tuyên Quang xuất bản năm 1997 đã đề cập đến các chiến thắng Sông Lô,
Km7, Cầu Cả, Khe Lau...; cuốn “Chiến thắng sông Lô Thu – Đông 1947” của
Bộ Tư lệnh Quân khu II – Tỉnh ủy Phú Thọ xuất bản năm 1997 là tập hợp
những bài viết, hồi kí của các cán bộ chiến sĩ trực tiếp tham gia chiến dịch.
Trong đó đã nêu bật đóng góp to lớn của Tuyên Quang trong chiến dịch phản

công Thu – Đông 1947 và bài hát "Trường ca Sông Lô" của cố nhạc sĩ Văn
Cao đã ra đời từ trong chiến dịch.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

3




Ngồi ra cịn có các tác phẩm viết dưới dạng hồi kí, bút kí, kỉ yếu...
khắc họa khá trung thực, sinh động về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp
của nhân dân Tuyên Quang.
Như vậy, cho đến nay vẫn chưa có một cơng trình nào nghiên cứu hồn
chỉnh về tỉnh Tuyên Quang trong kháng chiến chống thực dân Pháp.Tuy
nhiên, những cơng trình đã được cơng bố nói trên là nguồn tư liệu q giá
giúp chúng tơi hồn thành Luận văn này.
3. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU, NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
3.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về Tuyên Quang trong kháng chiến
chống thực dân Pháp (1945-1954).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Tỉnh Tuyên Quang trong mối quan hệ với cách mạng
cả nước.
Về thời gian: Giới hạn trong thời gian 1945 – 1954. Để làm sáng tỏ yêu
cầu chủ yếu của đề tài, một số vấn đề có liên quan thuộc các thời kì trước
1945 cũng được đề cập đến trong Luận văn.
3.3. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ vị trí chiến lược của Tuyên Quang trong căn cứ địa Việt Bắc.
- Dựng lại bức tranh toàn cảnh về cuộc kháng chiến chống Pháp (19451954) của nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang.

- Những đóng góp của nhân dân Tuyên Quang trong cuộc kháng chiến
thần thánh chống thực dân Pháp xâm lược.
- Xác định vị trí, vai trị của Tun Quang trong căn cứ địa Việt Bắc.
4. NGUỒN TƢ LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

4




4.1. Nguồn tƣ liệu:
Để hoàn thành đề tài này, chúng tôi sử dụng nhiều nguồn tài liệu khác
nhau:
- Các văn kiện Đảng, Nhà nước; các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ
Chí Minh trong thời kì Cách mạng tháng Tám và kháng chiến chống thực dân
Pháp. Nguồn tư liệu này giúp chúng tơi có quan điểm, phương hướng, cách
nhìn nhận, đánh giá một cách đúng đắn vai trò của Tuyên Quang trong cuộc
kháng chiến chống thực dân Pháp 1945 – 1954.
- Các chỉ thị, nghị quyết của TW Đảng, Khu ủy Khu 10, Tỉnh ủy Tuyên
Quang và Thị ủy Tuyên Quang, Huyện ủy các huyện Sơn Dương, Yên Sơn,
Hàm n, Chiêm Hóa, n Bình được lưu trữ tại Trung tâm Lưu trữ Quốc
gia III, bộ phận Lưu trữ Thông tin; Phòng Lịch sử Đảng thuộc Ban Tuyên
giáo Tỉnh ủy Tuyên Quang, Bảo tàng tỉnh Tuyên Quang, Bảo tàng Tân Trào...
- Các cơng trình nghiên cứu về lịch sử Đảng bộ tỉnh Tuyên Quang, lịch
sử Đảng bộ các huyện, thị: Thị xã Tuyên Quang, huyện Sơn Dương, Yên Sơn,
Hàm Yên, Chiêm Hóa, n Bình.
- Ngồi ra cịn có các nguồn tài liệu thu thập được qua công tác điều tra
điền dã - nghiên cứu các trận địa cũ, các hầm hào, nhà kho, công xưởng, các

địa danh nơi ăn ở hoạt động của các cơ quan, các nhà lãnh đạo cách mạng,
các khu di tích lịch sử, các bia chiến thắng, bia di tích. Các tư liệu truyền
miệng, bút kí, hồi kí, lời kể của các vị lãnh đạo cách mạng, cán bộ lão thành
cách mạng, tướng lĩnh quân đội... cũng được chúng tơi quan tâm.
- Các cơng trình khoa học của các nhà nghiên cứu Lịch sử, các kỉ yếu
hội thảo khoa học đã được công bố.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu:

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

5




Để thực hiện yêu cầu của đề tài, chúng tôi sử dụng phương pháp lịch sử
kết hợp với phương pháp lơgíc là chủ yếu. Ngồi ra, chúng tơi cịn kết hợp sử
dụng các phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, đối chiếu, phân
tích, khảo sát điền dã... để thu thập xử lí thơng tin và đảm bảo tính chính xác
5. ĐĨNG GĨP CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU:
Là cơng trình đầu tiên trình bày hệ thống và tồn diện tỉnh Tuyên
Quang trong kháng chiến chống thực dân Pháp.
Từ kết quả của q trình nghiên cứu, Luận văn góp phần giải thích một
cách khoa học, vì sao Tun Quang lại được Trung ương Đảng, Chính phủ,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chọn làm một trong trung tâm của An toàn khu Trung
ương.
Luận văn góp phần giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ,
dùng làm tài liệu giảng dạy lịch sử địa phương ở trường phổ thông, bổ sung
và làm phong phú nguồn tư liệu cho lịch sử dân tộc.
6. BỐ CỤC CỦA ĐỀ TÀI:

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục, Luận văn
gồm bốn chương:
Chƣơng 1: Khái quát điều kiện tự nhiên, xã hội, truyền thống yêu nƣớc
và cách ạng của nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyen Quang
Chƣơng 2: Quân ,dân Tuyên Quang xây dựng và củng cố chính quyền
cách mạnh - tích cực chuẩn bị chiến đấu (1947-1949)
Chƣơng 3: Quân, dân Tuyên Quang trực tiếp chiến đấu bảo vệ quê
hƣơng và An toàn khu Trung ƣơng (1947-1949)
Chƣơng 4: Tuyên Quang xây dựng hậu phƣơng vững mạnh, chi viện tiền
tuyến (1949-1954)

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

6




Chƣơng 1
KHÁI QUÁT ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, XÃ HỘI, TRUYỀN THỐNG
YÊU NƢỚC VÀ CÁCH MẠNG CỦA NHÂN DÂN CÁC DÂN TỘC
TỈNH TUYÊN QUANG
1.1 Điều kiện tự nhiên
Thời các vua Hùng, Tuyên Quang (bao gồm cả Hà Giang) thuộc bộ Vũ
Định. Trải qua các triều đại Đinh, Lê, Lí, Trần, Lê Sơ, Tuyên Quang thuộc
châu Tuyên Quang, phủ Tuyên Hóa, trấn Minh Quang. Ngày 31-5-1884, thực
dân Pháp chiếm đóng Tuyên Quang. Đầu thế kỉ XX, chúng chia Tuyên Quang
thành hai tỉnh Tuyên Quang và Hà Giang. Tuyên Quang gồm 6 châu: Sơn
Dương, n Sơn, n Bình, Hàm n, Chiêm Hóa, Na Hang, với 194 xã.
Tuyên Quang là một tỉnh miền núi phía Bắc Việt Nam, có tọa độ địa lí

từ 21029’ đến 22042’ vĩ Bắc và 104050’ đến 105036’ kinh Đông; phía bắc giáp
tỉnh Hà Giang; phía nam giáp tỉnh Phú Thọ; phía đơng giáp các tỉnh Bắc Kạn
và Thái Ngun; phía đơng bắc giáp tỉnh Cao Bằng; phía tây giáp tỉnh n
Bái. Diện tích tự nhiên tồn tỉnh là 5820 km2, trong đó rừng núi chiếm 4/5.
Khu vực phía bắc có nhiều ngọn núi cao trên 1000m: Chàm Chu, Pia Phương,
Pia Héc, Khuổi Ma, Khuổi Phầy, Thanh Tương...thuộc các huyện Na Hang,
Chiêm Hóa, Hàm n. Phía nam là những dãy đồi xen kẽ núi đá có vách
đứng bao quanh, tạo thành những thung lũng hiểm trở, thuận lợi cho việc xây
dựng kho tàng, giữ gìn lực lượng, phát triển chiến tranh du kích. Trong lịng
núi có nhiều hang động, có hang chứa được hàng trăm người, khi cần thiết có
thể dùng làm kho tàng hoặc nơi trú quân.
Trong lịch sử dân tộc, Tun Quang ln là một địa bàn có vị trí chiến
lược quan trọng, là thủ phủ của một vùng “An biên” che chắn cho kinh đô
Thăng Long về phía Bắc. Tấm bia đá trên núi Thổ Sơn cịn ghi:
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

7




“An biên viễn hải ưu kim bạc
“Tuyên thành vạn cổ án Thăng Long” [43, tr. 13].
Dịch nghĩa:
Vùng an biên xa biển có nhiều vàng bạc
Thành Tuyên Quang đời đời che chắn Thăng Long
Nằm trên vòng cung Ngân Sơn, Tuyên Quang có nhiều sơng suối, lớn
nhất là sơng Lơ và sơng Gâm. Bắt nguồn từ Vân Nam (Trung Quốc), sau khi
xuyên dọc địa phận Hà Giang, sông Lô chảy qua Tuyên Quang, xuôi về Phú
Thọ hợp với sông Hồng tại Việt Trì. Đây là đường thủy duy nhất nối Tuyên

Quang với Hà Giang, thủ đô Hà Nội và các tỉnh trung du, đồng bằng Bắc Bộ.
Sông Gâm cũng bắt nguồn từ Trung Quốc, chảy qua Cao Bằng, Hà Giang rồi
đổ vào Na Hang, Chiêm Hóa. Bên cạnh đó có các sơng nhỏ: sơng Phó Đáy
(Sơn Dương), sơng Năng (Na Hang), cùng hàng trăm ngòi lạch: ngòi Bắc
Nhụng, ngòi Cổ Linh, ngòi Chinh, ngòi Quẵng...tạo thành một mạng lưới dày
đặc. Đây cũng là nguồn thủy sinh không thể thiếu trong đời sống nhân dân
các dân tộc. Ngoài giá trị kinh tế, trong kháng chiến, sơng ngịi ở Tun
Quang có vai trị quan trọng trên lĩnh vực quân sự và giao thông vận tải.
Địa hình Tuyên Quang đa dạng và phức tạp. Núi cao, vực sâu, rừng
rậm nối tiếp nhau tạo thành những hành lang bao bọc lấy nội địa. Nhìn tổng
thể, địa thế đó tạo cho Tuyên Quang ưu thế riêng. Về quân sự, Tuyên Quang
hội tụ các yếu tố cần thiết của một căn cứ chiến lược. Đồng thời, Tuyên
Quang có khả năng xây dựng một nền kinh tế tự cấp tự túc, đảm bảo cung cấp
một phần về hậu cần cho kháng chiến.
Tuyên Quang có hệ thống đường bộ khá phát triển: Quốc lộ 2 đi qua
địa bàn tỉnh 90 km từ Phú Thọ lên Hà Giang; Đường 13A (Quốc lộ 37), từ
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

8




Thái Nguyên đi qua huyện Sơn Dương, Yên Sơn đi Yên Bái, dài 63 km; Quốc
lộ 2C từ thị xã Vĩnh Yên - Sơn Dương - Thị xã Tuyên Quang, dài 91 km;
Quốc lộ 279 qua địa bàn huyện Chiêm Hoá và Na Hang, dài 96 km. Trong
kháng chiến, hệ thống quốc lộ, tỉnh lộ không những đảm bảo giao thơng, phục
vụ sản xuất, mà cịn có tác dụng cơ động chiến đấu, chi viện chiến trường.
Ngoài ra, trong nội địa có một hệ thống giao thơng đường mịn xun
rừng, chằng chịt, dọc ngang nối liền các huyện, xã, thôn bản với nhau. Theo

những con đường mòn ấy, từ Tuyên Quang đi lên hướng bắc đến Bắc Kạn,
Cao Bằng, hoặc tạt sang các huyện Bắc Quang, Vị Xuyên (Hà Giang), ra biên
giới Việt – Trung thuận tiện. Phía đơng, vượt các dãy núi Khao Niều, Bản Lá,
Khau Nhì, núi Hồng, Khau Lán tới các huyện Đại Từ, Định Hóa (Thái
Nguyên) và xuôi về các tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Hà Nội. Từ Tuyên Quang
xuống phía nam dọc theo chân núi Hồng, Tam Đảo về Lập Thạch (Vĩnh
Phúc), sang Phù Ninh, Tam Nông, Thanh Thủy (Phú Thọ), xuống Sơn Tây
hoặc ngược lên Hịa Bình và về các tỉnh đồng bằng thuận lợi. Theo hướng tây,
từ Tuyên Quang có thể sang Yên Bái và các tỉnh Tây Bắc dễ dàng.
Tuyên Quang là địa bàn chiến lược cơ động. Từ đây có thể thông
thương với các địa phương trong căn cứ địa Việt Bắc, với các tỉnh miền xuôi
và cả nước. Sơn Dương, Yên Sơn cùng với các huyện Định Hóa, Chợ Đồn tạo
thành thế chân kiềng với nhiều lợi thế.
Từ Sơn Dương, theo Quốc lộ 13A vượt qua đèo Khế tới Huyện Đại Từ
(Thái Nguyên), hoặc ngược lên thị xã Tuyên Quang sang Yên Bái, đi Cò Nòi
(Sơn La). Từ trung tâm huyện lị Sơn Dương, theo Quốc lộ 2C, vượt qua đèo
Khuôn Do về Lập Thạch, gặp Quốc lộ 2 ở thị xã Vĩnh Yên. Từ Sơn Dương có
thể vượt đèo De sang An tồn khu Định Hóa (Thái Ngun). Đèo Khế, đèo
De, đèo Khuôn Do là những bước trường thành thiên nhiên hiểm trở, che
chắn cho huyện Sơn Dương và ATK Tân Trào.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

9




Huyện Yên Sơn nằm ở cửa ngõ Tây Nam của tỉnh Tuyên Quang. Phía
bắc giáp hai huyện Hàm Yên và Chiêm Hóa, phía nam và đơng nam giáp
huyện Sơn Dương và hai tỉnh n Bái, Phú Thọ. Phía đơng giáp tỉnh Thái

Nguyên. Thị xã Tuyên Quang nằm trong lòng huyện n Sơn và có gắn bó
chặt chẽ về địa lí, hành chính, lịch sử. Với vị trí hết sức cơ động đó, từ n
Sơn có thể xi về Hà Nội, theo Quốc lộ 2 ngược lên Hà Giang, sang Thái
Nguyên và Yên Bái theo Quốc lộ 13A.
Chính điều kiện địa lí tự nhiên như vậy đã tạo thành thế “thiên hiểm”
ngăn cản sự tiến cơng và đóng giữ của địch, hạn chế tới mức tối đa uy lực vũ
khí và phương tiện chiến tranh hiện đại của kẻ thù. Ngược lại, Tuyên Quang
lại là địa bàn có điều kiện thuận lợi để xây dựng thành An toàn khu của Trung
ương. Huyện Sơn Dương, Yên Sơn với địa thế hiểm yếu, là nơi “dễ phịng
thủ, khó tấn cơng”. Khi bị tấn cơng, lực lượng cách mạng có thể chốt giữ, tổ
chức những cuộc chiến đấu chặn đánh để bảo toàn lực lượng; hoặc có thể
nhanh chóng di chuyển lực lượng, kho tàng, cơ quan ra các vùng xung quanh.
Từ Sơn Dương, n Sơn có thể xuất phát tiến cơng địch ở những nơi khác,
khi thắng có thể tiến về châu thổ sông Hồng, khi lui, lại về dựa vào địa thế
rừng núi đứng chân an toàn.
Tuyên Quang chịu ảnh hưởng của khí hậu nhiệt đới gió mùa. Lượng
mưa trung bình lớn, độ ẩm cao. Một năm chia làm hai mùa rõ rệt: Mùa mưa
từ tháng 4 đến tháng 9, nhiệt độ trung bình 280C; mùa khơ từ tháng 10 đến
tháng 3 năm sau, nhiệt độ trung bình là 16 0C, có khi xuống dưới 100C. Điều
kiện khí hậu trên là một thuận lợi cho các loại thực vật phát triển rất phong
phú. Trong kháng chiến, rừng Tuyên Quang với các loại gỗ, tre, nứa... có khả
năng đáp ứng một cách nhanh chóng, kịp thời việc xây dựng nhà ở, lán, trại
cho các cơ quan và đơn vị bộ đội đóng quân.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

10





Lịng đất Tun Quang chứa nhiều khống sản: vàng, thiếc, kẽm, barit,
pisit, ăngtimoan, mănggan, cao lanh..., thiên nhiên có sẵn các loại cát, sỏi, đá
vơi, đất chịu lửa... Đó là nguồn khoáng sản quý giá giúp cho ngành khai thác
mỏ và sản xuất vật liệu xây dựng của tỉnh phát triển, đồng thời đóng góp quan
trọng cho nền cơng nghiệp trong kháng chiến, đặc biệt là cơng nghiệp quốc
phịng.
1.2. Điều kiện xã hội, truyền thống yêu nƣớc và cách mạng
1.2.1. Điều kiện xã hội
Là mảnh đất có lịch sử lâu đời, Tuyên Quang từ xa xưa đã có sự tồn tại
của con người. Tại nơi đây các nhà khảo cổ học đã tìm thấy những di vật của
con người nguyên thuỷ như: Rìu đá, mũi giáo, xương trâu bị hố thạch…
thuộc thời kì đá mới. Bên cạnh đó cịn tìm thấy các cơng cụ bằng đồng. Qua
các di vật tìm thấy có thể khẳng định rằng cách đây hàng vạn năm, các bộ tộc
người cổ đại đã từng cư trú dọc theo triền sông Lô, sông Chảy.
Tuyên Quang, trước Cách mạng tháng Tám có khoảng 120.000 dân,
thuộc 22 thành phần dân tộc anh em. Trong đó, đơng nhất là dân tộc Việt
sống tập trung ở thị xã, thị trấn; dân tộc Tày, Nùng sống ở vùng núi thấp và
các thung lũng. Còn các dân tộc khác như Cao Lan, Sán Dìu, Cờ Lao, Pà
Thẻn, Dao... sống ở triền núi cao hoặc xen kẽ với các dân tộc khác tạo thành
từng bản, làng, nơi có nguồn nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt. Mỗi
dân tộc có một nền văn hóa độc đáo, phong tục tập quán, tiếng nói riêng...
nhưng nét nổi bật chung là truyền thống yêu nước, đoàn kết và đấu tranh bất
khuất chống giặc ngoại xâm trong suốt quá trình lịch sử dựng nước và giữ
nước. Đặc thù của địa hình và sự phân bố dân cư đã gây khó khăn cho thực
dân Pháp khó kiểm sốt hoặc mở các cuộc càn quét lớn, đồng thời thuận lợi
cho việc xây dựng lực lượng và cơ sở cách mạng, bảo tồn thực lực.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên


11




Dưới thời Pháp thuộc, nhân dân tỉnh Tuyên Quang chịu nhiều đắng
cay, khổ cực dưới ách cai trị của bọn đế quốc, phong kiến. Chúng tự ý đặt ra
nhiều thứ thuế, phu phen lao dịch nặng nề, bắt người dân trong tỉnh phải cung
phụng, phục dịch. Cả tỉnh chỉ có một trường tiểu học, một số châu lị, xã có
trường sơ học, nhưng số học sinh chủ yếu là con nhà giàu, con của các chức
dịch. Vì vậy, 99% số dân trong tỉnh không biết chữ. Về y tế, cả tỉnh chỉ có
một bệnh viện ở gần thị xã Tuyên Quang gọi là “nhà thương làm phúc”, với
30 giường bệnh. Những người dân lao động, người nghèo khổ luôn bị khinh
miệt, ốm đau khơng được chăm sóc, cứu chữa. Tình trạng chết vì bệnh sốt rét
khá phổ biến. Tình trạng “hữu sinh, vô dưỡng” trở thành nỗi tuyệt vọng, ám
ảnh từng gia đình. Theo số liệu thống kê, từ năm 1928 đến 1931, tồn tỉnh có
5286 người chết, trong khi số người sinh ra là 5025 người [1, tr. 34].
Chính sách cai trị, bóc lột, khai thác thuộc địa của thực dân pháp làm
cho xã hội Tuyên Quang biến động sâu sắc, xuất hiện những giai cấp mới.
Trong đó, đáng chú ý nhất là giai cấp công nhân.
Công nhân Tuyên Quang hình thành cùng với sự ra đời của các hầm
mỏ, cơ sở kinh doanh của thực dân Pháp và giai cấp tư sản địa phương. Thành
phần xuất thân của Công nhân Tuyên Quang phần lớn là nông dân các tỉnh
miền xi, do bị cướp ruộng, bần cùng hóa, nên phải rời bỏ quê hương lên
Tuyên Quang vào làm thuê trong các hầm mỏ (mỏ kẽm Tràng Đà, Đầm
Hồng, mỏ than Tuyên Quang và các công ti, hãng buôn...). Số cịn lại do cơng
nhân mỏ than Vàng Danh (Quảng Ninh) chuyển đến và một số là người dân
địa phương.
Công nhân Tuyên Quang có mối liên hệ sâu sắc, trực tiếp với làng q,
gắn bó chặt chẽ với nơng dân. Họ sống tập trung ở các cơ sở kinh doanh, hầm

mỏ, các trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của tỉnh. Trong lao động, công
nhân Tuyên Quang đã bước đầu được tiếp xúc với một số máy móc. Vì thế,
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

12




cơng nhân Tun Quang đã nhanh chóng hình thành tính chất vô sản trong
mỗi người. Ở nông thôn, họ bị địa chủ bóc lột, tại các khu mỏ, nhà máy, họ
phải bán sức lao động với giá rẻ mạt. Giai cấp vơ sản Tun Quang sớm nhận
rõ bộ mặt bóc lột của giai cấp thống trị và đã vùng lên đấu tranh mạnh mẽ.
Giai cấp công nhân Tuyên Quang thực sự là lực lượng tiên phong, nòng cốt
trong phong trào cách mạng ở địa phương.
Với điều kiện địa lí tự nhiên, xã hội như vậy, Tuyên Quang thực sự là
một vùng đất “địa lợi”, “nhân hòa”, là căn cứ địa vững chắc trong chiến tranh
giải phóng và chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
1.2.2. Truyền thống yêu nước và cách mạng
Trải qua các thời kì lịch sử dựng nước và giữ nước, nhân dân Tuyên
Quang luôn sát cánh với nhân dân cả nước đứng lên chiến đấu chống bọn xâm
lược phương Bắc, bảo vệ Tổ quốc.
Vào thế kỉ XI, dưới sự lãnh đạo của Lí Thường Kiệt, nghĩa quân châu
Vị Long (Chiêm Hóa) do tù trưởng họ Hà chỉ huy đã tham gia vây đánh và
phá tan thành Ung Châu, tiêu diệt quân Tống, giữ yên bờ cõi đất Việt. Chiến
công đó cịn được ghi lại trên tấm bia đá “Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi” (nghĩa
là bia chùa Bảo Ninh Sùng Phúc) thuộc xã n Ngun, huyện Chiêm Hóa.
Ngồi phần đạo lí của nhà Phật, nội dung chính của bia nói về gia thế, cơng
lao của dịng họ Hà có 15 đời làm Châu mục coi giữ châu Vị Long. Văn bia
ghi rõ công trạng của vị thủ lĩnh họ Hà: “Thân phụ Thái Phó (chỉ cha của Hà

Hưng Tơng) chỉnh đốn vương sư đánh sang ải Bắc, vây thành Ung cho bõ
giận. Bắt tướng võ, dâng tù binh, do đó được nhà vua ban chức “Hữu đại liên
ban đồn huyện xứ”. Đoạn kết văn bia ghi:
“Người giỏi ra đời
Đạo thì thống nhất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

13




Công đức tạo bia
Như non khôn mất” [1, tr.22].
(Theo bản dịch của Đỗ Văn Hỉ)
Đến thế kỉ XIII, khi quân Nguyên Mông xâm lược nước ta lần thứ hai
(1285), nhân dân Tuyên Quang đã cùng nghĩa quân Chiêu Văn Vương Trần
Nhật Duật chặn đánh quân giặc từ Vân Nam xuống, gây cho chúng nỗi kinh
hoàng.
Đời Lê - Mạc, hai anh em Vũ Công Uyên và Vũ Công Mật tập hợp
nông dân đứng lên chống phong kiến ở xã Khổng Tuyền (hiện nay thuộc Sơn
Dương), Khuôn Bầu xã Đại Đồng (Yên Bình), có lúc kiểm sốt được cả đất
Tun Quang, các huyện Lâm Thao, Đoan Hùng.
Năm 1789, các thủ lĩnh họ Ma (dân tộc Tày), tập hợp nghĩa quân châu
Vị Long (Chiêm Hóa) phối hợp với nghĩa quân Tây Sơn chặn đánh một cánh
quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, trên đường chúng tháo chạy qua Chiêm
Hóa, Nà Hang, Bảo Lộc, tiêu diệt gần 3000 tên. Số sống sót tháo chạy thục
mạng, luồn rừng, vượt biên giới trốn về nước.
Năm 1858, thực dân Pháp bắt đầu nổ súng xâm lược nước ta. Sau khi

đánh chiếm một số tỉnh đồng bằng và các thành phố lớn Hà Nội, Hải Phòng,
năm 1884, thực dân Pháp mở cuộc hành quân chiếm vùng thượng du Bắc Kì.
Ngày 31-5-1884, thực dân Pháp chính thức đánh chiếm Tuyên Quang. Tuy
nhiên, vừa mới đặt chân đến nơi đây, chúng đã đã vấp phải sức kháng cự
quyết liệt của nhân dân Tuyên Quang. Quân dân trong tỉnh đã triệt để thực
hiện vườn không nhà trống, chặn đánh quân địch ở mọi nơi.
Với lực lượng mạnh, sau khi chiếm được tỉnh lị, quân Pháp tập trung
đóng tại thành Tuyên Quang. Đồng bào các dân tộc Kinh, Tày, Cao Lan...
suốt một vùng quanh thị xã đã tập hợp lực lượng cùng với đạo quân của Lưu
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

14




Vĩnh Phúc vây đánh quân địch trong thành. Lực lượng nghĩa quân vây thành
ròng rã nhiều tháng với những trận chiến đấu quyết liệt, tiêu diệt khoảng 200
tên địch, buộc chúng phải cầu cứu quân tiếp viện. Trận đánh lớn nhất diễn ra
tại cánh đồng Hòa Mục thuộc xã Thái Long, huyện Yên Sơn đã tiêu diệt 100
tên Pháp, 800 tên bị thương trong đó có 26 sĩ quan. Quân Pháp phải công
nhận đây là “trận gay go nhất từ trước tới nay ở Bắc Kì” [40, tr.66].
Từ năm 1885 đến năm 1898, nhân dân các dân tộc Tày, Dao (n
Bình) tích cực tham gia phong trào khởi nghĩa vũ trang do Tuần phủ Hưng
Hóa Nguyễn Quang Bích và Bố chánh Nguyễn Văn Giáp chỉ huy.
Cuối thế kỉ XIX, nhiều thanh niên ở huyện Sơn Dương, Yên Sơn đã
cầm vũ khí chiến đấu trong hàng ngũ nghĩa qn Hồng Hoa Thám.
Tháng 3 – 1913, 235 công nhân làm đất ở Nà Đồn, Đài Thị (Chiêm
Hóa) đứng lên đấu tranh địi tên chủ Đétsôven phải trả đủ lương tháng, không
được bớt xén.

Trong hai năm 1913 – 1914, đồng bào Yên Bình tham gia phong trào
Giáp Dần và cuộc khởi nghĩa vũ trang chống Pháp của hai thủ lĩnh người Dao
là Triệu Tiến Kiên và Triệu Tài Lộc.
Cùng với nhân dân cả nước, học sinh và tầng lớp trí thức Tuyên Quang
hưởng ứng mạnh mẽ phong trào yêu nước đòi thả Phan Bội Châu (1925) và
để tang Phan Châu Trinh (1926). Tiếp sau đó, những đảng viên Quốc dân
Đảng cũng đã đến Tuyên Quang hoạt động dưới sự ủng hộ, che chở của nhân
dân tỉnh nhà.
Trong những năm 20 thế kỉ XX, nhân dân các xã Lâm Xuyên, Hào
Phú, Hồng Lạc, Tân Trào (Sơn Dương) liên tiếp nổi dậy chống chế độ bóc lột
dã man của thực dân Pháp và tay sai.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

15




Các cuộc đấu tranh trên nổ ra còn lẻ tẻ, manh động và hầu hết bị đàn
áp, song nó thể hiện tinh thần yêu nước nồng nàn của nhân dân các dân tộc
tỉnh Tuyên Quang.
Truyền thống đấu tranh anh dũng chống lại ách áp bức bóc lột thực dân
của nhân dân Tuyên Quang càng được nhân lên gấp bội khi Đảng Cộng sản
Việt Nam ra đời năm 1930.
Tháng 6-1937, đồng chí Hồng Văn Lịch1 được điều về hoạt động tại
Tun Quang, chịu trách nhiệm trước Đảng về việc bắt mối, xây dựng cơ sở,
tổ chức của Đảng tại Tuyên Quang.
Với tên gọi là Hai Cao, đồng chí Hồng Văn Lịch vào làm việc ở mỏ
than thị xã Tuyên Quang để được gần gũi anh em công nhân. Chỉ sau một thời

gian ngắn cùng sống và làm việc với công nhân, đồng chí đã giác ngộ cho họ
tinh thần yêu nước, yêu giai cấp cần lao, lòng căm thù đế quốc, phong kiến,
chống lại sự áp bức của chủ mỏ.
Khi những cơ sở quần chúng đầu tiên được xây dựng ở mỏ than Tuyên
Quang, cũng là thời điểm Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương
(sau là Mặt trận Dân chủ Đơng Dương) phát huy mạnh mẽ vai trị tập hợp lực
lượng chống phản động thuộc địa, đòi tự do, dân chủ, cơm áo, hịa bình.

1. Đồng chí Hồng Văn Lịch, quê ở xã Xuân Phách, huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng. Ngay
từ những năm 1927-1928, sau khi học xong lớp nhất (tương đương lớp 4 hiện nay), đồng chí Lịch
được giác ngộ về tư tưởng yêu nước, tham gia tổ chức cách mạng của địa phương. Năm 1931, đồng
chí được kết nạp vào Đảng cộng sản Đơng Dương tại chi bộ Hải ngoại. Tháng 6 – 1937, đồng chí
được điều về Tuyên Quang gây dựng phong trào. Khoảng tháng 5 – 1838, đồng chí lại trở về Cao
Bằng hoạt động. Tháng 6 – 1941, đồng chí bị bắt ngay tại nhà ở Nà Cung, Gia Cung, Cao Bằng.
Tháng 4 – 1943, đồng chí bị địch tra tấn đến chết tại Hỏa Lị – Hà Nội.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

16




Phương châm hoạt động do Đảng đề ra là tận dụng mọi khả năng công
khai, hợp pháp, kết hợp các hình thức đấu tranh bí mật, bất hợp pháp.
Tại Tun Quang, nắm vững chủ trương của Đảng, đồng chí Hai Cao
đã hướng cho anh em công nhân mỏ vào các hoạt động hưởng ứng phong trào
dân chủ đang dâng lên mạnh mẽ trong toàn quốc. Đầu năm 1938, tổ chức
Đoàn Thanh niên dân chủ gồm một số thanh niên ưu tú được thành lập, làm
nòng cốt cho phong trào thanh niên ở thị xã.

Tiếp đó, đồng chí Hai Cao về Hà Nội liên lạc với các nhà xuất bản, lấy
sách báo về phát hành ở Tuyên Quang 1. Nhờ có sự lưu hành rộng rãi sách báo
của Đảng, của Mặt trận Dân chủ và sự vận động tích cực, khéo léo của đồng
chí Hai Cao, nhân dân lao động thị xã Tuyên Quang, nhất là công nhân mỏ
than đã bước đầu giác ngộ quyền lợi giai cấp, dân tộc. Hội ái hữu thợ thuyền
được thành lập, đặt trụ sở tại khu Xuân Hòa – thị xã Tuyên Quang.
Giữa năm 1938, đồng chí Hồng Văn Lịch trở về Cao Bằng hoạt động,
đồng chí Vũ Mùi được Xứ ủy Bắc Kì phân công lên phụ trách phong trào
cách mạng ở Tuyên Quang, tiếp tục tuyên truyền, vận động công nhân và
nhân dân tham gia những hình thức đấu tranh cao hơn. Từ đây, phong trào
liên tiếp nổ ra, mở đầu là cuộc đấu tranh của cơng nhân đồn điền Rayđơba,
cuộc đình cơng của cơng nhân mỏ than địi tăng lương, giảm giờ làm, buộc
bọn chủ phải nhượng bộ. Thắng lợi này có tác dụng cổ vũ tinh thần đấu tranh
của nhân dân các dân tộc Tuyên Quang; uy tín, ảnh hưởng của Đảng không
ngừng được nâng cao. Bên cạnh phong trào đấu tranh của công nhân, phong
trào đấu tranh của đồng bào các dân tộc chống lại bọn địa chủ, thổ ti đòi giảm
thuế, chống lao dịch diễn ra ở hầu khắp các huyện, mạnh nhất là ở Sơn
Dương, Chiêm Hóa.
1. Một số sách, báo được phát hành ở Tuyên Quang: Thời thế, Bạn dân, Tin tức, Đời nay...

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

17




Trong sự phát triển mạnh mẽ của phong trào, ngày 20-3-1940 chi bộ
Cộng sản đầu tiên của Tuyên Quang được thành lập tại mỏ than, gồm 7 đồng
chí, do đồng chí Vũ Mùi làm Bí thư. Tiếp đó, tháng 10-1940, Ban cán sự

Đảng tỉnh Tuyên Quang ra đời, trực tiếp lãnh đạo phong trào cách mạng địa
phương.
Ngay từ khi ra đời, Ban cán sự chủ trương củng cố những cơ sở đã có,
phát triển các cơ sở mới, vận động đấu tranh để rèn luyện và tập hợp quần
chúng. Các đường dây liên lạc được thiết lập trong tầng lớp tiểu thương, cơng
nhân đồn thuyền sắt, thuyền gỗ, xà lan...nơng dân ấp Đồng Cả, xóm Nhà
Thờ - xã Tân Long, xã Hùng Lợi, đồng bào Cao Lan xã Phú Lâm...(huyện
Yên Sơn) và trong cả binh lính khố xanh, khố đỏ.
Ngày 23-9-1940, thực dân Pháp kí hiệp định cho phát xít Nhật vào
Đông Dương mà thực chất là quỳ gối dâng Đông Dương cho Nhật. Nhân dân
Việt Nam phải chịu cảnh “một cổ hai trịng” nơ lệ. Chung số phận người dân
mất nước, nhân dân các dân tộc tỉnh Tuyên Quang phải cung cấp nhân lực,
vật lực cho đế quốc Pháp – Nhật, đời sống nhân dân ngày càng khốn cùng.
Dưới ách thống trị của đế quốc, phát xít Pháp – Nhật, nhân dân cả nước
đã vùng dậy đấu tranh để giành độc lập tự do. Trong hơn 3 tháng (từ tháng 91940 đến đầu năm 1941) liên tiếp nổ ra 3 cuộc khởi nghĩa: Bắc Sơn, Nam Kì
và binh biến Đơ Lương, đánh dấu một thời kì mới của cách mạng – thời kì
Đảng lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa giành chính quyền.
Tại Tuyên Quang, Ban cán sự Đảng tỉnh và Chi bộ Mỏ than đã phát
động nhiều đợt đấu tranh, bí mật củng cố, phát triển cơ sở bên ngồi phạm vi
thị xã. Năm 1941, tại cơng trường Km 5 (đường Tuyên Quang đi Bình Ca),
nơi xây dựng sân bay cho Pháp – Nhật, đã 4 lần xuất hiện truyền đơn kêu gọi
nhân dân chống đi phu, đi lính, ủng hộ khởi nghĩa Bắc Sơn. Cũng trong năm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

18





1941, nhiều truyền đơn, áp phích được dán ở trại lính, cơng sở, đường phố,
nơi đơng người...Thực dân Pháp tức tối, mở nhiều đợt truy lùng hòng bắt
được cán bộ cách mạng.
Ngày 21-1-1941, địch bắt một số công nhân mỏ than (trong đó có 2
đảng viên) đưa vào trại lính khố xanh giam giữ, sau đó chúng đưa 4 người đi
Hà Nội, số còn lại đưa vào dinh Tuần phủ để hỏi cung. Thấy tình hình căng
thẳng, Chi bộ Mỏ than họp bất thường để giải quyết vấn đề củng cố Đảng và
bàn biện pháp đấu tranh đánh lạc hướng địch, buộc chúng thả những người bị
bắt. Thực hiện chủ trương của Chi bộ Mỏ than, ngày 28-1-1941, cờ đỏ búa
liềm được treo trên đỉnh núi Dùm. Thực dân Pháp hoang mang, lúng túng,
không xác định được cơ sở cách mạng. Do khơng tìm được chứng cớ buộc
tội, địch phải trả tự do cho những người bị bắt, song vẫn ráo riết theo dõi, dò
la các hoạt động của ta.
Ngày 12-4-1941, truyền đơn được rải ở trung tâm thị xã phản đối đế
quốc Pháp tử hình anh em binh sĩ tham gia cuộc binh biến Đô Lương. Đêm
30-4-1941, truyền đơn, áp phích được rải và dán ở nhiều nơi trong thị xã địi
tự do lập nghiệp đồn. Thực dân Pháp điên cuồng cho sục sạo, khám xét khắp
nơi ở mỏ than, thị xã và vùng lân cận: Ỷ La, Trung Môn, Tân Tiến..., song
không phát hiện được cơ sở cách mạng và tổ chức Đảng của ta. Phong trào
cách mạng tại thị xã Tuyên Quang được giữ vững và phát triển.
Trong khi đó phong trào cách mạng trên phạm vi cả nước cũng ngày
càng lan rộng. Vấn đề đấu tranh giành độc lập dân tộc càng trở nên bức thiết.
Vì vậy, ngay sau khi về nước, trên cơ sở kết quả cơng tác thí điểm Mặt trận
Việt Minh tại Cao Bằng, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị
Trung ương Đảng lần thứ 8 (10-19/5/1941). Hội nghị khẳng định nhiệm vụ
chủ yếu trước mắt của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, coi đây là
nhiệm vụ hàng đầu. Hội nghị cũng nêu khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

19





quốc, Việt gian chia cho dân cày nghèo, chủ trương thành lập mặt trận dân tộc
thống nhất riêng cho từng nước Đông Dương. Ở Việt Nam, Hội nghị quyết
định thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập Đồng minh (Việt Minh) với sứ
mạng tổ chức, đồn kết, tập hợp đơng đảo, rộng rãi nhất các lực lượng quần
chúng để thực hiện nhiệm vụ trọng đại “Phải làm sao giải phóng cho được các
dân tộc Đông Dương ra khỏi ách của giặc Pháp – Nhật” [72, tr.195].
Căn cứ vào nghị quyết của Hội nghị lần thứ 8 BCH Trung ương, được
sự chỉ đạo của Xứ ủy, Ban cán sự Đảng tỉnh và Chi bộ Mỏ than thành lập các
tổ chức Cứu quốc trong các giai cấp, tầng lớp nông dân, thanh niên, phụ nữ,
phụ lão v.v... Chỉ trong thời gian ngắn, tổ chức Nông dân Cứu quốc phát triển
tới các xã: Phúc Ninh, Thắng Quân, Tân Tiến, Chiêu Yên, Cường Đạt (Yên
Sơn), Hùng Đức (Hàm Yên).
Ban cán sự và Chi bộ Mỏ than tích cực giác ngộ, rèn luyện quần chúng
thơng qua phong trào đấu tranh. Ngày 1-11-1941, trong khu mỏ xuất hiện
truyền đơn chào mừng kỉ niệm Cách mạng tháng Mười Nga, vạch mặt bọn
thực dân gây hằn thù, xung đột giữa lính khố xanh và lính khố đỏ. Cuối năm
1941, Chi bộ Mỏ than tổ chức 2 cuộc mít tinh lớn tại ấp Đồng Cả nhằm phát
huy lòng yêu nước trong nhân dân và vận động quần chúng đấu tranh chống
thuế, chống nộp thóc đầu mẫu, chống quyết định nhổ ngô trồng thầu dầu...
Đồng bào xung quanh ấp Đồng Cả tổ chức biểu tình chống sưu cao, thuế
nặng, buộc tên Tri phủ Yên Sơn phải nhượng bộ một phần yêu sách của bà
con nông dân.
Phong trào Việt Minh ở Tuyên Quang phát triển khá mạnh mẽ. Cuối
năm 1942, cơ sở Việt Minh được xây dựng tại các huyện Yên Sơn, Sơn
Dương, Chiêm Hóa. Cứu quốc quân II mở các lớp huấn luyện cấp tốc cho cán
bộ cơ sở về kinh nghiệm tổ chức quần chúng, huấn luyện tự vệ, cơng tác binh

vận... phong trào Việt Minh nhờ đó phát triển nhanh chóng. Ở nhiều nơi nổ ra
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

20




các cuộc đấu tranh chống bắt phu, bắt lính, chống thu thóc, chống thuế...Bọn
Lí trưởng tức tối, nhiều lần đưa qn lùng sục nhưng khơng làm gì nổi. Từ
đội võ trang đầu tiên thành lập đầu năm 1942 ở Khuôn Kẹn (Khuổi Kịch-Sơn
Dương), đến đầu năm 1943, các đội tự vệ đã ra đời ở hầu hết các địa bàn
trong khu căn cứ. Tuy số lượng ít, vũ khí thơ sơ, song các đội võ trang có tác
dụng lớn trong việc bảo vệ cơ sở cách mạng, bảo vệ cán bộ, giữ vững giao
thông liên lạc, hỗ trợ và thúc đẩy phong trào đấu tranh của quần chúng. Ở các
xã Trung Sơn, Trung Minh, Hùng Lợi (Yên Sơn), Bình Dân, Lũng Tẩu, Ngịi
Nho, Ao Búc, Khn Đào (Sơn Dương), hầu hết nhân dân đều tham gia các tổ
chức Cứu quốc. Ban Việt Minh được thành lập, giải quyết mọi vấn đề. Chính
quyền của địch rệu rã, hoang mang dao động.
Tháng 11 -1943, lãnh đạo Cứu quốc quân II quyết định chọn vùng Núi
Hồng (Sơn Dương) làm địa bàn xây dựng căn cứ và làm bàn đạp phát triển cơ
sở ra xung quanh. Thực hiện chủ trương này, hàng loạt cơ sở cách mạng được
xây dựng ở các xã: Hợp Thành, Trung Yên, Bình Yên...(Sơn Dương), Chiêu
Yên, Quý Quân, Kiến Thiết, Trung Trực, Kim Quan (Yên Sơn). Tại Khuôn
Đào, Ao Búc, Khuôn Trút – huyện Sơn Dương diễn ra 2 cuộc mít tinh lớn của
nơng dân. Tại cuộc mít tinh, cán bộ cách mạng diễn thuyết vạch tội các của
giặc, phổ biến điều lệ, chính sách của Mặt trận Việt Minh.
Đầu năm 1945, Chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn cuối. Ở
châu Âu, số phận của phát xít Đức chỉ cịn tính từng ngày. Ở châu Á – Thái
Bình Dương, phát xít Nhật liên tục bị qn Đồng Minh tấn công. Để độc

chiếm Đông Dương, và loại trừ mối lo bị Pháp đánh úp sau lưng khi quân
Đồng Minh tiến vào, ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng tiến hành đảo chính hất
cẳng Pháp, độc chiếm Đơng Dương. Ngày 12-3-1945, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ra chỉ thị “Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

21




phát động cao trào kháng Nhật cứu nước làm tiền đề cho cuộc Tổng khởi
nghĩa đang tới gần.
Đêm 9-3-1945, quân Pháp và bọn tay sai bỏ chạy khỏi thị xã Tuyên
Quang. Tỉnh lị Tuyên Quang bỏ ngỏ trong 3 ngày, chính quyền địch bị tê liệt.
Tuy nhiên, do thiếu sự chuẩn bị mọi mặt cho một cuộc khởi nghĩa nên lực
lượng cách mạng đã để lỡ cơ hội giành chính quyền.
Ngày 11-3-1945, quân Nhật từ thị xã Phú Thọ kéo lên chiếm đóng thị
xã Tun Quang, dựng lên chính quyền tay sai dựa trên cơ sở bộ máy cai trị
cũ của Pháp.
Sau ngày Nhật đảo chính Pháp 9-3-1945, các cuộc khởi nghĩa từng
phần lần lượt nổ ra và lan rộng tại các huyện Sơn Dương, Chiêm Hóa, Hàm
Yên, Yên Sơn, Nà Hang. Từng mảng chính quyền địch bị lật đổ và chính
quyền cách mạng được thành lập.
Ở thời điểm đó, tuy chưa nhận được chỉ thị mới của Trung ương, song
căn cứ vào tình hình cụ thể của địa phương, chủ trương chung của Đảng, Ban
lãnh đạo Phân khu Nguyễn Huệ đã quyết định hành động.
Ngày 10-3-1945, tại khu rừng Khuôn Kẹn (xã Tân Trào), dưới sự chủ
tọa của đồng chí Song Hào, Phân khu ủy Phân khu Nguyễn Huệ đã họp và

nhân định “Biến động tình hình địch trong khu và các vùng phụ cận cho thấy,
có thể Nhật đã đảo chính Pháp, thời cơ đã đến, cần nhanh chóng, mạnh dạn
hành động “bắt mạch” xem phản ứng của địch, nếu thuận lợi sẽ mở rộng hoạt
động tiến lên giành chính quyền” [34, tr.38]. Xã Thanh La (Minh Thanh –
Sơn Dương) được chọn làm nơi “bắt mạch” đầu tiên đối với chính quyền
địch. Tư tưởng chủ đạo của cuộc ra quân là phải chắc thắng để gây thanh thế
cho ta.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

22




Đêm 10-3-1945, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Tạ Xuân Thu,
lực lượng vũ trang cách mạng đã mau lẹ tước vũ khí của lính dõng, bắt bọn
tổng lí, hương dõng phải quy phục, giao nộp súng ống, bằng sắc, triện đồng
cho ta. Xã Thanh La được giải phóng ngay trong đêm 10-3-1945.
Thắng lợi nhanh chóng của cuộc khởi nghĩa Thanh La cho thấy địch đã
rất suy yếu, khởi nghĩa giành chính quyền có thể nổ ra, thành công ở từng xã,
huyện rồi phát triển trên phạm vi lớn.
Sáng 11-3-1945, quân khởi nghĩa với nòng cốt là lực lượng Cứu quốc
quân III và tự vệ địa phương, giương cao cờ đỏ sao vàng, biểu ngữ cách
mạng: “Việt Nam độc lập muôn năm”, “Ủng hộ Việt Minh”, “Đả đảo phát xít
Nhật”...tiến về giải phóng Đăng Châu – huyện lị Sơn Dương. Nhân dân vơ
cùng phấn khởi, hừng hực khí thế đấu tranh, tham gia vào đoàn quân cách
mạng ngày càng đông. Quân khởi nghĩa đi đến đâu, các chức sắc trong chính
quyền địa phương của địch đều mũ, áo chỉnh tề ra trình diện, giao nộp các
loại giấy tờ, bắng sắc. Ta tuyên bố thành lập chính quyền cách mạng ở những

nơi đã được giải phóng và cử cán bộ ở lại phụ trách công tác quân sự, làm cố
vấn cho chính quyền mới.
Đêm 12, rạng sáng ngày 13-3-1945 ta bao vây và hạ đồn Đăng Châu,
quân địch hạ vũ khí đầu hàng (riêng tên Tri châu Hồng Thế Tâm đã chạy
thốt về tỉnh từ mấy hơm trước).
Dù nhanh chóng chiếm được đồn Đăng Châu, Ban lãnh đạo vẫn sáng
suốt nhận định: Đăng Châu là một vị trí quan trọng, án ngữ con đường từ
Tuyên Quang đi Vĩnh Yên và sang Thái Nguyên, thế nào địch cũng tìm cách
chiếm lại. Do đó, Ban lãnh đạo đã cho rút quân về Ao Búc để củng cố lực
lượng chuẩn bị đối phó.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

23




Đúng như dự đốn, ngày 14-3-1945, tên Tri châu Hồng Thế Tâm, Tri
phủ Yên Sơn Đèo Văn Phú và tên quan Hai Nguyễn Văn Chung đem lính khố
xanh từ thị xã Tuyên Quang chiếm lại Đăng Châu. Ta chủ động bao vây, tiến
đánh đồn Đăng Châu một lần nữa và giành thắng lợi (hầu hết quân địch đầu
hàng, một số xin đi theo cách mạng, ta thu hơn 70 súng cùng một số quân
dụng).
Sau khi Đăng Châu được giải phóng, ngày 16-3-1945, Phân khu
Nguyễn Huệ tổ chức một cuộc mít tinh lớn tại Thanh La, tuyên bố thành lập
châu Tự Do và Ủy ban cách mạng lâm thời châu. Đây là chính quyền cách
mạng đầu tiên của Tuyên Quang, đồng thời cũng là chính quyền nhân dân cấp
châu đầu tiên của cả nước.
Châu Tự Do ra đời (bao gồm phần lớn vùng thượng huyện Sơn Dương)

nhanh chóng trở thành căn cứ, là trung tâm lãnh đạo quá trình khởi nghĩa
giành chính quyền trong tồn tỉnh và các vùng phụ cận. Từ đây, Cứu quốc
quân và các đội tự vệ chia thành nhiều mũi tỏa đi các hướng hỗ trợ, lãnh đạo
nhân dân nổi dậy giành chính quyền, mở rộng vùng giải phóng.
Tại Yên Sơn, các Ban Việt Minh xã lãnh đạo nhân dân nổi dậy phối
hợp với lực lượng vũ trang từ Sơn Dương sang, đè bẹp những ổ kháng cự
cuối cùng của địch. Ngày 12-5-1945, châu Hồng Thái được thành lập, gồm 2
tổng Bình Ca và Kim Quan với 12 xã, 2 động người Dao, Cao Lan.
Từ châu Tự Do, đồng chí Tạ Xn Thu và Nguyễn Cơng Bình đưa
quân đi giải phóng Chợ Chu (Định Hóa - Thái Nguyên) rồi vòng về hợp lực
với lực lượng của đồng chí Lê Thùy, Tơ Vũ giải phóng Chiêm Hóa, Na Hang.
Ở Hàm Yên, các đội tự vệ địa phương cùng lực lượng vũ trang từ Chiêm Hóa
xuống đã hỗ trợ quần chúng vùng lên giành chính quyền. Ngày 15-5-1945,
phủ Tồn Thắng được thành lập bao gồm phần lớn huyện Hàm Yên, một phần

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

24




huyện Yên Bình và các xã: Thắng Quân, Tứ Quận, Chiêu Yên, Xuân Vân,
Trung Trực (thuộc Yên Sơn). Trung tuần tháng 5-1945, cách mạng thành
cơng ở huyện Chiêm Hóa, châu Khánh Thiện được thành lập. Cuối tháng 51945, huyện Yên Bình giành được chính quyền. Đầu tháng 6-1945, khởi
nghĩa giành chính quyền thành cơng ở Na Hang, châu Xn Trường ra đời.
Sau gần 3 tháng khẩn trương, hành động kiên quyết, tới đầu tháng 61945, phần lớn tỉnh Tuyên Quang đã được giải phóng (trừ thị xã Tun
Quang). Chính quyền nhân dân được thành lập ở các châu: Tự Do, Khánh
Thiện, Hồng Thái, Xuân Trường... mở ra một vùng tự do rộng lớn, trở thành
căn cứ đầu não lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước.

Cuối tháng 5-1945, lãnh tụ Hồ Chí Minh từ Cao Bằng về Tân Trào. Sau
khi nghe báo cáo tình hình, Người đã ra chỉ thị thành lập Khu giải phóng (46-1945) gồm các tỉnh: Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên
Quang, Hà Giang và một phần của các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Vĩnh Yên,
Yên Bái. Từ đây, Tân Trào trở thành trung tâm Khu giải phóng, đầu não lãnh
đạo cơng cuộc khởi nghĩa giành chính quyền trong tồn quốc.
Lo sợ trước sự phát triển của phong trào, phát xít Nhật tổ chức nhiều
cuộc tấn công nhằm tiêu diệt trung tâm đầu não cách mạng.
Ngày 25-5-1945, cánh quân Nhật từ Chợ Chu (Định Hóa) vượt đèo
Khế vào Đăng Châu tạo với cánh quân từ thị xã Tuyên Quang xuống và từ
Vĩnh Yên sang hợp thành một mũi tấn công lớn gồm khoảng 500 tên, tiến vào
Thanh La hòng uy hiếp vùng núi Hồng, Tân Trào. Sáng 26-5-1945, địch tiến
đến Làng Xảo, bị ta chặn đánh, buộc phải quay lại Đăng Châu. Ngày 27-51945, quân Nhật chia làm 2 cánh, kéo thẳng vào Thanh La. Chúng vấp phải
trận địa phục kích của Giải phóng quân tại đèo Chắn và bị thiệt hại khá nặng,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu - Đại học Thái Nguyên

25




×