Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Lễ hội truyền thống của người xtieng dưới tác động của quá trình hội nhập và phát triển

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (9.41 MB, 16 trang )

LẺ HỘI TRUYÈN THÓNG CỦA NGƯỜI XTIÊNG DƯỚI
TÁC ĐỘNG CỦA QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP VÀ PHẤT TRIÉN
Phạm Hữu Hiến

*

1. K hái q u át về người xtiêng và lễ hội truyền thổng của người Xtiêng
Người Xtiêng là một trong 54 cộng đồng dân tộc cùng sinh sống trên lănh thổ
Việt Nam, được Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cơng nhận. Cư dân
thuộc nhóm Mơn - Khmer , ngữ hệ Nam Á. Địa bàn cư trú chủ yếu ở vùng Đông
Nam Bộ và tập trung ở các tỉnh Lâm Đồng, Đồng Nai và Bình Phước. Dân số đán
nay khoảng hơn 87.000 người1, trong đó Bình Phước là địa bàn có số lượng đơng
nhất với hơn 85.580 người, Lâm Đồng là địa bàn có dân cư ít nhất với khoảng 120
người, tỉnh Đồng Nai có hom 1.344 người. Cùng với các nhóm dân tộc thiểu số khác
như người Mạ, K ’Ho, Châu Ro, Mnông, Khm er... người Xtiêng là một trong những
cư dân sinh sổng lâu đời ở vùng đất Đơng Nam Bộ. Q trình cư trú và sinh sống,
người Xtiêng đã sáng tạo ra nhiều thành tố văn hóa phục vụ nhu cầu của cuộc sống
cộng đồng. Trong đó có giá trị tiêu biểu đặc trưng như: Nghề truyền thống, phong
tục tập quán và đặc biệt là Lễ hội truyền thống. Theo số liệu điều tra nghiên cứu của
Bảo tàng tỉnh Bình Phước, Đồng Nai và Lâm Đồng, hằng năm người Xtiêng có rất
nhiều lễ hội truyền thống, phản ánh sinh động đời sống tinh thần tâm linh của cộng
đồng cư dân này. Lễ hội của họ cỏ thể chia làm ba lĩnh vực chủ yếu là: Lễ hội vòng
đời người, Lễ hội vòng đời cây trồng và Lễ hội tín ngưỡng dân gian2.
1.1. L ễ hội vòng đời người
Lễ hội vòng đời người của người Xtiêng vừa mang đặc trưng của sinh hoạt cá
nhân trong cộng đồng vừa mang tính cộng đồng, trong đó có ba lễ hội lớn và quan
trọng nhất là Lễ đặt tên con, Lễ cưới hỏi và Lễ quay đầu trâu.
Lễ đặt tên con (smó Shắc con): Đây là nghi lễ đầu tiên của đời người. Theo
phong tục của người Xtiêng, khi một đứa trẻ mới sinh được bảy ngày, người cha sẽ
tiến hành Lễ đặt tên cho con. Lễ hội diễn ra trong thời gian một ngày trên sàn nhà
* Trưởng phịng Nghiên cứu sưu tầm, Bảo tàng tỉnh Bình Phước.


1. Số liệu cùa Cục Thống kê tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Phước năm 20 ỉ 1.
2. Báo cáo khoa học dự án “Tổng điều tra di sản văn hỏa cùa người Xtiêng Bình Phước”.

378


LỄ Hộ! TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI XTIÊNG.

cùa người chủ gia đình với các nghi thức như cúng thần linh, cột chỉ cầu phúc, giao
lưu với người thân, hàng xóm. Người nhà chuẩn bị lễ vật cúng thần linh để xin đặt tên
gồm một cây nêu dựng giữa nhà, đội cồng chiêng và múa ngồi xung quanh để biểu
diền cồng chiêng, múa hát khi gia chủ tiến hành nghi lễ cúng đặt tên. Lễ hội thường
diễn ra trong một ngày và có sự tham gia cùa người thân và bà con láng giềng.
- Lễ cưới (Ka sai): Cưới hỏi vừa là phong tục lâu đời của người Xtiêng có
nhiều đặc điểm hết sức độc đáo từ lễ dạm ngõ, lễ hỏi và Lễ cưới. Mặc dù Lễ cưới
mang tính chất cá nhân nhưng do đặc điểm cư trú của người Xtiêng (hầu hết cư dân
trong sóc đều có quan hệ thân tộc) nên thường thu hút sự tham gia của cả cộng đồng
và trở thành ngày hội chung của cả cộng đồng. Khi một gia đình có tổ chức cưới hỏi
cho con, cư dân trong tồn sóc sẽ cùng góp sức cùng gia đình có tổ chức đám cưới.
Trong Lễ cưới hỏi của người Xtiêng, sau các nghi lễ cúng thần linh, ơng bà, cịn có
nghi thức ăn đầu heo hát đối đáp giữa đại diện hai gia đình diễn ra vào buổi chiều
cùng ngày. Nội dung suốt quá trình hát đối đáp chủ yếu nói về truyền thống lịch sử
cùa hai gia đình, khuyên dạy hai con dâu rể ăn ờ hiếu thảo với cha mẹ, hoặc cha mẹ
hai bên phải dạy bảo hai con dâu, rể...
Nghi lễ cưới hỏi được tiến hành long trọng, nhiều công đoạn khá phức tạp, thể
hiện tình cảm giữa các thế hệ, tình cảm cộng đồng. Lễ cưới không chi kết thúc sau
khi người con trai về ở bên nhà vợ mà còn các nghi lễ khác diễn ra sau đó như: Lễ
trả của cho nhà gái của chàng trai để đưa vợ về ở bên nhà mình, lễ đón vợ về nhà
chồng... Ngày nay, nhiều nơi trên địa bàn tình Bình Phước vẫn cịn duy trì được các
nghi thức truyền thống này, như ở xã Lộc Hòa huyện Lộc Ninh, xã Thanh Phú thị

xa Bình Long...
- Lễ hội quay đầu trâu, hay cịn gọi là tục quay đầu trâu (Teh bok)1: Là lễ hội
nhằm thắt chặt mối quan hệ tình cảm thân tộc, gia đình. Theo phong tục, thường
người con trai trong gia đình trưởng thành đi lấy vợ và phải ở xa bn sóc, gia đình,
ít có điều kiện để về với bn làng, cha mẹ, anh em. Do đó, để thắt chặt mối quan
hệ tỉnh cảm gia đình, họ tổ chức Lễ hội quay đầu trâu truyền thống để duy trì lâu dài
mối quan hệ gia đình, thân tộc. Lễ hội tổ chức giữa các anh em trong gia đình. Nếu
trong một gia đình có nhiều anh em, người tổ chức lễ hội đầu tiên là người anh cả
hoặc người anh lớn hơn. Tuy nhiên cũng có trường hợp người anh lớn hồn cảnh
kỉnh tế đang khó khăn mà người em có điều kiện kinh tế khá hom thì người em sẽ tổ
chức trước.
Căn cứ vào thời gian đã được định trước, đến ngày diễn ra lễ hội, gia đình chủ
lễ sỗ chuẩn bị mọi thứ từ cây nêu đến rượu cần, heo, trâu để làm thịt đãi khách. Lỗ
1. Hồ sơ di tích quốc gia đặc biệt “ Vườn Quốc gia Cát Tiên” .

379


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN THỬ TƯ

hội bắt đầu từ tối hôm trước ngày lễ chính với nghi lễ đón tiếp long trọng của chủ
nhà dành cho khách mời. Hai người đàn ông là nhân vật chính cùa buổi lễ sẽ ding
hai ống tre đựng đầy rượu để cùng uống chào nhau ở đầu ngõ. Sau nghi thức này
mọi người được đón vào nhà và sắp xếp chổ nghi rồi cùng nhau ăn uống nghỉ ngơi.
Sáng hôm sau, Lễ hội bắt đầu bằng nghi lễ hiến sinh - đâm trâu. Giữa một cây nêu
cao, một con trâu đã cột sẵn, đội cồng chiêng cùng vị chủ lễ đi vòng quanh vừa múa
vừa khấn mời thần linh về chứng kiến, sau đó tiến hành đâm trâu để làm thịt và chế
biển đãi khách. Toàn bộ phần thịt và các bộ phận khác sẽ được mang chế biếr. để
đãi bạn và khách mời trong sóc, riêng phần đầu trâu, đầu heo chủ nhà của lễ hội sẽ
để dành riêng cho gia đình khách mời để họ mang về nhà sử dụng.

Những vị khách là cư dân trong sóc được mời tham dự lễ hội đều mang theo
những nhạc cụ truyền thống để cùng giao lưu với nhau. Tiếng cồng chiêng, tiếng
khèn Mbuốt, tiếng đàn tre, tiếng sáo (Pi) vang lên hòa cùng với nhau tạo nên khơng
khí hết sức rộn ràng, vui vẻ. Lễ hội sẽ kết thúc sau khi thịt trâu, thịt heo đã dùng hết,
khách mời cũng đã vãn dần.
Từ một đến vài năm sau, gia đình làm khách mời tại lễ hội này sẽ phải tổ chức
lễ hội tại nhà mình và mời người anh (hoặc em) là chủ nhà của lễ hội lần trước cùng
gia đình sang nhà tham dự lễ hội. Nghi lễ tiếp đón và tổ chức lễ hội với quy mơ
tương tự lễ hội của gia đình bạn hoặc lởn hơn, không được tổ chức với quy mô nhỏ
hơn. Và cứ thế, hai gia đình sẽ thay phiên tổ chức qua lại với nhau để đáp lễ và tiếp
tục cho đến khi cuộc đời của họ kết thúc, các thế hệ con cháu khác cũng theo phong
tục đó mà tiến hành lễ hội theo mối quan hệ dòng tộc của mình. Do đó, lễ hội quay
đầu trâu sẽ ln được duy ưì trong cộng đồng.

1.2. Nghi lễ và lễ hội vịng đời cây trồng - Lê hội nơng nghiệp
Khác với nghi lễ và lễ hội vòng đời người, nghi lễ vòng đời cây trồng của
người Xtiêng nhiều hơn về số lượng, phong phú về hình thức tổ chức. Do tập cuán
sản xuất chủ yếu là trồng lúa nên lễ hội vòng đời cây trồng cũng chỉ liên quan đến
cây lúa là chủ yếu.
- Đầu tiên là nghi lễ chọn đất làm rẫy. Khi chọn được địa điểm phù hợp để làm
rẫy, người Xtiêng tiến hành nghi lễ cúng thần linh (Giàng) để xin thần linh, ông bà
phù hộ giúp đỡ cho họ được bình yên, gieo trồng được mùa sau đó mới tiến ỉành
khai hoang để canh tác. Rầy của người nào thì gia đình đó tự tổ chức cúng tại rẫy.
Mặc dù đây là lễ có quy mơ nhỏ nhưng là nghi lễ đầu tiên trong các lễ hội vịng đời
cây trồng - Lễ hội nơng nghiệp của người Xtiêng.
- Lễ cầu mưa (Hônh my): Lễ hội được tổ chức vào trước hoặc sau khi gieo hạt,
quy mô tổ chức chủ yếu là theo từng sóc. Khi thời tiết cùa năm nào đó đã đến mìa
380



LỀ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI XTIÊNG...

gieo hạt mà theo kinh nghiệm dân gian, người Xtiêng nhận biết rằng sẽ cịn lâu mới
có mưa (nhìn thấy con gà rừng cịn làm tổ và đẻ trứng ờ dưới đất), hoặc không an tâm
vì gieo hạt mà trời khơng có dấu hiệu mưa thì họ phải làm lễ cầu mưa để xin ông trời
cho mưa xuống. Vật dụng đặc trưng và không the thiếu của lễ hội là cày nêu, cồng
chiêng và các loại nhạc cụ truyền thống. Lễ vật để dâng cúng bao gồm: Máu gà, máu
heo; gan gà, gan heo; rượu cần, cơm ổng, canh bồi, canh thụt... Lễ hội do già làng
cùa sóc thực hiện nghi lễ cúng, thời gian diễn ra thường khoảng một ngày.
- Nghi lễ và lễ hội có quy mơ lớn nhất, quan trọng nhất trong nghi lễ vòng đời
cày trồng là Lễ hội lên nhà lúa (Hao trôi bva). Lễ hội thường được tổ chức với hai
mức độ khác nhau, theo từng hộ gia đình hoặc theo quy mơ cộng đồng (cả sóc cùng
tổ chức), trong đó, quy mơ tổ chức cộng đồng là quy mô truyền thống và phổ biển
hơn. Người Xtiêng trước đây thu hoạch lúa rẫy và để ở ngoài đồng (mỗi nương rẫy
thường có một căn chịi tạm dùng làm nơi ở tạm và bảo quản nông sản sau khi thu
hoạch). Sau khi thu hoạch hoàn tất, họ đưa lúa về nhà và làm Lễ hội lên nhà lúa để tạ
ơn ông trời, ông bà đã cho họ một vụ mùa bội thu. Lễ hội kéo dài từ một đến ba ngày,
có nghi thức đâm trâu, có làm cơm ống và rượu cần để cúng thần linh và đãi khách.
- Ngồi các lễ hội chủ yếu nói trên, nghi lễ và lễ hội vịng đời cây trồng cịn có
các lễ khác có quy mơ nhỏ hơn, cúng theo từng hộ gia đình. Đó là Lễ cúng tỉa lúa,
Lễ cúng lúa trổ bông, lễ cúng gặt lúa...Các nghi lễ này chủ yếu do người đàn ơng
trong các hộ gia đình thực hiện với các lễ vật đơn giản, thời gian ngắn.

1.3. Lễ hội tín ngưỡng
Tín ngưỡng dân gian của người Xtiêng là tín ngưỡng đa thần, với quan niệm
vạn vật hữu linh, họ cho rằng nhiều nơi trong tự nhiên như: Suối, đá, thác nước, cây
cổ thụ... đều có sự hiện diện của thần linh, nơi thần linh an ngự. Ngoài ra, mối quan
hệ giừa con người với trời đất và niềm tin vào một thế lực siêu nhiên luôn hiện diện
trong đời sổng tinh thần, tâm linh của mỗi người dân Xtiêng. Do đó trong tín
ngưỡng dân gian, người Xtiêng có nhiều lễ hội lớn nhỏ khác nhau để thể hiện mối

quan hệ đó cũng như thể hiện sự tơn kính đối với thế giới thần linh. Trong đó, lễ hội
là một trong những hình thức để thể hiện của người dân Xtiêng. Có ba lễ hội được
tổ chức với quy mô lớn, thu hút sự tham gia của đông đảo cư dân trong cộng đồng,
có vai trị khá quan trọng trong đời sổng tinh thần, tâm linh của họ. Đó là Lễ hội lập
làng mới, lễ hội phá bàu và Lễ cúng Bà bóng
- Lễ hội lập làng mới: Theo phong tục của người Xtiêng, khi một địa điểm Wăng, Bon của họ gặp những vấn đề đe dọa đến sự an toàn cùa cộng đồng như hỏa
hoạn, dịch bệnh, nhiều người chết... thì họ sẽ tính chuyện đi tìm nơi cư trú mới. Để
chọn địa điểm cư trú, người Xtièng tiến hành đi tìm và làm lễ chọn đất để xin thần
381


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TẾ LÀN THỨ TU'

linh, ông bà cho phép dân làng được cư trú tại đây. Sau khi chọn được địa điểm phù
hợp, họ tiến hành khai hoang lập sóc mới và di dời đến chổ ở mới. Sau ba năm cư
trú, nếu cư dân trong sóc làm ăn tốt, lúa thóc được mùa, gà heo mau lớn, cư dân
không gặp các vấn đề rủi ro như trước nữa tức là nơi đó có thể cư trú lâu dài được.
Do đó, họ sẽ tổ chức lễ ăn mừng sóc mới - gọi là Nhiệt rông xa cất. Từ sau lễ hội
này, địa điểm cư trú này mới trờ thành nơi cư trú chính thức của cộng đồng. Ngược
lại, nếu cuộc sổng của họ khơng tốt, gặp những rủi ro như trước thì họ sẽ tiếp tục
tiến hành tìm kiếm địa điểm cư trú mới với các nghi lễ tương tự cho đến khi nào tìm
được nơi cư trú ổn định thì mới thôi.
Chuẩn bị cho lễ hội, trước ngày diễn ra lễ chính khoảng một tháng, cư dân
trong sóc tiến hành chuẩn bị một sổ việc như: làm rượu cần, trang trí nhà cửa, nấu
cơm ổng, làm cây nêu... lễ hội diễn ra ở khuôn viên sân trước nhà. của người lớn
tuổi nhất trong sóc - già làng. Lễ hội có các hoạt động chính như: Đâm trâu, giát
heo cúng thần linh, giao lưu giữa các cư dân trong sóc và đại biểu khách mời từ các
sóc khác. Ngồi các Nghi thức nghi lễ cúng thần linh được tổ chức long trọng,
mang đậm đặc trưng văn hóa của người Xtiêng thì có một nghi lễ hết sức độc đáo
và ấn tượng, đó là lễ đón khách. Khi các đại biểu khách mời của các sóc khác đến

tham dự lễ hội, già làng nơi tổ chức lễ hội tổ chức nghi thức đón tiếp long trọng,
độc đáo. Đội đón tiếp xếp thành hai hàng đứng hai bên đường, một bên là đội công
chiêng, già làng cùng với một người đàn ông lớn tuổi (đứng đầu hàng) tay cầm
thuốc lá đã được vấn sẵn để mời khách là đàn ông; một bên là đội múa và một
người bưng trầu (đứng đầu hàng) mời đại biểu là nừ. Đại biểu đi vào khu vực dự lễ
sẽ được mời trầu, mời thuốc, đội cồng chiêng và đội múa sẽ biểu diễn liên tục từ
người khách đầu tiên cho đến khi vị khách cuối cùng vào sân lễ. Sau khi đại biểu đà
vào hết khu vực sân, lễ hội mới chính thức bắt đầu. Sau khi tiến hành nghi lễ củng
thần linh với nghi lễ hiến sinh được hoàn tất, heo và trâu sẽ được mọi người mang
chế biến và đãi khách. Các đội cồng chiêng, đội múa, đội kèn của các sóc sẽ cùng
nhau giao lưu, uổng rượu liên hoan. Lễ hội thường kéo dài từ một đến ba ngày.
Lễ cúng Bà bóng: Bà bóng là lễ hội tương tự hình thức hầu đồng của người
Việt. Có hai trường hợp cúng Bà bóng, một là cúng theo hộ gia đình và hai là cúng
theo cộng đồng (sóc). Đối với hộ gia đình, khi trong nhà có người ổm nặng, gia
đình sẽ mời Bà bóng về làm lễ cúng bắt ma trừ tà chữa bệnh cho người ốm vì họ
thường quan niệm người bị ốm là do ma bắt hồn. Trường hợp cúng theo quy mô
cộng đồng là khi trong sóc có những điềm xấu hoặc xẩy ra những chuyện không
may như: cư dân gặp dịch bệnh, thời tiết thay đổi bất thường hoặc sóc có nhiều
người chết cùng lúc thì già làng mời Bà bóng về cúng để trừ tà, xua đuổi ma quỷ và
gọi hồn.

382


LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI XTIỂNG.

Dù ở trường hợp nào thì lễ vật chính để cúng thường là gà, heo, các món ăn
truyền thống (cơm ống, rượu cần, canh bồi, canh thụt...). Suốt q trình diễn ra lễ
hội có những hoạt động mang đặc trưng riêng cùa lễ hội này là hát múa Bà bóng,
biểu diễn cồng chiêng rất đặc sắc.

Lễ hội kéo dài trong thời gian bảy ngày với nhiều nghi thức, nghi lễ khá phức
tạp. Hai ngày đầu tiên họ tiến hành cúng tại khu vực cư trú của sóc để mời gọi thần
linh, cúng xua đuổi tà ma, sau đó nghỉ một ngày. Lượt cúng thứ hai Bà bóng sẽ tiến
hành tại nơi mà họ cho là có ma quỷ ở để làm hại dân làng hoặc bẳt hồn người sổng,
thường là một gốc cây to, một hòn đá lớn, một bờ suối... để xua đuổi tà ma ra khỏi
bn sóc, sau đó tiếp tục nghi một ngày nữa và lần cúng cuối cùng diễn ra tại sóc
hoặc gia đình.
- Lễ hội phá bàu1: Tiếng Xtiêng gọi là Hanh T ’ranh tức là đi bàu.
Đây là lễ hội được thực hiện trước khi tiến hành khai thác thủy sản tự nhiên ở
các hồ nước. Theo đặc điểm cư trú, mỗi sóc của đồng bào thường có một bàu nước
tự nhiên và trở thành tài sản của cộng đồng do già làng đại diện quản lý. Khi chưa
được sự cho phép của dân làng thì khơng một ai được phép đánh bắt thủy sản dưới
bàu nước, nếu vi phạm sẽ bị làng phạt nặng.
Vào khoảng tháng hai dương lịch, khi nước trong bàu đã cạn, cá cũng đã đủ
lớn là lúc phù hợp để tiến hành lễ hội, khai thác thủy sản trong bàu. Già làng các sóc
dùng một thanh tre có khắc ngày tổ chức lễ hội của sóc mình và gửi đến các sóc
khác để biết họ biết thời gian tổ chức lễ hội của sóc và sắp xếp thời gian để tổ chức
lễ hội ở sóc mình cho phù hợp. Vì trong khu vực có nhiều địa điểm tổ chức lễ hội,
do đỏ để tránh trùng lặp, họ có những quy ước về gửi thơng báo, sóc nào sẽ gửi
trước và sóc nào sẽ gửi sau.
Đến ngày đi hội, già làng ngồi trên chiếc xe bị được trang trí rất đẹp, vừa đi
vừa hát bài hát mời gọi dân làng đi lễ hội. Cư dân trong sóc nghe được sẽ cùng gọi
nhau đi lễ hội, khi đi, mỗi người mang theo những vật dụng và đồ đùng cần thiết
như đồ xúc cá, đồ đựng cá và đặc biệt rượu cần và cồng chiêng là hai thứ không thể
thiếu. Tại địa điểm diễn ra lễ hội, mọi người sẽ làm công tác chuẩn bị như làm chịi
tạm, lấy củi nhóm bếp... Già làng sẽ chuẩn bị bày soạn lễ vật và tiến hành nghi thức
cúrig thần linh. Sau nghi thức cúng thần linh, già làng ra hiệu lệnh và dân làng bắt
đầu xuống bàu bắt cá. Hầu hết là phụ nữ và trẻ em, những người đàn ông ở trên bờ
giao lưu với những người bạn bè đến từ các sóc khác. Các già làng cũng sẽ ngồi
uống rượu giao lưu với các già làng đến từ các sóc khác và xem cư dân bắt cá.

1. Phạm Hĩru Hiến, “Lễ hội phá bàu cùa các dàn tộc thiểu số ở Bình Phước”, tham luận hội
thảo khoa học năm 2 0 12.

383


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN THỨ TƯ

Những con cá bắt được đầu tiên và to nhất sẽ được dâng tặng già làng, đây vừa là
nghĩa vụ, vừa là tình cảm với bề trên, người có cơng lao với dân làng và vừa là
phước của người bắt được. Khi những người dưới bàu đã bắt được cá, họ sẽ đưa lén
bờ để những người đàn ông tiến hành chế biến để dùng và giao lưu với bạn bè anh
em các sóc. Lúc này, khơng khí của hội bắt đầu rộn rã, tiếng cồng chiêng, tiếng hát,
tiếng cười nói vang cả núi rừng. Cứ thế, họ vừa bắt cá, vừa chế biến cá bắt được
dùng tại chổ, vừa uổng rượu giao lưu với nhau cho đến ngày kết thúc. Một địa điểm
có thể diễn ra từ một đến ba ngày tùy thuộc vào độ lớn của bàu nước, lượng cá
trong bàu và tình hình của cuộc vui. Kết thúc lễ hội ở địa điểm này, người dân lại
tiếp tục di chuyển đến địa điểm khác như đã định để tiếp tục lễ hội. Sau khoảng một
tháng, lễ hội mới kết thúc trong toàn khu vực, mọi người lại bẳt tay vào mùa vụ sàn
xuất mới. Tùy vào phong tục của mỗi khu vực mà họ có cách tổ chức có những
phần khác nhau, nhưng cơ bản đều tổ chức theo hình thức nói trên.
Lễ hội là dịp để các gia đình của các sóc ấp khác gặp gỡ trao đổi tình cảm, là
dịp để trai giá tìm hiểu, trao gởi tình yêu cho nhau và dịp để giao lưu vui vẻ sau
những tháng ngày lao động mệt nhọc.
Nhìn chung lễ hội truyền thống của người Xtiêng có một sổ đặc điểm cơ bản
như: những iễ hội lớn thường có tổ chức nghi thức đâm trâu. Đây là nghi lễ hiến
sinh của cộng đồng giành cho thần linh - một nghi lễ không thể thiếu trong các lễ
hội. Họ dùng sáp ong làm nến để đốt khi cúng, không dùng nhang (hương) như các
dân tộc khác. Thời gian diễn ra phần lễ thường ngắn hơn nhiều so với phần hội
thường kéo dài từ hai đến bảy ngày, hoạt động của phần hội chủ yếu là hoạt động

giao lưu múa hát, biểu diễn nhạc cụ, khơng có các trò chơi dân gian như các lễ hội
của các cư dân khác.
Lễ hội truyền thống cùa người Xtiêng không chỉ đáp ứng nhu cầu thờ cúng tơn
giáo tín ngưỡng của cộng đồng cư dân này mà còn là điều kiện để lưu truyền, bảo
tồn các loại hình di sản văn hóa khác. Đỏ là các nghề truyền thống, những phong
tục tập quán, các loại hình nghệ thuật dân gian, ẩm tbực truyền thống... Lễ hội cũng
là dịp để thể hiện những quy tắc ứng xử cộng đồng, mối quan hệ cộng đồng và là
điều kiện để xây dựng khối đoàn kết cộng đồng.
Do đặc điểm cư trú, phong tục tập qn và q trình giao thoa văn hóa giữa
người Xtiêng với các công đồng cư dân khác trong cùng khu vực, số lượng lễ hội
nói trên có sự có sự khác nhau, cách tổ chức cũng có những điểm khác nhất định.
Chẳng hạn: Trong Lễ hội lập sóc mới, một số vùng tổ chức với nghi thức đơn giản,
ngắn gọn nhưng có vùng tổ chức rất quy mơ, trang trọng; tương tự, Lễ hội phá bàu
chi có ở Bình Phước và chỉ có ở cư dân Xtiêng Bù Đek... Theo các kết quả một
thống kê khác, có đến 70% các sóc ấp trên địa bàn tỉnh Bình Phước có đầy đủ các
384


LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI XTIỂNG.

nghi lễ và lễ hội nói trên'. Trong đó, một bộ phận cịn lại ở Bình Phước, vùng Đồng
Nai và Lâm Đồng, số lễ hội lễ hội truyền thống ít hơn về số lượng (chỉ có từ ba đến
năn lễ hội tùy từng vùng. Cách tổ chức lễ hội tùy vào mỗi địa phương, họ có những
đặc điểm khác biệt nhất định. Trong các địa phương ở Đơng Nam Bộ, Bình Phước
là rơi có số lượng lễ hội phong phú hơn cả, mức độ bảo tồn và duy trì lễ hội cũng
đưcc thực hiện khá tốt so với các địa phương khác.
2.
Tác động của q trình hội nhập và phát triển đối vói lễ hội truyền
thốig của ngưòi Xtiêng
Hội nhập là một xu thế tất yếu trong quá trình phát triển hiện nay của nhân

loại Cùng với các cộng đồng cư dân khác, người Xtiêng cũng chịu những tác động
cùa quá trình hội nhập và phát triển hiện nay, tác động mạnh mẽ đến mọi mặt trong
đời sống xã hội của cộng đồng dân tộc Xtiêng. Có thể thấy tác động của q trình
hội nhập và phát triển qua các lĩnh vực chủ yếu như: sự thay đổi về cơ cấu tổ chức
sàn xuất, cơ cấu tổ chức xã hội, sự giao lưu văn hóa diễn ra mạnh mẽ với các cộng
đồnỉ cư dân khác, sự du nhập của các loại hình văn hóa - tư tường, sự du nhập của
các thành tựu khoa học kĩ thuật...
Dưới tác động của quá trình hội nhập và phát triển, lễ hội truyền thống của
ngiừi Xtiêng diễn ra theo hai hướng khác nhau: Một là tác động làm mai một và
biếi dạng lễ hội truyền thống và hai là tác động làm cho lễ hội phát triển tốt hơn.

2. ỉ. Những tác động làm mai một và biển dọng lễ hội truyền thống
Đây là tác động phổ biến nhất, diễn ra nhanh và làm cho lễ hội truyền thống
của người Xtiêng ngày càng bị mai một biến mất trong cộng đồng, ảnh hưởng đời
sổnỊ tinh thần và tâm linh cùa cộng đồng người Xtiêng. Ở hướng tác động này có
các igun nhân chính sau đây:
Từ sự thay đổi về loại hình và cơ cẩu sản xuất: Trước đây, kinh tế truyền
thốig cùa người Xtiêng là sản xuất nông nghiệp nương rẫy với cây trồng chủ đạo là
lúa, một số cư dân vùng Bù Đek ở Bình Phước có thêm loại hình sản xuất nơng
nghệp lúa nước một vụ trong năm. Cả hai loại hình có phương pháp canh tác thủ
côn', phụ thuộc chủ yếu vào tự nhiên do đó năng suất thấp, hình thức tự túc tự
cấp.. Sản phẩm làm ra chỉ để đáp ứng nhu cầu của gia đình nhưng hầu hết sản
phẩn thu hoạch được thường vẫn không đáp ứng được nhu cầu cùa người dân và
iHinđói giáp hạt thường xuyên diễn ra hằng năm. Do đó để mong có được vụ mùa
bội hu, người dân chỉ còn dựa vào niềm tin của thần linh, ông bà để cầu cầu mưa

1. Bio cáo khoa học "Dự án tổng điều tra di sàn văn hóa phi vật thể cùa người Xtiêng Bình
Plước”, năm 2010.

385



VIỀT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN THỬ TU

thuận gió hịa, cây trồng tốt tươi. Từ đó, trong q trình canh tác họ phải tiến hành
các nghi lễ, lễ hội vòng đời cây trồng đổ cầu xin thần linh, ơng bà giúp dờ cho họ có
những vụ mùa bội thu, đồng thời phải tiến hành các nghi lễ và lễ hội tạ ơn sau khi
thu hoạch. Đây chính là nguồn gốc của các loại hình lễ hội vòng đời cây trồng và
tồn tại hàng nhiều đời nay trong đời sống tinh thần cùa người Xtiêng.
Hiện nay, hình thức canh tác nương rẫy với cây trồng chính là cây lúa, đặc biệt
là nương rẫy hầu như không còn tồn tại. Thay vào đỏ là các loại cây công nghiệp
dài ngày như: Tiêu, cà phê, điều, cao su. Các loại cây trồng này mang lại nguồn thu
khá lớn cho người dân, cuộc sổng của họ ngày càng ổn định hơn. Tuy nhiên, sự thay
đổi cơ cấu kinh tế này đã làm mất đi đổi tượng để tổ chức các lễ hội liên quan đén
cây trồng chủ đạo là lúa, dẫn đến việc nhiều lễ hội bị mai một dàn trong cộng đồng,
trong đó tiêu biểu là Lễ hội cầu mưa, Lễ hội mừng lúa mới. Theo khảo sát của Bảo
tàng tỉnh Bình Phước trong dự án tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể của người
Xtiêng tiến hành năm 2010, trong 150 địa điểm dược khảo sát thì chỉ có khoảng 10
địa điểm cịn duy trì Lễ hội mừng lúa mới, nhưng hình thức và quy trình lỗ hội đã
thay đổi đáng kể, mục đích giải trí là chính1. Mức độ tổ chức cũng khơng được
thường xuyên, có nơi từ bổn đến 6 năm mới tổ chức một lần, chỉ có thơn Thiện Cư
xã thiện Hưng huyện Bù Đổp tỉnh Bình Phước là duy trì Lễ hội mừng lúa mới hằng
năm nhưng cũng chi tổ chức tượng trưng, khơng có nghi lễ hiến sinh - Đâm trâu do
khơng có kinh phí.
Thay đổi cơ cấu cư dân và tổ chức cộng đồng xã hội: Sự phát triển mạnh cùa
các thành phần cư dân đà phá vỡ các cấu trúc xã hội truyền thống. Quy mô cư trú
nhỏ và đơn tộc - chỉ một cộng đồng cư trú với khoảng vài chục hộ trong một phạm
vi nhất định, nhỏ đã khơng cịn, thay vào đó là sự phát triển và cộng cư của nhiều
cộng đồng cư dân trong một địa bàn. Sự phát triển này gây ra sự xáo trộn lớn trong
đời sổng sinh hoạt hằng ngày của người dân, làm thay đổi phần nào tâm lý, tình cảm

của người dân. Những cảm giác e ngại, những cảm giác lúng túng và cả sự tự vệ
dân tộc góp đã làm hạn chế việc duy trì và tổ chức lễ hội một cách thường xuyên.
Sự phát triển nhanh của dân cư, tổ chức xã hội cũne đã làm thay đổi và biến
mất không gian thiêng của người Xtiêng. Trước dây, trong một phạm vi nhất dịnh
chỉ có hoạt động của người Xtièng, ngồi khơng gian cư trú, canh tác, một số không
gian khác như: Suối, thác tự nhiên, rừng cây, bàu nước tự nhiên... thường là không
gian thiêng cùa cộng đồng, nơi phát sinh hoặc tổ chức nhiều lễ hội truyền thống cùa
họ. Khi các cộng đồng cư dân khác cùng đến canh tác, sinh sống, các khônc gian

1. Chu Phạm Minh Hằng (2009), “Vai trò cùa người phụ nữ Xticng trong quan hệ xã hội
(trường hợp ờ thôn Thiện Cư, xã Thiện 1lưng, tinh Bình Phước)” .

386


LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI XTIÊN G ...

thiêng của người Xtiêng đã bị xâm hại, thay đổi và biến mất dẫn đến sự mai một của
lễ hội. Trong đó, tiêu biểu nhất là Lễ hội phá bàu, Lễ cúng Bà bóng, Lễ hội lập làng
mới... Theo thống kê chưa đầy đủ, Bình Phước trước đây có gần 30 bàu nước tự
nhiên - là nơi diễn ra Lỗ hội phá bàu thì nay chỉ cịn hai bàu nước (ở huyện Chơn
Thành và Hớn Quản tỉnh Bình Phước) được chính quyền bảo vệ và khuyến khích
người dân duy trì lễ hội hàng năm, các địa điểm khác đã được các cư dân tiến hành
hoạt độne canh tác, Lễ cúng Bà hóng hiện nay cũng rất ít nơi duy trì, Lễ hội lập
làng mới khơng cịn địa điểm nào duy trì.
- Sự xâm nhập và phát triển của các loại hình tơn giáo: trong suốt thời gian từ
những năm 1990 trở lại đây, nhiều tôn giáo đă xâm nhập và phát triển mạnh vào các
địa bàn cư trú của các cộng đồng dân tộc thiểu số nói chung, người Xtiêng nói
riêng. Sự xâm nhập này có những tác động khác nhau đến sự tồn tại và phát triển
của lễ hội truyền thống. Những cư dân theo đạo Tin lành thường chỉ tin thờ vào

Chúa, do nhận thức chưa thấu đáo, toàn diện, họ sẵn sàng loại bỏ đi những phong
tục tập quán, lễ hội truyền thống mà họ cho đó là hủ tục, mê tín dẫn đến nhiều di
sàn văn hóa liên quan bị hạn chế phát triển, bị mai một, trong đó có cả lễ hội truyền
thống. Ngược lại, những người theo đạo Thiên chúa thì chi bị can thiệp vừa phải
vào đời sống tinh thần, tâm linh của người dân, nhiều nơi các Họ đạo cịn khuyến
khích người dân gìn giữ bảo tồn những giá trị di sản văn hóa của cộng đồng. Do đó,
hầu hết cộng đồng Xtiêng theo Thiên chúa giáo thì vẫn duy trì được các loại hình di
sàn văn hóa truyền thống, trong đó có lễ hội. Có những địa điểm, lễ hội truyền
thống nhờ đó mà phát triển mạnh thêm như ờ thôn 6 xã Thống Nhất huyện Bù Đăng
là một ví dụ điển hình. Tại đây, hằng năm cha xứ tổ chức nhiều cuộc thi về văn hóa
văn nghệ truyền thống của người Xtiêng như: Hát dân ca, biểu diễn nhạc cụ... Nhờ
đó, người dân nhận thức được giá trị và ý nghĩa của di sản văn hóa truyền thống,
nâng cao ý thức bảo vệ di sản văn hóa của cộng đồng mình.
- Sự phát triển của khoa học kĩ thuật đã làm thay đổi tư duy và nhận thức của
cộng đồng. Niềm tin của người dân, từ việc tin các đấng siêu nhiên khơng có cơ sở
khoa học, họ chuyển dần sang đặt niềm tin vào khoa học kĩ thuật. Sự thay đổi này
đã có nhừng tác động đến lễ hội truyền thống của người Xtiêng. Một sổ lễ hội đã
khơng cịn duy trì do tác của khoa học kĩ thuật, tiêu biểu nhất là Lễ hội cầu mưa, lễ
cũng Bà bóng, lễ hội lập làng mới...
Nhìn chung, các tác động nói trên mặc dù có những tác động làm mai một biến
dạng lỗ hội trong cộng đồng cư dân Xtiêng nhưng đó là một sự thay đổi tất yếu và
phù hợp với thời đại, với sự phát triển. Khi một sự vật hiện tượng khơng cịn phù
hợp với điều kiện xã hội thì nó phải được thay đổi và thay thế. Tác động này cũng
mang những yếu tổ tích cực là góp phần lạm cho xã hội ngày càng phát triển hơn.
387


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TẾ LÀN THỨ TƯ

Để bảo tồn những giá trị văn hóa liên quan đến lễ hội thì cần có một cơ chế bảo tồn

phù hợp, trong đó việc tạo điều kiện cho các thành tổ đó phát triển trong một mơi
trường khác phù hợp hơn là cách làm tốt nhất.

2.2. Tác động góp phần làm duy trì và phát triện lễ hội truyền thống
Ở góc độ này, tác động của hội nhập và phát triển sẽ mang lại nhiều lợi ích
cho cộng đồng cư dân, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị lễ hội truyền thống của
người Xtiêng.
- Tác động từ các chính sách bảo tồn phát huy di sản văn hóa:
Hiện nay khơng chi trong nước mà cả thế giới đang giành sự quan tâm đặc biệt
để bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa, đặc biệt là văn hóa phi vật thể.
Điều này có thể thấy rõ qua những di sản văn hóa phi vật thể của các nước, trong đỏ
có Việt Nam đã được Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa thế giới, trong đó có lễ hội truyền thống.
Ở Việt Nam, trước xu thể của thế giới, tác động của hội nhập và phát triển đã
tác động mạnh mẽ đển mọi mặt đời sống xã hội, trong đó có lễ hội truyền thống của
người Xtiêng. Tác động đó cũng địi hỏi cần phải có các chủ trương chính sách để
kịp thời bảo tồn di sản văn hóa nói chung, lễ hội truyền thống của người Xtiêng nói
riêng. Do đó, Đảng và Nhà nước ta đã có những chủ trương chính sách cụ thể để
kịp thời bảo tồn phát huy giá trị di sản văn hóa, trong đó có lễ hội truyền thống của
người Xtiêng. Trong đó đáng kể như sửa đổi luật di sản văn hóa, ban hành các nghị
định, thông tư hướng dẫn thi hành như Nghị định 98/2010/NĐ-CP về việc hướng
dẫn thi hành một số điều của luật di sản văn hóa sửa đổi, Thơng tư 04/2010/TTBVHTTDL ngày 30/6/2010 về kiểm kê di sản văn hóa phi vật thể và lập hồ sơ khoa
học di sản văn hóa phi vật thể đưa vào danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc
gia.... Từ chủ trương đỏ, căn cứ vào tình hình thực tế, mỗi địa phương đã có những
việc làm cụ thể, phù hợp và rất kịp thời. Chẳng hạn: Ở Đồng Nai và Bình Phước đã
tiến hành tổng điều tra di sản văn hóa phi vật thể1 (trong đó có di sản văn hóa của
người Xtiêng), Bình Phước tiến hành phục dựng mười lễ hội truyền thống của người
Xtiêng, nghiên cứu đề tài khoa học, lập hồ sơ nghệ nhân, lập hồ sơ di sản... Khơng
chì bằng nguồn vốn từ ngân sách, các địa phương cịn linh động vận động nhân dân
đóng góp vật chất để phục dựng lễ hội, bảo tồn đi sản văn hóa. Từ việc đó, khơng
chỉ nâng cao hiệu quả công tác bảo tồn di sản, nâng cao ý thức bảo tồn di sản trong

nhân dân. Tiêu biểu như ở Bình Phước có những địa điểm sau khi phục dựng lễ hội
đã duy trì được lễ hội hằng năm một cách đều đặn.
I . Nguyễn Thị Tuyết Hồng, "Đồng Nai với cơng tác nghiên círu - bào tồn di sein văn hỏa",
tham luận Hội thảo khoa học năm 2012.

388


LỄ HỘI TRUYỀN THỐNG CÙA NGƯỜI XTIÊNG...

Có thể nói, chính sách bảo tồn phát huy giá trị di sản vãn hóa cùa Đảng và
Nhà nước dã có những tác động rất tích cực trong v iệc bảo tồn phát huy giá trị lễ
hội. Tuy nhiên, quá trình thực hiện cần chú ý hạn chế tối thiểu việc “đạo diễn” và sự
can thiệp quá sâu vào quy trình lễ hội. Đ iều này sẽ làm cho v iệc phục dựng và duy
trì lễ hội truyền thống thiếu tính sát thực, khách quan, gây ra tác dụng ngược trong
việc thực hiện chính sách bảo tồn di sản văn hóa (thay vì bảo tồn thì có thể sẽ làm
cho mai một).

Sự phát triển của du lịch cũng góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát
huy giá trị của lễ hội truyền thống.
Ngày nay, du lịch phát triển mạnh mẽ là một điều kiện tốt để bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa, trong đó có lễ hội truyền thống của người Xtiêng. Trong số đó
có các loại hình du lịch đang phát triển như du lịch Home Stay có tác động rất tích
cực đến sự tồn tại và phát triển của lễ hội truyền thống của người Xtiêng. Điều quan
trọng là các cơ quan liên quan cần có q trình nghiên cứu đánh giá một cách sâu
sác, lựa chọn một cách chính xác và phù hợp những lễ hội có giá trị tiêu biểu, phù
hợp với điều kiện hiện nay và có tính khả thi cao để bảo tồn. Đồng thời, xây dựng
một mơi trường sóc ấp xanh sạch, đẹp và an tồn để thu hút du khách. Có thể đom
cử một số địa phương tiêu biểu có đủ điều kiện để tổ chức các loại hình du lịch này
là: Xã Thống Nhất huyện Bù Đăng, nơi cịn gìn giữ được những loại hình di sản tiêu

biểu như nghề làm rượu cần, nhà ở, lễ hội...; Xã Bình Minh, thị trấn Đức Phong
huyện Bù Đăng; Xã Thiện Hưng huyện Bù Đốp tình Bình Phước, ở xã Tà Lài huyện
Tân Phú tỉnh Đồng Nai - nơi có điều kiện để xây dựng tuyến du lịch gẳn với vườn
quốc gia Cát Tiên. Một số lễ hội điển hình có thể duy trì như: Lễ quay đầu trâu, Lễ
phá bàu, Lễ cưới hỏi... ở các địa phương nói trên.
Như vậy, có thể thấy hội nhập và phát triển khơng chỉ có tác dụng một chiều
mà có tác đụng nhiều chiều, vừa mang lại những yếu tố tích cực nhưng cùng sẽ dẫn
đén nhiều hạn chế, tác động xấu đến đời sống xã hội của người Xtiêng nói riêng mà
lễ hội truyền thống là một ví dụ điển hình.
Ở mặt tích cực: q trình hội nhập đã góp phần nâng cao trình độ dân trí, trình
độ khoa học kỹ thuật của người dân, giúp cho người dân có những hiểu biết và ứng
xử một cách khoa học hơn, loại bỏ những hủ tục, những vấn đề mê tín dị đoan
khơng phù hợp làm ảnh hưởng đời sổng vật chất và tinh thần của cộng đồng. Sự hòa
nhập của các cộng đồng cư dân đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng khối đại
đồn kết dân tộc, nhiều lễ hội truyền thống của người Xtiêng khơng chi có sự tham
RĨa của riêng cộng đồng họ mà cịn có các cộng đồng cư dân khác. Thúc đẩy kinh tế
xã hội, nâng cao đời sổng vật chất và tinh thần cho cộng đồng cư dân.
389


VIỆT NAM HỌC - KỶ YÉU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN THỨ TƯ

Ở mặt hạn chế: quá trình hội nhập và phát triển đã trực tiếp và gián tiếp làm
mai một nhiều lễ hội truyền thống có giá trị, cịn phù hợp và cần thiết cho cộng
đồng. Chẳng hạn như Lễ hội phá bàu, nghi lễ cưới hỏi, Lễ hội quay đầu trâu... dẫn
đến sự mai một của nhiều loại hình di sản khác có liên quan. Q trình hội nhập
diễn ra quá nhanh làm mất đi những giá trị di sản văn hóa tinh thần - lễ hội cùa
người Xtiêng, trong khi đó chưa có loại hình khác thay thế phù hợp một cách kịp
thời cũng sẽ gây ra những tác động xấu làm bất ổn xã hội xã hội. Chẳng hạn như
lễ hội nhưng chưa có niềm tin khác thay thế phù hợp hoặc chưa đủ lớn để ổn định

đời sổng tinh thần của người dân, sự thiếu hụt món ăn tinh thần - lễ hội cũng sẽ làm
cho cuộc sống người dân có những xáo trộn nhất định... Bên cạnh đó, q trình du
nhập cũng tạo điều kiện cho sự du nhập và phát triển một số tư tưởng quan điểm từ
bên ngồi vào khơng phù hợp với tâm lý, văn hóa của cộng đồng sẽ gây ra những
phản ứng, chống đổi làm ảnh hưởng đến đời sống tinh thần của người dân, ảnh
hưởng đến vấn đề an ninh trật tự tại địa phương.
3.
Những chính sách của Đảng và Nhà nước về bảo tần lễ hội truyền
thống của người Xtiêng thòi gian qua
Vấn đề giải quyết phù hợp giữa bảo tồn và phát triển bền vững đang đặt ra cho
chính cộng đồng người Xtiêng và các nhà quản lý. Để giải quyết vấn đề này, cần
phải có sự phối hợp giữa hai phía. Phía nhà nước, cần phải có những chính sách bảo
tồn di sản văn hóa hết sức phù hợp và kịp thời để ổn định lịng dân, gìn giừ di sản
văn hóa có giá trị tiêu biểu trước nguy cơ bị mai một. Tiếp đó cần phải đẩy mạnh
hom nữa công tác tuyên truyền để người dân hiểu rõ mục đích ý nghĩa của chính
sách đã thực hiện, như vậy mới có khả năng thực hiện hiệu quả các chủ trương
chính sách đã đề ra. về phía nhân dân, cần tin tưởng và ủng hộ các chủ trương
chính sách do Nhà nước triển khai, tham gia đóng góp ý kiến để xây dựng hồn
thiện chính sách đã ban hành và thực hiện trong cộng đông, xác nhận thức rõ trách
nhiệm và quyền lợi của mình đối với các dự án đó.
Có những tác động và thay đổi dù làm mất đi những loại hình lễ hội truyền
thống nhưng phù hợp với điều kiện phát triển của hiện tại, khơng cần phải điều
chình. Chẳng hạn như Lễ hội lập làng mới, Lễ hội mừng lúa mới, Lễ hội cầu mưa...
do không phù hợp với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và xã hội hiện nay, khơng
cịn đối tượng để duy trì lễ hội hoặc do sự thay đổi cơ cấu xã hội dẫn đến viộc
không phù hợp cho sự tồn tại của các lễ hội này. Nhưng cũng có những lễ hội có
nhiều giá trị tiêu biểu, còn phù hợp với điều kiện phát triển của thời đại thì cần phải
390



LỄ HỘI TRUYỀN THỐ NG CỦA NGƯỜI XTIÊNG.

CÓ sự can thiệp để bảo tồn phát huy. Chảng hạn như Lễ hội quay đầu trâu, lễ cưới
hòi. Lễ đặt tên con cần được duy trì để nâng cao đời sổng vật chất và tinh thần của
cộng đơng, xây dựng khối đồn kết cộng đồng. Đặc biệt, trong các lễ hội truyền
thống của người Xtiêng Bù Đek có Lễ hội phá bàu - Hanh T’ranh có tính giáo dục
cao trong việc bảo tồn và phát triển bền vừng tài nguyên thủy sản. Đó là q trình
khai thác tự nhiên trong mức độ vừa phải, đề cao ý thức tự giác cộng đồng cần được
bảo tồn một cách phù họrp và rất cần thiết. Hiện nay, nhiều bàu nước tự nhiên vẫn có
thể quy hoạch và duy trì để người dân có điều kiện tổ chức lễ hội hằng năm. Qua
điều tra xã hội học, nhiều cộng đồng cư dân đều có nguyện vọng muốn duy trì lễ hội
này. Đây là nguyện vọng hết sức chính đáng cần được quan tâm và thực hiện.
Đứng trước nhu cầu của sự phát triển xã hội trong thời đại mới, nhận thức
được vai trị vị trí của lễ hội truyền thống của người Xtiêng trong quá trình xây
dựng và phát triển đất nước, Chính phủ, Bộ Văn hóa thể thao và du lịch cũng đã có
những chủ trương, chính sách chỉ đạo các cấp các ngành tiến hành cơng tác bảo tồn
đi sản văn hóa phi vật thể của các cộng đồng dân tộc sinh sống trên lãnh thổ Việt
Nam.,Hệ thống pháp luật như: Luật, Nghị định, Thông tư đã ban hành để các cấp
các ngành từ Trung ương đển địa phương thực hiện các công tác bảo tồn phát huy
giá trị di sản, trong đó có lễ hội.
Cụ thể hóa những chi đạo đó, thời gian qua, chính quyền địa phương đã có
ahững kế hoạch và chương trình cụ thể, trong đó có các dự án tổng điều tra di sản
văn hóa, xây dựng hồ sợ di sản, phục dựng lễ hội truyền... Tại tinh Đồng Nai, hoạt
động điều tra di sản văn hóa liên quan đến người Xtiêng đã được tiến hành hoàn
thiện, các cơng trình nghiên cứu về di sản văn hóa truyền thống của người Xtiêng đã
thực hiện phục vụ tốt công tác tham mưu xây dựng chính sách phát triển kinh tế,
v ăn hóa xã hội và nghiên cứu học tập của nhân dân, trong đó đáng kể nhất là đã
h oàn thiện bộ dừ liệu về người Xtiêng đã được số hóa và lưu trữ tại Khu bảo tồn
thiên nhiên và Di tích vĩnh cửu. Đây thực sự là kho tư liệu quý về cộng đồng cư dân
Xtiêng Việt Nam, trong đó có lễ hội truyền thống. Ngồi ra nhiều cơng trình cơng

c'ơng phục vụ hoạt động văn hóa cộng đồng của người Xtiêng đã được xây dựng tại
c ác sóc ấp. Tại Bình Phước, trong thời gian từ năm 2008 đến nay cũng đã có nhiều
d ự án liên quan đến di sản văn hóa phi vật thể của người Xtiêng được triển khai
b.ằng nguồn vốn cùa Trung ương, của địa phương và vốn xã hội hóa. Trong đó có
một dự án tơng điều tra di sản văn hóa, một dự án nghiên cứu ứng xử với môi
trường tự nhiên và mười dự án phục dựng lễ hội truyền thống. Trong các lễ hội
đíược phục dựng, nhiều lễ hội duy trì được thường xun, cho thấy chính sách của
Dảng và nhà nước phù hợp với thực tiễn, phù hợp với loại hình lựa chọn thực hiện.
391


VIỆT NAM HỌC - KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TÉ LÀN THỪ T ư

Kết quả của các dự án đã có những tác động tích cực đến cơng tác bảo tồn và phát
huy giá trị di sản văn hóa của cộng đồng cư dân này.
Hệ thống nhà văn hóa cộng đồng cũng đã được các địa phương xây đựng hoàn
chỉnh tạo điều kiện để người dân có địa điểm phù hợp tổ chức các hoạt động cùa
cộng đồng. Hằng năm, chính quyền địa phương cịn tổ chức ngày hội đại đồn kết,
liên hoan văn hóa các dân tộc... Đây vừa là để nâng cao đời sống tinh thần của
người dân, vừa góp phần thay thế những lỗ hổng niềm tin và đời sổng tinh thần do
sự mai một của lễ hội truyền thống để lại, vừa tạo niềm tin của người Xtiêng vào sự
lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
Những việc làm nói trên mang lại nhiều kết quả tích cực, tác động mạnh mẽ
đến công tác bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung, lễ hội truyền
thống của người Xtiêng nói riêng. Điều quan trọng là cần có sự phổi hợp chặt chẽ
giữa các cơ quan ban ngành liên quan và nâng cao ý thức của người dân trong việc
bảo tồn di sản lễ hội truyền thống của người Xtiêng.
Có thể nói, lễ hội truyền thống là một trong những di sản văn hóa phi vật thể
chứa đựng nhiều giá trị tiêu biểu, đặc trưng. Cùng với quá trình hội nhập và phát
triển, lễ hội truyền thống của người Xtiêng đã chịu nhiều tác động mạnh mẽ và

nhiều chiều. Việc mai một, mất đi một số lễ hội truyền thống không phù hợp là một
điều tất yếu trong quá trình phát triển của xã hội. Tuy nhiên, đối với những lễ hội
cịn mang tính tích cực, phù hợp, cịn cần thiết cho cộng đồng thì cần phải có những
điều chinh, can thiệp của các cơ quan chức năng để gìn giữ di sản. Những chính
sách của Đảng và Nhà nước nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản lễ hội của người
Xtiêng trong thời gian qua là khá phù hợp, giải quyết được cơ bản mâu thuẫn giữa
bảo tồn và phát triển. Đó là việc lựa chọn các lễ hội phù hợp để bảo tồn, không bảo
tồn tràn lan, đại trà, bảo tồn đúng thời điểm, đúng địa điểm... Việc tiến hành bảo
tồn phát huy giá trị của lễ hội cũng đã tuân thủ được những nguyên tắc cùa công tác
bảo tồn di sản văn hóa, tơn trọng giá trị ngun gổc nhưng cũng đã có những điều
chinh các yếu tố khơng phù hợp.
Tài liệu tham khảo
1. Bảo tàng Bình Phước, 2008, “ Báo cáo khoa học Dự án phục dựng lỗ hội lên nhà lúa -

Hao troi Bva”.
2. Bào tàng Bình Phước, 2009, “ Báo cáo khoa học Dự án phục dựng Lễ cầu mưa của người

Xtiêng”.
3. Bảo tàng Bình Phước, 2010, “Tổng điều tra di sàn văn hóa của người Xtiêng Bình Phước”.
392


LỀ HỘI TRUYỀN THỐNG CỦA NGƯỜI XTIỂNG.

4. Bảo tàng D ồng Nai, 2009, dữ liệu Data về văn hóa xã hội Đông Nam Bộ ở Trung tâm
bảo tồn thiên nhiên, Di tích vĩnh cừu - Đồng Nai.
5. Chu Phạm Minh Hằng, 2011, “ Vai trò cùa người phụ nữ Xtiêng trong quan hệ xã hội
(trường hợp ở thôn Thiện Cư, xã Thiện Hưng, tỉnh Bình Phước)”
6. Hồ sơ di tích xin xếp hạng quốc gia đặc biệt “Vườn quốc gia Cát Tiên”, năm 2012.
7. Niên giám thống kê các tỉnh Đồng Nai, Lâm Đồng và Bình Phước năm 2009.


393



×