Tải bản đầy đủ (.pdf) (88 trang)

Thực trạng và một số yếu tố ảnh hưởng đến công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân tộc dao huyện văn yên tỉnh yên bái

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (868.11 KB, 88 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Chăm sóc sức khoẻ ban đầu là biện pháp để đạt được "sức khoẻ cho mọi
người đến năm 2000" mà hội nghị quốc tế Alma Ata năm 1978 đã nêu ra [18].
Từ khi ra đời cho đến nay chăm sóc sức khoẻ ban đầu đã đóng góp to lớn cho
nhân loại trong sự nghiệp chăm sóc sức khoẻ nhân dân, mà không một loại
thuốc hay phương pháp nào so sánh được. Chăm sóc sức khoẻ ban đầu đã trở
thành một động lực chính góp phần cải thiện sức khoẻ nhân loại trong những
thập niên qua.
Ở Việt Nam, chăm sóc sức khoẻ ban đầu xem như là một vấn đề quốc
sách, nhằm đảm bảo chăm sóc sức khoẻ cho mọi người dân cũng như sự phát
triển của đất nước. Trong các nhân tố nhằm duy trì và đảm bảo sự nghiệp
chăm sóc sức khoẻ nhân dân, ngành y tế được coi là nhân tố nịng cốt, đó là
phát triển mạng lưới y tế cơ sở là một trong những nhân tố quyết định sự
thành cơng chăm sóc sức khoẻ ban đầu ở Việt Nam [1], [2], [16].
Khu vực miền núi phía Bắc và vùng Tây Bắc là nơi tập trung sinh sống
của đồng bào các dân tộc thiểu số trong đó có người dân tộc Dao. Văn hố
Dao gắn liền với văn hoá vùng núi Tây Bắc cũng như người Kinh ở đồng
bằng [3], [21], [40]. Ngày nay, dưới sự quan tâm của các cấp Đảng, Chính
quyền địa phương, nhiều nét văn hóa có lợi cho sức khoẻ của người Dao được
bảo tồn và phát huy, góp phần khơng nhỏ vào cơng tác chăm sóc sức khoẻ
ban đầu tại cộng đồng. Tuy nhiên, chúng ta vẫn cần tích cực giáo dục sức
khỏe cho cộng đồng để dần xoá bỏ những phong tục, tập quán có hại cho sức
khoẻ, đồng thời thường xun truyền thơng, khuyến khích, động viên nhân
dân để tiếp tục duy trì những phong tục, tập quán có lợi cho sức khoẻ cộng
đồng người dân tộc Dao nói chung và người dân tộc Dao ở huyện Văn Yên
tỉnh Yên Bái nói riêng.


2
Huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái là một huyện miền núi, kinh tế văn hố xã


hội cịn khó khăn, cơng tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu đã và đang được thực
hiện song hiệu quả của công tác này đối với sức khoẻ ban đầu cho nhân dân
các dân tộc Yên bái nói chung của người dân tộc Dao nói riêng cịn thấp [57].
Vậy thực trạng cơng tác chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho người Dao ở huyện
Văn Yên như thế nào? Có những yếu tố nào ảnh hưởng đến cơng tác chăm
sóc sức khoẻ ban đầu đối với dân tộc Dao tại địa phương?
Nghiên cứu xác định được vấn đề trên, sẽ góp phần nâng cao hiệu quả
chương trình chăm sóc sức khoẻ cộng đồng các dân tộc địa phương, trong đó
có dân tộc Dao đang sinh sống. Chúng tôi tiến hành đề tài "Thực trạng và một
số yếu tố ảnh hưởng đến cơng tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân
tộc Dao huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái."
Mục tiêu nghiên cứu:
1) Đánh giá thực trạng cơng tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho
ngƣời Dao huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái
2) Mô tả một số yếu tố ảnh hƣởng đến cơng tác chăm sóc sức khoẻ
ban đầu cho ngƣời Dao tại huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.
3) Đề xuất một số giải pháp cải thiện tình hình thực hiện chăm sóc
sức khoẻ ban đầu cho ngƣời Dao ở huyện Văn Yên tỉnh Yên Bái.


3

Chƣơng 1
TỔNG QUAN
1.1. Thực trạng cơng tác chăm sóc sức khỏe ban đầu hiện nay
1.1.1. Tuyên ngôn Alma Ata và khái niệm chăm sóc sức khoẻ ban đầu
Năm 1978, Tổ chức y tế thế giới (WHO) nhận thấy rằng để thực hiện
được vấn đề sức khoẻ cho mọi người là một cơng việc khó khăn. Bởi ở các
nước trên thế giới, những người giàu, sẽ được hưởng đầy đủ các thành qủa
mới của y học. Cịn những người nghèo thì khơng được hưởng hay chỉ được

hưởng rất ít, nhất là những vùng nông thôn, các vùng ngoại ô nghèo quanh
các đô thị, đặc biệt ở các nước đang phát triển. Trên thế giới, có khoảng 550
triệu người sống trong điều kiện đói nghèo, thiếu ăn, bệnh tật và tuyệt vọng.
Thu nhập bình qn của họ q thấp, khơng đảm bảo dinh dưỡng tối thiểu. Họ
khơng có được những chăm sóc sức khoẻ (CSSK) thiết yếu. Chỉ có 40% dân
số có tuổi thọ trung bình trên 60 tuổi, 45% dân số trên thế giới có tỷ lệ tử
vong trẻ em là 50%O, trong đó có 44 nước có tỷ lệ tử vong trẻ em là 100%O
[63]. Trước tình hình thực tế đó, một Hội nghị quốc tế đã họp từ ngày 12 đến
20 tháng 9 năm 1978 tại thủ đô Karaxtan, Hội nghị đã khẳng định và ra tuyên
bố chăm sóc sức khoẻ ban đầu (CSSKBĐ) là chìa khố để đạt được sức khoẻ
cho mọi người. Nghị quyết của hội nghị được gọi là Tuyên ngôn AlmaAta
biểu hiện một ý tưởng tồn cầu, một cách nhìn mới - làm thế nào để đạt được
sức khoẻ cho mọi người [18], [22]. Tuyên ngôn Alma Ata gồm 10 nội dung
cơ bản. Trong nội dung thứ 6 nêu khái niệm về CSSKBĐ, đó là "những chăm
sóc thiết yếu, được xây dựng trên các phương pháp và kỹ thuật thực hành, có
cơ sở khoa học và chấp nhận được về mặt xã hội, có thể phổ biến rộng rãi
cho tất cả các cá nhân và gia đình trong cộng đồng thơng qua sự tham gia
của chính họ và ở một giá thành mà cộng đồng và đất nước có thể trả được
và duy trì ở bất cứ giai đoạn phát triển nào trên tinh thần tự lực tự cường".
CSKBĐ tạo nên một phần lồng ghép của hệ thống y tế đất nước, đó là chức
năng trọng tâm, là sự tập trung chính yếu của sự phát triển tổng thể kinh tế và


4

xã hội của cộng đồng. Đó là tuyến đầu tiên tiếp xúc của hệ thống y tế quốc gia
với cá nhân, gia đình và cồng đồng đem lại dịch vụ y tế gần nhất đến những
nơi con người sống, làm việc và coi như nhân tố đầu tiên của quá trình CSSK
liên tục. Nội dung thứ 7 của tun ngơn AlmAta đưa ra 8 nội dung về
CSSKBĐ bao gồm: "Giáo dục liên quan đến vấn đề sức khoẻ; khuyến khích

cung cấp thực phẩm và dinh dưỡng tốt; cung cấp nước sạch và vệ sinh cơ
bản; CSSK bà mẹ - trẻ em và KHHGĐ; gây miễn dịch chống lại bệnh nhiễm
trùng (TCMR). Phòng chống các bệnh dịch thường; Điều trị hợp lý bệnh tật
và thương tổn thông thường; Cung cấp thuốc thiết yếu)" [22]. Sau hội nghị
quốc tế về CSSKBĐ ở Alma Ata, nhiều nước đã triển khai các chương trình y
tế quốc gia để thực hiện các nội dung CSSKBĐ cho phù hợp với điều kiện
của mỗi nước. CSSKBĐ đã trở thành một động lực chính góp phần cải thiện
sức khoẻ thế giới những năm qua.
1.1.2 Tuyên ngôn Jakarta về chăm sóc sức khỏe ban đầu.
10 năm sau tun ngơn Alma Ata, hội nghị quốc tế lần thứ nhất về nâng
cao sức khoẻ đã được tổ chức ở OTTAWA - Canada. Hội nghị đó đã đưa ra
hiến chương OTTAWA về nâng cao sức khoẻ như là một nguồn hướng dẫn
và khích lệ cho việc nâng cao sức khoẻ từ thời gian đó. Nhưng hội nghị quốc
tế và những cuộc họp tiếp sau đó đã làm sáng tỏ thêm tính thích hợp và ý
nghĩa của chiến lược then chốt về nâng cao sức khoẻ. Hội nghị quốc tề lần thứ
4 về nâng cao sức khoẻ ở Jakarta "Những vai trò mới trong một kỷ nguyên
mới, đưa nâng cao sức khoẻ vào thế kỷ 21" [8] tới đúng vào một thời điểm
trong sự phát triển chiến lược quốc tế về sức khoẻ. Đây là hội nghị đầu tiên
được tổ chức tại một nước đang phát triển, và là hội nghị đầu tiên lôi cuốn cả
lĩnh vực tư nhân việc hỗ trợ nâng cao sức khoẻ. Nó là một dịp để phản ánh lại
những gì đã hiểu biết được về nâng cao sức khoẻ một cách có hiệu quả, để
xác định phương hướng và chiến lược cần có để đáp ứng với những thử thách
của việc nâng cao sức khoẻ (NCSK) trong thế kỷ 21. Nội dung của Tuyên
ngôn Jakarta đã chỉ ra: Nâng cao sức khoẻ là một đầu tư có giá trị. Sức khoẻ
là một quyền con người cơ bản và rất quan trọng đối với sự phát triển xã hội


5

và kinh tế. Người ta ngày càng nhận rõ rằng nâng cao sức khoẻ là một yếu tố

chủ yếu của việc phát triển sức khoẻ. Đây là một quá trình giúp cho nhân dân
có thể tăng cường sự kiểm sốt và cải thiện sức khoẻ của họ thông qua những
cách đầu tư và những hoạt động nâng cao sức khoẻ tác động nên các yếu tố
quyết định sức khoẻ để tạo ra lợi ích to lớn nhất về sức khoẻ cho nhân dân. Để
góp phần đáng kể vào việc giảm bớt những bất công về sức khoẻ, để đảm bảo
các quyền con người và để xây dựng nguồn vốn xã hội. Mục đích cuối cùng
của nó là tăng thêm triển vọng về sức khoẻ và thu hẹp khoảng cách về triển
vọng sức khoẻ giữa các nước và các nhóm người. Các chiến lược về nâng cao
sức khoẻ có thể xây dựng và làm thay đổi các lối sống, các điều kiện xã hội,
kinh tế và mơi trường có tác dụng quyết định đến sức khoẻ. Nâng cao sức
khoẻ là một cách tiếp cận thực tiễn để đạt tới công bằng hơn về sức khoẻ.
Nắm được chiến lược của hiến chương Ottawa là hết sức cơ bản cho sự thành
công: Xây dựng chính sách cơng cộng lành mạnh; Tạo ra các môi trường hỗ
trợ; Tăng cường hoạt động của cộng đồng phát triển kỹ năng cá nhân, định
hướng lại các dịch vụ y tế. Ngồi ra cần có ưu tiên về nghiên cứu sức khỏe
trong thế kỷ 21. Nâng cao trách nhiệm của xã hội đối với sức khoẻ; Tăng
thêm đầu tư cho phát triển sức khoẻ, củng cố và mở rộng các đối tác sức
khoẻ; Nâng cao năng lực cộng đồng và tăng thêm quyền lực cho cá nhân. Bảo
đảm một cơ sở hạ tầng cho nâng cao sức khoẻ [8].
1.1.3. Một số nét về công tác CSSKBĐ ở trên thế giới và Việt Nam
1.1.3.1. Thế giới
*Về mặt thành công: Lời kêu gọi sức khoẻ cho mọi người và khái niệm
về CSSKBĐ đạt được sự chấp nhận rộng rãi trong cả chính quyền, lẫn tổ chức
phi chính quyền và quốc tế. Tình trạng sức khoẻ của người dân đã được cải
thiện biểu hiện qua tỷ lệ tử vong thấp hơn trong tất cả các nước. Những thành
công đáng kể đạt được, đặc biệt là khi người ta nhận thức rằng cần nhiều thời
gian để những khái niệm mới được đồng hoá và để cho những thay đổi được
lồng ghép vào hệ thống y tế Nhà nước. Về mặt dịch tễ các bệnh của trẻ như
bại liệt, sởi, uốn ván và ho gà đã giảm do việc mở rộng nhanh chóng phạm vi



6

của chương trình tiêm chủng mở rộng. Điều này góp phần làm giảm được
mục tiêu tồn cầu thanh tốn và kiểm soát các bệnh chọn lọc. Ở các nước phát
triển, các bệnh tim mạch ở nam giới giảm một phần nhờ vào việc giảm hút
thuốc lá. Nhiều nước phát triển kinh tế rất nhanh, từ tình trạng đang phát triển
đến các nước công nghiệp mới. Sự phát triển kinh tế đi kèm với cải thiện
chung về điều kiện xã hội. Kinh nghiệm đạt được trong khi thực hiện
CSSKBĐ sẽ có ích cho từng quốc gia và cộng đồng thì giới hạn trong việc
thiết kế các chiến lược trong tương lai để đối phó với vấn đề y tế. Các yếu tố
đã dần đến việc cải thiện nhanh chóng tình trạng y tế ở một số quốc gia đã chỉ
ra các chiến lược nên được tiếp tục tập trung vào việc phổ biến các kinh
nghiệm thực hành. Để khắc phục các vấn đề gặp phải trong khi thực hiện
CSSKBĐ có lẽ động lực mạnh mẽ nhất mà cộng đồng thế giới kỳ vọng đó là
sự tiến bộ. Trên cơ sở các kinh nghiệm thực hành này, các nước, tổ chức y tế
thế giới và các tổ chức quốc tế khác đã chuẩn bị các nghiên cứu trường hợp,
các phương pháp luận và tài liệu hướng dẫn [63].
*Những thất bại: Về mặt tiêu cực, các đối tác khác nhau có liên quan
đến việc thực hiện chăm sóc y tế ban đầu như chính quyền, các nhân viên y tế,
các cơ quan tài trợ cho thấy sự yếu kém triền miên trong việc phối hợp các
hoạt động và các tài nguyên. Người ta chú ý rất ít về các vấn đề quản lý quan
trọng như thiết lập ưu tiên, bảo hiểm chất lượng và nghiên cứu thực tiễn. Sự
suy thoái về kinh tế toàn cầu sau hội nghị Alma Ata đã làm mất ổn định kinh
tế của nhiều nước, nhất là những nước nghèo, làm giảm lượng lớn nguồn tài
nguyên dành cho y tế và suy sụp các dịch vụ y tế. Cuối cùng là vai trò của các
đối tác khác nhau, dòng tài chính từ phía bắc để ủng hộ cho CSSKBĐ ở các
nước nghèo đã ở một mức thấp hơn nhiều so với mức đã được kỳ vọng ở
Alma Ata. Ở các nước đang phát triển tỉ suất bệnh tim mạch và một số bệnh
dịch không nhiễm trùng khác cũng tăng dần lên, thay thế các bệnh nhiễm

trùng và truyền nhiễm. Các bệnh nhiệt đới và AIDS đã lây truyền rộng rãi.
Lần đầu tiên trong thế kỷ này dịch tả xuất hiện ở châu Mỹ. Tình hình sốt rét
tiếp tục trầm trọng, sốt vàng, sốt xuất huyết, sán máng...hiện ảnh hưởng đến


7

nhiều người và nhiều vùng địa dư. Tỉ suất mắc bệnh mới của AIDS đang tăng
nhanh trong khi đó lao cũng tăng, một phần do nhiễm trùng kết hợp với HIV.
Tiểu đường đang tăng ở khắp nơi. Ung thư phổi ở nữ cũng tăng nhanh. Các
bệnh liên quan đến rượu, bệnh tâm thần và nghiện ma tuý tạo nên mối lo lắng.
Các tỷ suất chết bà mẹ cao tiếp tục được báo cáo từ các nước đang phát triển. Trong
khi một số quốc gia có những thành cơng ngoạn mục trong việc giảm số
người tử vong thì mức độ bệnh hoặc là duy trì ở mức độ cao thậm chí còn
tăng lên. Nhiều lý do được đề xuất để giải thích hiện tượng này kể cả hoạt
động của dân số già đi [63].
1.1.3.2. Tình hình thực hiện CSSKBĐ ở Việt Nam
Ở Việt Nam sau khi có tun ngơn AlmaAta, nước ta đã chấp nhận 8 nội
dung CSSKBĐ và bổ sung thêm 2 điểm đó là "Quản lý sức khoẻ" và "củng cố
mạng lưới y tế cơ sở" [18], [37]. Công tác CSSKBĐ đã được triển khai thực
hiện trong toàn quốc. Trong q trình thực hiện đã gặp khơng ít khó khăn vì
chưa có kinh nghiệm tổ chức, đời sống kinh tế xã hội chưa ổn định ....Tuy
nhiên nó đã có những đóng góp tích cực trong việc CSSK cho nhân dân ..Các
cơng trình nghiên cứu về CSSKBĐ ở nước ta đều có chung một số nhận xét
như sau:
*Về tình hình kinh tế - văn hoá: Trước hết về kinh tế: Mặc dù đã có
nhiều đổi mới trong lĩnh vực kinh tế, ở những thành phố lớn, các khu đô thị
đời sống kinh tế đã có nhiều cải thiện, thì ngược lại ở nơng thơn tình hình
kinh tế vẫn cịn rất khó khăn, do vậy Việt Nam vẫn là một trong những nước
nghèo của khu vực cũng như trên thế giới [9], [10]. Theo kết quả điều tra

Quốc gia ở 7 vùng sinh thái cho thấy: Tỷ lệ hộ nghèo đói chung chiếm 27,2%,
trong đó hộ nghèo 24%, hộ đói 3,2%. Nơi có tỷ lệ hộ nghèo đói cao nhất là
miền núi phía Bắc (32%). Nơi có hộ đói cao nhất là đồng bằng sơng Cửu
Long (6%). Thu nhập bình qn đầu người/năm là 1.754. 920 đồng. 20% số
hộ có thu nhập bình quân đầu người/năm thấp nhất đạt 264.328 và 20% số hộ
có thu nhập bình qn đầu người/năm cao nhất đạt mức 5.086.410 đồng.
Khoảng cách chênh lệch giữa 2 nhóm hộ gia đình này khá lớn lên tới trên 19


8

lần, sự cách biệt lớn sẽ càng làm cho người nghèo gặp khó khăn trong chữa
bệnh, do chi phí khám chữa bệnh tăng đồng biến với mức tăng thu nhập bình quân
của người dân. Trình độ học vấn của cộng đồng sẽ có nhiều ảnh hưởng đến
nhận thức và hành vi chăm sóc sức khoẻ cho họ. Tỷ lệ mù chữ, biết đọc, biết
viết nói chung khá cao chiếm 31,6%. Nơi có tỷ lệ này cao nhất là vùng đồng
bằng sơng Cửu Long (49,9%), trong đó 13,9% mù chữ, 30,0% biết đọc, biết
viết. Cộng đồng có trình độ học vấn cao hơn cả là khu vực đồng bằng sông
Hồng (68,4%), chủ yếu có trình độ trung học cơ sở trở lên. Các cộng đồng
dân cư vùng Đông Nam Bộ, miền núi phía Bắc, Tây Ngun có tỷ lệ học vấn
thấp khá cao, với tỷ lệ mù chữ, không biết đọc biết viết tương ứng là: 32,9%,
29,8%, 29,2% [7]. Trình độ học vấn của người mẹ liên quan rất chặt chẽ đến
tỷ xuất chết của trẻ em < 5 tuổi. Trong báo cáo CSSKBĐ của Bộ y tế có đưa ra
kết quả và nhận xét như sau: Mẹ mù chữ, tỷ xuất chết trẻ em là 71,6%o. Mẹ biết
đọc biết viết, tỷ xuất chết trẻ em là 52,84%o. Mẹ trình độ học vấn tiểu học thì
tỷ xuất chết trẻ em là 44,93%o.. Có trình độ học vấn trung học cơ sở trở lên
thì tỷ xuất chết trẻ em càng thấp, điều này có liên quan chặt chẽ đến CSSKBĐ
[11].
*Về sử dụng nguồn nước. Nước phục vụ cho ăn uống sinh hoạt của con
người là nhu cầu không thể thiếu được. Đồng thời nước cũng là mọi hướng

trung gian truyền bệnh cho người đặc biệt là bệnh đường tiêu hố. Nhìn chung
tỷ lệ hộ gia đình sử dụng nguồn nước sạch ở mức thấp. Tỷ lệ hộ gia đình dùng
nước được coi là sạch gồm giếng khoan, nước máy thấp (6,8%) và 6,6%. Hơn
một nửa (53,2%) số hộ gia đình theo dõi sử dụng nước giếng đào. Ở vùng
Duyên hải miền Trung hầu hết (99,5%) số hộ dùng nước này cho ăn uống. Đa
số (66,0%) các hộ gia đình ở đồng bằng sông Cửu Long dùng nguồn nước từ
sông suối ao, tỷ lệ chung ở 7 vùng dùng nguồn nước này là 15,5%. Nước từ
các nguồn trên đều là nước ngầm nông bị ô nhiễm bởi các chất hữu cơ và vi
sinh vật, có nhiều nguy cơ phát triển các bệnh dịch đường tiêu hoá khi sử
dụng nguồn nước này. Do vậy vấn đề nguồn nước dùng cho ăn uống rất đáng


9

được quan tâm giải quyết ở các địa phương. Đặc biệt là vùng đồng bằng sơng
Cửu Long [7].
*Tình hình sử dụng hố xí Vấn đề này cịn rất yếu kém. Hoạt động vệ sinh
mọi hướng còn chưa được chú ý ở các vùng nông thôn nước ta. Nguy cơ môi
trường bị ô nhiễm phân khá cao. Vệ sinh môi trường (VSMT) là một nội dung
rất quan trọng của CSSKBĐ, tuy nhiên vẫn luôn luôn là một vấn đề sức khỏe
ở cộng đồng hiện nay [35], [43]. Số hộ gia đình có hố xí xem là tạm hợp vệ
sinh gồm hố xí dội nước và 2 ngăn chiếm 1 tỷ lệ rất thấp (5,3% và 9,6%). Nơi
có tỷ lệ loại hố xí này cao nhất ở đồng bằng sơng Hồng (36,9% và 48%), thấp
nhất ở đồng bằng sông Cửu Long (7,0% và 2,4%). Loại hố xí thùng, một ngăn
rất phổ biến ở các vùng với tỷ lệ chung 40,6%, cao nhất ở vùng Bắc Trung Bộ
(68,3%) và thấp nhất ở duyên hải miền Trung (13,0%). Ở vùng đồng bằng
sông Cửu Long loại hố xí thường gặp là cầu ao cá chiếm tỷ lệ 46,4%. Có tới
1/5 tổng số hộ gia đình (19,2%) khơng có hố xí tỷ lệ này, cao nhất ở đồng
bằng sông Cửu Long (42,9%) thấp nhất ở vùng Nam Bộ (2,8%). Tình hình vệ
sinh mơi trường, thực trạng sử dụng hố xí và tỷ lệ có các nguồn nước sạch

cho phép chúng ta nhận định về mơ hình bệnh tật và nhu cầu CSSK của cộng
đồng [7].
*Tình hình bệnh tật. Mơ hình bệnh tật ở nước ta vẫn là mơ hình của
những nước nghèo chủ yếu là bệnh nhiễm khuẩn và suy dinh dưỡng. Nổi bật
là sốt rét, nhiễm khuẩn hô hấp cấp (NKHHC) và ỉa chảy. Vùng núi tỷ lệ mắc
và chết cao do 3 bệnh sốt rét, viêm phổi, ỉa chảy thêm vào là bệnh bướu cổ
với hậu quả và là tỷ lệ đần độn cao [11], [17]. Thực trạng này cùng phù hợp
với tình hình chung của cả nước. Căn nguyên của những vấn đề này là do đời
sống nghèo, sự phát triển kinh tế văn hố thấp, vệ sinh mơi trường thấp kém,
ngồi ra cịn do tập qn vệ sinh lạc hậu...
*Tình hình sử dụng các dịch vụ y tế: Kể từ khi các chương trình
CSSKBĐ được triển khai đến nay, việc sử dụng các dịch vụ y tế rất phong
phú. Có rất nhiều loại hình để phục vụ nhu cầu cuộc sống sức khoẻ. Người
dân có thể tự do lựa chọn sao cho phù hợp với điều kiện của mình và có hiệu


10

quả nhất [4], [20]. Theo Đơn vị chính sách - Bộ y tế, nghiên cứu ở 7 vùng
sinh thái (1999) thấy tỷ lệ hộ gia đình có sử dụng dịch vụ y tế ở xã trung bình/
tháng là 23,5%. Chỉ số sử dụng cịn ở mức thấp và trung bình tuỳ theo từng
vùng (dao động từ 9,0% đến 41%). Mua thuốc về tự chữa là cách sử trí đứng
hàng đầu của các hộ gia đình khi có người ốm đau (45,2% - 46,6%); Khám
chữa bệnh ở y tế tư nhân là cách lựa chọn đứng hàng tiếp theo (17,6% 18,9%) và khám chữa bệnh tại trạm y tế là sự lưạ chọn đứng hàng thứ 3
(14,2% - 12,9%). Lý do chính khiến người dân lựa chọn khám chữa bệnh tại
trạm y tế xã là gần nhà (27,2%), chuyên môn tốt (25,1%) và quen biết
(21,1%). Đối với y tế tư nhân lý do chính là quen biết (26,8%), chun mơn
tốt (24,2%), gần nhà (18,3%). Cịn đối với bệnh viện có 2 lý do chủ yếu là
chuyên môn tốt (43,3%) và bệnh nặng (20,6%) [7].
*Chăm sóc sức khoẻ bà mẹ trẻ em. Trong những năm gần đây cơng tác

chăm sóc sức khoẻ cho bà mẹ và trẻ em đã thực hiện tương đối tốt. Đặc biệt
chương trình tiêm chủng mở rộng đã thu được kết quả rất tốt trong việc phòng
6 bệnh truyền nhiễm ở trẻ em. Làm giảm tỷ lệ tử vong do 6 bệnh hay gặp và
hạn chế được những di chứng tàn phế do bệnh. Hầu hết trẻ em dưới 1 tuổi đã
được tiêm chủng (94,7%). Số trẻ được tiêm đủ 6 loại vacxin trong chương
trình tiêm chủng mở rộng đạt tỷ lệ 79,4% [51], [52]. Do làm tốt công tác quản
lý thai nghén nên đã giảm đáng kể tỷ lệ tai biến sản khoa và tình trạng suy
dinh dưỡng bào thai. 80,6% số phụ nữ có thai đã được khám thai. Số phụ nữ
được khám thai từ lần 2 trở lên chiếm tỷ lệ 40,3%. 75% bà mẹ có thai đã được
tiêm phịng uốn ván. Tỷ lệ tiêm uốn ván mũi 2 là 58%. Tỷ lệ trẻ có cân nặng khi
sinh < 2.500g là 8,8% [56]
1.1.3.3. Một số nét về CSSKBĐ ở miền núi phía Bắc
*Tình hình chung Miền núi phía Bắc Việt Nam bao gồm 15 tỉnh, trong
đó 4 tỉnh thuộc vùng Tây Bắc và 11 tỉnh thuộc vùng Đơng Bắc, có tổng diện
tích đất tự nhiên chiếm 30% diện tích cả nước. Đây là khu vực mà hộ nghèo
chiếm tỷ lệ cao nhất cả nước. Năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo ở vùng Tây Bắc còn
tới 45%, cịn vùng Đơng Bắc là 23%; tỷ lệ nghèo toàn vùng là 25,5%. Trong


11

số 61 huyện nghèo của cả nước thì miền núi phía Bắc có tới 35 huyện [3],
[14]. Đời sống dân cư nơng thơn khu vực miền núi phía Bắc gặp nhiều khó
khăn do ảnh hưởng bởi điều kiện địa hình và thời tiết; cơ sở hạ tầng kém phát
triển; dân trí và chất lượng nguồn nhân lực yếu (85% lao động chưa qua đào
tạo, 12% dân số không biết chữ, riêng Lai Châu con số này là 40%); tập quán
sản xuất lạc hậu, ý thức tự vươn lên thoát nghèo của một bộ phận dân cư còn
nhiều hạn chế. Các phong tục tập quán lạc hậu còn tồn tại nhiều ở khu vực
miền núi phía Bắc, nó khơng những ảnh hưởng đến phát triển kinh tế xã hội
mà nó cịn ảnh hưởng đến cơng tác chăm sóc sức khoẻ của nhân dân nơi đây

[42].
* Về tình hình thực hiện CSSKBĐ ở miền núi phía bắc
- Giáo dục sức khoẻ: Đây là một nội dung quan trọng trong CSSKBĐ, là
những giải pháp phù hợp để giải quyết các vấn đề sức khoẻ ưu tiên. Thay đổi
hành vi khơng có lợi cho sức khoẻ. Nhưng nhìn chung thực trạng hoạt động
cơng tác này chưa tốt. Kết quả mới chỉ dừng ở mức tuyên truyền sức khoẻ,
chưa có sự thay đổi hành vi. Do vậy việc giải quyết vấn đề vệ sinh môi
trường, CSSK bà mẹ trẻ em, kế hoạch hố gia đình và bệnh tật vẫn là những
vấn đề nan giải và khó khăn ở miền núi phía Bắc [15], [29], [37].
- Tình hình vệ sinh mơi trường: Tình hình vệ sinh mơi trường khu vực
này cịn chưa tốt, đặc biệt là vùng cao vùng sâu: Tỷ lệ hộ gia đình có nguồn
nước sạch chiếm 45,83%, hố xí hợp vệ sinh thấp 21,79%, tỷ lệ hộ người dân
chưa có ý thức chú trọng quan tâm đến vấn đề này. Ở một số bản vùng cao
vùng sâu, vùng xa việc tuyên truyền GDSK về vệ sinh cịn ít [17], [36]. Tình
trạng khơng có hố xí, phóng uế bừa bãi, và để chuồng gia súc ở gần nhà chủ
yếu là do tập quán lạc hậu của người dân. Tuy nhiên ở một số nơi cán bộ y tế
đã tích cực truyền thơng hướng dẫn xây dựng các cơng trình vệ sinh, người
dân thường khơng có điều kiện làm hoặc khơng muốn thực hiện [28], [33],
[44]. Theo kết quả nghiên cứu Đàm Khải Hoàn (1998) ở 6 xã miền núi phía
Bắc, tỷ lệ người dân được sử dụng nước sạch và hố xí hợp vệ sinh rất thấp
28,82%, 7,63%. Một số dân tộc sử dụng nước khe nước suối, nước sơng... cịn


12

phóng uế bừa bãi như người Mơng ở Cán Tỉ. Do tình trạng dùng phân tươi
trong nơng nhiệp đã làm ô nhiễm môi trường đất, môi trường nước nặng nề.
Môi trường bị ô nhiễm bởi phân người, gia súc không được xử lý, nguồn nước
đạt tiêu chuẩn vệ sinh thấp, môi trường đất bị ô nhiễm bởi trứng giun ở mức
độ cao [32]. Sự ô nhiễm môi trường nặng nề có thể liên quan tới cơ cấu bệnh

tật. Tình hình CSSKBMTE và KHHGĐ như sau: Công tác CSSKBMTE: ở
khu vực này còn chưa tốt được chú trọng. Tỷ lệ trẻ được đẻ tại nhà cao
(67,93%) nhất là vùng cao Hà Giang (88,01%) thực hiện chương trình ni
con bằng sữa mẹ chưa tốt. Số trẻ được bú sớm (57,64%), số trẻ được ăn sam
đúng (57,01%). Số trẻ được cai sữa đúng là 46,08%. Tỷ lệ trẻ được tiêm
chủng đầy đủ chưa cao (80,27%). Thực hiện chương trình DS – KHHGĐ:
tương đối khá. Tỷ lệ cặp vợ chồng áp dụng các biện pháp tránh thai cao
(67,13%). Đặc biệt là tỷ lệ phụ nữ đặt vịng (57,91%). Nhưng tỷ lệ bà mẹ có
thứ 3 còn cao (35,89%) nhất là vùng cao Hà Giang (67,31%). Tỷ lệ phát triển
dân số nhìn chung cịn cao, ở Hà Giang là 2,25% [28], [33].
- Tình hình bệnh tật: Bệnh tật vẫn chiếm tỷ lệ cao. Về cơ cấu bệnh tật
vẫn chủ yếu là bệnh hô hấp, tiêu hố đứng hàng đầu. Người dân cịn ít quan
tâm chú ý đến sức khoẻ. Một phần cũng do đời sống kinh tế cịn khó khăn.
Trình độ học vấn thấp cũng ảnh hưởng đến tiếp thu những kiến thức được
tuyên truyền về bảo vệ sức khoẻ cho nên khi ốm đau số người dân sử dụng
dịch vụ trạm y tế còn thấp. Vẫn cịn tình trạng cúng khi ốm đau ở một số nơi.
Một tỷ lệ đáng kể người dân tự mua thuốc về điều trị mà không rõ là bị bệnh gì.
Thực trạng này được thể hiện qua nghiên cứu của Hoàng Văn Hải, Đàm Khải Hoàn,
Lường Văn Hom , Hồng Văn Liêm ở một số DTTS miền núi phía Bắc [25], [34],
[39], [48].
1.2. Các yếu tố ảnh hƣởng đến chăm sóc sức khỏe ban đầu ở miền
núi phía bắc.
1.2.1. Các nguy cơ sức khỏe
1.2.1.1. Hút thuốc lá: Hút thuốc lá là yếu tố số một trong các yếu tố gây
tử vong có thể phịng được. Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã xếp thuốc lá là


13

yếu tố nguy cơ thứ 2 trong 10 yếu tố nguy cơ hàng đầu đe dọa sức khỏe người

dân ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Có đủ bằng chứng để khẳng
định thuốc lá có quan hệ nhân quả với nhiều loại ung thư (phổi, đường tiết
niệu, hầu họng, miệng, khí quản, thanh quản, thực quản, tuỵ, mũi xoang, mũi
hầu, dạ dầy, gan, thận, cổ tử cung, bạch cầu dạng tuỷ bào); nhóm bệnh tim
mạch; các bệnh phổi; các vấn đề sức khoẻ sinh sản và csc vấn đề sức khoẻ
khác (đục thuỷ tinh thể, gãy xương hông, loãng xương, loét dạ dày, suy giảm
sức khoẻ dẫn đến nghỉ việc...). Chỉ riêng với 3 bệnh nguy hiểm, thuốc lá là
nguyên nhân của tỷ lệ mắc rất lớn: 90% ca ung thư phổi, 75% ca bệnh phổi
tắc nghẽn mạn tính, 25% ca tim thiếu máu cục bộ. Ngồi ra, nghi ngờ, nhưng
chưa đủ để khẳng định rằng thuốc lá có quan hệ nhân quả với nhiều bệnh
khác nữa.
- Hút thuốc lá thụ động cũng có gây ra nhiều bệnh cho người không hút
trực tiếp. Hút thuốc lá thụ động có thể gây nên nhiều bệnh hiểm nghèo như
ung thư phổi, các bệnh về tim mạch, nhiễm trùng đường hô hấp và đẻ non.
- Trung bình người hút thuốc lá tử vong sớm hơn người không hút thuốc
khoảng 15 năm. Một người hút thuốc lá có thể tử vong ở độ tuổi trung niên và
mất tới 20 năm tuổi thọ. Trên toàn cầu mỗi năm thuốc lá giết chết hơn 5 triệu
người. Ở Việt Nam, ước tính mỗi năm thuốc lá giết chết 40.000 người, mỗi
ngày có hơn 100 người tử vong vì những bệnh do thuốc lá gây nên.
Bên cạnh gánh nặng về bệnh tật và tử vong, hút thuốc cịn tạo ra gánh
nặng về tài chính. Thuốc lá làm phát sinh chi phí khổng lồ để điều trị những
ca bệnh do hút thuốc gây ra. Tuy vậy, ý thức về tác hại do các bệnh liên quan
đến hút thuốc lá thường chỉ xuất hiện sau 20 – 30 năm hút thuốc. Hiểu biết
của người dân về tác hại của hút thuốc chưa đầy đủ; các biện pháp hỗ trợ cho
người dân bỏ hút thuốc (liệu pháp thay thế Nicotine), cản trở khả năng hút
(thuế cao, cấm hút thuốc nơi công cộng) hoặc tăng ý thức về tác hại của thuốc
(truyền thơng hiệu quả, cảnh báo hình in trên bao thuốc) vẫn chưa được thực
hiện đầy đủ [59].



14

1.2.1.2. Sử dụng rượu bia Sử dụng rượu bia không hợp lý có ảnh hưởng
lớn tới sức khoẻ thơng qua 3 kênh: say rượu, nghiện rượu và ngộ độc rượu.
Say rượu liên quan đến hành vi rủi ro (tình dục khơng an tồn...), bạo lực
(trong gia đình hoặc ngồi xã hội) và tai nạn. Nghiện rượu liên quan đến việc
sử dụng thường xuyên, kéo dài dẫn đến bệnh tật, rối loạn tâm thần và vấn đề
xã hội. Ngộ độc từ rượu, đặc biệt rượu ngâm nấu thủ công (rượu được cộng
đồng người ở miền núi phía Bắc sử dụng chủ yếu) liên quan đến 60 loại bệnh
và rối loạn như dị tật bẩm sinh cho trẻ có mẹ sử dụng rượu khi mang thai, hại
tế bào não ảnh hưởng khả năng học, các loại bệnh gan, một số loại ung thư,
giảm sức đề kháng, đau tim đối với những người uống quá mức. Rượu gây ra
gánh nặng bệnh tật cho nam giới cao hơn 4 lần so với nữ giới. Nguyên nhân
tử vong liên quan đến rượu lớn nhất là chấn thương không chủ định, bệnh tim
mạch và ung thư. Đối với gánh nặng bệnh tật thì rối loạn tâm thần liên quan
đến rượu là quan trọng nhất. Uống rượu ở tuổi vị thành niên là một vấn đề
được nhiều nước quan tâm. Khả năng kiểm soát bản thân của thanh niên kém
hơn người lớn tuổi, nên khi say rượu có thể có những hành vi nguy hiểm như
lái xe với tốc độ cao, thậm trí đua xe, gây tai nạn, lạng lách, đánh võng, đánh
nhau, giết nhau, lạm dụng tình dục. Mặc dù, việc lạm dụng rượu bia có liên
quan đến tai nạn và bệnh tật... xong vẫn chưa có chiến lược, chính sách tồn
diện để phịng chống lạm dụng rượu bia và các biện pháp hiện hành chưa
được áp dụng trên toàn quốc [44], [59].
1.2.1.3. Chế độ dinh dưỡng, an toàn vệ sinh thực phẩm và tập thể dục:
- Chế độ ăn, kể cả khối lượng và cơ cấu kết hợp với hoạt động thể chất
thường xuyên đều có vai trị quan trọng trong việc duy trì, bảo vệ và tăng
cường sức khỏe. Chế độ ăn không hợp lý và thiếu hoạt động thể chất là hai
yếu tố rủi ro chủ yếu của tăng huyết áp, tăng đường huyết, mỡ máu cao, thừa
cân/ béo phì và là yếu tố nguy cơ của các bệnh mạn tính chính như bệnh tim
mạch, ung thư và tiểu đường. Bằng chứng từ các nghiên cứu cho thấy tập thể

dục thường xuyên có thể làm giảm Cholesterol trong máu, giảm huyết áp cao,
cải tiến thành phần cơ thể bằng cách “đốt” mỡ, tạo điều kiện để có mức


15

đường huyết tốt, hỗ trợ duy trì mật độ xương, tăng sức đề kháng và giải tỏa
căng thẳng, giảm nguy cơ bị trầm uất. Chỉ việc đi bộ đều đặn có thể tăng sức
của hệ tim và phổi, giảm nguy cơ bệnh tim, tai biến mạch máu não, giảm tai
biến của các bệnh tiểu đường, đau cơ và khớp, cao huyết áp, cholesterol cao,
giúp tăng sức của xương và cải thiện khả năng giữ cân đối cơ thể, tăng sức cơ
bắp và giảm béo.
- Vùng núi phía Bắc vẫn đang phải đối phó với tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ
em cao. Hoạt động thể lực vẫn chủ yếu do tính chất cơng việc lao động chân
tay tiêu tốn calo. Vì vậy, khác với thành thị, tỷ lệ thừa cân và béo phì ở những
vùng này cịn ở mức thấp. Nói chung, chế độ ăn hiện nay của người dân tộc
thiểu số ở vùng núi phía Bắc chứa nhiều rau, quả với lượng mỡ và đạm thấp
là một yếu tố tốt để bảo vệ cho sức khỏe nhưng cũng là yếu tố nguy cơ làm
tăng tỷ lệ suy dinh dưỡng trẻ em.
- Vùng núi phía Bắc chủ yếu làm nghề nơng nghiệp, lao động chân tay
vất vả. Hoạt động thể dục, thể thao chủ yếu là nhóm trẻ tuổi, người già và một
số người làm nghề tĩnh tại. Tại vùng núi phía Bắc chưa có nghiên cứu nào
đánh giá tỷ lệ hoạt động thể dục thể thao, song theo điều tra y tế quốc gia năm
2001 – 2002 cho thấy tỷ lệ người từ 15 tuổi trở lên có tập thể dục thể thao là
34,9%, trong đó một nửa là tập thường xuyên hàng tuần từ 5 lần trở lên [45],
[46].
1.2.1.4. Ma tuý và mại dâm
Ma túy có nhiều tác động có hại đối với sức khỏe, từ nhiễm khuẩn,
nhiễm virus khi sử dụng chung bơm kim tiêm để chích ma túy, đến ung thư
do hút cần sa, giảm sức đề kháng, bệnh tim, dị tật bẩm sinh, rối loạn tâm thần

và tử vong do sử dụng quá liều. Người bán dâm có rủi ro cao lây bệnh qua
đường tình dục gồm cả HIV/ AIDS và dễ trở thành nạn nhân của bạo lực hoặc
áp lực đối với sức khỏe tâm thần. Số người sử dụng ma túy ở Việt Nam nói
chung, ở vùng núi phía Bắc nói riêng tăng nhanh trong những năm gần đây,
đặc biệt là nhóm tuổi trẻ. HIV/AIDS có liên quan rất cao với sử dụng ma túy,
ước tính có khoảng 56,9% người nhiễm HIV/AIDS trong cả nước là do nhiễm


16

ma túy. Tỷ lệ người nghiện ma túy có quan hệ với gái mại dâm tăng nhanh,
tính trong cả nước tăng từ 11% lên 48% (tùy tỉnh). Do dó nguy cơ lây truyền
HIV trong nhóm nghiện chích ma túy, mại dâm và bạn tình của họ là khá cao.
Sử dụng ma túy phổ biến ở nam giới và người trẻ [13], [59].
1.2.1.5. Các thay đổi trong hệ thống y tế.
Mạng lưới y tế cơ sở ở miền núi phía Bắc cịn chưa đồng đều, cịn yếu ở
các vùng khó khăn. Từ khi thực hiện nghị định 58/CP/1995 về y tế cơ sở, việc
trả lương và phụ cấp cho cán bộ y tế xã và cán bộ y tế thôn bản bằng ngân
sách Nhà nước, tiếp theo đó là thực hiện 100% xã có trạm y tế, đưa bác sỹ về
xã, các xã đều có nữ hộ sinh hoặc y sỹ sản nhi, tăng cường trang thiết bị,
mạng lưới y tế cơ sở đã dần dần phát triển đáp ứng yêu cầu khám chữa bệnh
của nhân dân. Cùng với việc thành lập các Trung tâm y tế huyện, mạng lưới y
tế xã, thôn bản được củng cố, công tác CSSKBĐ được bảo đảm, có một ý
nghĩa cực kỳ quan trọng trong Chăm sóc sức khỏe nhân dân. Các chương
trình y tế như tiêm chủng mở rộng, chống dịch, phòng chống sốt rét, lao...
chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em, kế hoạch hố gia đình, khám chữa bệnh
thơng thường ở miền núi, vùng nghèo được cải thiện, 80% dịch vụ y tế được
thực hiện ở tuyến y tế cơ sở, chủ yếu là ở xã. Tuy nhiên trong tình hình hiện
nay, chất lượng dịch vụ của TYT, đặc biệt là ở miền núi, vùng sâu vùng xa
còn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu hiện nay. Năm 2009, mới có 58,2 % số xã có

bác sỹ, cịn 94% số xã có nữ hộ sinh, y sỹ sản nhi, các tỉnh có tỷ lệ bác sỹ xã
thấp đó là Lai Châu (1%), Điện Biên (9,8%), Lào Cai (34,1%)... Nhìn chung
nhân lực y tế ở MNPB còn thiếu, thiếu bác sỹ, thiếu điều dưỡng viên, hoạt
động y học cổ truyền tại TYT còn thấp, tỷ lệ sản phụ đẻ tại các cơ sở y tế
cũng còn thấp. Chủ trương đưa việc KCB của người có BHYT về trạm y tế xã
là một giải pháp tích cực để thuận tiện cho người nghèo có thẻ. Người DTTS
có điều kiện tiếp cận với dịch vụ y tế nhiều hơn. Tuy nhiên, để chủ trương này
thực sự có hiệu quả và bền vững, cần phải tăng nguồn lực, tăng đầu tư, cán bộ
y tế có thể tăng thu nhập ít ỏi qua tỷ lệ trích thưởng của BHYT. Nhưng nếu
không tổ chức quản lý tốt, chất lượng dịch vụ kém, coi như khơng có hiệu


17

quả. Cần đào tạo bổ sung thêm kỹ năng điều trị cho cán bộ y tế ở vùng khó
khăn, vùng núi phù hợp với mơ hình bệnh tật ở địa phương. Một trong những
điểm yếu trong hoạt động của y tế xã hiện nay là hoạt động truyền thông giáo
dục, tư vấn sức khỏe cán bộ y tế chưa tốt, nhất là ở vùng núi, vùng dân tộc
thiểu số [6], [12].
1.2.1.6. Mơ hình bệnh tật thay đổi
Trước đây ở miền núi phía Bắc có mơ hình bệnh tật mang đặc trưng của
khu vực nghèo với các bệnh truyền nhiễm, nhiễm trùng và suy dinh dưỡng là
chủ yếu, tuy vậy các bệnh không nhiễm trùng như bệnh tim mạch, ung thư,
tâm thần, tiểu đường, tai nạn thương tích, ngộ độc ngày càng phát triển do
điều kiện kinh tế xã hội phát triển thay đổi, mức sống và lối sống thay đổi. Tại
các vùng nông thôn nghèo ở miền núi và tầng lớp nghèo ở thành phố, thị xã
đang bùng phát nguy cơ một số bệnh dịch như sốt xuất huyết, viêm não Nhật
Bản, đại dịch HIV/AIDS, viêm phổi do Cúm A H5N1, H1N1, dịch
SARS...Mơ hình bệnh tật thay đổi đã đặt ra cho các nhà quyết định chính
sách, chiến lược một vấn đề cần phải cân nhắc lựa chọn: trong điều kiện

nguồn lực còn hạn hẹp, hoặc tập trung đầu tư giải quyết các bệnh nhiễm
trùng, truyền nhiễm vẫn còn nhiều ở các vùng nghèo, người nghèo hoặc tập
trung giải quyết các bệnh khơng nhiễm trùng mà tương lai cịn phát triển
nhiều hoặc giải quyết cả hai. Chiến lược hiện đại hóa ngành y tế nhằm giải
quyết một cách thích đáng và có hiệu quả mơ hình bệnh tật mới cần được
nghiên cứu một cách toàn diện, và chú trọng đến người nghèo, người dân tộc
thiểu số miền núi phía bắc [11], [13].
1.2.1.7. Cấu trúc dân số thay đổi
Dân số Việt Nam nói chung, miền núi phía Bắc nói riêng đang có sự biến
đổi đáng kể, sự phân hóa các khu vự trở nên rõ rệt. Vùng thấp, đô thị số người
già đang tăng nhanh, tỷ lệ người trên 60 tuổi chiếm khoảng 8,65% dân số,
trên 65 tuổi chiếm 6,3%. Với sự hạ thấp tỷ suất sinh, tỷ suất chết giảm, đặc
biệt là tỷ suất chết trẻ em giảm, sức khỏe nhân dân được cải thiện, tuổi thọ
trung bình tăng thì tỷ lệ người cao tuổi sẽ tăng. Hầu hết người già hiện nay


18

cũng thuộc diện nghèo, đặc biệt là ở nông thôn. Người già thường có nhiều
bệnh, đặc biệt là các bệnh mãn tính, chi phí cho KCB rất tốn kém. Nhà nước
đã có pháp lệnh về người cao tuổi, nhưng chăm sóc sức khoẻ tồn diện về sức
khoẻ cho người cao tuổi chưa thể thực thi một cách có hiệu quả. Cũng thuộc
miền núi phía bắc thì vùng núi cao, vùng sâu nơi cư trú chủ yếu người DTTS
thì tỷ suất sinh còn cao, tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên vẫn lớn. Như vậy ngay
cả người nghèo của khu vực này tỷ lệ và phân tầng xã hội cũng rất khác nhau,
địi hỏi có chiến lược chăm sóc đa dạng và toàn diện và phải quan tâm nhiều
hơn so với khu vực khác [58].
1.2.1.8. Hưởng thụ chính sách CSSK của người DTTS.
Qua điều tra, người DTTS có nhu cầu KCB nội trú và ngoại trú nhiều
hơn những người Kinh vì tần suất ốm và ốm nặng nhiều hơn. Người DTTS sử

dụng dịch vụ ở TYT và bệnh viện huyện nhiều nhất, KCB ở bệnh viện tỉnh
và tuyến Trung ương ít, tần suất chỉ bằng nửa nhóm người giàu, người Kinh.
Tỷ lệ khám thai và sử dụng các dịch vụ phịng bệnh cũng thấp hơn. Ngun
nhân có nhiều, chủ yếu là thiếu tiền cho chi phí đi lại, ăn, ở lớn, khơng có khả
năng. Hiện nay các cơ sở y tế và nhân lực y tế ở miền núi phía bắc đã được
cải thiện nhiều, nhưng còn kém về số lượng và chất lượng, đặc biệt là chất
lượng. Những dịch vụ y tế chất lượng cao và thuốc đắt tiền hơn, cần cho bệnh
chuyên khoa lại không nằm trong quy định, người nghèo thì họ khơng có khả
năng chi trả thuốc ngoài danh mục và dịch vụ cao. Như vậy, thực ra chất
lượng dịch vụ cho người DTTS chỉ ở mức độ thiết yếu. Người DTTS ít có khả
năng tiếp cận với các dịch vụ cao, các chuyên khoa sâu, kỹ thuật điều trị chất
lượng tốt hơn tuyến dưới. Đó cũng là thiệt thịi của người DTTS vì họ khơng
có tiền đi lại ăn ở, mặc dầu được miễn viện phí theo chế độ ưu đãi của Nhà
nước. Về tinh thần, thái độ của cán bộ y tế khi chăm sóc sức khỏe người
DTTS, qua nhiều cuộc điều tra cho thấy khơng có sự phân biệt đối xử nhiều
so với các đối tượng khác. Đồng bào các DTTS thường ít sử dụng các cơ sở y
tế công để khám chữa bệnh, chỉ những trường hợp nặng họ mới đến bệnh
viện. Thông thường họ tự dùng thuốc và đến các thầy lang tại chỗ. Phụ nữ


19

vẫn cịn ít đi khám thai và thích đẻ ở nhà do chồng hay người nhà, bà mụ
vườn đỡ, do đó tỷ lệ chết mẹ và chết chu sinh cịn cao. Về đầu tư cho y tế ở
vùng nhiều DTTS, hiện nay xã nào cũng có TYT, có nhân viên y tế thôn bản,
số bệnh viện tỉnh, huyện và số giường bệnh của 6 tỉnh đặc biệt khó khăn ở
miền núi phía Bắc đều bằng hoặc cao hơn mức trung bình của cả nước. Tỷ lệ
bác sỹ/10.000 dân ở Tây bắc là 8,1%, thấp hơn mức trung bình của cả nước
(46,4%); tỷ lệ Y sỹ sản nhi/nữ hộ sinh trung học ở Tây bắc còn thấp 48%,
thấp hơn một nửa so với toàn quốc (80-90%). Trong một đánh giá khác về

thực hiện CSSKBĐ thì một cán bộ y tế của Lao Cai phải đảm nhận nhóm dân
cư trong địa bàn có diện tích đến hơn 22,3km2 là q lớn so với vùng đồng
bằng và thành thị. Sự khác biệt về ngôn ngữ, khoảng cách xa về địa lý, và
thiếu tiền cho các chi phí ngồi KCB trực tiếp cũng là những nguyên nhân
chính để các DTTS ít tiếp cận được với các cơ sở y tế công khi ốm đau. Để
nâng cao chất lượng dịch vụ y tế ở các vùng DTTS, trước hết là tăng cường số
lượng và chất lượng cán bộ y tế ở xã, thôn bản và huyện (trong đó có phịng
khám đa khoa khu vực) bằng chính sách đãi ngộ thích đáng, trong đó có việc
đào tạo và lương phụ cấp. Ngoài ra các cơ sở cần được bổ sung kinh phí
thường xun vì nguồn thu khác ít hoặc khơng có [9], [24], [38].
1.2.2 Văn hóa dân tộc Dao ảnh hưởng đến sức khỏe và bệnh tật
1.2.2.1. Nguồn gốc lịch sử của dân tộc Dao ở Việt Nam.
Người Dao là một người dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Tên gọi trước
đây: Mán, Động, Trại, Dạo, Xá... Tên tự gọi: Kìm miền hay Kìm mùn (người
ở rừng ). Tên tự nhận: Dìu miền, Yù miền (Dao nhân) được nhắc đến trong
các câu chuyện truyền miệng, tài liệu cổ của người Dao và sử sách Trung
quốc, nó gắn liền với lịch sử dân tộc, được người Dao thừa nhận và nay thành
tên gọi chính thức. Tiếng Dao thuộc ngữ hệ Mông – Dao. Người Dao ở Việt
Nam có nguồn gốc từ Trung Quốc. Q trình di cư vào Việt Nam phức tạp,
kéo dài từ thế kỷ thứ XIII cho đến những năm 40 của thế kỷ XX [21], 41,
47.


20

1.2.2.2. Cơ cấu dân số và phân bố địa dư sinh sống.
Ở Việt Nam có 473.945 người Dao, chiếm 0,76% dân số cả nước, đứng
hàng thứ 9 theo nhóm dân tộc, đơng thứ 2 trong các nước có người Dao 49.
Trước năm 1975, người Dao sống ở 16 tỉnh, chủ yếu tập trung ở 7 tỉnh, 86
huyện, 165 xã thuộc miền núi và trung du Bắc bộ. Sau ngày miền Nam giải

phóng, diện cư trú tăng lên tới 38 tỉnh (14 tỉnh khá đông), 88 huyện và nhiều
xã khắp miền núi phía Bắc, Tây ngun và miền Đơng Nam bộ. Những tỉnh
có nhiều người Dao là: Hà Giang (16%), Yên Bái (17%), Bắc Thái (16,4%),
Tuyên Quang (12,8%), Lai Châu (9,1%), Cao Bằng (7,2%), Quảng Ninh
(3,7%). Có 30 xã 100% người Dao và 165 xã chiếm > 50% dân số. Người
Dao thường sống xen kẽ và biết tiếng nói của các dân tộc cùng địa phương và
giữ gìn bản sắc dân tộc mình. Họ thường sống nơi thung lũng, đồi thấp hoặc
quanh chân núi, dọc khe suối, nơi đầu nguồn nước. Họ sống thành từng cụm,
từng bản nhỏ riêng và tụ tập xung quanh người có thần quyền 21. Có 2 loại
hình thơn xóm người Dao:
- Thơn xóm cư trú phân tán: Với những nhóm Dao du canh, du cư,
thường chỉ 5 - 7 hộ. Kiểu thơn xóm này cản trở trong phong trào tổ chức sản
xuất, xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa và chăm sóc sức khỏe.
- Thơn xóm cư trú tập trung: Thường ở những nơi đã định canh - định cư
hoặc du canh - định cư. Mỗi thôn khoảng 20 - 30 hộ liền kề với nhau. Kiểu
thơn xóm này thuận lợi cho lối làm ăn tập thể, nhưng khó bảo đảm vệ sinh
chung, dễ mắc dịch bệnh, hạn chế việc chăn nuôi gia súc và trồng rau màu
[61], 62.
1.2.2.3. Đặc điểm các nhóm Dao ở Việt Nam
Do người Dao di cư vào Việt Nam trong một thời gian kéo dài, sống
phân tán, du canh, du cư, nên quá trình hình thành tộc người rất chậm, các
nhóm Dao đều mang những nét văn hóa địa phương nhất định. Họ được mang
những tên gọi khác nhau theo đặc điểm sắc phục, tên địa phương cư trú ban
đầu, thậm chí mang hàm ý miệt thị. Do đó, người Dao được chia thành nhiều
nhóm, nhưng họ vẫn ln nhận rõ mối quan hệ với nhau về nguồn gốc, số


21

phận lịch sử và duy trì được ngơn ngữ chung Các nhóm Dao có tương đồng

về phong tục, tập quán, các hình thái kinh tế, tín ngưỡng. Ngày nay, nhờ sự
giao lưu rộng rãi, nên đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội của dân tộc Dao Việt
Nam đã có nhiều thay đổi...Việc bảo tồn và phát triển bản sắc văn hố của
người dân tộc Dao có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với đời sống dân cư
nông thôn khu vực miền núi phía Bắc 21, 61, [62].
1.2.2.4. Một số tập quán của người Dao có ảnh hưởng đến sức khỏe
- Tập quán canh tác, định canh, định cư: Theo Bế Viết Đằng: Trước đây,
canh tác nương rẫy, du canh với cây ngô và lúa nương đã trở thành tập quán
của dân tộc Dao nên thu nhập rất thấp. Do cuộc sống không ổn định, du canh,
du cư, nên nghèo đói, lạc hậu, khơng được tiếp cận với các kiến thức khoa
học, cũng như chăm sóc y tế. Vì vậy, bệnh tật, ốm đau, đặc biệt trẻ em tử
vong nhiều, càng phải đẻ nhiều, đông con và đi vào vịng xoắn của sự nghèo
khó, bệnh tật. Ngày nay, mặc dù hầu hết đồng bào Dao đã định cư, nhưng tình
trạng du canh nương rẫy vẫn cịn tồn tại. Tuy vậy, được sự quan tâm của
Đảng và Chính phủ, nhằm thực hiện xóa đói giảm nghèo, đời sống kinh tế xã
hội của đồng bào Dao đang được cải thiện. Nhưng đại đa số cuộc sống kinh tế
xã hội của người Dao hiện nay vẫn gặp nhiều khó khăn. Nghèo đói là nguyên
nhân chính gây bệnh tật ở người Dao [21].
- Tập quán xây dựng nhà ở: Theo Đàm Khải Hoàn: Người Dao ở MNPB
có đa số ở nhà đất. Họ cho rằng, ở nhà nền đất mới có chỗ để cúng Bàn
vương. Trong nhà thường được chia làm nhiều ngăn như các phòng ngủ,
phòng kho, gian bếp... trên gác thường rải gỗ hoặc ván để chứa thóc rẫy, ngơ
và các loại dụng cụ gia đình khác. Nhà người Dao thường làm mái thấp. Với
cách bày trí như trên làm cho nhà luôn bị thiếu ánh sáng. Tập quán đun nấu
trong nhà gây ơ nhiễm khói nặng, hơn nữa hầu hết đàn ông và nam thanh niên
Dao hút thuốc lào hoặc thuốc, càng làm tăng thêm tình trạng ơ nhiễm khói, dễ
mắc các bệnh về hô hấp, nhất là trẻ em. Ngày nay, cùng với sự phát triển
chung của toàn xã hội, nhiều căn nhà người Dao ở vùng định canh, định cư đã



22

thay đổi. Tuy nhiên ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa thì thay đổi khơng đáng kể
[37], [59].
- Tập qn sinh đẻ: Theo Đào Duy Khuê: Phụ nữ Dao khi đẻ sản phụ
ngồi trên một cái ghế thấp, hai tay bám chặt vào một sợi dây thừng buộc vào
đòn tay nhà. Chồng hoặc mẹ chồng đỡ hộ hoặc sản phụ tự đỡ lấy, rất ít khi
nhờ người ngồi. Sau khi sổ thai, chờ cho trẻ khóc mới được bế lên, nếu chờ
lâu mà đứa bé khơng khóc thì dùng sách "cúng" quạt cho nó và sau này sẽ
được đặt tên là Slâu ( nghĩa là sách ). Rốn trẻ được cắt bằng nứa. Trước đây
cịn có tục lệ là khi đứa bé mới lọt lịng mẹ mà khơng quay mặt về phía người
mẹ thì họ cho đó là điềm xấu, phải cúng bái rất tốn kém mới dám nuôi hoặc
bỏ mặc không nuôi. Phụ nữ Dao Đại bản và Dao áo dài ở Hà Giang tự đỡ đẻ
là chính, trường hợp đẻ khó hay mất sức thì người chồng hoặc mẹ chồng mới
vào giúp. Nếu đau mãi không đẻ được, thì chồng hay mẹ chồng lấy 3 hạt gạo
niệm thần chú rồi bỏ vào chén nước lã cho sản phụ uống một ngụm nhỏ và
nín thở xoa nước này lên người mình. Sau khi trẻ khóc mới bế lên và cắt rốn
bằng thanh nứa đầu hồi và tắm qua bằng nước ấm rồi bọc trẻ bằng giấy bản
hoặc áo cũ của mẹ. Đó là những tập quán làm tăng tỷ lệ tử vong chu sinh ở
dân tộc Dao, nhất là tập quán tự đỡ đẻ mà hiện nay vẫn tồn tại ở một số bản
Dao vùng sâu, vùng xa. Đặc biệt, trong khi mang thai người mẹ không đi
khám thai, không đến trạm y tế để đẻ, nên cuộc đẻ khơng an tồn. Chính vì
vậy, tình trạng hữu sinh vơ dưỡng ở cộng đồng dân tộc Dao trước đây là phổ
biến. Những năm gần đây, việc sinh đẻ ở người Dao đã có nhiều thay đổi: Các
tục lệ giảm dần, tỷ lệ phụ nữ Dao áp dụng các biện pháp tránh thai ngày một
tăng, nhiều người đã đi khám thai và đến trạm xá để sinh nở. Nạn không đẻ
hoặc chết yểu đã được hạn chế tới mức tối đa, dân số Dao đã tăng lên rõ rệt
[42].
- Tập quán kiêng khem trước, sau đẻ và khi nuôi con : Theo Hoàng
Lương: Trước đây do đời sống kinh tế thiếu thốn, việc sinh đẻ, chăm sóc sản

phụ, hài nhi thiếu kiến thức khoa học, mê tín dị đoan nặng nề, nạn hữu sinh
vô dưỡng là phổ biến trong cộng đồng dân tộc Dao. Mong ước có trẻ nhỏ là


23

của cả cộng đồng. Vì vậy, việc sinh đẻ ln được quan tâm, đúc rút nhiều
kinh nghiệm dân gian, tạo nên những tập quán kiêng kỵ khắt khe nhằm bảo vệ
bà mẹ và trẻ sơ sinh. Những kiêng kỵ đó diễn ra trong suốt quá trình từ lúc
người phụ nữ bắt đầu mang thai đến lúc sinh nở và sau khi sinh. Theo quan
điểm của người Dao, chính trong quá trình này là lúc hồn vía và thân thể trẻ
em rất yếu đuối, dễ bị tác hại bởi những sức mạnh khác. Vì vậy, khơng riêng
gì người phụ nữ mang thai mà cả người chồng và gia đình họ phải tuân theo
những điều kiêng kỵ để giúp người mang thai tránh được những rủi ro, bất
hạnh có thể xảy ra. Mặt khác người Dao còn cho rằng người phụ nữ mang thai
là không " tinh khiết " và họ thường mang những rủi ro đến cho người khác.
Chính vì thế mà tập quán kiêng kỵ càng được nhiều người tôn trọng và thực
hiện 50. Người phụ nữ Dao khi đã biết mình có thai, họ tự giác tn theo
những điều kiêng kỵ đã thành tục lệ được bà, mẹ, chị... truyền lại. Hiện nay có
một số chị em người Dao mặc dù đã nắm được kiến thức khoa học kỹ thuật về
sinh đẻ, nhưng nhiều khi họ vẫn phải tuân theo những tục lệ đó. Vì thế nhiều
tục lệ cịn tồn tại dai dẳng trong xã hội các tộc người 26. Tuy nhiên do đúc
rút, tích lũy từ những kinh nghiệm lâu đời, nên bên cạnh những tập quán có
hại cũng có nhiều tập quán, kiêng kỵ rất có lợi cho sức khỏe bà mẹ và trẻ em.
- Tập quán ma chay. Theo Lý Hạnh Sơn: Đám ma người Dao thường kéo
dài 3 ngày đêm với nhiều nghi thức, thủ tục phức tạp nhằm đưa linh hồn
người chết về Dương Châu. Trước đây, do tập quán du canh, du cư nên hầu
hết các nhóm Dao đều có tục lệ hỏa táng với những người trên 12 tuổi, rồi bỏ
một ít tro vào lọ hoặc ống nứa để mang theo thờ cúng mỗi khi di cư đi đến nơi
ở mới. Ngày nay tập quán này chỉ còn thấy ở người Dao áo dài hoặc chỉ còn

tàn dư ở người Dao Quần trắng. Người Dao Tiền cịn có tục lệ táng lộ thiên
trên sàn cao (nếu chết vào giờ xấu, sẽ cho vào một cỗ áo quan đặc biệt được
ghép bằng trúc hay nứa nguyên cây, đặt lên sàn cao khoảng 2 mét, 4 cột sàn
được làm thật nhẵn để tránh thú rừng, khi thịt rữa hết, xương được cho vào lọ
đem chôn ). Đây là một hủ tục cần được bãi bỏ, vì nó ảnh hưởng đến vệ sinh
mơi trường và lây lan nguồn bệnh, có hại cho sức khỏe cộng đồng [54].


24

- Vệ sinh môi trường. Trước đây do đặc điểm du canh, du cư nên người
Dao đã chặt phá, đốt trụi hầu hết rừng quanh nơi sinh sống và canh tác, nhiều
nguồn nước bị cạn kiệt, đất bị xói mịn... Nên tình trạng hạn hán, mất mùa, lũ
lụt đã ảnh hưởng nhiều đến đời sống, sức khỏe người Dao. Chăn thả các loại
gia súc, gia cầm tự do, không sử dụng hố xí là tập quán lâu đời của người
Dao. Nên nguồn nước ăn thường bị ô nhiễm, dễ mắc các bệnh về tiêu hóa.
Tập qn khơng sử dụng hố xí cịn rất phổ biến ở các cộng đồng dân tộc Dao
sống ở vùng cao và vùng giữa, trong khi đó người Dao chưa có thói quen rửa
tay trước khi ăn hoặc sau khi đi ngồi, thậm chí cịn uống nước lã, nên dễ lây
lan nguồn bệnh [21], [61].
1.2.2.5. Người Dao ở Văn Yên Yên Bái: Người Dao ở Văn Yên Yên Bái
gồm hai ngành Dao tuyển và Dao đỏ trong đó Dao đỏ chiếm đa số. Đồng bào
cư trú dải rác rộng khắp toàn bộ khu vực các xã vùng cao như Mỏ Vàng,
Xn Tầm, An Bình, Lăng Thíp, Châu Quế Thượng, Châu Quế Hạ, Phong Dụ
Thượng, Phong Dụ Hạ, Đại Sơn, Viễn Sơn. Trong đó 02 xã có tỷ lệ người
Dao chiếm trên 90% dân số đó là xã Mỏ Vàng và xã Xuân Tầm. Nghề nghiệp
chủ yếu là làm nương rẫy, Cây quế là cây trồng cho thu nhập chủ yếu của
người Dao Văn n. Chính vì vậy tình trạng phát phá rừng làm nương vẫn
xảy ra phổ biến, trình độ dân trí thấp, tảo hơn, quần hơn cịn tương đối phổ
biến ở người Dao đỏ [19], [57].

1.3. Các biện pháp nâng cao sức khỏe cho cộng đồng ngƣời Dao
Để có các giải pháp quản lý cơng tác y tế và các hoạt động chăm sóc sức
khỏe ban đầu cho nhân nhân dân, cần có sự tham gia của nhiều cấp, nhiều
ngành để hoạt động này có hiệu quả địi hỏi phải có sự cố gắng của nhiều cấp,
nhiều ngành thành viên liên quan.
Đảng, Nhà nước, Bộ Y tế và các bộ, ngành liên quan tới công tác Y tế đã
ban hành nhiều Chỉ thị, Nghị quyết, Nghị định, thông tư, Quyết định.. để định
hướng và chỉ đạo các hoạt động y tế nhằm nâng cao sức khỏe nhân dân.
- Chỉ thị số 06 ngày 22 tháng 01 năm 2002 về củng cố và hoàn thiện
mạng lưới y tế cơ sở, Ban chấp hành trung ương Đảng đã đánh giá công tác


25

chăm sóc sức khỏe nhân dân đã đạt được những thành tựu quan trọng đó là
màng lưới y tế cơ sở từng bước được được củng cố và phát triển, 100% số
trạm y tế trong tồn quốc đã có cán bộ y tế hoạt động, trên 50% trạm y tế xã
có bác sỹ, trên 70% thơn bản có nhân viên y tế [6]. Tuy nhiên trước yêu cầu
của tình hình mới, mạng lưới y tế nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn bộc lộ
nhiều hạn chế: cơ sở vật chất thiếu thốn, việc chăm sóc sức khỏe cho nhân
dân hết sức khó khăn nhiều cấp ủy đảng, chính quyền chưa nhận thức đầy đủ
vai trò, tầm quan trọng của y tế cơ sở. Trứơc tình hình đó, Ban Bí thư Trung
ương Đảng yêu cầu các cấp ủy đảng phải nhận thức đầy đủ về vai trò của y tế
cơ sở và trách nhiệm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyền;
Tăng cường cán bộ và trang thiết bị cho mạng lưới y tế cơ sở; có chính sách
đầu tư thích hợp để củng cố và hồn thiện mạng lưới y tế cơ sở; nâng cao
trách nhiệm của các ngành, đoàn thể trong việc củng cố và hoàn thiện màng
lưới y tế cơ sở [1].
- Thực hiện Chỉ thị của Ban bí thư TW Đảng, Bộ y tế đã có Quyết định
số 370 ngày 06/10/2002 về việc ban hành chuẩn quốc gia về y tế xã giai đoạn

2001 – 2010” gồm 10 chuẩn [5]. Sau 10 năm triển khai đến hết năm 2010
tồn quốc đã có trên 70% số xã đạt chuẩn quốc gia về y tế xã góp phần nâng
cao sức khỏe cho cộng đồng nói chung trong đó có các dân tộc thiểu số vùng
sâu, vùng xã [12].
Nghị quyết 46 của Bộ chính trị về công tác bảo vệ và nâng cao sức khỏe
nhân dân trong tình hình mới với quan điểm chỉ đạo sức khỏe là vốn quý nhất
của mỗi con người, bảo vệ, chăm sóc sức nhân dân là trực tiếp bảo đảm nguồn
nhân lực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc; Đổi mới và hoàn thiện
hệ thống y tế theo hướng công bằng, hiệu quả và phát triển; Thực hiện chăm
sóc sức khỏe tồn diện gắn phịng bệnh với chữa bệnh; xã hội hóa cơng tác
chăm sóc sức khỏe gắn với tăng cường đầu tư của nhà nước. Mục tiêu của
Nghị quyết là giảm tỷ lệ mắc bệnh, tật và tử vong, nâng cao sức khỏe, tăng
tuổi thọ, cải thiện chất lượng giống nịi, góp phần nâng cao chất lượng cuộc
sống, chất lượng nguồn nhân lực, hình thành hệ thống chăm sóc sức khỏe


×