Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

BÌNH LUẬN CẠM BẪY NGƯỜI VŨ TRỌNG PHỤNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.45 KB, 26 trang )

MỤC LỤC

I.

GIỚI THIỆU CHUNG:
1. Vũ Trọng Phụng – Ông vua phóng sự đất Bắc:
1.1Hồn cảnh lịch sử xã hội nhân tố trực tiếp ảnh hưởng đến sáng tác
của Vũ Trọng Phụng:
Đầu thế kỷ XX, cùng với thế giới Việt Nam phải chịu ảnh hưởng “ cơn bão”
thời đại, điều đó đã tạo nên những thay đổi sâu sắc trên lĩnh vực kinh tế- chính trịvăn hố.
Trước hết về phương diện chính trị- xã hội. Đầu thế kỷ XX sau khi đã cơ bản
bình định xong các cuộc khởi nghĩa và nổi dậy của các phong trào yêu nước, thực
dân Pháp thâu tóm tồn bộ quyền binh vào trong tay mình, chúng thiết lập một chế
độ cai trị hà khắc, tàn bạo và thi hành chính sách ngu dân. Triều đình phong kiến
Việt Nam đứng đầu là vua chỉ tồn tại trên danh nghĩa, nhưng thực chất chỉ là
những tên bù nhìn tay sai. Nhân dân khơng được hưởng một chút tự do dân chủ
nào, mọi hành động yêu nước đều bị chúng thẳng tay đàn áp, khủng bố. Bàn tay
cai trị của bọn cướp nước đã nhúng vào mọi mặt của xã hội, vào từng ngõ ngách,
xó xỉnh, của xóm thôn, đường phố, khiến xã hội ngày càng trở nên ngột ngạt. Đây
là thời đại của khủng hoảng xã hội, xã hội phong kiến hàng nghh́ìn năm phút chốc
trở nên hỗn loạn, biết bao chuyện nhơ nhuốc, bao tệ nạn làm phá hoại nhân phẩm,
xã hội đảo điên như bị cuốn vào cơn giơng tố dữ dội.
Bên cạnh đó, đời sống kinh tế cũng có những thay đổi lớn lao. Cùng với sự
xuất hiện của chủ nghĩa thực dân là sự phát triển của khoa học kĩ thuật nhằm mục
1


đích phục vụ bọn đế quốc đẩy mạnh vơ vét, bóc lột. Các trung tâm kinh tế lớn
được hình thành tại các thành phố trong cả nước: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định,
Huế ,


Sài Gòn... Giai cấp tư sản mại bản và tư sản dân tộc ra đời, nền kinh tế

chuyển sang tiền tư bản. Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 đã tác
động mạnh mẽ đến kinh tế Việt Nam làm cho nền kinh tế nước ta vốn đã nghèo
nàn càng trở nên suy kiệt, hàng loạt công nhân, trí thức bị sa thải, mất việc làm,
đời sống bấp bênh. Nó khiến dịng người từ nơng thơn ùn ùn kéo lên đơ thị với hi
vọng tìm kiếm cơng việc duy trì sự sống, nhưng thực tế chẳng khá hơn: Một số
kiếm được công việc nặng nề với đồng lương rẻ mạt, một số khác khơng tìm được
việc làm họ bị cuốn vào các tệ nạn xã hội nơi đơ thị.
Về văn hố, thời gian này tại các đơ thị, lối sống mới theo kiểu Tây phương
cũng bắt đầu gõ cửa cửa từng gia đình. Lớp thanh niên, học sinh cùng với những
thầy Phán, ông Thông, cậu Bồi, bác Bếp từng bước làm quen với đời sống Âu hoá.
Phong trào Âu hố đã làm thay đổi hồn tồn bộ mặt đô thị Việt Nam những năm
đầu của thế kỷ XX, gây nên những xung đột về tâm lí, về quan niệm sống, xung
đột giữa hệ tư tưởng và nếp sống phong kiến truyền thống với văn minh Âu Tây.
Phong trào này dù có được tơ son vẽ phấn thế nào đi nữa, thực chất cũng chỉ là
một phong trào khiêu dâm, sa đoạ. Phong trào Âu hoá đã làm đảo lộn mọi thước
đo giá trị truyền thống. Nó là nguyên nhân trực tiếp của hàng loạt những tệ nạn
nhức nhối trong xã hội. Con người trước đây sống khép mình trong mối quan hệ
của chữ “ nhân”, chữ “lễ” thì bây giờ họ chẳng hề quan tâm đến việc gì khác ngồi
việc tơ điểm, chải chuốt. Họ háo hức tham dự các cuộc khiêu vũ, nhảy đầm, cùng
với đó là các tệ nạn tràn lan : cờ bạc, nghiện ngập và đặc biệt là mại dâm.
Trong sự đổi thay ấy của xã hội, Hà Nội là nơi tập trung tất cả những cái hay,
cái dở của nó. Hà Nội được coi là điển hình của xã hội Việt Nam trong q trình
Âu hố, đơ thị hố. Từ một phố xá bé nhỏ bao bọc quanh các thành luỹ quân sự
thời phong kiến, qua thời Pháp thuộc, Hà Nội nhanh chóng trở thành một phố xá
sầm uất hơn, nhà cửa khang trang hơn và nhất là dân cư đông đúc hơn. Đây là nơi
2



thu hút người ở nông thôn ra Hà Nội họ làm đủ nghề, từ con sen, thằng ở, kéo xe,
canh cửa.. làm thầy kí các hãng bn và cả viết văn viết báo. “ Xã hội thế nào sẽ
sản sinh ra văn học ấy”. Câu nói đó thật đúng, sống trong giai đoạn lịch sử xã hội
đầy biến động, phải chạm trán với những sự kiện xã hội bi thương của lịch sử. Có
thể nói Vũ Trọng Phụng đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các nhân tố lịch sử thời đại,
ơng đã đưa những nhân tố đó vào trong tác phẩm của mình một cách có ý thức.
Như vậy xã hội Việt Nam nói chung và Hà nội nói riêng đã cung cấp đề tài, nhiều
mẫu hình nhân vật, nguồn cảm hứng về tận cho các sáng tác của Vũ Trọng Phụng
từ truyện ngắn, tiểu thuyết và nhất là phóng sự, dưới ngịi bút tài hoa của nhà văn,
cả một xã hội với những thói hư tật xấu đã hiện lên trước mắt người đọc một cách
sinh động và rõnét.

1.2Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Vũ Trọng Phụng:
Vũ Trọng Phụng (1912-1939) là một nhà văn, nhà báo nổi tiếng của Việt Nam
vào đầu thế kỷ 20. Tuy thời gian cầm bút rất ngắn ngủi, với tác phẩm đầu tiên là
truyện ngắn Chống nạng lên đường đăng trên Ngọ báo vào năm 1930, ông đã để lại
một kho tác phẩm đáng kinh ngạc: hơn 30 truyện ngắn, 9 tập tiểu thuyết, 9 tập
phóng sự, 7 vở kịch, cùng 1 bản dịch vở kịch từ tiếng Pháp, một số bài viết phê
bình, tranh luận văn học và hàng trăm bài báo viết về các vấn đề chính trị, xã hội,
văn hóa. Một số trích đoạn tác phẩm của ơng trong các tác phẩm Số đỏ và Giông
Tố đã được đưa vào sách giáo khoa môn Ngữ văn của Việt Nam
Nổi tiếng với giọng văn trào phúng châm biếm xã hội của mình, một số người
đã so sánh ơng như Balzac của Việt Nam. Tuy nhiên, cũng vì phong cách "tả chân"
và yếu tố tình dục trong tác phẩm mà khi sinh thời ơng đã bị chính quyền bảo hộ
Pháp tại Hà Nội gọi ra tịa vì "tội tổn thương phong hóa" (outrage aux bonnes
moeurs). Về sau này, tác phẩm của ơng lại bị cấm in, cấm đọc vì là "tác phẩm suy
đồi" tại miền Bắc Việt Nam và Việt Nam thống nhất cho đến tận cuối những năm
1980 Vũ Trọng Phụng đựơc mệnh danh là : “Ơng vua phóng sự đất Bắc”, là nhà

3



văn có những đóng góp xuất sắc trên địa hạt phóng sự ở cả phương diện nội dung
và hình thức nghệ thuật, Vũ Trọng Phụng đã ghi được dấu ấn riêng của mình trong
làng báo và chính phóng sự đã khẳng định vị trí của Vũ Trọng Phụng với văn giới
đương thời.
Từ năm 1932 đến năm 1938 ông cho ra mắt bạn đọc 12 thiên phóng sự trong
đó nổi lên là: Cạm bẫy người (1933); Kỹ nghệ lấy Tây (1934); Hải Phịng 1934
(1934); Cơm thầy cơm cơ (1936); Vẽ nhọ bơi hề (1936); Lục sì (1937); Một huyện
ăn tết (1937).
Phóng sự của ơng khơng chỉ phản ánh tức thời, nóng hổi các sự kiện mà

các

ấn đề xã hội nhức nhối cịn thể hiện trên từng trang viết, có sức ám ảnh mănh liệt,
với khả năng quan sát tinh nhạy và một trái tim nhân đạo yêu lẽ phải, chuộng

sự

thật, mỗi thiên phóng sự của Vũ Trọng Phụng giống như những “ quả bom” công
phá, tẩy trần bộ mặt thực của xã hội đương thời. Đồng thời mỗi phóng sự giúp con
người nhận thức được thảm cảnh mà tìm cách thốt khỏi nó, nhằm vươn tới những
điều tốt đẹp, lương thiện, phóng sự Vũ Trọng Phụng đã trở thành một bức thơng
điệp có sức lay động hàng triệu tâm hồn.

2. Phóng sự Cạm bẫy người:
Vũ Trọng Phụng là người mở đầu cho lối “tả chân”, và được đánh giá là nhà
văn “tả chân số một’’của văn học Việt Nam. Vấn đề “tả thực xã hội’’ln được coi
là mục đích chính trong sáng tác của ơng. Ơng đã viết nhiều thiên phóng sự về
những tệ nạn của xã hội đương thời, bằng chính tài năng và sức lao động miệt mài

của mình, Vũ Trọng Phụng đã thu hút được người đọc ngay từ những tác phẩm
đầu tay. Cạm bẫy người với tất cả sự đặc sắc của nó, thiên phóng sự này là một
trong những tác phẩm đã đưa Vũ Trọng Phụng bước lên vị trí của “ơng vua phóng
sự đất Bắc”. Lê Tràng Kiều đã phải thốt lên rằng: “Cạm bẫy người là thiên phóng
sự đầu tiên ở nước ta đã có giá trị được in ra thành sách, nó cũng là thiên phóng sự
đầu tiên của ơng Thiên Hư. Nhưng “bước đầu đã là một bước vẻ vang”. Cạm bẫy
4


người vừa ra đời đã được ngay các báo chí và các nhà phê bình cực lực hoan
nghênh. Nó đã làm cho tài Vũ Trọng Phụng khơng cịn ai ngờ được nữa”. Cạm
bẫy người đã góp phần tạo dựng nên bức tranh toàn cảnh về sự xấu xa, giả dối của
xã hội đô thị Việt Nam những năm 30.

II.

VẤN ĐỀ PHẢN ÁNH HIỆN THỰC TRONG PHÓNG SỰ “CẠM
BẪY NGƯỜI”:
1. Bức tranh về thế giới cờ gian bạc bịp:
1.1

Chân dung những tín đồ “đạo đỏ đen”:
Thiên phóng sự dài 14 chương viết về nạn cờ bạc bịp ở Hà Nội vào những

thập niên đầu của thế kỷ XX. Trong tác phẩm nhà văn đã đi sâu khám phá cơ cấu
tổchức, không khí hoạt động sơi nổi, ồn ào của cả làng bạc bịp. Theo bước chân
của tác giả chúng ta có thể thấy mọi ngóc ngách của cái “nghề” “nguy hiểm” và
“bẩn thỉu” này. Đó là một tổ chức phát triển tới trình độ cao của một bộ máy khá
hồn chỉnh và có sự chỉ đạo chặt chẽ giống như một đảng phái. Đứng đầu là các vị
thủ lĩnh tối cao, hai đảng trong làng bịp, một bên do Ấm B phụ trách, một bên là

cánh Thượng Ký. Chúng vừa có sự thống nhất tương đối trong mục đích và bản
chất, là đồng nghiệp của nhau nhưng đồng thời cũng là kẻ tử thù của nhau.
Để làm lên cái thế giới cờ gian bạc bịp ấy, phải kể đến sự góp mặt của những
tín đồ trong giới đỏ đen, chúng được coi là linh hồn của cái thế trận ấy, vì qua
chúng thế giới cờ gian, bạc bịp được phản ánh một cách rõ nét hơn.Trước khi biết
đến cái được gọi là “kỹ nghệ bạc bịp” chúng ta cần có cái nhìn khái qt về chân
dung của những tín đồ này.
Đầu tiên phải kể đến đó là trùm Ấm B - người chỉ huy tối cao của một cánh
bạc.Trong Cạm bẫy người Ấm B hiện lên khá đậm nét ở cả ngoại hình lẫn tâm tính
bên trong. Ấm B xuất hiện ngay từ những phần đầu tiên của tác phẩm và làm
người đọc ấn tượng ngay bởi vẻ bề ngoài của nhân vật này, sống trong làng bịp lại

5


là quân sư, thì thiết tưởng “những người chỉ nghe danh mà không biết mặt ắt phải
tưởng tượng rằng đến hạng người đáo để này thì từ nét mặt, giọng nói đến dáng đi
cho đến tà áo, gấu quần, tất nhiên cái gì cũng có vẻ bịp cả”.Thế nhưng với cái vẻ
bề ngoài hiện lên, Ấm B giống như một viên chức thượng lưu danh giá, một con
người lương thiện, đứng đắn. Ơng ta vừa có vẻ đẹp lịch lãm, lại vừa có cái khơn
ngoan, hiểu đời, hiểu thế sự, một con người sắc sảo, nhanh nhẹn và đầy từng trải.
Dân gian xưa có câu “trơng mặt mà bắt hình dong”, nhưng đối với trường hợp của
Ấm B thì ngoại lệ, bởi hình vẻ ấy, tiếng nói, điệu bộ ấy đâu phải của một kẻ lừa
lọc. Như vậy ngay cái vẻ ngoài đã là một sự bịp, một sự lừa đảo, ngoại hình đã trở
thành một thứ “ xúc tác” hữu hiệu trong nghề nghiệp của Ấm B. Ông Ấm xử lý
công việc đâu ra đấy, từ cách cử người đi săn mịng đầy khơn ngoan và quyết
đốn. Rất thơng minh khi bầy trận để cử người đi “trinh phạt”. Rồi trong từng
hành động của ông càng

thấy được cái mưu mẹo, cái liều lĩnh và cả cái kinh


nghiệm hơn người của Ấm B.
Người xưa có câu “nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, điều ấy xét ra cũng đúng với
Ấm B, nhưng đúng ở mặt tiêu cực. Ông Ấm cũng “nghệ tinh”, cũng “thân
vinh”nhưng là “tinh”và “vinh’’trong nghề bạc bịp. Tinh đến mức khơng một thủ
thuật, khơng một ngón địn bịp nào ông không biết. Vinh đến mức cùng với
Thượng Ký trở thành thủ lĩnh tối cao của một trong hai cánh bạc bịp lớn nhất Hà
Thành.
Ở thể loại tiểu thuyết ta đã được chứng kiến sự đổi thay của số phận nhân vật. Nếu
trước đây Tạ Đình Hách (Giơng tố) mới chỉ là một bác cai thợ, bằng con đường
bẩn thỉu và đầy tội ác Nghị Hách đã leo lên trở thành một đại tư bản cỡ “phú gia
địch quốc”. Hay một Xuân Tóc Đỏ từ một anh nhặt ban ở sân quần, từ một anh
quảng cáo thuốc lậu,trở thành một sinh viên trường thuốc, một quan đốc tờ Xuân,
một niềm hy vọng của giới quần vợt Bắc Kỳ, một vĩ nhân cứu quốc...(Số đỏ).
Sang đất phóng sự người đọc tiếp tục thấy được sự đổi thay số phận của từng
nhân vật, không thể không nhắc đến những chuỗi ngày thăng trầm sóng gió của
6


trùm Ấm B (Cạm bẫy người). Vốn là một cậu ấm con quan xuất thân từ một gia
đình có dịng dõi gia thế nhưng rong chơi cờ bạc sớm nên đã khơng giữ nổi cơ
nghiệp của gia đình mà nhanh chóng đưa nó vào trị đỏ đen. Cuộc sống phiêu bạt
giang hồ, nếm trải dư vị của cuộc sống, trùm Ấm B đã trở thành quân sư chuyên
đi lừa bịp thiên hạ và nhanh chóng trở thành một trong những vây cánh mạnh
trong làng bịp, với những mánh khóe lừa bạc đến hạng cao siêu, và rồi hắn đã leo
lên được chức ông trùm trong làng bịp với mạng lưới săn “mòng” khắp nơi, sẵn
sàng đưa con mòng

vào chỗ trắng tay.


Ấm B “quá nửa đời người, đã sống bằng nghề cờ bạc” nhưng để có được

“địa

vị” một ơng trùm trong giới đỏ đen không hề dễ dàng và bằng phẳng một chút nào,
hắn cũng đã phải trải qua và nếm đủ mùi của đau đớn và mất mát, hắn cũng đã
phải là những tên “tạ” “quých” thời Ba Sống, Hai Tơm: “Tơi đã thua vì đỏ đen, tơi
lại cịn thua vì bịp nữa: Tơi đã phải xa gia đình vì đã tàn phá cơ nghiệp, tôi đã
khốn khổ, ê trệ – ê trệ nhiều phen lắm”. Cuộc đời của một tên trùm bạc bịp chất
chứa đầy những thăng trầm lên xuống, những nhục nhã mất mát. Nhưng có lẽ cái
mất mát lớn nhất mà Ấm B không nhận thấy là mất đi thiện lương, mất đi cuộc
sống bình thường của một con người lương thiện để gánh lấy những sự lo âu trong
vịng xốy đỏ đen.
Ấm B khơng phải chỉ là “hạng người nguy hiểm đáng cho đời đổ lỗi tất cả tính
xấu” như Nghị Hách (tiểu thuyết Giơng tố) một kẻ không ngần ngại trước bất kỳ
tội ác nào từ “lừa người được số bạc trăm” tới “thông dâm”, “giết người”,con
đường của hắn đầy tội ác “mỗi chân lông đều đẫm máu”.Trong tâm hồn của Ấm B
vẫn “leo lét ánh đèn nhân tính” có nghĩa nhân tính vẫn tồn tại, bằng cài nhìn nhân
đạo khách quan, Vũ Trọng Phụng đã cho người đọc nhận thấy một con người khác,
một phương diện khác của ông trùm bạc bịp. Thực ra điều này khơng chỉ có ở con
người của Ấm B, mà còn được thể hiện ở một số nhân vật khác trong phóng sự Vũ
Trọng Phụng, cái xấu và cái tốt có sự đan xen hịa quyện nhau.

7


Xét ở phương diện tích cực Ấm B là người “có đủ thủy chung”, trọng tình, trọng
nghĩa và biết cách khu xử. Khơng chỉ trong lời nói mà ơng Ấm cũng có những
hành động đầy nghĩa hiệp đối với những người “cùng hội, cùng thuyền”, ơng đã
thực lịng giúp đỡ anh em trong làng bịp lúc xa cơ lơ vận. Việc ông thu nhận Ba

Mỹ Ký, giúp đỡ anh Vân khi túng đói, giúp chiến hữu trong làng bịp chuyện nọ,
chuyện kia đã thể hiện được phong cách “sinh tử có nhau”, đồng thời thể hiện
được tư cách của kẻ đứng đầu, chỉ đạo và giải quyết tất cả mọi vấn đề. Hình ảnh
Ấm B trong đám tang Ba Mỹ Ký đã thực sự đem đến nhiều bất ngờ cho người đọc,
té ra thủ lĩnh cờ gian, bạc bịp ấy, tưởng đã mất hết thiện tính, hóa ra vẫn là người
“có trước, có sau’’. Và phải chăng bằng “tài năng” và những phẩm chất này mà
ông Ấm đã được tôn xưng làm thủ lĩnh của một cánh bạc.
Khác với Ấm B, Cả Ủn – người giữ cái két lớn nhất của làng bịp, cùng với Ấm B
là hai người “cầm cân nảy mực” cho đảng bịp ở đất Hà Thành. Cả Ủn là kẻ giầu có
nhờ biết tận dụng cơ hội và những vận may trong nghề cờ bạc. Cả Ủn bắt

đầu

bước chân vào làng cũng chỉ với tư cách của một tên “tạ” đầu trâu mặt ngựa

làm

nghề dẫn khách, nhưng do khôn ngoan lọc lõi, hắn đã kiếm được rất nhiều tiền nhờ
việc mối lái, đưa đường. Đến khi Ấm B trở thành trùm của một cánh bạc, Cả

Ủn

lại bắt tay làm ăn trở thành “kẻ giữ cái két lớn nhất của làng bịp”.
Trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng khơng hồn tồn chỉ có những con người
xấu, mất hết nhân tính, lương tri, mà trong sáng tác của ơng vẫn cịn hàng loạt
những nhân vật có nhân cách khác. Nhìn sang thể phóng sự ta bắt gặp một Ký Vũ,
một nhân vật đặc biệt, luôn phải đấu tranh giữa sự tồn tại và cái chết, danh dự, tư
cách, và lòng hiếu thảo, và cuối cùng lòng hiếu thảo đã thắng. Ký Vũ một tay “săn
mịng” có tiếng, mồ côi cha từ bé, mẹ ở vậy nuôi anh, Vũ là người thơng minh, có
chữ nghĩa nhưng theo như lời nhận định của


tác giả “lại là một trong số nghìn

vạn người bị kinh tế làm ra thất nghiệp”. Giữa cái lúc “ưu nhàn bất đắc dĩ”,giữa
lúc phải lo tiền thuốc cho mẹ, lo việc chạy gạo ăn từng bữa, anh đã gặp ông Ấm
B và được ông truyền cho cái ngón bịp để sống, rồi
8

trở thành một quân sư đắc


lực, một “bịp lũa” nổi tiếng trong nghề bạc bịp. Điều đáng nói ở đây là Ký Vũ
vẫn thấy việc mình làm là đáng xấu hổ, người đọc chợt nhận ra cái mặt đáng trân
trọng trong con người nhân vật. Ba Mỹ Ký tuy xuất hiện thoáng qua nhưng đã
gây được ấn tượng với người đọc bởi thân hình tiều tụy, ốm yếu,và số phận “sinh
nghề tử nghệ” với cờ bạc. Vì cờ bạc mà mất việc, vì cờ bạc mà bị đánh đến mang
trọng bệnh, sống lay lắt và cuối cùng chết trong cô đơn.
Tham Ngọc từ một thằng Xuân – người ở, nhờ vào bộ mã đạo mạo, sáng sủa cùng
với cái tài nhanh tay, nhanh mắt lên ln được đóng những vai ơng Tham, ơng
Nghị giầu có và sang trọng. Hắn trở thành một quân sư trong làng bịp, nhưng đằng
sau phong thái đường hoàng, lịch sự là một kẻ đê hèn, tham lam, phản bạn một
cách bỉ ổi.
Nhắc đến tín đồ của đạo đỏ đen khơng chỉ có những chun gia bạc bịp, mà cịn
phải kể đến những con “mịng”, đó là những con bạc khát nước, đam mê cờ bạc
đến tột cùng, mất hết cả tính người, cả sự sáng suốt. Đó là Tham Vân, một cậu ấm
được ăn học tử tế nhưng vì cờ bạc đã sẵn sàng làm nội gián, làm “người hướng
đạo” để Tham Ngọc đến thịt con mòng là cụ Phán già, cha đẻ hắn, để kết thúc ván
chơi, hắn cũng là người được chia chác. Hay ông chú họ bồi An, cầm tiền ra tỉnh
với mục đích cắt thuốc về cho con đang ốm thập tử nhất sinh, nhưng máu đỏ đen
đã đưa ơng già đáng thương đó vào trịng, và cuối cùng phải trở về tay không.

Như vậy điểm sơ qua chân dung những tín đồ của đạo đỏ đen ta thấy “mỗi
người là một thế giới riêng” “một con người trong một con người”, chúng thuộc
đủ mọi tầng lớp, mọi giới, mọi ngành. Từ già đến trẻ, từ những ơng Tham, ơng
Phán giầu có tới người lao động nghèo, những ơng tư sản cỡ lớn cũng có, những
người bn bán nhỏ cũng có, kẻ vơ học cũng chơi, mà người có học thức cũng
chơi...Những con bạc xuất hiện trong tác phẩm không phải với tư cách là một cá
nhân đơn lẻ, mà chúng đủ tầm vóc đại diện cho cả một lực lượng xã hội. Qua
việc khắc họa chân dung tín đồ đạo đỏ đen, Vũ Trọng Phụng đã cho thấy tệ nạn
cờ bạc đang hoành hành, tàn phá đến tận gốc đạo đức xã hội, tệ nạn cờ bạc đã
9


thực sự báo động. Nó đã đẩy biết bao con người, bao số phận vì phải sống ở “cái
xã hội cờ bạc” như Ấm B, như Ký Vũ rơi vào con đường bài bạc, lừa lọc, bao
người mất hết cơ nghiệp, bao gia đình tan vỡ, bao nhiêu số phận rơi vào nheo
nhóc vì sống trong cái xã hội đen tối đầy những cạm bẫy giăng mắc, và những
đồng tiền bất chính điều khiển họ. Nếu như được sống trong một mơi trường
trong sạch thì con người thiện căn trong họ sẽ phát huy và chắc hẳn sẽ có ích
cho xã hội, vì ở họ ta vẫn thấy le lói chút ánh sáng của lương tri, của tình nghĩa.

1.2

Tổ chức bộ máy kỹ nghệ bạc bịp:
Điều đáng nói trong Cạm bẫy người là cờ bạc khơng cịn là thú vui, tiêu khiển

nữa mà nó trở thành một nghề có tổ chức và ông trùm hẳn hoi. Chúng không bao
giờ bỏ sót một con mồi nào, khơng cho một đối tượng nào có thể thốt thân, tất cả
đều phải trở thành con “mòng” cho chúng bu vào “làm thịt”. Thời điểm xuất trận
mạnh nhất và được gọi là “mùa săn” đó là vào kỳ lĩnh lương của công chức, cả cái
làng bịp ấy ráo riết ra quân, dưới sự điều hành của những tên trùm tại “sở chỉ

huy’’ở phố Hàng Cá, trùm Ấm B “một tay đỡ lấy trán,tay kia bấm đốt tính lẩm
nhẩm như một thầy bói lấy số tử vi: “hai đám xì, một đám đất, một đám xóc đĩa,
một ván tổ tơm. Đám xì ở Hàng Kèn đã có Ba Mỹ Ký... đám xì đường Cột Cờ đã
có tay Bỉnh, tay Sính... Đã là nghề thì phải có ngón, trong nghề cờ bạc cũng cần
những ngón nghề, từ việc mở lớp đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ đến việc áp dụng
“luật” thống nhất, làng bịp cịn có kho vũ khí chung và có một ngân hàng chung,
bạc bịp lúc này đã thực sự được nâng lên thành “kỹ nghệ’’.
Chỉ điểm qua “nhân sự’’cùng phong cách tổ chức, quản lý, điều hành như trên
cũng đã thấy cái cơ cấu làng bịp chặt chẽ biết chừng nào. Cái “cỗ máy” ma quái
đó đã “làm thịt’’ biết bao người. Nhập cuộc vào làng bịp, Vũ Trọng Phụng khơng
chỉ đóng vai một nhân chứng, mà có lúc ơng đã “lặn” sâu vào gan ruột của cơ cấu
ấy, với đủ tư cách của một thành viên cùng “ăn một mâm, nằm một chiếu” với
làng bịp để phát hiện ra liên tiếp những điều thú vị đến hãi hùng.

10


Bức tranh về thế giới cờ gian bạc bịp sẽ được tái hiện rõ hơn qua “kỹ nghệ
bạc bịp”. Đối với một người bình thường, cờ bạc liên quan đến vận đỏ đen, vận đỏ
thì được, vận đen thì thua. Nhưng đối với những kẻ cờ bạc chun nghiệp thì
khơng có sự đỏ đen ở đây, một khi con bạc đã xa lưới chỉ có thua cháy túi, bọn
chúng chỉ việc “nhét đất thó vào mũi mà lấy tiền”, bởi những thủ đoạn đã được kẻ
bịp tổ chức sắp xếp từ trước và tiến hành khi con mòng ngồi vào chiếu. Toàn bộ
những thủ đoạn ấy được che giấu, sắp xếp cao cường, đầy bản lĩnh. Dưới bàn tay
điều khiển của Ấm B, chúng được tổ chức tiến hành theo từng khâu.
Ngay từ khâu chuẩn bị sắp xếp đã rất tinh vi, Ấm B đã xem xét, lựa chọn vai diễn
và phân vai, các vai diễn ấy sẽ phù hợp với từng đối tượng, mục đích để con mịng
khơng nghi ngờ mình sẽ chơi với kẻ có trình độ cao trong nghề cờ bạc: Nếu “ơng
là một nhà bn. Ơng sẽ gặp một người trông thật là chủ hiệu ngồi hầu bàn. Ơng
là một cơng tử nhà giầu, tơi sẽ để ông ngồi với một chàng trông thật ra lối con nhà

phá của...và chưa chắc đã khơng có một vài cơ gái mới ngồi cản đâu. Cịn nếu ơng
là một viên tránh tổng, lý trưởng nào, tôi sẽ dắt cho một thằng ngăm ngăm da trâu,
trơng rõ Đình Dù đặc. Hoặc nếu ông là chu trếch sộp, tất nhiên phải có một bác tài
răng vàng, đội cát – két hay một ơng cịn ngun búi tóc lại mặc áo cánh cổ cứng
ngồi huề ơng chứ...biết làm thế nào”.
Làng bịp cịn có cả một “xưởng chế tạo khí giới”, đó là phương tiện phục vụ cho
mọi cơng cuộc “săn mịng”. Dưới bàn tay phù thủy của Ba Mỹ Ký những cỗ bài đã
biết nói, những con xúc xắc đã tuân theo ý muốn cua con người, chúng trở thành
phương tiện đắc lực trong việc lừa lọc của tổ chức bạc bịp này. Bên cạnh “xưởng
chế tạo khí giới” là ngân hàng của làng bịp do Cả Ủn đứng đầu, chuyên cấp vốn để
“bịp” đi làm ăn.
Với sự tổ chức ban đầu kỹ lưỡng, chu đáo như vậy, khi đã ngồi trên chiếu bạc, con
mồi sẽ khơng thể thốt khỏi cái nanh vuốt của cái tổ quỷ ấy. Từ cơ cấu tổ chức
chung, tác giả đưa chúng ta đến cận cảnh, đi vào từng bộ phận kết cấu của nó,
tường tận và cụ thể, đó là các ngón địn trên chiếu bạc. Trong vụ săn ông thân đẻ ra
11


Tham Vân, Tham Ngọc “giáo sư” đã hé mở ra một vài đường cơ bản, đó là các
ngón bịp: “Lối đánh nhị cập nhất”, “lối hụt nọc”, “lối đánh thông lưng”...Rồi qua
ông “quân sư” bạc bịp, chúng ta lại hiểu rõ những đòn cơ bản khác đến từng chi
tiết: “Đòn thùy châu”, “đòn Vân Nam”, “đòn bát lò xo”, “đòn nam châm”, “địn
kìm”, “địn Ba Giai”...các lối chơi: “Giác mùi”, “giác bóng”, “con xúc xắc lưỡng
diện”, “đánh ống”, “đánh cản”, “đánh lớp”, “đánh mẫu tử’’. Cạm bẫy người nổi
trội lên

khi được tác giả khai thác vấn đề không chỉ dưới góc độ phân tích bản

chất của một cơ cấu tổ chức, mà cịn tiếp cận vấn đề dưới góc độ một kỹ nghệ. Vũ
Trọng Phụng đã khám phá ra bao điều bí ẩn trong ngón nghề bịp của một làng bịp

chuyên nghiệp, cao tay: “Có ba lối tài bàn.
Thứ nhất: Lối đánh kiệu hay là nhị cập nhất, hai người thông lưng hại một người
bằng những luật nhất định như để tay vào đùi, vào gối...muốn ăn quân gì,

hoặc

chờ quân gì cứ việc ra hiệu để bên kia để ý đánh cho mà ăn hoặc hạ ù.
Thứ nhì: Hụt nọc...Bắt cái xong, mình phải cầm lấy cái phần bài nọc vờ chang đi
mấy lớp. Thế là vài ba quân đã theo các chang chui lọt, nằm ngọn trong tay áo
mình rồi...thừa quân thì ù dễ lắm...
Thứ ba: nghĩa là hụt vào phần bài của ơng "bạn đồng chí" với mình. Bắt cáixong,
cầm phần bài mình trong tay rồi, mình lại phải vớ lấy "phần bài tịng phạm" liệng
trả ơng bạn.”
Để sử dụng những thủ thuật, những ngón bịp tinh vi này đòi hỏi người chơi phải
hết sức lanh lẹ, khéo léo, rất cần sự đoàn kết của dân làng bịp,và phải thật nhanh
tay, để khi chang bài có thể xoay được vài quân bài vào trong tay áo. Kẻ bịp cũng
phải là người có “gan” để sẵn sàng chơi những ngón địn mạo hiểm như “địn Vân
Nam”, khi cần thiết, con bịp sẽ tráo hẳn một cỗ bài đã xếp sẵn nước trong túi,



cơ hội sẽ tráo ngay. Để sử dụng đòn này cần một người hộ trợ để làm một vài
động tác như hút thuốc nào vặt, khịt mũi, uống nước để kẻ kia có thời cơ tráo ngay
cỗ bài lừa. Trong một vài trường hợp bất chắc cũng có khi con “mịng” tinh ý phát

12


hiện ra hay đang chơi mà bị lộ tẩy như khi con xúc xắc thủy ngân bị vỡ, ấy là khi
kẻ bịp phải rất nhanh trí, khơn khéo để xử lý hòng đánh lạc hướng người chơi. Ấm

B và Tham Ngọc là những người rất có kinh nghiệm trong trường hợp này. Những
cách đánh bạc tiêu biểu trên đây mà thực chất là những thủ đoạn được Vũ Trọng
Phụng miêu tả rất có nghề. Có tới 29 thủ đoạn được Vũ Trọng Phụng đưa vào Cạm
bẫy người, có thủ đoạn đánh bạc trên chiếu bạc thì cũng có thủ đoạn triệt hạ con
bạc ngoài đời, cũng đủ cả,nào là “siêu hình học”, “thần linh học”, “tinh thần
học”...,và có cả cách cầu cứu đến... khoa học. Có một

cách mà người giầu tưởng

tượng nhất cũng chịu thua đó là: “cắm đinh vào bát nhang nhà nó” (tức con bạc
đối thủ ). Có thể nói những thủ đoạn được làng bịp sử dụng “mn hình mn
trạng, sẵn sàng ứng đối cả “những thủ đoạn ngồi chương trình”, nước đường cùng
là khi bị thua bạc sẽ dùng cách vu oan đổ tội cho người cùng chơi, để lấy lại trót
lọt số tiền mất; hay thủ đoạn đòi tiền táo bạo của Ấm B khi giả vờ bị thương, thủ
đoạn tống tiền trắng trợn với nhà tư sản Nguyễn Đình Mầu “ơng Mầu đem mồi
qn tử ra khiến ơng Nghị phải nhận mình là bịp thì ơng Nghi lại lấy mồi chi hiếu
bắt ơng Mầu đã quých lại quých thêm. Từ việc miêu tả cận cảnh, những canh bạc
trên chiếu, nơi làng bịp tung quân xuất trận với tất cả các ngón địn, dữ dội, áp đảo,
với những thủ đoạn cao cường, tinh vi, con mịng một khi đã ngồi vào chiếu bạc
thì dù có “kinh nghiệm”đến mấy cũng chỉ như một

“lũ lợn đã nằm sẵn cả” làng

bịp chỉ phái người đi “chọc tiết” mà thơi. Điều đó cho thấy rằng những ngón nhà
nghề này đã đạt tới mức “quỷ thuật”đủ loại, với sự “thiên biến vạn hóa” từ thấp
đến cao, từ “non” đến “già”, từ đơn giản tới tinh vi phức tạp, tùy từng đối tượng
mà tung ra những ngón địn phù hợp để cuối cùng có thể móc sạch hầu bao của
họ.
Khơng đơn thuần là những canh bạc giải khuây, “cóp nhặt” từng đồng con
con như những anh phu xe trong Tôi kéo xe của Tam Lang, trong con mắt của Vũ

Trọng Phụng, tệ nạn cờ bạc đã trở thành “quốc nạn” hoành hành tàn phá tới tận
gốc rễ đạo đức xã hội, bất kể ai cũng có thể xa vào “cạm bẫy” đó, từ một ơng
13


Phán lương tháng gần 10 lạng vàng nhưng tháng nào cũng vậy, cứ đến mùng 10 là
nhà đã khơng cịn đến một xu, một ông chủ báo thua một canh tài bàn163 đồng
gần bằng 7 lạng vàng, một nhà buôn 1300 đồng (khoảng 50 lạng vàng) chỉ một
canh xóc đĩa.Tổ chức bạc bịp ấy hoành hành đã lâu và rất mạnh trong xã hội, nó
mạnh đến nỗi các nhà chức trách phải bó tay khơng sao dẹp nổi. Hệ quả của tệ
nạn cờ bạc thật đáng

sợ, đơn giản nhất cờ bạc thua dẫn đến trộm cắp, càng nhiều

tụ điểm cờ bạc càng nhiều trộm cắp...Vũ Trọng Phụng đã dũng cảm nhìn thẳng
vào sự thật, khơng thi vị hóa cuộc sống, khơng nhìn cuộc sống từ cái vỏ hào
nhống bên ngồi, ngòi bút Vũ Trọng Phụng đã cắm sâu vào cái ung nhọt, với
những sự thật ghê rợn và trần trụi. Nếu ta thấy những lạc hậu nghèo đói, những
tráo trở thét gào trong các tác phẩm của Nguyễn Công Hoan, Ngun Hồng,
Nam Cao, Ngơ Tất Tố, thì ta lại thấy một bức họa sâu sắc, đầy đủ tình trạng xã hội
trong những tác phẩm của Vũ Trọng Phụng. Chính vì vậy thiên phóng sự Cạm
bẫy người đã trở thành một trong những phóng sự xuất sắc điển hình nhất về tệ
nạn cờ bạc ở nước ta trong chế độ cũ, và vẫn còn giữ nguyên giá trị tố cáo sâu sắc
cho thời buổi hơm nay.

2.Tồn cảnh xã hội đang trên đà tha hóa:
Trong Cạm bẫy người, Vũ Trọng Phụng khơng chỉ nhìn hiện tượng cờ bạc từ
bản chất của nó, không chỉ đơn thuần đề cập đến vấn đề cờ gian bạc lận, mà qua
đó tác giả dựng lại một phần thực trạng xã hội, tác hại của cờ bạc đối với xã hội và
xa hơn nữa là tình trạng tha hóa của một bộ phận con người trong xã hội. Đồng

thời lên tiếng cảnh tỉnh lối sống vì đồng tiền. Ông đã tỏ thái độ phẫn uất cực điểm
đối với hiện tượng xã hội đó.
Đồng tiền món lợi trước mắt đã khiến bọn ham đánh bạc trở nên lừa lọc, ám
hại nhau. Chúng chăng lưới nhện khắp nơi săn bắt “mịng”, chúng tính tốn chi li
từng nước bài, thậm chí làm giả cả quân bài. Ngay trong làng bịp, những người
cùng chí hướng cũng khơng cịn tin tưởng nhau mà ln tìm cách sát phạt nhau,

14


triệt hạ nhau. Cờ bạc đã len lỏi vào nhiều gia đình, làm lung lay mối quan hệ bền
chắc gia đình. Một đứa con được ăn học tử tế đã khơng ngần ngại biến bố mình
thanh “mịng” chỉ vì ơng bố luôn sẵn sàng đánh bạc nhưng lại rất chi li với con.
Tham Vân \sinh ra trong một gia đình giàu có, con “cụ Phán thượng hạng đã về
hưu, hưu bổng hàng tháng rất to, và bà mẫu anh, một người mẹ đảm, đã một tay
tậu nổi mấy tòa nhà lộng lẫy”, và hơn nữa sẽ “là chồng một mỹ nhân” ấy vậy mà
Tham Vân tìm mọi cách để “nạo” tiền từ người cha thân yêu của mình. Nhân vật
đã ra sức biện minh cho hành động “bất lịch sự”ấy là bởi “ơng cụ đưa tiền cho
mình thì tỏ ý xót xa mà đến khi ngồi vào đám bạc trăm này đến chục khác chẳng
lấy làm tiếc”. Nhưng thực chất dù có cố gắng viện lý lẽ để khỏa lấp cho bản thân
bao nhiêu thì chúng ta vẫn có thể khẳng định chắc chắn về sự xuống cấp trầm
trọng trong nhân cách của con người ấy. Tham Vân hiện nguyên hình là một kẻ mờ
mắt vì tiền và táng tận lương tâm khi bầy mưu biến “ơng thân” thành “mịng”, hắn
đã chủ động “rước” bịp về “mong ngài xếp cho một người có vẻ như ơng Tham,
ơng Phán, đúng chiều thứ bẩy sang bên tơi có hàng. Chính ơng thân tơi là mịng,
chắc chắn lắm’’ và chính hắn làm hướng đạo để “thịt”bố, lấy tiền chia nhau, lại
còn hỉ hả giới thiệu cái ơng đến “giết bố nó để cứu con”, cái ông Tham Ngọc giả
danh, chuyên gia làng bịp đấy là ân nhân. Xét cho cùng sức tàn phá dữ dội của cờ
bạc bịp là do lòng tham, do sức mạnh của đồng tiền, và điều quan trọng là nó có
sức tàn phá dữ dội đến nhân cách con người, dù là kẻ giăng bẫy hay nạn nhân sa

bẫy, cuối cùng đều có chung số phận là bị thần đỏ đen biến họ thành những con
bạc mất hết tính người. Từ sức cám dỗ của đồng tiền, rồi đến chỗ bế tắc cần đồng
tiền thì ngay cả bố đẻ mình cũng khơng tha. Sức cám dỗ của đồng tiền qua quân
bài đỏ đen còn mạnh hơn cả tiếng gọi, cả ước muốn của người mẹ đang hấp hối
muốn gặp đứa con trai dứt ruột đẻ ra của mình lần cuối.
Dù là ai đi chăng nữa, khi bước chân vào vịng cờ bạc, thì đều bị thần đỏ đen
lấy đi nhân tính. Người chú họ bồi An cầm tiền ra tỉnh khơng phải là để đánh bạc
mà chính là để cắt thuốc chạy chữa cho con ở quê nhà đang trong cơn nguy kịch,
15


cận kề cái chết. Nhưng máu đỏ đen cùng với sự nhẫn tâm khơng thương xót gì đến
sự sống của đứa con đau yếu khiến ông rơi vào “Cái bẫy”của chính đứa cháu họ
mình. Hình ảnh nhân vật thua cháy túi “rũ rượi như con chim bị đạn”lủi thủi ra về
vào sáng hôm sau đã để lại nhiều ám ảnh. Bồi An đã bị sức mạnh của những đồng
tiền lôi cuốn đến mức táng tận lương tâm, vì tiền hắn bất chấp cả đạo lý, quyết
chiếm đoạt đến cùng không đếm xỉa gì đến sự sống của người em họ. Hắn bơ bơ
nói ra những lời thất đức: “ơng ta từ Phủ Lý ra đây định cân sâm cho con giai đang
ốm thập tử nhất sinh đấy...ông bảo thế mà khơng thịt thì có dại khơng? Mình
khơng xơi thì cũng đến lượt chán vạn những thằng khác chúng nó cũng xơi”, rồi
hắn ta hỉ hả một cách tàn nhẫn khi “mừng rỡ cuống quýt vồ lấy tập giấy bạc được
chia mà chẳng nghĩ đến đứa em họ đang chực chờ cái chết... “ốm no thì bị
dậy”vậy...Thơi, chẳng qua là số nó chết, nó có vơ phúc thì mới sinh vào làm con
lão ta!...”. Trước câu nói dường như vơ cảm ấy ta lại nhận ra một điều, đứng trước
đồng tiền mọi tình cảm đều bị triệt tiêu. Con người chỉ tồn tại trong quan hệ
“khôn sống dại chết”.
Trong cái xã hội cờ bạc, mọi quan hệ đều liên quan đến tiền “mặt trời chính là
đồng xu, đồng xu đã gợi lên trong lòng người một mối thù ghét đê hèn bẩn
thỉu”(M.Gorki). Nếu Tham Vân sẵn sàng làm “thịt”cả bố đẻ của mình thì cũng có
lúc anh bị người khác “thịt”lại, “anh cịn nỡ thịt cả ơng cụ để lấy tiền ni gái thì

gái nó rất có thể thịt anh là nhân tình để lấy tiền ni thân”, “mẻng”của Vân là
Dung, ả quan hệ với anh cũng chỉ vì tiền. Dung trở thành “chim mồi”đi săn
“mịng” cho Sinh cũng vì tiền. Và Vân cũng là một “mòng” mà Dung đưa vào kế
hoạch của mình, quan hệ tình cảm của họ chỉ là cái bề ngoài, ẩn sâu bên trong là
sự bịp bợm, giả tạo, tất cả những con người này đều đứng trong vòng quay mà
đồng tiền đứng giữa chi phối họ. Cả cái “tập thể nhân sự” của cái làng bạc bịp
trong Cạm bẫy người đều là những tên bất lương, tàn độc, tham lam, lừa lọc, ngày
đêm vắt óc nghĩ ra những mưu mô, gài thêm những “cạm bẫy” thâm độc để “làm
thịt” nhiều “con mồi”, làm khuynh gia bại sản, nhiều gia đình li tán. Từ tên trùm
16


Ấm B đến các “chuyên gia bạc bịp”như Tham Ngọc một tay cờ bạc có cỡ, xuất
thân là người ở cửa ơng phán, nhưng thơng minh có năng khiếu cờ bạc đã trở
thành một tay bịp “lũa”, một tay lưu manh sẵn sàng lừa thầy, phản bạn và lòng dạ
ti tiện. Ba Mỹ Ký vốn là tay chế tác vàng bạc lành nghề, vì cờ bạc sinh lười, bị
đuổi việc, xin làm môn đồ chuyên chế tác con bạc giả cho bọn Ấm B...và những
lũ “tạ”đầu trâu mặt ngựa, sống bâu bám quanh cái guồng máy bạc bịp bất nhân,
cửa miệng chúng nói đến “nghĩa khí” nhưng sẵn sàng chỉ vì một con mịng cũng
đủ “đâm lịi ruột nhau”. Đồng tiền quả có sức chi phối mạnh mẽ.
Và cịn rất nhiều người lao vào con đường cờ bạc mất hết ý thức, những mơn đồ
cờ bạc như ơng Nguyễn Đình Mầu, những cơng chức lương tháng 200 đồng ...
hễ có tiền là đi đánh bạc cho nhẵn túi. Tệ hơn nữa còn sẵn sàng “ lột áo người sống
, bán áo người chết và chung thân làm con bò vắt sữa cho tụi ông Ấm B...”. Rồi
vô số những tổng lý, những viên chức, đều tự nguyện lao vào chiếu bạc, cái máu
đam mê đỏ đen giống như một chất ma túy đã thấm sâu vào huyết quản của họ.Nó
có một sức mạnh khủng khiếp, dìm sâu họ vào vũng bùn của tội lỗi và kết cục là
sự lụi tàn,băng hoại, tha hóa về nhân cách.
Bằng con mắt sắc sảo, Vũ Trọng Phụng đã lột được tất cả sự tinh vi của cờ bạc
cũng như ý nghĩa đạo đức của hành vi ấy, làng cờ bạc bịp đã hiện lên với đầy đủ ý

nghĩa của nó. Qua hiện tượng cờ bạc, Vũ Trọng Phụng đã dựng lại thực trạng tệ nạn
xã hội mà quan trọng hơn nữa là tình trạng tha hóa, sự lụi tàn vì cờ bạc của một số
bộ phận người trong xã hội.

III.

NGHỆ THUẬT TRONG PHÓNG SỰ “CẠM BẪY NGƯỜI”:
1.Nghệ thuật đặt nhan đề:
Phóng sự của Vũ Trọng Phụng là một kho tàng đầy ắp tư liệu và sự kiện.

17


Những tư liệu và sự kiện ấy đều là những chi tiết được chọn lọc tới mức điển hình,
tạo nên những ấn tượng thẩm mỹ mạnh mẽ và hấp dẫn đối với người đọc. Ngồi
cái dun kể chuyện ra ơng cịn ln ln biết tạo ra độ dính kết đặc biệt cho tác
phẩm, khiến người đọc phải chú ý, bị cuốn hút vào tác phẩm ngay từ đầu đề từ đó
nảy sinh nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật, nhu cầu khám phá.
Ngay từ cái tên đầu đề Cạm bẫy người, đã là “tít” gây được sự chú ý và tị
mị của độc giả. Tiếp đến cả 13 chương Cạm bẫy người là 13 phóng sự nhỏ có xây
dựng và dàn dựng tình tiết cơng phu và hấp dẫn, những cái “tít” đầu chương như :
“ Ơng thân tơi là mịng”, “ Ông quân sư bạc bịp”, “ Đố anh nào bịt được mắt tôi”,
“ Canh tài bàn tay tư”, “ Cái lưới nhện”, ... đều mang tính khái quát và hấp dẫn
cao. Những “tít” trên thực sự giới thiệu được chủ đề chính của từng chương. Ngay
từ chương I của tác phẩm, bằng những dẫn chứng sinh động và chân thực về hai
nhân vật Tham Vân, Tham Ngọc và âm mưu vào loại bậc thầy của chúng để giăng
lưới “ thịt” ngay bố đẻ Tham Vân, tác giả đã dựng lên trước mắt người đọc một sự
thật

phũ phàng về nạn cờ bạc trong xã hội Việt Nam thời trước. Cũng chính từ


mối quan hệ này của Vân là nhân vật tơi có điều kiện khám phá tổ chức của đảng
bịp. Từ ơng trùm đảng bịp “ Ơng qn sư của bạc bịp” người đọc được làm quen
với nhiều gương mặt của làng bịp như Ký Vũ, Cả Ủn. Để rồi đến chương VI với
cái “tít” đầu chương “ ruột quân súc sắc” người đọc thấy được trình độ của dân
làng bịp đã phát triển đến mức cao hơn. Tất cả bộ mặt thật của dân làng bịp đã
được Vũ Trọng

Phụng thể hiện trong ngay “tít” đầu đề : “Một cuộc vận động

tự trị”, “ Tấm lòng đi bịp từ nay xin chừa”...và cuối cùng là chương 14 với cái
chết của Ba Mỹ Ký, trong đám tang ấy có “ kẻ ở với người về” và đó cũng là kết
cục của cuộc đời bạc bịp.
Như vậy ngay từ nhan đề, “tít” của tác phẩm, Vũ Trọng Phụng đã khiến
người đọc phải giật mình. Đó là Cạm bẫy người, với cách đặt “tít” này tác giả đã
làm cho người đọc ghê dợn về một thế giới vần vũ, đảo điên, qua đó thể hiện thái
độ phủ nhận của nhà văn, xã hội này đối với ơng dường như chỉ tồn là những cạm
18


bẫy, những lừa đảo.

1 Nghệ thuật xây dựng nhân vật:
Nhân vật trong phóng sự của ơng đơng đảo, đa dạng như một bức tranh đầy
mầu sắc, trong bức tranh ấy có những nhân vật hiện lên với nét bút phác thảo,
nhưng cũng có những nhân vật được xây dựng sống động. Nhân vật đó là những
người có tên, có hình dáng cụ thể, họ là những con người bằng xương, bằng thịt, là
con người sống trong bầu khơng khí cụ thể của lịch sử Việt Nam vào thời điểm
những năm 30. Họ là hiện thân, là sản phẩm của xã hội thành thị dưới chế độ thực
dân phong kiến, với cách lựa chọn sự việc tiêu biểu và bút pháp ký họa chân dung,

Vũ Trọng Phụng đã xây dựng được nét đặc sắc trong ngoại hình và tính cách nhân
vật, khiến hình tượng nhân vật trở nên nổi bật, sắc sảo và điển hình hơn.
Trong Cạm bẫy người có tới năm, sáu chân dung được miêu tả sắc nét. Chỉ một
đoạn văn ngắn, Vũ Trọng Phụng đã lột tả được dáng vẻ của ông trùm đảng bạc bịp:
“người đẫy đà bệ vệ như một ông hậu bổ hoặc một viên tri châu nào. Hai con mắt
rất sắc sảo...miệng nói có duyên một cách lạ...tiếng đồng sang sảng...”, vẻ bề ngoài
hay nói cách khác là ngoại hình là một địi hỏi không thể thiếu trong việc miêu tả
nhân vật, xây dựng nhân vật. Bởi một nhân vật phải gắn với con người cụ thể, tạo
cho con người hình hài riêng, mỗi chi tiết về ngoại hình nhân vật được nhà văn
miêu tả với dụng ý nghệ thuật riêng, không những thể hiện yêu ghét của nhà văn,
mà còn thể hiện ý nghĩa nghệ thuật của tác phẩm. Trong mỗi hoàn cảnh, môi
trường, luôn sản sinh ra những con người phù hợp. Nhân vật Ấm B được nhà văn
đặc tả trong một thế giới nhân vật đông đúc. Không chỉ được miêu tả qua ngoại
hình, thế giới nội tâm của Ấm B cũng được xây dựng tương đối đầy đủ ở những
khía cạnh tâm lý, cảm xúc. Niềm tự hào pha lẫn chút chua xót khi nghĩ về dịng
dõi gia đình: “tại sao tơi, dịng dõi gia thế, lại làm đến cái nghề ...bất nhã
này?..Tôi chỉ buồn một nỗi: không theo đuổi sự nghiệp của ông cụ nhà tôi”. Tâm
lý hận đời “Tơi đã thua vì đỏ đen, tơi lại cịn thua vì bịp nữa! Tơi đã phải xa gia

19


đình vì đã phá tan cơ nghiệp, tơi đã khốn khổ, ê trệ – ê trệ nhiều phen lắm”. Luôn
mang tư tưởng trả thù “cho nên chính ngày nay là ngày tôi đang trả thù cái bọ đã
làm tôi hư hỏng,đã ngăn rào mọi đường công danh tiến thủ của tơi”, “Tơi cũng
vui

vì đã làm, đang làm, và sau này nữa cũng vẫn cứ làm cái nghề bất lương này,

cái nghề tơi cho là phải”. Bằng tài năng của mình, Vũ Trọng Phụng đã khắc họa

thành cơng ngoại hình và tính cách của Ấm B, ơng trùm bạc bịp hiện lên với cả
hình dáng bên ngồi lẫn tâm địa bên trong.
Qua một đoạn văn ngắn thần thái của Tham Ngọc đã được lột tả: “áo gấm bên
trong,áo sa tanh ngoài, giầy ban, tay có cầm máy ảnh: Răng vàng hé lộ mỗi khi
cười lệch miệng, kính đồi mồi nằm trên sống mũi nằm nghiêm trang. Mặt láu lỉnh
ra phết, ăn người”. Đó là một gã lưu manh có hạng tên Xuân, vốn là một đầy

tớ

nhưng có dáng vẻ tri thức nên thường vào vai ông Tham quyền quý để đi lừa
thiên hạ. Cịn Ba Mỹ Ký thì đúng là kẻ có đủ phẩm hạnh của một người tơi tớ
trung thành hết lịng với ơng chủ, bộc lộ qua ánh mắt, qua lời thưa gửi với Ấm B
và sự “tận tụy” cho đến hơi thỏ tàn. Tất cả những điều đó cho thấy tài năng của Vũ
Trọng Phụng khi xây dựng nhân vật trong phóng sự, các nhân vật ấy vừa giống
con người hiện hữu ngoài đời vừa giống nhân vật tiểu thuyết. Điều thú vị hơn là
những nhân vật trong Cạm bẫy người của Vũ Trọng Phụng lại được những người
bạn hữu cùng thời của ơng liên hệ, giải thích gắn với tên tuổi nào đó có thực ở
ngồi đời, đã có những ý kiến khác nhau xung quanh ơng Trưởng tạo là nguyên
mẫu của nhân vật trong Cạm bẫy người. Họa sĩ Mạnh Quỳnh người có lần cộng
tác với nhà văn cho rằng “ông Ấm B trong Cạm bẫy người chính là Trưởng tạo
được Vũ Trọng Phụng đổi tên”. Còn nhà văn Ngọc Giao lại cho biết khi viết Cạm
bẫy người Vũ Trọng Phụng đã vào tận các sòng bạc của Cả Vê, Hai Mơ, Ba Sinh
là ba tên cầm đầu sòng bac thời bấy giờ ở Hà Nội.

20


3. Ngôn ngữ:
3.1


Ngôn ngữ đời thường mang màu sắc khẩu ngữ:
Vũ Trọng Phụng đã mang đến trong các phóng sự của mình lớp từ ngữ hết sức

đa dạng, lớp từ thông dụng mang màu sắc khẩu ngữ, đặc biệt là lối văn phong
phóng sự mang đậm dấu ấn ngơn ngữ đời thường.
Trước hết cần phải khẳng định rằng, cái làm nên tính chất đời thường trong
phóng sự chính là chất liệu ngơn từ, giàu chất khẩu ngữ. Trong phóng sự của mình
Vũ Trọng Phụng đã dùng ngơn ngữ giầu chất khẩu ngữ để “mô tả hiện thực, đánh
giá hiện thực”và để “khắc họa chân dung, khắc họa tính cách nhân vật”. Chỉ qua
một đoạn văn ngắn có sử dụng một số từ có tính chất khẩu ngữ mà hình ảnh
ơng Ấm B bực bội vì Tham Ngọc “ăn mảnh” hiện lên rõ nét là một người có tâm
địa “thâm” vơ cùng: “ơng Ấm B...mặt đỏ bừng như gấc chín ngồi giữa giường,
xếp chân bằng trịn như một tượng phật, bình tĩnh nói day dứt, bác “Tham
Ngọc”đương ngượng ngịu trên một chiếc ghế, mặt tái hẳn đi như con gà bị cắt
tiết”. Và đây là gia cảnh nhà con sen Đũi: “...Năm 12 tuổi, cái Đũi là con ông lý
trưởng cứng cổ ra phết. Thế rồi từ khi ông lý là ơng lý, thì cũng như từ khi lồi
người là lồi người, của cải của ông cứ việc từ trong nhà “đội nón ra đi”. Ruộng
cả ao liền của ơng lý bán hết...sạch sành sanh, cái Đũi phải ra tỉnh đi ở”. Trong
các tác phẩm của Vũ Trọng Phụng khẩu ngữ đã góp phần khơng nhỏ vẽ lên bức
tranh hiện thực với tất cả sự sinh động giống như cuộc đời thực...nhân vật
trong các tác phẩm giống như con người có thật ngồi đời với tính cách đậm nét.
Có thể thấy khẩu ngữ tự nhiên là một thứ ngôn ngữ không bao giờ xưa cũ vì
nó ln thường trực trong lời ăn tiếng nói, trong đời sống ngơn ngữ của con người.
Trong làng phóng sự Vũ Trọng Phụng từng được giới nghiên cứu đánh giá là cây
bút sử dụng nhiều khẩu ngữ trong phóng sự, với việc sử dụng thành thục, nhuần
nhuyễn khẩu ngữ tự nhiên, ơng đã làm cho phóng sự có một thứ ngơn ngữ của đời

21



sống đồng thời tạo điều kiện cho người đọc được tiếp cận trực tiếp với sự thật,
nhận ra ngôn ngữ đặc thù của mỗi người trong xã hội.
Trong các phóng sự của Vũ Trọng Phụng, thành ngữ được sử dụng để nói về
các giới người và nghề nghiệp của họ. Trong Cạm bẫy người cịn chứa 58 thành
ngữ mang tính chất khẩu ngữ (số liệu của Nguyễn Hồi Thanh), đó là các thành
ngữ chỉ hoạt động, tâm tính của bọn cờ gian, bạc lận: thay hình đổi dạng, bán trời
khơng văn tự, thiên phương bách kế…rồi những thành ngữ chỉ bọn chúng mới
dùng: nhét đất thó vào mũi, đào ngón xốy xóa…Vũ Trọng Phụng khơng những
sử dụng nhiều thành ngữ trong tác phẩm mà các thành ngữ này được sử dụng rất
hợp lý, linh hoạt tạo nên giá trị biểu cảm cao. Việc sử dụng những vốn từ có
trong đời sống giúp phóng sự này phản ánh rõ bản chất của sự kiện, gần gũi với
đời sống, mang được hởi thở của cuộc sống hiện thực vào trong những trang sách
được đơng đảo độc giả đón nhận.

3.2

Nghệ thuật sử dụng tiếng long:
Tiếng lóng là một bộ phận từ ngữ do những nhóm người, những lớp người

trong xã hội dùng để gọi tên những sự vật, hiện tượng, hành động...vốn đã có tên
gọi trong vốn từ vựng chung, nhằm giữ bí mật trong nội bộ nhóm mình, tầng lớp
mình. Mỗi tầng lớp xã hội đều có thể có tiếng lóng riêng.
Vũ Trọng Phụng với các phóng sự viết về tệ nạn cờ bạc, đĩ điếm...những mặt
trái của xã hội đương thời, ở mỗi tác phẩm nghệ thuật sử dụng tiếng lóng phù hợp
với đối tượng miêu tả được thể hiện nhiều và đã đạt đến đỉnh cao. Tiếng lóng chỉ
khái niệm đánh bạc, phương thức đánh bạc, đối tác đánh bạc, theo thống kê của
chúng tôi trong Cạm bẫy người Vũ Trọng Phụng đã sử dụng 231 từ ‘lóng”của giới
đánh bạc: “mòng”, “mẻng”, “viên đạn”, “chim mòng”, “cái”, “người đi săn”,
“người hướng đạo”, “rồng xanh”, “cản”, “ba đạo binh”, “đánh kiện”, “nhị cập
nhất”, “vãn”, sách”, “vạn”, “lộ tẩy”, “chang”, “phu”, “lưng”, “lọc”, “chầu

rìa”, “đỏ”,

“đen”, “qúych”, “lãi”, “vành trong”, “vành ngồi”,...rồi “siệng”,

22


“láng”, “giác mùi”, “giác bóng”, “hụt nọc”, “trạc xếch”...
Tiếng lóng trong Cạm bẫy người là thứ ngôn ngữ chung của làng bịp, chúng được
dùng để trao đổi, thỏa thuận, làm ám hiệu cho nhau. Người bị lừa được gọi là:
“mòng”, “két”, kẻ lọc lõi trong nghề được gọi là “bịp lũa”, tiền là “thiếc”. Rồi
hàng loạt các từ: “đất”, “chinh phục”, “chiệc”, “sa hố”, “xiếc”, “lộ tẩy”,
“thịt”,...đều là những từ chuyên dụng. Có tới 29 thủ đoạn đánh bạc được Vũ
Trọng Phụng đưa vào Cạm bẫy người (số liệu Nguyễn Hoài Thanh khảo sát) và 29
thủ đoạn này cũng được dùng tiếng lóng để gọi tên. Chỉ có những tay cờ bạc
chuyên nghiệp mới hiểu được cách gọi và bản chất của các ngón địn ấy. Kho từ
vựng tiếng lóng về cờ bạc của Vũ Trọng Phụng thật vô cùng phong phú, phải là
người có tinh thần nhập cuộc cao độ, một óc quan sát tinh tường mới am hiểu như
vậy, người đọc qua việc sử dụng ngôn ngữ của ông, hiểu được bản chất một nghề,
tiếng lóng mà ông sử dụng trong tác phẩm phù hợp với đối tượng phản ánh.

4. Chất tiểu thuyết trong phóng sự “Cạm bẫy người”:
Trước đó khi in cuốn phóng sự Cạm bẫy người lần đầu, Vũ Trọng Phụng cũng
đã đề là tiểu thuyết phóng sự...Khi ghi tên những thể loại vào tác phẩm như vậy,
dường như tác giả muốn lưu tâm người đọc ở đây là hiện thực trong tác phẩm là
những cái có thật, do “tai nghe mắt thấy”,thậm chí đây cịn là chuyện của “người
trong cuộc” kể lại chứ không phải bịa ra... Đồng thời do việc sử dụng có chọn lọc
những phương tiện của bút pháp tiểu thuyết nên những phóng sự văn học này
thường có một dung lượng tương đối lớn, kết cấu khá chặt chẽ, nhân vật sống
động, nghệ thuật kể chuyện linh hoạt, hấp dẫn...giống như ở tiểu thuyết nhưng vẫn

không mất đi cái gốc người thật, việc thật.
Về cách thức đặt tên cho tác phẩm, trong phóng sự Vũ Trọng Phụng đặt tên cho
cuốn phóng sự đầu tiên này một cái tên có vẻ úp mở: Cạm bẫy người. Cạm bẫy
người khơng chỉ là những ngón đòn cờ bạc nham hiểm của bọn bạc bịp mà cao
hơn nữa là dựng lên hình ảnh một xã hội đen tối đầy bất nhân, đâu đâu cũng có thể

23


là cạm bẫy, là hiểm họa ám

hại cuộc đời người lương thiện. Cách thức đặt tên

các chương trong Cạm bẫy người cũng rất đáng quan tâm. Cạm bẫy người gồm 15
mục là 15 sự kiện xuất hiện lần lượt, mục trước gọi mục sau xuất hiện và mỗi một
sự kiện mới xuất hiện là một nhân vật hoặc vài nhân vật. Mục I (ơng thân tơi là
mịng) giới thiệu hai nhân vật: Vân và Tham ngọc với cách lừa ngoạn mục ông bố
đẻ của Vân; mục II (ông quân sư của bạc bịp) đặc tả ông trưởng trùm bạc bịp với
đủ các ngón nghề; mục III xuất hiện thêm hai nhân vật Ký Vũ và Bồi An, đến các
mục sau, bức chân dung của ông Ấm B, Cả Ủn, Mỹ Bối...hoàn chỉnh với những sự
kiện mới, nhưng vẫn xoay quanh câu chuyện “bịp”của làng bạc với những mánh
khóe làm ăn và sự lừa phản nhau...Câu chuyện kết thúc ở mục “kẻ ở với người
về”với lời tâm sự của một nhân vật: “thơi,lăn lộn trong làng b...thế là đủ rồi...tơi có
cảm tưởng lạ lùng và lấy làm chán chường về cuộc “đời theo bịp”của tôi”. Xét
đến tên của các chương truyện, chương này là nguyên nhân hoặc kết quả của
chương kia, chúng dính kết với nhau tự nhiên, sự kết thúc của chương này là
sự hối thúc mở đầu của chương sau.
Ngồi ra, trong các thiên phóng sự của Vũ Trọng Phụng, người đọc có
thể kể lại cốt truyện của tác phẩm, mặc dù cốt truyện ấy chưa hoàn chỉnh như
trong tiểu thuyết nhưng đó vẫn là một cốt truyện mà trong những cốt truyện lớn đó

lại có những cốt truyện nhỏ đan xen nhau. Trong Cạm bẫy người, các nhân vật
hoạt động trong một không gian vô cùng rộng lớn, xuyên suốt từ đầu đến cuối tác
phẩm. Đó là câu chuyện về làng “bịp”mà nhân vật trung tâm, nhân vật có mặt
hầu hết trong tất cả

các sự kiện là Ấm B. Trong câu chuyện là những sự kiện,

những biến cố trong hoạt động “tổ chức nhân sự” và tổ chức đi “săn”của làng bịp.
Sự kiện này móc lối với sự kiện kia, biến cố này làm nảy sinh những biến cố khác,
mà nhân vật Ấm B có vai

trị móc nối và tạo ra sợi dây liên hệ giữa các sự

kiện,các biến cố. Mối liên hệ đó

chặt chẽ tạo thành một hệ thống, một guồng

máy hoạt động khá trơn chu. Các cảnh đi “săn” của những tay thợ săn trình độ
cao của làng bạc bịp diễn ra liên tục, thậmchí ngay cả trong lúc đưa tang chiến
24


hữu, đã tạo nên một nhịp độ diễn biến nhanh cho cốt truyện. Kết hợp với tốc độ
trần thuật phù hợp đã tạo nên tính căng thẳng, quyết liệt của những cuộc sát phạt
nhau. Câu chuyện về cuộc đời Ấm B khá trọn vẹn, và chính những biến cố trong
cuộc đời nhân vật này mới dẫn đến những sự thành lập một “đảng bạc bịp”, nhân
vật Ấm B có vai trò quan trọng để tác giả triển khai thêm những tình huống, sự
kiện mới. Trong “cốt truyện lớn”lại có những cốt truyện nhỏ đan xen nhau, đó là
câu chuyện về cuộc đời Ba Mỹ Ký, về Ba Tôm, Hai Sống...Mỗi câu chuyện đều có
diễn biến hết sức hồn chỉnh, có điểm đầu, có phát triển, kết thúc.


IV.

TỔNG KẾT:
Tóm lại, thiên phóng sự đầu tay của Vũ Trọng Phụng đã đưa chúng ta len
lỏi vào mọi ngóc ngách của những cạm bẫy ln được gài trong lịng người,
của những góc tối trong xã hội khi đủ mọi tầng lớp đều mang “đạo đỏ đen”.
Chỉ với hơn 100 trang viết, nhưng hẳn Cạm bẫy người đã khiến chúng ta vừa
ghê sợ, vừa thấu hiểu cho nhiều lắm những con người cũng “nghệ tinh”, cũng
“thân vinh” nhưng nhớp nhơ, lạc lối.
Ngoài những đặc sắc về nội dung, Cạm bẫy người còn ghi dấu ấn trong
bệ phóng của Vũ Trọng Phụng bằng nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, các sự kiện
được xâu chuỗi hợp lý, ngơn ngữ như tính chất khẩu ngữ, tiếng lóng và nghệ
thuật. Bên cạnh đó, thiên phóng sự này cịn xây dựng được một thế giới nhân
vật sống động, cùng những sự kiện có tính chất thời sự, tiêu biểu, khắc họa
được chân dung nhân vật đậm nét mang màu sắc điển hình. Chính những điều
này đã khiến Cạm bẫy người cịn có giá trị đương thời mãi cho đến ngày nay.

25


×